ĐỨC PHẬT GIỮA NHÂN GIAN Pháp thoại tại
Tu viện Lộc Uyển Ngày 30-03-2007
Hôm nay là ngày đản sanh của
đức Phật, Phật lịch 2548. Chúng biết Phật lịch năm thứ nhất được tính từ năm
đức Thế Tôn nhập Niết bàn. Như vậy để biết
Phật đản năm nay là bao nhiêu,
chúng ta phải cộng theo 80 năm cho Phật lịch mới đúng ngày
Phật đản (2548 + 80 = 2628). Trong
truyền thống Phật giáo cổ, ngày sinh của Phật được tính theo lịch số phương Bắc (Trung Hoa), và tại
đại hội Phật giáo thế giới lần đầu tiên mở ra tại
Tích Lan vào năm 1950, hai
truyền thống Nam Tông và
Bắc Tông cùng
quyết định lấy ngày rằm (15 tháng 4
âm lịch) làm ngày
Phật đản.
Theo
truyền thống Nam Tông, vào ngày đản sanh của đức
Từ Phụ, các thầy thường tổ chức lễ rất
trang nghiêm và
trọng thể. Vào dịp này, các
câu chuyện về
tiền thân của
đức Phật thường được kể cho các
Phật tử nghe, cũng như ôn lại thiên ký sự về
cuộc đời mang đậm
tính cách giáo dục đi sâu vào lòng người của
đức Phật. Nhiều
câu chuyện tiền thân của
đức Phật khi được đem vào những vùng
văn hóa như
Trung Quốc hay các nước
Đông phương khác, đã đóng góp rất lớn cho
gia tài văn học, nghệ thuật,
thi ca, kịch nghệ... và hơn hết là đem đến nhiều
hạnh phúc,
an lạc cũng như
giá trị tâm linh. Các
câu chuyện được kể lại trong Bản Sanh Truyện
chủ đích nói lên phần cốt tủy
chúng ta cần phải thực hành là
lòng từ bi. Theo
tinh thần Phật dạy, những nấc thang
tiến hóa của
tâm thức con người đều được đặt nền tảng trên
tâm từ ái rộng mở.
Nhân ngày lễ
trọng đại này, tôi muốn kể vài
câu chuyện về
tiền thân đức của
đức Thế Tôn rất
dễ thương như một quà tặng gởi đến cho
mọi người, nhất là để các cháu
thiếu nhi đang có mặt nơi đây.
Dĩ nhiên câu chuyện nào về ngài cũng đều mang dấu ấn của
lòng từ bi
mênh mông, nói lên
đặc tính rất
nhân ái và rất người của ngài.
Vào một kiếp xa xưa,
đức Phật từng là một con khỉ chúa, các
trách nhiệm bảo vệ đàn khỉ khoảng 500 con. Một hôm, cánh rừng mà chúng đang sinh sống bỗng nhiên bốc cháy, khỉ chúa có
nhiệm vụ phải
tìm đường đem đàn khỉ thoát ra khu rừng. Gió lớn làm lửa rừng càng lúc càng lan rộng, nên đàn khỉ bị đẩy dần về một hướng.
Cuối cùng để sống còn, chúng phải
tìm cách băng qua một con suối nước đang chảy xiết, thật nguy hiểm. Khỉ chúa phải dùng
trí thông minh để giữ mạng sống cho cả đoàn; nó leo lên một cây tre cạnh bờ suối, dùng
hết sức mạnh của mình làm cho cây tre ngã oằn qua
bờ bên kia. Nhưng
tội nghiệp thay, cây tre không đủ dài để có thể vươn qua
như ý muốn bắc một nhịp cầu nối liền giữa hai bờ. Khỉ chúa nhìn quanh
tìm cách, chợt thấy một cành cây bên kia bờ suối, rất
thông minh, nó bám hai chân trên ngọn tre, hai tay vươn dài nắm lấy cành cây, và gọi đàn khỉ chạy qua cây tre, dẫm lên mình nó để qua bờ. Khi cả đàn khỉ 500 con qua hết bên kia bờ thì
sức lực của khỉ chúa cũng suy kiệt. Nó buông tay rơi xuống và chìm dần vào lòng suối nước đang
cuồn cuộn chảy.
Câu chuyện cảm động này cho
chúng ta bài học của lòng
yêu thương đồng loại và sự
hy sinh,
quên mình vì người, chỉ biết đem tấm lòng mình trải
lên mặt đất cho người bước qua.
Câu chuyện cũng mở ra trong ta
không gian lồng lộng của tâm
đại bi đối với
tha nhân, sống và chết vì
tha nhân. Khỉ chúa với
lòng từ ái, đức
hy sinh không ngằn mé kia chính là một
tiền thân của
đức Phật.
Từ ngàn xưa,
chúng ta cùng với những loài sinh vật cấp thấp (không có
năng lực trí tuệ, hay không phát triển như
con người) đều hít thở và chung sống trong một môi trường như nhau. Và cũng thời hồng hoang xa xưa đó mà
con người tiến hóa, phát triển
cho đến bây giờ. Theo
quy luật đào thải tự nhiên, sinh vật nào không đổi thay nhịp sống để
thích ứng được với môi trường mới sẽ tự
đào thải, không thể
tồn tại. Nhưng có loài do sự run rủi
tình cờ của
thiên nhiên,
thúc đẩy tiến hóa trở thành loài
động vật đứng thẳng được trên hai chân sau và
sử dụng hai chân trước làm tay, não bộ trở nên
thông minh hơn, đó là
loài người. Điều đó không có nghĩa loài
động vật đặc biệt là
con người này đã không từng có sự
liên hệ với những loài
động vật khác. Như vừa chia sẻ,
loài người chúng ta và các loài
động vật khác đều là anh em.
Đức Phật qua những
câu chuyện tiền thân của mình đều nói đến tình anh em giữa
con người và các loài
động vật, muông thú... Thế nhưng,
chúng ta vì mưu
cầu sinh tồn, để
phục vụ cho mạng sống mình đã đang tâm giết hại, hủy hoại
đời sống của những loài
động vật khác không có
đủ khả năng tự vệ. Ta dùng
thịt xương của chúng làm
thực phẩm, và
thực phẩm ấy chính là huyết nhục của những người anh em
thấp kém hơn mình.
Đã vậy,
con người còn ra sức
phung phí không
thương tiếc nguồn
năng lượng đã
cung ứng cho họ
tiêu thụ.
Chúng ta nhẫn tâm phí phạm, tàn phá môi trường
thiên nhiên đã
nuôi dưỡng mình từ cây cỏ, rừng xanh, nguồn nước,
cho đến các sinh vật trong lòng suối,
đại dương...
Chúng ta sống được ở đây không phải chỉ nhờ thở bằng hai lá phổi của mình, mà còn nhờ vào cỏ cây,
thảo mộc. Hãy nhìn vào từng chiếc lá xanh ngoài kia, mỗi chiếc lá đang phe phẩy là một nhà máy thanh lọc
tối tân lấy đi thán khí, tạo nên không khí trong lành cho ta thở, ta sống. Dù khoa học thực nghiệm có
tiến bộ đến mức nào, nền
văn minh hành tinh này có đưa
con người đến sao Hỏa, sao Kim.... cũng không thể tạo ra một chiếc lá tươi xanh làm được
chức năng kỳ diệu như thế. Nhìn cho thật sâu sắc những gì ta
sử dụng, chẳng hạn
đơn giản như tờ giấy,
chúng ta cũng có thể thấy cả rừng cây đang có mặt. Do vậy, khi
chúng ta sử dụng giấy một cách thiếu
ý thức là
rõ ràng ta đang cắt bỏ từng tế bào phổi, đang tự loại trừ mạch sống ra khỏi
hình hài mình từng giây, từng phút.
Ngoài ra,
con người cũng không
thể chế tạo được một giọt nước để uống. Các nhà khoa học có thể phân tích được sự hình thành của nước là từ H2O, nhưng chắc rằng họ không thể dùng H2O chế tạo ra nước uống. Tất cả đều do
thiên nhiên ban tặng. Thế nhưng dưới mức độ tàn phá, hủy hoại,
hoang phí tài nguyên một cách
vô tâm của
con người như hiện nay, môi trường trở nên
ô nhiễm, hành tinh này đâu còn xanh, quả đất này sẽ cạn nguồn, có
thể không còn đủ
năng lượng để
đáp ứng,
cung cấp nuôi sống
con người.
Con người may mắn hơn các loài
động vật khác là có khả năng khai mở
trí tuệ,
vậy mà chúng ta vẫn chưa học thuộc bài vỡ lòng nào
áp dụng vào
đời sống thực tập xây dựng nền tảng
thương yêu của mình,
mở rộng lòng từ bi hướng đến mọi loài, xem mọi loài trên hành tinh này đều là người thân, là bạn của mình. Khi
tìm hiểu về
đời sống,
cách sinh hoạt của
đức Phật hàng ngày,
chúng ta thấy ngày luôn khuyến khích việc
giữ gìn,
bảo vệ môi trường sống. Ngài dạy những điều rất
thiết thực: Các thầy
Tỳ kheo không được chặt cành bẻ lá, không được dẫm đạp cây cỏ. Phải biết
tri ân sự có mặt của từng cội cây bên vệ đường đã cho ta bóng mát và chỗ nghỉ chân. Trong
kinh A Hàm,
chúng ta thấy
đức Phật từ việc
xử sự với
thiên nhiên,
con người cho đến những sinh vật bé nhỏ, tất cả đều trân quý nhất mực. Và ngài từng dạy, sự có mặt của
chúng ta là một
liên hệ không thể tách rời với sự có mặt của mọi loài từ
thảo mộc, đất đá
cho đến các loài
động vật khác. Ngài cũng từng dạy không được hủy hoại sinh mạng, dù là sinh mạng nhỏ bé như con sâu cái kiến. Do vậy,
tâm từ bi không phải chỉ dành cho
đồng loại, mà phải được mở ra, trải rộng đến mọi tầng lớp, đến muôn loài. Nếu
chúng ta chưa
thiết lập được
tinh thần căn bản này
trong đời sống thì tiến trình
tu tập của
chúng ta khó có thể vươn cao hơn được.
Khi ta đến với những
trung tâm tu học là mong nếm được chút hương vị của
Phật pháp, để làm giàu cho
đời sống tâm linh, làm cho đời mình
hạnh phúc. Mà nếu muốn
hạnh phúc có mặt
trong đời sống,
chúng ta cần phải được hun đúc
tâm thức yêu thương, tấm lòng rộng mở từ thuở bé.
Tấm lòng mở ra với
tha nhân một không được
phân biệt còn được
đức Phật chỉ dạy cho
tôn giả A Nan lúc
đức Phật trên đường
vân du khất thực, qua
câu chuyện rất
dễ thương sau:
Ngày nọ, khi đi ngang qua một thôn nghèo,
đức Phật nhìn thấy đám trẻ con đang chơi ngoài đường. Chúng dùng đất cát
xây đắp thành trì, kho đụn chứa gạo thóc, giả làm quân lính, vua quan... Ngài bước từng bước rất chậm và dừng lại nhìn chúng. Một đứa bé trong nhóm thấy ngài, nó dùng hai tay vốc
một nắm "thóc" trong kho của nó (
dĩ nhiên bằng đất), rồi
cung kính dâng lên dức Phật: "Con xin
cúng dường đức Cồ Đàm".
Đức Thế Tôn mỉm cười đưa bát ra đón nhận nắm thóc (bằng đất) của em bé. Nhận xong, ngài gói nắm đất lại đưa cho
A Nan và bảo: "Ông hãy đem nắm đất này về hòa chung với nước rồi quét lên tường
tịnh thất của ta".
A Nan thưa: "Bạch
đức Thế Tôn, đất này ở đâu cũng có,
duyên cớ gì mà
đức Thế Tôn phải
cẩn trọng như vậy?".
Đức Thế Tôn dạy: "Ông nên biết, dù là đất, nhưng đây là tấm lòng
cung kính của một em bé
cúng dường, ta không nên
xem thường. Ông hãy làm theo lời ta. Một trăm năm sau khi ta
Niết bàn, đứa bé này sẽ có dịp sinh
trở lại Ấn Độ,
trở thành vị
quốc vương hộ trì chánh pháp của
Như Lai phát triển vượt ra ngoài
biên giới Ấn Độ đến những vùng đất khác".
Quả thật, một trăm năm sau khi đức Thê Tôn
nhập Niết bàn, tại
Ấn Độ có một người được sinh ra với làn da sần sùi và đen như đất, tên là Asoka (A Dục), sau này
trở thành vua nước
Ấn Độ. Với tánh tình rất hung dữ, ông đã tạo ra bao
ác nghiệp để
tranh giành vương quyền, bành trướng lãnh thổ, đất đai, gây nên bao
thống khổ.
Một lần, sau khi tiến chiếm được một vùng lãnh thổ, nhìn cảnh tan tác của vùng đất
mênh mông với xác người
chồng chất, máu loang thắm đỏ dưới chân,
ánh nắng chiều vàng vọt hắt lên cảnh vật khiến càng nhuộm thêm nỗi
thê lương trên bãi chiến trường, và trong giây phút ấy lòng ông cũng là bãi chiến trường
ngổn ngang trăm mối.
Cuối cùng, ông
giác ngộ, ném thanh gươm,
trở về thu mình trong cung điện và sau đó, ông
trở thành một
Phật tử hộ đạo rất
thuần thành.
Từ ngày ấy, ông
nhất tâm trở về phụng trì
Tam Bảo. Ông bắt đầu cuộc lữ hành tìm lại dấu vết của
đức Phật. Nơi ngài đã sinh ra, nơi
thành đạo, nơi
bài pháp đầu tiên, và nơi ngài
nhập Niết bàn. Mỗi
di tích ông đều cho dựng trụ đá,
khắc văn bia để tưởng niệm, lưu dấu.
Đặc biệt tại vườn
Lâm Tỳ Ni, ngoài trụ đá đã dựng lên, phía sau ông còn chôn một phiến đá khắc dòng chữ: "Nơi đây
dòng họ Sakya đã sinh ra
thái tử Sỉ Đạt Ta.
Con người mang đến hòa bình,
yêu thương và
hạnh phúc cho cả đất nước rộng lớn này".
Ấn Độ ngày xưa là một đất nước mà
tôn giáo mang nặng tính huyền bí,
thần quyền. Họ thờ rất nhiều bị thần với
tính chất thần kỳ và
tôn sùng,
tin tưởng tuyệt đối, Dù vậy, khi những người Anh đặt bước chân đầu tiên đến vùng đất này, họ không tin
đức Thế Tôn là một nhân vật
lịch sử có thật. Họ cho đây nhân vật tưởng tượng do
cộng đồng người
Phật tử thêu dệt, tôn xưng,
suy diễn ra mà thôi. Không thể có một
con người như thế bằng xương, bằng thịt, có
tên tuổi, ngày tháng năm sinh... trên lãnh thổ này...
Cho đến khi những nhà khảo cổ người Anh
tìm ra được những trụ đá, bia văn
ghi khắc rõ ràng, họ mới tin
đức Phật là một
con người có thật trong dòng
lịch sử cổ đại
Ấn Độ.
Dần dần người ta tính được
chính xác niên đại, ngày sinh của
đức Phật và những thư tịch ghi chép
rõ ràng lời dạy của ngài được phát hiện,
cho biết tất cả được nói ra từ một
con người thực sự có mặt đương thời.
Chúng ta biết rõ được
lịch sử của
đức Thế Tôn là nhờ
công đức của Asoka (
A Dục Vương); vị vua sinh ra sau khi
đức Thế Tôn nhập Niết bàn một trăm năm. Và thật kỳ lạ, người
công bố bản khai sinh để cho
chúng ta ngày hôm nay, hằng năm
vân tập làm lễ tưởng niệm ngày đản sinh của bậc
Đại giác, là những nhà khảo cổ người Anh. Họ đã mang
văn minh Châu Âu đóng góp cho sự
soi sáng cuộc đời đức Phật, chứ không phải do những người con Phật kiếm tìm,
khám phá.
Những điều vừa chia sẻ trên đây cho
chúng ta biết rằng qua
lịch sử,
đức Phật là một
con người có mặt trên
nhân gian này một cách
bình thường như mọi
con người. Ngài không phải từ
trên trời hiện xuống, cũng không phải sinh ra từ hoàng hậu
Ma Da còn đồng trinh. Ngài được sinh ra từ một người nữ
bình thường. Mẹ ngài trên đường về
quê nhà để sinh con theo tục lệ
hoàng tộc thời ấy, bất chợt chuyển dạ phải dừng lại bên vệ đường và khi bà đưa tay vin vào cành
cây Vô ưu, ngay
lúc ấy ngài được sinh ra dưới tán cây, giữa
thiên nhiên chứ không phải trong cung son, điện ngọc. Nơi ngài
thành đạo cũng không phải là nơi cao sang, mà bên gốc
cây Bồ đề. Rồi bằng đôi chân trần, ngài đi khắp cùng thôn trang, làng mạc
trong suốt bốn mươi chín năm để
thuyết giảng giáo hóa.
Cuối cùng khi sắp
lìa bỏ cuộc đời, ngài cùng
tăng đoàn ngược về phương Bắc, đến một vùng quê hẻo lánh,
nghiêng mình nằm giữa hai
cây Sa la mà vào
tịch diệt. Ấy là
cuộc đời thực, rất đẹp của một bậc
Đạo sư.
Dù là con vua nhưng Sĩ Đạt Ta khước từ
đời sống của một vị
thái tử, khước từ
mọi vật chất nhung lụa
xa hoa, chọn sống
cuộc đời một
hành giả khất thực; ôm bát
xin ăn, tối ngủ
dưới gốc cây hay trong hốc đá. Ngài sống
đơn giản,
bình đẳng giáo hóa
mọi người, mọi
giai cấp, mọi tầng lớp trong
xã hội. Khi đến
tuổi già ngài cũng như
chúng ta - đừng nghĩ ngài là một
con người với tám mươi vẻ đẹp,
ba mươi hai tướng tốt, mà hãy
hình dung một ông già
gầy gò, da nhăn, chân yếu, cũng đau ốm, cũng có những cơn đau nhức trên
hình hài... Và đến khi trả lại thân
vô thường này, ngài nào có thi triển
thần thông,
hiển thánh bay vào
không gian hay
phóng hào quang, mà ngài bị chứng kiết lỵ như
mọi người. Cho nên điều đầu tiên là ta hãy có cái nhìn
chân thực về
đức Phật như một
con người bình thường tựa hồ bao nhiêu
con người khác. Một
con người bình thường đúng nghĩa trong mọn
lãnh vực lịch sử,
đời sống,
văn hóa,
đạo đức, cũng như trong cách hành xử với các
môn đồ,
đệ tử.
Đối với
nhân gian, sống giữa
nhân gian như một
con người bình thường; có
gia đình, có
vợ con, cũng
yêu thương, khổ đau,
bất an như
chúng ta, nhưng ngài
tìm ra con đường siêu việt khổ đau cho chính mình và đưa dần
chúng ta đi đến
hạnh phúc. Ngài luôn đứng trên
thân phận con người mà
giáo hóa con người. Có một
điều chắc chắn rằng khoa học càng tiến xa trên
con đường thực nghiệm,
loài người càng
văn minh tiến bộ thì càng làm cho
lịch sử cuộc đời đức Phật thêm đậm nét,
sáng tỏ hơn.
Chúng ta có thể thấy rõ trong tất cả kinh sách ghi lại lời dạy của
đức Thế Tôn, không một chỗ nào xác định lời ngài nói qua
trung gian của
thần linh. Tất cả những gì ngài nói ra đều
xuất phát từ sự
chứng nghiệm của
bản thân mình. Điều này
đặc biệt khác xa với những vị
giáo chủ của các
tôn giáo khác. Lời dạy của ngài
bình dị, chắc thực, gần gũi với
con người và luôn mang đầy
tuệ giác. Rất là người. Ngài không
viện dẫn tích cách
thần linh để
con người phải có
niềm tin nơi ngài. Ngài đã sống và
nhận thức khổ đau như
con người, rồi tìm
phương cách thoát khỏi khổ đau, và
cuối cùng ngài trút bỏ
hình hài như một
con người. Các văn
bản kinh của
truyền thống Đại thừa thường
thần thánh hóa ngài qua chuyện kể như khi ngài mới sinh ra đã bước bảy bước trên
hoa sen, đã biết nói, có rồng phun nước...,
thêu dệt chung quanh ngài bằng những huyền thoại. Trong khi
truyền thống Nam tông nói đến ngài thường lột bỏ hết
tính cách thần thông, huyền bí... bao quanh, trả ngài về lại là một
con người như
chúng ta.
Vốn là một
con người bình thường mà vươn lên
trở thành bậc
Giác ngộ, nên những gì
đức Phật dạy ở lần đầu tiên cho các
môn đồ rất là giản dị,
thực tiễn, có thể
áp dụng cho
mọi người. Với
tâm từ bi, ngài
giáo hóa khắp mọi tầng lớp,
từ hàng vua chúa
cho đến bần dân; từ các bà hoàng phi trong cung điện
tráng lệ của
dòng họ Thích Ca cho đến những cô gái phấn hương (
Liên Hoa Sắc), hay
thân phận người gánh phân (Ni Đề), hoặc những tay sát thủ khét tiếng (
Vô Não)... không
phân biệt một hạng người nào. Có thể nói chưa có một bậc
Đạo sư nào
thương yêu, gần gũi chăm sóc
môn đồ,
đệ tử như
đức Phật đã làm.
Một lần nọ,
đức Phật đi
khất thực về, nghe có tiếng rên, ngài hỏi thì giả: "Giờ
khất thực của
chư tăng, ai ở trong lều mà có tiếng rên như vậy?"
A Nan thưa: "Bạch
đức Thế Tôn, có một
tỳ kheo già bị bệnh nặng không thể đi
khất thực được, quý thầy trẻ không dám
đến gần vì ông bệnh lâu ngày nằm liệt một chỗ, lở loét rất hôi hám".
Thế Tôn im lặng mang bát cơm về
tịnh thất của mình xong, gọi
A Nan nấu nước rồi cùng ngài đến tắm rửa, lau vết lở loét trên người vị
tỳ kheo già kia. Sau đó ngài dạy: "Người tu
chúng ta đã rời bỏ
gia đình, cách ly mọi tình cảm thế nhân, nên
cần phải đối xử
với nhau như ruột thịt. Hãy chăm sóc cho nhau lúc già, lúc bệnh". Ngài còn dạy thêm: "Thân vốn
vô thường, bệnh là do nghiệp". Vị
tỳ kheo nghe xong
thực tập quán chiếu và
chứng đạo quả an lạc.
Trong quá trình
văn minh tiến hóa của
nhân loại tính đến ngày nay, đối với
ý hướng từ bi, có thể nói chưa có một
tôn giáo nào
tuyên dương và
thực hành tuyệt đối như đạo Phật. Người ta cũng chưa
tìm thấy một vết đen nào trong dòng chảy
lịch sử phát triển của
đạo Phật qua
thời gian, bởi
đạo Phật chưa từng làm
tổn hại, đổ máu cho bất kỳ
một sinh dân nào trên
con đường truyền đạo. Hương
từ bi trong
giáo lý đạo Phật nhẹ nhàng
lan xa, tỏa rộng đã 2600 năm, ngang qua nhiều
quốc gia, nhiều địa vực, nhiều vùng
văn hóa,
tự nhiên như nước thấm dần vào lòng đất.
Điều
tuyệt vời nhất nơi bậc
Đại giác là những
tuyên ngôn của ngài: Ta chỉ là một người Thầy
chỉ đường. Các ông chính là chủ nhân của
đời sống mình.
Giải thoát,
an lạc có mặt trong tự thân các ông. Các ông thừa tự nghiệp
quá khứ của chính mình. Hoặc: Mỗi người đều nơi trái tim mình một vị Phật.
Quay về nhân ra vị Phật của chính mình thì
giác ngộ như ta. Đây là những lời
tuyên bố sực kỳ quan trọng.
Những
tuyên ngôn trên của
đức Thế Tôn nếu
chúng ta biết nắm lấy để
tu tập là ta đang trên
con đường quay về. Quay
trở về với tâm
ban sơ, từ dạo còn non dại
cho đến ngày
nhận ra được vị Phật trong chính mình. Có ai ta mà
thành đạt giải thoát trong tích tắc.
Những câu thơ theo thể hài cú của một thi sĩ
thiền sư nổi tiếng người Nhật (Basho) ở trên như một lời chia sẻ,
cho biết trăng đã theo người lữ hành qua đoạn đường dài "từ dạo ấy". Và
trải qua thời gian -
thời gian của quá trình
tu tập - thì "Ai có ngờ đêm nay..." Câu thơ bỏ lửng với những dấu chấm, nhưng
chúng ta có thể thầm hiểu là đêm nay bất chợt trăng đã tròn.
Rõ ràng là nó luôn theo ta, theo ta từ
lúc đầu khi mới còn là mảnh trăng lưỡi liềm
cho đến một ngày ta
nhận ra được vị Phật tỏa chiếu, rạng ngời trong tâm. Và có gì
hạnh phúc hơn,
an lạc hơn khi
trở về ngôi nhà
năm uẩn của ta và
nhận ra được Phật.
Đời sống không có mặt ở phía trước hay sau lưng.
Quá khứ dù vàng son cũng đã qua, những mơ tưởng tương lai thì vẫn còn xa vời vợi. Cuộc sống chỉ diễn ra ngay nơi đây, trong giờ phút
hiện tại, cho nên từng ngày, từng ngày,
chúng ta tu tập làm thế nào khởi phát niềm tự tin mình có khả năng
thành Phật. Khi có
niềm tin vững chắc vào điều này, ta làm cho
năng lực giác ngộ hiện khởi, thì vầng trăng trong tâm tự khắc tỏa chiếu, rạng ngời. Ngay
lúc ấy dù
vô thường có đến cũng không thể
tác động, hủy hoại được
thể tánh Phật có mặt trong ta. Người
Phật tử thông minh hãy nương vào
giáo lý ngộ của
đức Thế Tôn đã khơi mở, khéo
nhận ra ánh sáng Bụt,
nhận ra mảnh trăng tơ nay bất chợt đã tròn:
(Thơ Basho, Nhật Chiêu dịch)