ĐIỀU TRỊ BỆNH TẬN GỐC
NĂNG LỰC CHỮA LÀNH CỦA TÂM BI MẪN
Lama Zopa Rinpoche
Nguyễn Văn Điều & Đỗ Thiết Lập dịch Việt
Nhà xuất bản Tôn Giáo, Hà Nội
PHẦN MỘT: TÂM LÝ ĐIỀU TRỊ BỆNH
13. NHỮNG LỢI LẠC LỚN LAO NHẤT CỦA BỆNH TẬT
Cách thức tu tập cốt lõi nhất là sử dụng bệnh tật và tất cả các vấn đề bất ổn khác nữa để phát sinh Bồ-đề tâm, tâm vị tha mong ước thành tựu giác ngộ vì lợi lạc của chúng sinh hữu tình. Tư tưởng từ bi trong Bồ-đề tâm là giáo huấn cốt lõi của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni. Bồ-đề tâm là dược phẩm tốt nhất, là đề mục thiền định tốt nhất, là sự tu tập tâm linh tốt nhất. Sống một cuộc sống với Bồ-đề tâm là phương pháp tốt nhất để chăm sóc sức khỏe của chúng ta và là cách tốt nhất để chữa các bệnh nan y như ung thư, AIDS cũng như bất kỳ bệnh tật nào khác. Bồ-đề tâm mang đến sự bảo vệ tốt nhất cho cuộc sống của chúng ta.
Bồ-đề tâm là buông bỏ cái tôi và thương yêu chăm sóc người khác. Cái tôi là nguồn gốc của mọi vấn đề bất ổn về tình cảm của chúng ta và là nguồn gốc của tất cả chướng ngại ngăn cản thành công và hạnh phúc của ta cũng như ngăn cản không cho ta mang hạnh phúc và thành công đến cho vô số chúng sinh hữu tình. Các chúng sinh khác chính là nguồn hạnh phúc của chúng ta – hạnh phúc tạm thời mà chúng ta hưởng được trong đời này cũng như hạnh phúc tối thượng của sự giải thoát và giác ngộ viên mãn. Bởi vì Bồ-đề tâm – tâm vị tha thương yêu chăm sóc người khác và tìm cách mang hạnh phúc đến cho họ – được phát sinh dựa vào sự hiện hữu của chúng sinh hữu tình đang đau khổ, cho nên ta có được mọi hạnh phúc là nhờ sự tử tế của các chúng sinh khác.
Bồ-đề tâm cũng là người bạn tốt nhất của chúng ta. Các người bạn ngoài đời có thể thay đổi, nhưng Bồ-đề tâm thì luôn luôn không thay đổi. Bồ-đề tâm không bao giờ thay đổi và không bao giờ lừa dối chúng ta; Bồ-đề tâm không bao giờ hãm hại chúng ta, ngược lại luôn đem lợi lạc đến cho chúng ta cũng như các chúng sinh khác. Bồ-đề tâm là người bạn tốt nhất, đáng tin cậy nhất.
Bồ-đề tâm cũng là phương tiện tốt nhất để gặt hái thành công trong đời này cũng như các đời sau, đặc biệt là sự thành công trong việc thành tựu giải thoát và giác ngộ viên mãn. Thành công là một [sự kiện] duyên sinh tương thuộc; nó tùy thuộc nhân và duyên. Thành công trong việc tìm thấy hạnh phúc phải đến từ một nhân đặc biệt, một thiện nghiệp, và nhân này phải đến từ một ý định tốt. Với Bồ-đề tâm, tức là suy nghĩ mang lợi lạc đến cho chúng sinh hữu tình, người ta có thể tích lũy công đức vô lượng, tức thiện nghiệp. Như ngài Tịch Thiên đã nói trong Nhập Bồ Tát Hạnh, một người dù trên thực tế không tham dự vào việc làm lợi lạc cho người khác, nhưng chỉ với ý muốn thôi thì người đó cũng đã tích lũy công đức lớn lao như bầu trời. Chỉ đơn thuần bằng ý muốn làm lợi lạc cho người khác cũng đã tích lũy một bầu trời công đức, nên Bồ-đề tâm là phương tiện tốt nhất để đạt được thành công trong việc tìm thấy hạnh phúc. Đây là cách giải thích hợp lý về việc Bồ-đề tâm là suối nguồn của thành công. Cách giải thích này cũng có thể áp dụng vào việc tìm kiếm sự giàu có.
Có được Bồ-đề tâm, chúng ta trở thành bạn của tất cả chúng sinh hữu tình. Nếu chúng ta cảm thấy có sự xa cách với chúng sinh hữu tình, như thể có một bức tường ngăn cách với họ, thì Bồ-đề tâm sẽ phá vỡ bức tường đó, khiến cho chúng ta cảm thấy gần gũi với tất cả chúng sinh hữu tình. Một khi thực chứng được Bồ-đề tâm, chúng ta ôm trọn tất cả chúng sinh trong trái tim mình. Tâm từ, tâm bi và Bồ-đề tâm của chúng ta là suối nguồn của mọi hạnh phúc và thành công của ta và của tất cả vô số chúng sinh hữu tình.
Dù cho có bị ốm đau hay được khỏe mạnh, nhưng với Bồ-đề tâm, cuộc sống của chúng ta luôn luôn có lợi cho người khác; mọi sự mà chúng ta làm luôn là lợi lạc cho các chúng sinh hữu tình. Cuộc sống của chúng ta lúc nào cũng có lợi, vì chúng ta luôn sống vì người khác. Với cách sống này, mục đích cuộc sống của chúng ta sẽ được hoàn mãn.
Phát triển Bồ-đề tâm là cách thức nhanh và mãnh liệt nhất để loại trừ hết các chướng ngại của hạnh phúc đồng thời tích lũy được công đức, nhân của hạnh phúc, đặc biệt là hạnh phúc tối thượng của giác ngộ viên mãn. Nếu không có Bồ-đề tâm, chúng ta không thể thành tựu giác ngộ hay thành tựu được mục đích cao cả nhất của cuộc đời là mang tất cả chúng sinh hữu tình đau khổ đến bến bờ giác ngộ. Mong ước tu tập Bồ-đề tâm, hoán đổi mình với người khác, là mong ước tốt nhất trong tất cả mong ước.
Làm sao chúng ta có thể sử dụng các vấn đề bất ổn của chúng ta để làm phát sinh tâm giác ngộ này? Cúng ta phải cứu xét nguồn gốc mọi vấn đề của chúng ta. Cơ bản mà nói, tất cả vấn đề bất ổn của ta đều phát xuất từ tâm vị kỷ – thương yêu chăm sóc cái tôi của mình – cho nên “cái tôi” là đối tượng cần được vĩnh viễn loại bỏ.
Tất cả hạnh phúc của chúng ta đều đến từ sự tử tế của các người khác, nên các chúng sinh hữu tình khác là đối tượng cần được thương yêu chăm sóc mãi mãi. Với lý do như vậy, chúng ta phải từ bỏ cái tôi và thay vào đó thương yêu chăm sóc các chúng sinh hữu tình khác. Để rèn luyện tâm mình trong pháp tu tập hoán đổi mình với người, chúng ta cần phân tích thật chi tiết các nhược điểm của tâm vị kỷ và tìm hiểu kỹ lưỡng những lợi lạc vô tận của sự thương yêu chăm sóc người khác. Trừ bỏ được tâm vị kỷ sẽ giúp chúng ta phát triển Bồ-đề tâm vị tha, là tâm sẽ đưa chúng ta tới hạnh phúc tối thượng của sự giác ngộ viên mãn và làm cho ta có khả năng dẫn dắt mọi người đến giác ngộ. Đồng thời, dù bản thân chúng ta không mong đợi nhưng Bồ-đề tâm tự nhiên sẽ đem đến cho chúng ta những phần thưởng tạm thời như hạnh phúc, thành công, uy tín, sự giàu có và uy lực.
Những tai hại của tâm vị kỷ
Tại sao các tình huống trong cuộc sống
trở thành những
vấn đề bất ổn? Vì
chúng ta sai lầm khi
gắn bó, ôm giữ tâm
vị kỷ. Hãy lấy
thí dụ về các
vấn đề phát sinh trong quan hệ với người thân. Chính sự
luyến ái nổi lên
từ tâm vị kỷ đã khiến cho
chúng ta không
hài lòng với người bạn đời
hiện tại và
từ bỏ để đến với một người mới.
Chúng ta có thể thấy rõ là
vấn đề đó sẽ không xảy ra nếu
chúng ta không
chạy theo tâm
vị kỷ.
Hơn nữa, khi
chúng ta sống theo cách đồng nhất chính mình với tâm
vị kỷ,
chúng ta sẽ bị
tổn thương khi người bạn đời của ta không còn
yêu thương ta. Tại sao? Vì tâm
vị kỷ bị
tổn thương. Vì
chúng ta đồng nhất mình với tâm
vị kỷ, nên khi tâm này bị bất cứ
tổn thương nào, ta cũng bị
tổn thương. Cách thức đồng nhất chính mình như vậy là
hoàn toàn sai lầm,
hoàn toàn khác với
thực tại của
bản thân chúng ta. Khi phân tích những
vấn đề mà
chúng ta trải qua trong đời thường,
chúng ta thấy rằng các
vấn đề đó trực
tiếp liên quan đến tâm
vị kỷ của
chúng ta. Bằng chứng của sự
khám phá này là, nếu
chúng ta buông bỏ được tâm
vị kỷ,
chúng ta sẽ không còn
vấn đề bất ổn nào nữa trong cuộc sống. Chẳng hạn,
chúng ta sẽ không thấy
phiền muộn khi người bạn đời của ta rời bỏ ta.
Khi
chúng ta bị bệnh, nếu
chúng ta thuận theo tâm
vị kỷ, căn bệnh ấy sẽ gây
phiền não cho ta; nếu ta
buông bỏ được tâm này thì bệnh sẽ không gây
phiền não cho ta.
Mặc dầu tình huống bên ngoài giống nhau, nhưng cách thức ta
ứng phó với tình huống sẽ tạo ra khác biệt rất lớn lao. Khi
chúng ta nhận biết được những
vấn đề gây ra bởi tâm
vị kỷ, ta sẽ xem đó là nhân của bệnh và không còn xem các
yếu tố bên ngoài là nhân của bệnh. Tách biệt được “cái tôi” ra khỏi tâm
vị kỷ sẽ giúp
chúng ta có cơ hội thấy biết tâm
vị kỷ là
kẻ thù đích thực của ta.
Mặc dù
chúng ta nhìn thấy “cái tôi” như là tự nó
hiện hữu, như
thể không liên quan gì đến tâm ta, nhưng “cái tôi” này không hề
hiện hữu. Cái tôi có thật
hiện ra trước mắt chúng ta – nói “có thật” trong
ý nghĩa là tự nó
hiện hữu – chỉ là một
ảo tưởng. Trước đây, tôi đã nêu ra
lý do tại sao thân này không phải là cái tôi, tâm này không phải là cái tôi, và ngay cả
kết hợp thân và tâm này cũng không phải là cái tôi. Cho dù cái tôi có
hiện hữu – nó
thực hiện tất cả các
hoạt động như ăn ngủ, đi lại, trải nghiệm
hạnh phúc cũng như các
vấn đề khó khăn – nhưng nó lại không hề
hiện hữu ở bất cứ nơi nào trong
kết hợp của thân và tâm này.
Cái tôi vốn
hoàn toàn được gán đặt bởi tâm, nhưng đối với
chúng ta lại có vẻ như một
thực thể tự
hiện hữu; rồi
chúng ta tin vào cái tôi tự
hiện hữu này và
chúng ta thương yêu chăm sóc nó như thể nó quí báu nhất, quan trọng nhất so với
vô số chúng sinh hữu tình khác. Vì thế mà [
chúng ta cho rằng] việc quan trọng nhất trên đời là
loại bỏ mọi
vấn đề khó khăn cho cái tôi này và
đạt được hạnh phúc cho nó.
Tuy nhiên,
thực tế là
chúng ta đang
thương yêu chăm sóc cho một
ảo tưởng. Khi
chúng ta phân tích đối tượng vốn là nền tảng của tâm
vị kỷ,
chúng ta không
tìm thấy có gì ở đó để chăm sóc; chỉ là sự trống không. Khi
chúng ta không
suy xét lại mà chỉ một mực tin vào cái
ảo tưởng đó thì dường như thể có một cái tôi thật đáng được
thương yêu chăm sóc. Đây là
bản chất tâm
vị kỷ của
chúng ta.
Vì
tâm không phải cái tôi, vậy làm sao
tư tưởng vị kỷ lại có thể là cái tôi? Cái tôi không phải là
tư tưởng vị kỷ;
tư tưởng vị kỷ không phải là cái tôi. Chúng
hoàn toàn khác nhau.
Tư tưởng vị kỷ chỉ là một trong những
thực thể được gán đặt tên gọi “cái tôi”.
Chúng ta phải hiểu điểm này thật
rõ ràng.Vì
chúng ta chưa phát sinh được
trí tuệ qua sự
hiểu biết về
bản chất tuyệt đối và
tương đối của các
hiện tượng nên mới có những cái nhìn
sai trái của
vô minh, xem tâm
vị kỷ là cái tôi, và
chúng ta tin là cái tôi không
thể hiện hữu mà không có tâm
vị kỷ. Và nếu tâm này
quả thật đồng nhất với cái tôi thì hẳn sẽ có nhiều
sai lầm nối
tiếp theo nhau. Bởi vì có 84.000
phiền não nên sẽ có 84.000 cái tôi. Và trong
trường hợp này, mỗi khi đi lại
chúng ta hẳn phải mua vé tàu xe cho hàng ngàn cái tôi! Và
chúng ta lẽ ra phải có hàng ngàn người cha, người mẹ. Và vì mỗi bậc
cha mẹ đều có hàng trăm
ý niệm thiện và
bất thiện, nên mỗi một
ý niệm đó hẳn cũng là một cái tôi. Và khi
chúng ta lập gia đình, hẳn sẽ không có chuyện một vợ một chồng, vì
chúng ta phải cưới đến hàng ngàn người phối ngẫu.
Rõ ràng điều này
hoàn toàn trái ngược với
kinh nghiệm thật của
chúng ta.
Lại nữa, nếu tâm
vị kỷ là cái tôi thì lẽ ra cái tôi phải ngừng dứt khi tâm
vị kỷ ngừng dứt. Điều này có nghĩa là một cái tôi có đó nhưng không thể
thực hành Bồ-đề tâm và không thể
thành tựu giác ngộ viên mãn.
Với các
nhận thức vô minh của
chúng ta,
chúng ta xem tâm
vị kỷ là cái tôi, và
chúng ta nghĩ rằng không thể nào cái tôi
hiện hữu mà không có tâm
vị kỷ. Nhưng tâm này không
độc lập. Nó
hiện hữu tùy thuộc vào các nhân và duyên, và như vậy nó có thể
bị loại bỏ bởi các nhân và duyên khác. Chẳng hạn,
chúng ta có thể
loại bỏ nó bằng sự
rèn luyện tâm trong pháp tu hoán đổi mình với người, tức là học cách
buông bỏ cái tôi và
thương yêu chăm sóc người khác.
Làm sao hoán đổi mình với người? Bằng cách nào để làm được việc chăm sóc người khác thay vì chăm sóc mình? Hãy cứu xét việc ta đã nhận
thân thể này từ
cha mẹ ta; thân ta
ban đầu là một phần của
thân thể cha mẹ ta; và thân
cha mẹ ta cũng có được từ
thân thể của người khác nữa. Bây giờ, ta gán đặt nhãn hiệu “cái tôi” lên thân này, và
thương yêu chăm sóc nó, dù cho nó bắt nguồn là một phần
thân thể của
cha mẹ ta.
Tương tự như vậy, vì cái mà ta gọi là “người khác” đó
hoàn toàn chỉ là một nhãn hiệu mà tâm ta gán đặt lên thân của người khác, nên tâm
chúng ta có thể xoay đổi chuyển từ
thương yêu chăm sóc mình sang
thương yêu chăm sóc người khác. Đây là cách
giải thích hợp lý cho việc
chúng ta có thể
chuyển đổi từ việc
thương yêu chăm sóc chính mình sang
thương yêu chăm sóc người khác như thế nào.
Có hai cách suy nghiệm để
nhận ra được tất cả các
vấn đề bất ổn của
chúng ta đều
xuất phát từ tâm vị kỷ như thế nào. Cách phân tích thứ nhất là thấy rõ các
vấn đề bất ổn của ta
xuất phát từ các
nghiệp bất thiện thực hiện do tâm
vị kỷ như thế nào.
Thiền định về các
tai hại của tâm
vị kỷ cũng là
thiền định về nghiệp; nó là một cách thức bao quát và rất
hiệu quả để suy ngẫm về nhân của khổ đau. Có quá nhiều
vấn đề bất ổn của
chúng ta liên quan đến mười
bất thiện nghiệp, và các
hành vi bất thiện này được
thực hiện bởi
thái độ vị kỷ của ta. Không hề có
nghiệp bất thiện – nhân của khổ đau – nào tự nó
hiện hữu. Nó được tạo ra bởi tâm [
vị kỷ] của
chúng ta.
Cách phân tích thứ hai ngắn gọn hơn là thấy rõ các
vấn đề bất ổn hiện nay của
chúng ta liên quan trực tiếp đến tâm
vị kỷ như thế nào, và tất cả các
vấn đề chúng ta trải qua đều có mối quan hệ
tức thời với tâm
vị kỷ của ta như thế nào. Nếu
chúng ta thuận theo tâm này, ta phải hứng chịu các
vấn đề bất ổn trong cuộc sống; nhưng ngay giây phút
chúng ta nhận biết rõ ràng về tâm
vị kỷ và tự tách mình ra khỏi nó, ta sẽ thôi không còn có
vấn đề bất ổn nào nữa trong cuộc sống.
Khi
chúng ta không phân tích
thực tại của
đời sống, ta có thể cho rằng tâm
vị kỷ là nên
thuận theo.
Đặc biệt,
văn hóa phương Tây khuyên
chúng ta rằng tâm
vị kỷ có ích và nó
bảo vệ chúng ta.
Tuy nhiên, nếu ta
sử dụng trí tuệ để
suy xét sự thật của điều này, ta thấy đó chỉ là một
ảo tưởng. Trong
thực tế, tâm
vị kỷ liên tục gây hại cho ta; nó hủy hoại ta và
hạnh phúc của ta. Nó
ngăn cản ta
đạt được mọi sự
thành công, tạm thời cũng như
vĩnh viễn.
Mỗi
vấn đề bất ổn xảy đến trong cuộc sống đều do
chúng ta tạo ra. Tất cả các
vấn đề của ta
xuất phát từ tâm vị kỷ của chính ta, không phải đến từ ai khác. Tâm ta là nhân chính của các
vấn đề, kể cả bệnh tật của ta. Điều
rõ ràng là người có tâm
vị kỷ mãnh liệt luôn có ít
hạnh phúc và bình yên cũng như hay gây ra nhiều
vấn đề rắc rối cho người khác. Những người như vậy đi đến bất cứ nơi đâu cũng luôn gây ra sự
bất hòa.
Khi
chúng ta còn bị tâm
vị kỷ chi phối,
chúng ta luôn
ganh ghét với bất cứ ai vượt hơn ta về sự
giàu có, học vấn hay
quyền lực.
Chúng ta ganh đua với những người
chúng ta xem là
ngang hàng với mình, và
chúng ta cảm thấy cao ngạo với những người ta xem là
thua kém. Khi gặp bất kỳ ai, tâm
vị kỷ đều
thúc đẩy chúng ta phát sinh những
tư tưởng điên đảo và tạo
nghiệp bất thiện. Tâm
vị kỷ liên tục hành hạ chúng ta. Nó chẳng bao giờ để
chúng ta yên mà luôn khiến ta phải chịu nhiều
lo âu sợ hãi. Nó cũng làm ta phải
đau đớn vì
tham lam,
sân hận, ganh tị, cao ngạo và những tâm
mê lầm khác.
Tự chữa trị mình khỏi căn bệnh
vị kỷ là việc
hết sức quan trọng, vì
thái độ sống
vị kỷ là nguồn gốc của quá nhiều điều
bất hạnh, của sự
tuyệt vọng,
cô đơn và
căng thẳng. Nếu
chúng ta làm
mọi việc chỉ để
tìm kiếm hạnh phúc cho riêng mình, thậm chí chỉ trong
một đời này thôi, động cơ
vị kỷ đó sẽ khiến
chúng ta căng thẳng. Tâm
vị kỷ cũng khiến
chúng ta luôn cố giành lấy
thắng lợi cho riêng mình và để cho kẻ khác
thua thiệt, và điều này có nghĩa là trên
thực tế chúng ta bị bắt buộc phải tạo ra nhân của thất bại [về sau]. Điều này sẽ
mang đến chúng ta sự thất bại
thua thiệt trong hàng ngàn
đời sau và tạo ra các
chướng ngại cản trở sự
giác ngộ.
Chính tâm vị kỷ ngăn cản không cho
chúng ta phát sinh
tâm bi mẫn,
xót thương người khác đang bị khổ đau và ra tay giúp đỡ họ. Nó cũng
ngăn cản chúng ta phát triển
trí tuệ. Tâm
vị kỷ cũng ngăn
chúng ta thực hành thiền định và
chấm dứt mọi khổ đau; nó ngăn không cho
chúng ta đạt được hạnh phúc tối thượng của sự
giác ngộ viên mãn.
Do đó,
chúng ta phải
sử dụng từng
vấn đề mà
chúng ta đang
trải qua như một vũ khí để phá trừ tâm
vị kỷ,
kẻ thù thực sự của ta. Đối với từng
vấn đề mà tâm
vị kỷ đưa đến, ta hãy trả lại cho nó để phá trừ nó. Ví dụ, khi
chúng ta bị
chỉ trích, thay vì thấy mính là đối tượng bị
chỉ trích,
chúng ta nên
chuyển đổi đối tượng và dùng sự
chỉ trích đó như một vũ khí để phá trừ tâm
vị kỷ của ta.
Ngay lập tức chúng ta nên nghĩ rằng: “Đây chính là những gì tôi cần để phá trừ tâm
vị kỷ của tôi, vốn
thường xuyên hành hạ tôi. Nó cản ngăn
hạnh phúc tạm thời và
hạnh phúc tối thượng của tôi và gây ra tất cả các
vấn đề bất ổn cho tôi. Tâm
vị kỷ của tôi còn gây hại
chúng sinh khác, trực tiếp hay
gián tiếp, từ đời này sang đời khác.”
Nếu
chúng ta suy ngẫm theo cách này,
chúng ta sẽ thấy sự chê bai và những điều không mong muốn khác là hữu ích và
cần thiết, vì chúng giúp ta phát triển tâm và hướng đến một cuộc sống
tốt hơn. Tâm
vị kỷ là một căn bệnh, và sự chê bai
chỉ trích là liều thuốc có thể chữa được căn bệnh
kinh niên này cho tâm ta.
Chúng ta nên
nhận ra rằng tâm
vị kỷ là
kẻ thù thực sự của ta, trong khi bệnh tật, sự chê bai
chỉ trích cũng như mọi
vấn đề bất ổn khác đều là vũ khí có thể phá trừ tâm
vị kỷ đó.
Chúng ta nên
vui vẻ tiếp nhận vấn đề và trả lại cho tâm
vị kỷ để phá trừ nó,
kẻ thù luôn gây hại cho ta. Nó đã gây hại trong
quá khứ, nó đang gây hại bây giờ, và nó sẽ gây hại cho ta trong tương lai.
Nhận thức rằng các
vấn đề bất ổn là có hại cho
chúng ta sẽ tan biến khi ta trả những
vấn đề bất ổn đó lại cho tâm
vị kỷ. Các
vấn đề bất ổn sẽ không còn khiến ta bận tâm, vì ta thấy rằng chúng đang làm
lợi ích cho ta bằng cách giúp ta có khả
năng phá trừ tâm
vị kỷ,
kẻ thù luôn
mang đến tất cả các
vấn đề bất ổn cho ta và khiến ta luôn không được
hạnh phúc, không được
hài lòng.
Những lợi lạc của việc thương yêu chăm sóc người khác
Các
chúng sinh hữu tình là nguồn gốc tất cả
hạnh phúc của
chúng ta.
Chúng ta có được
hạnh phúc trong
quá khứ,
hiện tại và tương lai đều là nhờ sự tử tế của các
chúng sinh hữu tình. Chẳng hạn, các
chúng sinh hữu tình chính là các
điều kiện (các duyên) để
chúng ta có được một thân người
tái sinh quí báu này và để
thân thể này của
chúng ta được sống lâu trong môi
trường an toàn và
thanh thản. Các duyên này
sở dĩ có được là nhờ trong
quá khứ ta đã có những
thiện hạnh, sống theo giới nguyện không giết hại
chúng sinh khác. Như tôi đã
giải thích trước đây,
chúng ta có được bốn loại quả
hạnh phúc khác nhau khi
chúng ta tạo được nhân
thiện hạnh sống theo giới nguyện này. Một là
chúng ta có được thân người quí báu. Hai là
chúng ta sẽ được sống lâu, tức là có quả giống như nhân đã tạo. [Loại thứ ba là]
quả báo phụ thuộc,
chúng ta được sống ở nơi ít nguy hiểm, ít
sợ hãi, và
chúng ta có cuộc sống
thoải mái,
tiện nghi. Và loại thứ tư là
trong đời này
chúng ta lại
tu tập giới nguyện không giết hại, sự
tu tập này sẽ tạo ra
quả báo giống như nhân.
Mỗi một
thiện nghiệp trong mười
thiện nghiệp (
Thập thiện) đều sẽ đưa đến các quả
hạnh phúc tương tự như cách trên. Do vậy, cơ bản mà nói, tất cả
hạnh phúc mà
chúng ta có được trong cuộc sống
hằng ngày đều có
liên quan mật thiết đến các
thiện hạnh mà
chúng ta đã làm trong các đời
quá khứ. Điểm chính mà tôi muốn nêu ra là, tất cả
hạnh phúc mà
chúng ta có được là nhờ vào sự tử tế của các
chúng sinh hữu tình. Hãy lấy đời
tái sinh thân người hoàn chỉnh này làm ví dụ, đây là thân người đang cho
chúng ta cơ hội phát triển tâm và
thành tựu hạnh phúc tạm thời cũng như
hạnh phúc vĩnh cửu như
chúng ta mong muốn. Thân người này cũng
cho phép chúng ta giải thoát chúng sinh khỏi
đau khổ và nhân của khổ đau và mang
hạnh phúc đến cho họ.
Chúng ta nhận được thân người
tái sinh hoàn chỉnh này và kể cả các nhân của thân người (là việc đã
giữ giới nguyện không giết hại, đã
bố thí cúng dường, đã
hồi hướng công đức cho việc
tái sinh được thân người hoàn chỉnh) là nhờ vào sự tử tế của những
chúng sinh hữu tình khác.
Nếu không có các
chúng sinh hữu tình khác,
chúng ta không có cơ hội
tu tập giới hạnh.
Chẳng hạn, khi
thực hành giới không giết hại,
chúng ta thực hiện lời
thệ nguyện đó trong mối quan hệ với từng
chúng sinh. Thân người
tái sinh hoàn chỉnh của ta có được là
tùy thuộc vào sự tử tế của từng
chúng sinh đang
hiện hữu, từng
công đức chúng ta có khả năng
tích lũy cũng như từng
hạnh phúc mà
chúng ta có thể dâng tặng cho
tha nhân đều
tùy thuộc vào sự tử tế đó. Chẳng hạn, mỗi lần
chúng ta phát khởi một
nguyện lực với
Bồ-đề tâm thì ta sẽ
tích lũy được vô vàn
công đức, và điều này
sở dĩ thực hiện được là nhờ vào sự tử tế của từng
chúng sinh hữu tình.
Chúng ta cũng sẽ
đạt được các đời
tái sinh tốt đẹp trong tương lai nhờ vào sự tử tế của từng
chúng sinh, vì việc tạo được các nhân cho một kiếp
tái sinh tốt đẹp tùy thuộc vào sự
hiện hữu của
chúng sinh.
Chúng ta cũng sẽ
thành tựu hạnh phúc tối thượng vĩnh cửu của
sự giải thoát, với sự
chấm dứt tất cả khổ đau và nhân của khổ đau, đều nhờ vào sự tử tế của từng
chúng sinh hữu tình. Bằng cách nào?
Con đường căn bản cho phép chúng ta đạt được điều vừa nêu trên chính là
giới hạnh.
Tùy thuộc vào sự
rèn luyện cao hơn về
giới hạnh,
chúng ta sẽ
đạt được trạng thái định tâm.
Tùy thuộc vào mức độ
định tâm hoàn hảo,
chúng ta sẽ
đạt được đại trí tuệ. Vì thế,
chúng ta cũng
đạt được các chặng đường
đưa tới giải thoát – giới, định và tuệ –
tùy thuộc vào sự tử tế của từng
chúng sinh [đã giúp ta có cơ hội
tu tập giới hạnh].
Thậm chí là
chúng ta cũng
đạt được hạnh phúc tối thượng của sự
giác ngộ viên mãn,
chấm dứt mọi che chướng và
hoàn tất mọi
thực chứng nhờ vào sự tử tế của từng
chúng sinh. Đích đến
cuối cùng của
con đường Đại thừa là
giác ngộ viên mãn, và cội gốc của nó là
Bồ-đề tâm, mà
Bồ-đề tâm thì
tùy thuộc vào
chúng sinh.
Nếu không có sự
hiện hữu của
chúng sinh hữu tình chịu đựng đau khổ thì không có cách gì để
chúng ta thực hành Bồ-đề tâm. Do đó mỗi
chúng sinh hữu tình là cực kỳ quí báu và tử tế
vô cùng.
Rõ ràng hơn hết, tất cả sự
tiện nghi, tất cả sự
vui thích mà
chúng ta hưởng thụ
trong đời thường đều
tùy thuộc vào sự tử tế của
chúng sinh.
Vô số sâu bọ đã phải chịu khổ đau và chết đi để
chúng ta có thể sống trong một căn nhà
tiện nghi. Và nhiều
chúng sinh khác đã phải tạo
nghiệp bất thiện khi gây hại và giết chết những sâu bọ đó.
Chúng ta đã nhận được sự
tiện nghi của một căn nhà
che chở ta khỏi các nguy hại của
thiên nhiên thông qua sự khổ đau và chết chóc của
vô số chúng sinh hữu tình.
Quần áo
chúng ta mặc
cũng thế. Nhiều
chúng sinh hữu tình đã chịu
đau đớn và chịu chết để cho
chúng ta hưởng sự
tiện nghi êm ấm của quần áo,
đặc biệt với quần áo bằng lụa tơ tằm và lông thú thì nhiều người khác đã phải phạm vào tội giết hại.
Chúng ta cũng có được sự
sung sướng trong việc
ăn uống nhờ vào sự tử tế của
chúng sinh hữu tình. Ngay cả khi
chúng ta uống một tách trà hay ăn một tô xúp,
vô số vi sinh vật phải chịu
đau đớn và chết đi.
Vô số sâu bọ côn trùng phải chịu đau và chết trên đồng ruộng để cho
chúng ta ăn được hạt gạo, và rất nhiều
chúng sinh khác phải tạo ra
nghiệp bất thiện khi làm hại chúng. Và từng hạt lúa này đã đến từ hạt lúa của mùa trước, và hạt lúa mùa trước lại đến từ hạt lúa mùa trước nữa,
vân vân... Khi
chúng ta nghĩ về dòng
tương tục của một hạt lúa,
chúng ta sẽ không thể tưởng tượng nổi số lượng
chúng sinh đã chịu khổ đau và chết đi
trong suốt quá trình rất
lâu dài của một hạt lúa nhỏ bé, cũng như
chúng ta không thể
nhận biết được số lượng những người đã phải tạo
nghiệp bất thiện khi gây hại các
chúng sinh đó.
Vì
chúng ta nương nhờ sự tử tế của các
chúng sinh khác để có được
tiện nghi và các
phương tiện vui thích trong cuộc sống, nên
chúng ta không thể nào
sử dụng các
tiện nghi và nhiều thứ khác nữa chỉ với
suy nghĩ duy nhất là vì
hạnh phúc riêng của mình.
Thái độ như vậy sẽ rất tàn nhẫn đối với các
chúng sinh khác. Vì họ là nguồn gốc cho mọi
thích thú của
chúng ta, nên
chúng ta phải làm điều gì đó để có
lợi lạc cho mọi
chúng sinh hữu tình.
Mỗi
chúng sinh đều quí báu
vô cùng và có thể mang rất nhiều
lợi lạc đến cho ta.
Thương yêu và chăm sóc dù chỉ một
chúng sinh cũng sẽ đưa
chúng ta đến
giác ngộ, vì điều đó tịnh hóa rất nhiều
chướng ngại và
tích lũy rất nhiều
công đức.
Thương yêu chăm sóc dù chỉ một
chúng sinh – cho dù đó là
cha mẹ, con cái hay
kẻ thù của ta – cũng giúp ta có khả năng nhanh chóng phát triển tâm trên
con đường đưa tới giác ngộ. Họ thực sự là những người thầy của
chúng ta. Bằng cách tỏ lòng
yêu thương bi mẫn dù chỉ với một
chúng sinh,
chúng ta có
thể đạt được tất cả những
thực chứng của
con đường Đại thừa, từ
Bồ-đề tâm lên đến sự
giác ngộ [
viên mãn].
Ngược lại, việc không
yêu thương chăm sóc [dù chỉ] một
chúng sinh – chẳng hạn như một người không
ưa thích chúng ta – sẽ
ngăn cản sự
giác ngộ của
chúng ta. Đó là
chướng ngại căn bản ngăn chặn sự
thành tựu hạnh phúc vô thượng của
giác ngộ viên mãn, vì nó
cản trở Bồ-đề tâm, cửa ngõ bước vào
con đường Đại thừa.
Tôi đã
giải thích việc tất cả các
vấn đề bất ổn đều
xuất phát từ sự chăm sóc ôm ấp cái tôi như thế nào. Khi tâm
vị kỷ vẫn còn thì không có sự
giác ngộ, và tâm
vị kỷ này là
chướng ngại lớn nhất đối với
hạnh phúc, dù chỉ là
hạnh phúc tạm thời. Đó là
lý do tại sao trong cuộc sống
hằng ngày chúng ta không thấy được sự
bình an. Và vì tâm
vị kỷ là cửa ngõ
đưa tới mọi
vấn đề bất ổn nên
chúng ta phải
buông bỏ chính mình và
thương yêu chăm sóc người khác, cho dù đó chỉ là một
chúng sinh. Dù chỉ một
chúng sinh khác cũng là quí báu hơn
bản thân ta, vì tất cả
hạnh phúc và
thành công của ta đều đến từ một
chúng sinh đó, trong khi mọi
vấn đề bất ổn của ta đều đến từ “cái tôi”.
Vì chỉ một
chúng sinh cũng đã quí báu và quan trọng hơn
bản thân ta, tất nhiên là hai
chúng sinh phải quan trọng và quí báu hơn nữa, nên
chúng ta phải
thương yêu chăm sóc và
phụng sự họ. Một trăm
chúng sinh hữu tình thì càng quan trọng và quí báu hơn
bản thân ta rất nhiều, nên ta phải
thương yêu chăm sóc và làm việc vì họ. Giờ đây,
hiện có vô số chúng sinh nên đương nhiên là quí báu và quan trọng đến mức
không tưởng tượng nổi; và vì họ quí báu và quan trọng hơn
chúng ta nhiều, rất nhiều như thế, nên
chúng ta càng phải
thương yêu và chăm sóc họ [nhiều hơn nữa]. Khi so với
vô số chúng sinh,
chúng ta trở nên
hoàn toàn không
đáng kể, ta chẳng là gì cả!
Giờ đây,
chúng ta có thể
nhận ra rằng các
vấn đề bất ổn của
chúng ta chẳng là gì cả! Khi
chỉ quan tâm đến
bản thân mình, ta thấy ta có nhiều
vấn đề bất ổn.
Tuy nhiên, khi
thiền định hoán đổi mình với người khác, ta thấy rằng dù có gặp bao nhiêu
vấn đề bất ổn đi chăng nữa cũng đều không
đáng kể.
Trong đời ta không còn có gì quan trọng hơn là việc
thương yêu chăm sóc và làm việc vì
vô số chúng sinh khác. Mọi công việc nào khác đều chỉ là trống rỗng và
vô nghĩa.