THANH TINH TÂM
Lê Sỹ Minh Tùng
Luật Nghiệp Quả và Nhân Cách
Trong lịch sử của
nhân loại, có những vĩ nhân và các bậc
đại thánh mà nhân cách của họ đáng được
truyền tụng ngàn đời như
Đức Phật,
Khổng Tử,
Lão Tử,
Mạnh Tử, Gandhi…Chẳng những thế,
trong lịch sử của mỗi
quốc gia cũng có những nhân vật xuất chúng với lòng yêu nước nồng nàn và những chiến công
hiển hách lẫy lừng để
giữ gìn đất nước và
xây dựng quê hương. Không ai quên được một
anh hùng áo vải Lam Sơn Lê Lợi, ba anh em nhà Tây Sơn Nguyễn Huệ đã phá hàng vạn quân Thanh, Đức Thánh Trần Hưng Đạo trên sông Bạch Đằng…Trong
lãnh vực khoa học còn có những nhà
bác học đã
cống hiến cả
cuộc đời cho nền
văn minh tiến bộ của
nhân loại với lòng
kiên trì không
mệt mỏi như bà Marie Curie, Pasteur, Einstein…
Mặc dù không
cùng chung nòi giống và
ngôn ngữ, nhưng tất cả những vĩ nhân trên toàn cầu đều là những người vừa có
công lao lớn đối với
nhân loại và vừa có nhân cách cao cả khả kính.
Ngoài những nhân cách
siêu phàm đó, cũng có những hạng người tầm thường chỉ nghĩ đến
lợi ích cá nhân,
hành vi nham hiểm,
ác độc,
lừa đảo và
tính tình nóng nảy,
cố chấp, hẹp hòi…
Thông thường
con người vì
quyền lợi mà
xâu xé, chém giết lẫn nhau. Một khi
ác tâm đã bám sâu vào trong
tiềm thức thì nó sẽ
biến thành hành động
xấu xa tội lỗi làm mất hết cả nhân cách. Bởi vìý là nhân mà hành động là kết quả. Thật vậy, Ý có muốn làm thì thân và khẩu mới có sự
thực hiện, do đó
Ý Nghiệp đã gây trong
tiền kiếp thì
quả báo của Thân
Khẩu Nghiệp trong đời nầy. Vậy nhân cách của
con người đời nầy là do
Ý Nghiệp của đời trước chuyển đến mà thôi. Nói một cách khác, một nhân cách tốt thì trong tương lai của kiếp nầy hay
kiếp sau chắc chắn sẽ tạo ra những hành động tốt. Những người thường
nuôi dưỡng những hoài bão cao thượng,
chắc chắn sẽ làm được những
hành vi cao cả. Vì sự
lợi ích của hành động tốt,
hành vi cao cả cho nên trau dồi nhân cách là một
việc làm vô cùng quan trọng cho tất cả
mọi người. Tự trau dồi nhân cách cho mình cũng chưa đủ mà
chúng ta cần phải giúp đỡ
mọi người chung quanh
xây dựng nhân cách của họ.
Chiêm ngưỡng đôi mắt
từ bi của Phật, ngưỡng mộ phong thái trầm mặc của một bậc thánh sẽ gây cho
chúng ta một tấm
lòng từ bi, một phong thái trầm mặc ở
mai sau. Vì thế, nếu
chúng ta đọc nhiều về các
giai thoại đạo đức của các bậc thánh, của các
danh nhân thì trong tâm sẽ khởi lên sự kính ngưỡng và đây chính là nguồn gốc tạo
thành nhân cách
tốt đẹp cho
chúng ta về sau.
Ngược lại, các
tội phạm bị giam giữ lâu ngày thì họ chỉ
chứng kiến vô số chuyện
tội lỗi,
lừa đảo và giết hại lẫn nhau.
Định luật sinh tồn xác định kẻ có
sức mạnh và mưu mô xảo quyệt là kẻ thắng. Hàng ngày những tay
anh chị phô trương những
thành tích rùng rợn của mình để cho kẻ khác nể phục. Càng
thán phục mấy tay
anh chị gan lì,
ác độc và
ích kỷ càng tạo cho họ những nhân cách ghê tởm về sau. Do đó khi hòa mình chung sống trong một môi trường
tội lỗi như thế, chẳng có mấy ai sau khi mãn tù về sẽ
trở thành một kẻ
lương thiện. Vì thế, trại tù sẽ không bao giờ là nơi làm cho
con người được thuần lương
cải hóa. Chỉ có
sự giáo dục
chân chính mới có thể thay đổi được nhân cách và giúp cho họ hoàn lương để
trở thành một người tốt.
Ngày xưa Quản Trọng từng nói:”Lễ Nghĩa
Liêm Sĩ là bốn giềng mối của
quốc gia. Nếu bốn giềng mối không giương ra thì
quốc gia tất phải diệt vong”. Rất tiếc ngày nay từ trong học đường đến
xã hội,
con người không còn
quan tâm về triết lý
chân thật nầy để có một
xã hội công bình,
trật tự, an vui và
hạnh phúc.
Lúc còn bé, nhà của mẹ thầy
Mạnh Tử ở kế một nghĩa trang nên hàng ngày thấy người than khóc, đưa
đám ma thì thầy cũng mua sắm đồ vật và làm
y như vậy. Khuyên can cách mấy, thầy vẫn không thay đổi, sau cùng bà mẹ
quyết định bán nhà để dọn
tới gần một trường học. Thấy lũ trẻ chăm chỉ
học hành, thầy cũng tận tụy noi theo và về sau
trở thành một nhà
hiền triết rất
nổi tiếng về trọng
đạo lý,
nhân nghĩa và khinh
danh lợi của Trung Hoa. Vì thế
cổ nhân nói gần mực thì đen gần đèn thì sáng quả không sai.
Nhân cách là do nghiệp tạo thành, nhưng nghiệp thì có thể thay đổi vì thế nhân cách của
con người cũng theo đó mà đổi thay
tùy theo môi
trường sinh sống của họ. Thật ra không dễ gì một người có thể
vượt qua những
ngã chấp để
đạt được một tâm
đại bi vô lượng để giúp đỡ và
thương yêu khắp
mọi người. Nhưng nếu họ
cố gắng kiểm soát tâm lý tham lam ích kỷ của mình để có thể
nhận xét thật kỹ lưỡng tất cả mọi
ý tưởng và hành động của mình có ẩn chứa một mưu tính, một sự trục lợi nào không.
Nếu không thì tâm
đại bi đó sẽ từ từ
phát khởi trong tâm họ và đây chính là
phương cách chân thật để
hoán chuyển thành một nhân cách
tốt đẹp hơn. Nên nhớ người có nhân cách tốt là những người có
tâm hồn cao thượng, có nghĩa là việc họ làm có
lợi ích cho
chúng sinh chứ không phải cho riêng họ. Bỏ
vị kỷ để đổi lấy
vị tha là tạo
thiện nghiệp và
lợi ích cho
chúng sinh tức là
lợi ích cho chính mình sau nầy vậy. Phật dạy rằng:”Không có gì
hạnh phúc bằng
tâm hồn yên tịnh”. Thật vậy, khi
tâm hồn không bị
tham lam,
sân hận,
si mê chi phối thì
con người sẽ sống
vô cùng bình tĩnh và
sáng suốt. Đây chính là
hạnh phúc cao thượng nhất. Và sau đó khi được hỏi: “Con đường nào dẫn đến Niết Bàn”,
Đức Phật trả lởi:”Đó là Giới, Định, Tuệ”. Tại sao? Bởi vì Tham thì
phá Giới, Sân thì phá Định và Si thì có thể phá Tuệ. Còn nếu giữ được giới thì tâm sẽ
an định, mà khi tâm đã được định thì
trí tuệ sẽ phát sinh.
Vì vậy có
trí tuệ tức là thấy được
Niết Bàn.
Thời
Đức Phật còn
tại thế, có nhóm
tu khổ hạnh có tên là Jainism và người
đạo sĩ thì gọi là Nigantha. Nhóm nầy chủ trương là
con người không thể phát triển
đức dục và
trí dục nếu chưa trả hết những
hậu quả bất thiện của
tiền nghiệp.
Vì vậy tôn giáo nầy dạy
tín đồ của họ phải
thực hành khổ hạnh để sớm
thoát khỏi ảnh hưởng của
tội lỗi mà họ đã làm trong những kiếp
quá khứ. Trong
Trường Bộ Kinh có kể rằng:
Khi
vị đạo sĩ Dighà đến chào hỏi
Đức Thế Tôn và an tọa thì
Đức Phật hỏi đạo sĩ rằng:
- Này
đạo sĩ, trong đạo Nigantha thì vị
giáo chủ Nàtaputta dạy có bao nhiêu loại nghiệp?
- Bạch Đức Cư Đàm, trong
đạo chúng tôi, vị
giáo chủ Nàtaputta không hề nói đến cái nghiệp, nhưng chỉ dạy về cái tội mà thôi.
- Vậy có bao nhiêu tội?
Đức Phật hỏi:
- Bạch Ngài, tội có 3 loại: tội do thân, do khẩu và do ý.
- Trong ba tội ấy tội nào nặng hơn hết?
- Bạch Ngài, chính tội của thân nặng hơn cả.
Sau khi xác định ba lần như thế,
Đạo sĩ Nìgha lại hỏi
Đức Phật:
- Bạch Ngài, còn theo
giáo Pháp của Ngài có mấy thứ tội?
- Này
Đạo sĩ, trong
giáo Pháp của
Như Lai không hề nói đến cái tội, nhưng chỉ dạy về cái nghiệp mà thôi.
- Bạch Ngài, vậy có bao nhiêu thứ nghiệp?
- Nghiệp cũng có 3 loại là
thân nghiệp,
khẩu nghiệp và
ý nghiệp.
- Bạch Ngài, trong ba loại nghiệp ấy loại nào quan trọng nhất.
- Này
Đạo sĩ, chính
Ý nghiệp là quan trọng nhất.
Đức Phật đã khẳng định rằng trong
ba nghiệp thì
Ý Nghiệp là quan trọng hơn cả bởi vì
từ ý nghiệp mới sinh ra thân,
khẩu nghiệp mà chính cái
ý nghiệp đó đã sanh ra nhân cách của
con người trong đời nầy.
Con người vì do
bản năng vị kỷ nên sinh ra tính
đố kỵ, chia rẽ, hơn thua và luôn luôn đi tìm sự
độc tôn cho mình và đè bẹp kẻ khác. Thật vậy,
con người hơn thua nhau từng
lời nói, các hội đoàn không tiếc lời
chỉ trích nhau và ngay cả các
thế lực chính trị cũng dùng mọi
thủ đoạn để
tiêu diệt lẫn nhau. Cái
bản ngã đã
sinh trưởng lớn mạnh trong
chúng ta vì thế ai cũng muốn mình hơn hẳn
mọi người về
tài sản,
địa vị và
danh tiếng. Do đó cái
bản ngã càng lớn thì sự ngăn cách trong
xã hội càng to và
con người tiếp tục phân hóa, chia rẽ để dẫn đến thù ghét lẫn nhau. Như thế nếu muốn
tăng trưởng nhân cách thì
con người phải đè bẹp cái
bản ngã để có cuộc sống không còn
bỏn xẻn và tạo cơ hội để phát huy tâm
vị tha quãng đại.
Ngoài những người có nhân cách cao cả hay những kẻ có nhân cách hèn hạ thì còn có những người bị
rối loạn nhân cách
nghiêm trọng mà thường được gọi là điên hay bệnh
tâm thần. Khi
cơn điên nổi lên thì họ
vô cùng hung dữ, sẵn sàng đập phá, giết hại tất cả những gì chung quanh họ. Họ nói
lảm nhảm như đang nói chuyện với một kẻ vô hình nào đó và nghĩ mình như đang sống vào
một thế giới
ảo tưởng chỉ dành riêng cho họ mà thôi. Họ không còn giữ được sự
hòa hợp bình thường với
xã hội chung quanh bởi vì họ bị
giao động mãnh liệt từ trong
nội tâm rồi
biểu lộ ra ngoài những
lời nói và
hành vi thiếu
nhã nhặn.
Nhiều người vì
mê tín quá đáng vào
quỷ thần, vào đồng bóng để
cầu xin được
gia hộ, phát tài…hoặc có những người
tham vọng quá lớn đến khi
thất vọng thì có thể làm biến dị cơ chế não bộ để
xuất hiện trạng thái bệnh
tâm thần. Thật ra, đây chỉ là những
nguyên nhân gần, còn
nguyên nhân sâu xa vẫn chính là nghiệp từ
quá khứ. Tại sao? Thử nghĩ khi hai người cùng
mê tín mà một điên, một không. Hoặc là hai người cùng có
tham vọng quyền lực giống nhau mà một người
nổi điên, một người không. Tại sao tính điên chỉ xảy ra cho người nầy mà lại chừa người khác?
Nguyên nhân thật sự vẫn
thuộc về nghiệp từ
quá khứ xa xăm mà ra.
Như thế nhân cách
cần phải được
xây dựng để có thể
bộc lộ ra ngoài bằng những hành động
đạo đức.
Đức Phật cũng
xác nhận là hành động bắt nguồn từ
thái độ tri thức.
Vì vậy một
tư tưởng chân chính sẽ đưa đến một hành động
đạo đức và ngược lại. Do đó Phật lại dạy:
- Sự
hiện hữu của
chúng ta là kết quả của những gì ta
tư tưởng. Nó được
xây dựng trên
tư tưởng và kết tinh bằng
tư tưởng. Nếu một người nói hay hành động với
tư tưởng sai lầm thì khổ đau sẽ theo người ấy như bánh xe lăn theo con bò kéo xe. Nhưng nếu nói hay hành động với
tư tưởng chân chính thì
hạnh phúc sẽ theo người ấy như bóng theo hình.
Tư tưởng sai lầm và
tư tưởng chân chính mang lại hai kết quả khác nhau. Với
tư tưởng sai lầm hay
bất thiện thì lúc nào cũng mang
bản chất Tham, Sân, Si và ngược lại
tư tưởng chân chính thì lúc nào cũng lấy Từ, Bi, Hỷ, Xả làm
phương châm để hành động.
Khi
con người lấy tâm
vô lượng để làm
lợi ích cho người khác thì tự họ đã tạo nên rất nhiều nghiệp thiện và khi nghiệp thiện nầy vừa tạo xong thì phước báu sẽ
xuất hiện trong vô hình để
giữ gìn cho
quả báo về sau. Thế thì
nghiệp nhân vừa tạo xong thì
quả báo cũng đã
xuất hiện rồi. Do đó người đã từng làm nhiều
lợi ích cho
mọi người thì
nghiễm nhiên chính họ đã tạo cho mình rất nhiều
phúc đức.
Vậy Phước là do làm
lợi ích cho người mà có, còn Đức là cái tốt của
tự tâm.
Chẳng hạn như vụ bão lụt Katrina vừa qua, một số nhà giàu vì muốn cho người khác biết đến
tên tuổi của mình nên đã
bố thí cho các cuộc
lạc quyên cứu trợ. Vì thâm ý của họ không tốt, chỉ có
mục đích cá nhân nên họ chỉ có phước mà không có đức. Ngược lại một người
tu hành chân chính,
giữ gìn giới cấm và tự thanh lọc
nội tâm trong sáng như
pha lê, nhưng
quyết định ở ẩn không giao tiếp với ai, thì người đó có đức mà không có phước. Thật ra những người có
nội tâm trong sạch và cao thượng thì
tư tưởng trong lành của tâm luôn luôn lan tỏa trong
không gian và âm thầm lây nhiễm vào
tâm hồn của
mọi người thì chính họ đã có phước rồi.
Cho nên nếu muốn được
phước đức vẹn toàn thì khi làm việc
lợi ích cho người đừng mong có sự đền đáp. Vì thế Phật dạy rằng:”Khi
thi ân ta không nên cầu phước báo”. Thói thường trong
thế gian là
con người lúc nào cũng muốn thổi phồng cái ngã của mình càng lúc càng to như cái nhà của tôi, cái xe của tôi, cái công ty của tôi, con cái của tôi, cái thân của tôi thế nầy thế kia…Cái ngã càng lớn thì
phiền não càng to vì họ quên rằng không có cái gì trên đời là thật cả bởi vì tất cả
vạn hữu đều mang
tánh Không hay không có
tự tánh, do đó tất cả mọi
hiện sinh đều là
vô thường ngay cả cái thân mà họ gọi là “cái thân của tôi” cũng phải để lại khi họ ra đi. Thật vậy, người mê khi nhìn cái nhà thì cho là thật, là
bền vững muôn đời, còn người hiểu được lý “Không” thì cái nhà đó chỉ là
vô thường, là một cái tên mà thôi bởi vì nếu đem phân tán gạch, ngói, cây, gỗ ra thì cái nhà đâu còn nữa chớ không phải đợi đến 100 năm sau, đến lúc cái nhà hư hại tan biến thì mới biết là cái nhà
không thật. Tấm
thân tứ đại thì
cũng thế, nếu đem tách đất, nước, gió, lửa ra từng phần thì thân nầy sẽ bị hoại bởi vì đất, nước, gió, lửa chính nó không có
tự tánh, tức là
vô ngã. Do đó thân của
chúng ta là giả tạm
không thật.
Chúng ta mượn nó để dùng
trong đời nầy rồi trả lại khi ra đi. Một ví dụ khác là khi nhìn trên bàn
chúng ta “thấy có” một bình hoa, nếu đem bình hoa cất đi thì
chúng ta “không thấy có” bình hoa nữa. Như vậy thấy bình hoa và không thấy bình hoa là cái có đối với cái không có trong
không gian vật chất. Còn
lý Không ở đây không có nghĩa là không có, không thấy trên cái bàn. Mặc dù
chúng ta vẫn để bình hoa trên cái bàn, nhưng chính bình hoa không có
tự tánh, hay không có
thực chất nên nó không thực có. Vậy lý “Không” phải hiểu là không có
tự tánh, không có
thực chất chớ không phải là chúng không có. Mà một khi không có
tự tánh thì chúng sẽ tan rã, hủy diệt theo
thời gian và đó chính là
vô ngã.
Tóm lại, khi
con người quên mình để lo cho
mọi người thì mới giúp cho cái ngã mau tan vỡ. Và lúc đó họ không còn sống cho cái ngã nữa thì người đó sẽ
hoàn toàn được
vị tha. Đó chính là
chân lý siêu việt Vô Ngã của nhà Phật.
Một ví dụ khác về
lý Không là ở Hoa Kỳ hiện nay có nhiều
ảo thuật gia rất
nổi tiếng chẳng hạn như David Copperfield. Một trong những màn
ảo thuật xuất sắc của anh ta là làm biến đi tượng
nữ thần tự do ở Nữu Ước, hay làm biến mất một chiếc phản lực cơ
trước mắt hàng vạn khán giả. Quý vị có nghĩ rằng tượng
nữ thần hay chiếc máy bay có tàng hình được không?
Dĩ nhiên là không. Cái mà ông ta
thành công là làm cho
chúng ta tin tưởng vào
thị giác của
chúng ta. Khi thấy thì
chúng ta cho là có, còn không thấy thì cho là không có. Nhưng tượng
nữ thần hay cái máy bay vẫn
sờ sờ ở đó mà
chúng ta không thấy nên nói là không có. Thế thì cái thấy hay cái không thấy có thật không? Do đó
tính Không cũng thế, khi
thị giác của
chúng ta thấy một vật gì thì
chắc chắn vật đó có thật không? Ngày nay khoa học có thế
tìm thấy và đo lường
đơn vị nhỏ nhất của
vật chất là nguyên tử. Nhưng nếu đem thể tích của các hạch tâm chia cho thể tích của nguyên tử đó thì đáp số gần như số không. Như vậy,
mọi vật thể mà
chúng ta thấy bằng
thị giác thì tự nó đã không có
tự tánh, tức là Không.
Lý Không của
đạo Phật nhằm
mục đích khai thị
con người hiểu rõ sâu xa về sự
hiện hữu của
vạn vật trên đời nầy. Kẻ mê thì nghĩ rằng cái gì cũng thật, cũng
chắc chắn, cũng
tốt đẹp, cũng
hấp dẫn nên lòng tham mới phát khởỉ để tạo tác,
giữ gìn và
dĩ nhiên là để tạo nghiệp, còn người thấu suốt
lý không thì biết rằng tất cả
mọi vật đều
vô thường, tan biến, tạm bợ và không chắc thật nên dễ dàng
kiềm chế lòng
tham của họ. Mà hễ bớt
dục vọng tức là bớt khổ, có nghĩa là càng ít tham thì càng nhiều
hạnh phúc, an vui và
tự tại. Người có nhân cách cao thượng hay
thấp hèn cũng bởi từ tánh tham mà ra.
Như thế người
đi theo chánh đạo là phải biết
chu toàn đầy đủ cả phước lẫn đức. Bởi vì phước và đức luôn hỗ trợ cho nhau. Thật vậy, tâm có tốt thì
việc làm thiện mới được chu đáo và lâu bền còn đức có sâu thì phước mới lớn. Vì thế khi làm
việc thiện,
chúng ta nên
củng cố thêm chất tốt của
nội tâm mình. Ngược lại, nếu có kẻ làm phước mà không có đức, tức là làm
việc thiện vì
mục đích vị kỷ thì
chắc chắn sẽ có lúc làm ác vì
tư tưởng xấu có ngày sẽ khởi ra hành động
bất thiện. Do đó cái phước sẽ không thể phát triển đến
vô cùng vô tận.
Vậy
phước đức và công đức có khác nhau không?
Phước đức là đem
tiền của, tài vật ra
bố thí hoặc
cúng dường cho kẻ khác, còn
công đức là từ trong
trí tuệ bát nhã mà có. Tiền tài có thể đem cho người khác được, nhưng
trí tuệ thì phải tự tu mới có, tự luyện mới thành. Có ai đem sự
thông minh của mình cho người khác được đâu? Do đó,
phước đức thuộc về
pháp hữu lậu, có nghĩa là còn phải vướng
trong vòng luân hồi sanh tử, còn
công đức thì thuộc về pháp
vô lậu nên có thể giúp cho họ đến chỗ
vô sanh vô diệt hoặc cõi
Tây phương Cực Lạc.
Thêm nữa, trong
thực tế của
cuộc đời, không một ai
hoàn toàn thoát khỏi những
lo âu phiền muộn trừ khi
chúng ta trở thành bậc
toàn thiện hay bậc Thánh.
Tuy nhiên, nếu
chúng ta hiểu rõ được
bản chất của cuộc sống để không còn
phàn nàn, không còn
bất mãn mà
can đảm nhận lãnh những kết quả của thân
khẩu nghiệp thì
đau khổ không những không còn làm cho
chúng ta sa đọa, mà còn giúp
chúng ta tiến đến chổ Chân, Thiện, Mỹ. Có
con người là có
phiền não khổ đau và chính những cái
phiền não khổ đau nầy là cái giá mà
con người phải trả cho sự
chiếm hữu cái thân
ngũ uẩn nầy.
Chừng nào chúng ta không còn
lệ thuộc vào tấm
thân tứ đại nầy nữa thì
lúc ấy chúng ta mới
hoàn toàn thoát ly mọi
phiền muộn khổ đau. Do đó khi gặp nguy khó mà
chúng ta vẫn giữ được nụ cười trên gương mặt
trầm tĩnh và
sáng suốt để
giải quyết vấn đề mà không
tỏ ra một chút
bối rối lo âu thì đây chính là sự
biểu lộ một nhân cách cao thượng vậy.
Tình cảm và
Lý TríTình cảm phát xuất từ con tim, mà đã từ con tim thì có lúc
chúng ta thương, có khi
chúng ta ghét, giận hờn, si mê…bởi vậy có một
triết gia Tây phương nói rắng:”Con tim có những lý lẽ mà
lý trí không thể nào hiểu nổi”.
Khi một người
chạy theo tiếng gọi của con tim, chẳng hạn như một chàng trai nhìn thấy một cô gái trẻ đẹp khiến lòng anh ta phát sinh một tình cảm
ưu ái và muốn chiếm đoạt về mình. Thứ tình cảm
ưu ái nầy phát xuất
từ tâm lý
vị kỷ của
con người, đó là muốn thâu góp mọi thứ
tốt đẹp trên
thế gian. Đây chính là hệ quả của
tâm lý tham lam mà thôi.
Gần đây báo chí đăng tin có một thiếu phụ rất giàu
tìm cách chiếm đoạt tình cảm của một chàng đẹp trai có vợ, nhưng không
thành công. Sự
thất vọng đã biến bà ta từ tình yêu
trở thành thù hận nên
tìm cách trả thù cho
hả dạ. Vậy thứ tình cảm yêu mến hay
hận thù của người đàn bà nầy cũng phát sinh
từ tâm lý
tham lam,
ích kỷ chớ không phải là thứ tình yêu
chân thật.
Nói
tóm lại, khi nói về tình
cảm thương ghét của
con người thì hễ cái gì
thỏa mãn được lòng
tham muốn thì sự
ưa thích sẽ phát sinh, còn cái gì
ngăn cản lòng
tham muốn thì sự thù ghét sẽ
xuất hiện. Do đó tình cảm của
con người chỉ là một trò lừa dối của
chấp ngã mà thôi.
Có một loại tình cảm mãnh liệt hơn
các loại tình cảm khác đó là tình yêu
nam nữ. Thứ tình cảm nầy khá
phức tạp bởi vì nó
bao gồm từ những cuộc tình cao thượng,
chân chính đến những trò đùa giỡn
ái tình và
lợi dụng tình ái. Vậy
duyên nghiệp từ
quá khứ đã
chi phối cho loại tình cảm nầy thế nào?
Nếu hai người
quả thật có
duyên nợ từ
tiền kiếp thì họ sẽ yêu nhau
chân thành và đi đến
hôn nhân để trả
xong nợ quá khứ và có thể
tiếp tục gây thêm nợ cho
mai sau.
Nếu không có nợ mà chỉ có duyên thì họ sẽ yêu nhau qua một giai đoạn rồi gặp
trắc trở để rồi tình cảm phai nhạt dần theo năm tháng.
Còn
trường hợp tình yêu đơn phương thì sao? Đó là người nầy mơ tưởng đến người kia nhưng không được
đáp lại. Đối với họ thì người kia chính là mẫu người
lý tưởng mà họ hằng
mong ước từ sắc đẹp
cho đến nhân cách. Nhưng rất tiếc vì không có duyên từ trong
tiền kiếp nên họ chỉ đón nhận bao sự
lạnh lùng chua chát mà thôi.
Nếu đời nầy có một chàng trai
đa tình đã dẫm lên không biết bao nhiêu
cuộc đời của
phụ nữ thì
dĩ nhiên kiếp sau anh ta sẽ chuyển thân làm người nữ để
chịu đựng sự
bạc tình của người khác.
Nói thế thì tình yêu bên ngoài có thể che phủ bằng những bông
hoa tươi thắm, nhưng thật ra bên trong nó được
che lấp bằng những
bản chất ích kỷ và hưởng thụ của
con người. Thật vậy, chính cái
bản năng hưởng thụ đã
thúc đẩy trai gái tìm đến
với nhau và cũng chính cái
bản năng hưởng thụ nầy đã
thúc đẩy họ làm khổ cho nhau. Trong bất cứ
xã hội nào cũng có rất nhiều cặp vợ chồng gây gổ, đánh đập, giết hại lẫn nhau gây
đau thương cho mình và cho con cái.
Thêm vào đó, có những vụ
ngoại tình đưa đến
ly dị chỉ làm khổ
mọi người và tạo ra lắm
nghiệp nhân không tốt cho họ về sau.
Đối với sự
công bằng của luật
nghiệp quả thì nếu ta chiếm vợ người thì trước sau cũng bị người đoạt vợ của ta. Còn nếu
hành hạ vợ mình thì
dĩ nhiên kiếp sau sẽ bị đọa làm người nữ để bị
hành hạ trở lại. Kẻ muốn
ly dị,
bỏ rơi con cái sẽ
trở thành mồ côi,
hiu quạnh ở
đời sau.
Vì có những
đau khổ,
bất hạnh trong đời sống lứa đôi nên có một
triết gia Tây phương đã thốt lên rằng:”Chỉ có những
triết gia chân chính mới sống
hạnh phúc trong
hôn nhân, nhưng tiếc thay, nếu là
triết gia chân chính, họ sẽ không bao giờ lập gia đình”.
Phật dạy rằng:
- Người đời có nhiều sự
ham muốn, nhưng
ham muốn nữ sắc là hơn hết. Vì sắc đẹp nên sinh lòng ham mến (yêu) nên cái ham mến là hơn hết. May thay! Chỉ có một sắc đẹp, chứ có hai thì tất cả
mọi người trong
thiên hạ, không ai tu nổi.
Luật
Nghiệp Quả không dừng lại ở đây mà còn
ảnh hưởng đến những
gia đình mà
cha mẹ đánh đập, chửi mắng hay thù ghét con cái của mình. Thật ra đây chỉ là sự
bình đẳng mà thôi vì đời trước khi còn làm
cha mẹ thì nó đã đối xử tàn tệ với con cái của nó. Đến kiếp nầy
duyên nghiệp đưa đẩy nó rơi vào
gia đình có bậc
cha mẹ tánh tình hung dữ và miệng lưỡi
ác độc để trả lại những nỗi khổ mà nó đã gây ra cho người khác.
Ở
Việt Nam có rất nhiều
gia đình đông con mà
cha mẹ lại không thương con
đồng đều. Tại sao
gia đình có năm, sáu đứa con mà
cha mẹ chỉ thương nhất có một người? Không có gì khó hiểu cả bởi vì trong những đời trước
cha mẹ hiện tại đã mang nặng
ân nghĩa với đứa con đó nên bây giờ khiến
cha mẹ thương yêu, cưng chìu đứa con đó hơn.
Thêm nữa,
trong đời quá khứ nếu
kết duyên với con cái thì đời nầy
chúng ta gặp lại chúng. Nếu là phước duyên thì chúng đến để
báo đền ơn nghĩa ngày xưa. Chúng
quan tâm,
lo lắng và giúp đỡ mọi chuyện cho
cha mẹ. Chúng
cố gắng học hành,
trở thành người tốt để đem niềm vui cho
cha mẹ. Còn nếu là
ác duyên có nghĩa là chúng đến để đòi nợ, gây khổ cho
cha mẹ. Cha đau mẹ yếu chúng chả cần
quan tâm. Chúng chỉ thích
ăn chơi trác táng,
phung phí tiền bạc, tương lai
đen tối và gây
phiền não cho
gia đình. Thay vì
cố gắng tạo dựng một tương lai tốt đep cho
cuộc đời của mình thì trong tâm chúng chỉ
để ý đến cái gia sản to lớn của
cha mẹ mà thôi.
Tóm lại, một khi tình cảm phát xuất từ con tim thì
đau khổ,
phiền não còn dính liền với
con người bởi vì những
tư tưởng đó được
cấu tạo bởi lòng
tham lam,
ích kỷ. Vì thấy sự nguy hại của
cảm tình nên
Đức Phật đã dạy
cảm tình là
mê muội, không
sáng suốt và
chạy theo dục vọng để dẫn
con người đến chỗ khổ đau. Muốn có cuộc sống an vui,
tự tại thì
con người phải
quay về sống với
trí tuệ chân thật của họ. Vâng, chỉ có
trí tuệ sáng suốt mới có đủ
công năng đưa
con người vượt qua mọi
đau khổ để đến được
cảnh giới an vui,
hạnh phúc. Sống với
trí tuệ là sống với
lòng vị tha của từ, bi, hỷ, xả.
Do đó nếu
con người biết đem
tình thương chân chính của sự
hy sinh,
độ lượng và
vị tha vào trong cuộc sống thì tình yêu đó sẽ không còn đậm màu sắc
ảm đạm của
bản năng ích kỷ. Thật vậy,
con người bị
dục vọng thiêu đốt và
màn đen vô minh che lấp. Chỉ có ánh
sáng trí tuệ mới có thể
dập tắt ngọn lửa
ái dục cũng như xé toang màn
vô minh ấy để giúp cho
con người thoát ly cảnh khổ.