NHỮNG HẠT NGỌC TRÍ TUỆ PHẬT GIÁO
Nguyên tác: Gems of Buddhist Wisdom
Buddhist Missionary Society, Malaysia, 1983, 1996
Thích Tâm Quang dịch
IV. PHƯƠNG PHÁP GIẢI QUYẾT PHẬT GIÁO
TRƯỚC CÁC KHÓ KHĂN
16. TRÍ TUỆ NGƯỜI XƯA VÀ NHỮNG KHÓ KHĂN HIỆN ĐẠI
- Francis Story
Lịch sử
con người chinh phục môi trường chung quanh từ thuở
sơ khai, là chuyện
thích nghi với sự thay đổi qua tài trí ngày càng tăng về kỹ thuật sống. Ở
hoàn cảnh tốt nhất, nó đã là cuộc
chinh phục cục bộ; những dị biệt về cách thức sống không
nhất thiết đi đôi với sự thay đổi về cách suy tư hay
quan điểm mong đợi.
Con người, bên dưới bên ngoài, vẫn còn là một con thú thuở
ban sơ;
bản năng của
con người phát triển trong một mô hình
văn minh phức tạp hơn, và
phản ứng của
con người trước các
tình thế đã khác xa với những
đáp ứng của cha ông,
tuy nhiên chính
bản năng thì không khác. Về
căn bản chúng vẫn không thay đổi
căn cứ vào thời gian của những tư liệu cổ nhất còn lại đến ngày nay.
Những
biến cố và
tình thế phát sinh do
sức mạnh tinh thần, còn
bản năng gây ra chúng vẫn không thay đổi,
tình hình và các
vấn đề về cơ bản cũng giống như vậy, dù chúng
xuất hiện trang phục khác. Do sự
giải thích sai lầm về thuyết
tiến hóa, tính
lạc quan dễ dãi hậu kỳ Darwin tin rằng
nhân loại đang vững bước tiến lên đã
bị loại bỏ.
Kiến thức, tuy có
tiến bộ, không thể
giải thoát tinh thần con người, dù có thể
giải thoát một số
ràng buộc tinh thần, mà
thực ra chỉ là sự thay thế chúng bằng những
ràng buộc khác. Lòng
ích kỷ,
tham ái và tham sống là những
yếu tố vẫn
chiếm ưu thế, do đó
kiến thức, không có sự bù đắp của
trí tuệ, hẳn là còn bị
lệ thuộc.
Nhìn thoáng qua những
bản kinh Nguyên Thủy sớm nhất cũng đủ cho thấy những khó khăn ngày nay
giống hệt như ở
Ấn Độ 2500 năm trước.
Sự
thôi thúc sống và sự
ham sống nơi tất cả
chúng sanh nẩy nở từ
tham ái, và
Đức Phật, lúc Ngài đạt
Giác Ngộ,
tuyên bố: "Ta đã lang thang
vô ích bao nhiêu lần sanh,
tìm cách xây dựng căn nhà; ta đã
đau khổ trong nhiều lần sanh
tái diễn. Nay, hỡi người
xây dựng căn nhà, nay đã
tìm ra được rồi, ngươi sẽ không còn phải
xây dựng nhà nữa". Căn nhà là
hình thức cụ thể, người xây là
tham ái,
bản năng kiên trì bám vào
đời sống, cho thấy tại sao những khó khăn đương đầu bởi
nhân loại ngày nay
căn bản vẫn giống như vậy, đã không được
như ý từ bình minh
lịch sử; chúng chỉ
hoán chuyển thành một loại chìa khóa khác, có ngụ ý khái quát thay vì một ít
cá nhân giới hạn hay bộ lạc.
Trong đời sống ngày nay,
tôn giáo, một thời là
yếu tố chính
trong lịch sử thế giới, đóng một phần
tương đối không quan trọng.
Thái độ của
con người hiện đại, tâm
hòa hợp với cái khác và
rõ ràng là những
công chuyện cần ngay và
thực tiễn hơn, được
quyết định bởi
tôn giáo chỉ trong
phạm vi huấn luyện
ban đầu gây
ấn tượng trên một sự
hiểu biết mềm dẻo, còn lại với
con người là chỉ để nhuộm màu
phong cảnh tinh thần. Giữa những khu rộng lớn của
con người trên
thế giới,
tôn giáo chính đã không còn
ảnh hưởng, những hành động được
cân nhắc và phán xét không bằng
tiêu chuẩn tôn giáo hay
đạo đức, mà là thắng hay bại từ
quan điểm hoàn toàn trần thế. Chúng đã không còn là "phải" hay "trái", và
trở thành đơn giản là
thực tiễn hay không
thực tiễn.
Đặc tính cơ hội đã được
thiết lập thay thế cái huyền bí trước đây như nguyên tắc
điều hành trong cách đối xử của
con người, do kết quả của sự suy thoái
niềm tin vào
kiếp sau với sự việc sau cùng với đặc trưng của một nền
công lý trừng phạt. Theo
ý nghĩa đó, điều này có thể được
chấp nhận như một bước tiến hướng về
duy lý luận; nhưng vì nhân tố
thúc đẩy đằng sau hành-động-cơ-hội vẫn nằm trong
bản năng của
con người man rợ, phần đóng góp bởi
lý trí chỉ là
phụ thuộc.
Lý trí được dùng
phục vụ những động cơ chủ yếu là không
hợp lý.
Trong một bài
thuyết giảng nổi tiếng trong Kinh Brahmajala của Bộ
Trường A Hàm,
Đức Phật nêu lên 62
hệ thống tôn giáo-triết lý thời bấy giờ, từ
chủ nghĩa lý tưởng siêu nghiệm đến
duy vật cao, Ngài
bác bỏ tất cả. Khả năng
tài tình về siêu hình của người
Ấn Độ chưa được Âu Châu biết vào thời các nhà
triết học kinh việnTrung Cổ, nhiều thuyết cổ
Bà La Môn đã biến mất, chỉ để lại tên những
học thuyết đối kháng và những
học thuyết được
nói nhiều đến đã được
chúng ta khám phá, một số
học thuyết này
giả trang như những phát triển mới nhất về
tư tưởng con người. Trong một bài
thuyết giảng khác, trong Kinh Apannaka của
Trung Bộ Kinh,
Đức Phật đề cập đến một trong những
học thuyết với những lời như sau: "Có một số
nhà tu khổ hạnh và
Bà La Môn nhất định cho rằng, không có gì được cho,
hy sinh hay dâng hiến, không có quả chín của hành động
thiện ác, không có
thế giới này mà cũng không có
thế giới khác, không có cha, cũng không có mẹ, hay
chúng sanh xuất hiện, trong
thế giới không có
nhà tu khổ hạnh mà cũng không có
Bà La Môn đã
quá vãng và theo
chính đạo, người trong số chính họ hiểu được th? giới với
kiến thức cao hơn và
tuyên bố điều đó...
Trong
trường hợp này,
hoàn toàn bình thường là những
nhà tu khổ hạnh và
Bà La Môn nhất định cho rằng không có quả chín của hành động
thiện ác, không có
thế giới khác, người dân sẽ bỏ ba điều thiện,
cư xử thiện trong hành động,
lời nói và
tư tưởng, và sẽ giữ và
thực hành ba điều ác,
cư xử tội lỗi trong hành động, trong
lời nói và trong
tư tưởng. Tại sao lại như vậy? Vì họ không nhìn thấy sự nguy hiểm, điên rồ và sa đọa của điều ác, và cũng chẳng nhìn thấy phước lành của sự
từ bỏ trần tục và sự
thanh tịnh của điều thiện. Dù quả thực có
thế giới khác,
quan điểm của họ là không có, đó là một
quan niệm sai lầm. Mặc dù có
thế giới khác, họ
quyết định không có, do đó họ
giải quyết sai. Mặc dù đương nhiên có
thế giới khác, họ khẳng
định không có, đó là lời
tuyên bố sai. Mặc dù đương nhiên có
thế giới khác, họ nói không có, và hành động ngược lại với các bậc
A la hán hiểu biết về
thế giới khác. Mặc dù đương nhiên có
thế giới khác, họ dạy người khác không có, đó là lời dạy
học thuyết sai. Với
sự giáo dục của
học thuyết sai, họ tâng bốc họ và
miệt thị người khác. Như vậy
đức hạnh trước đây của họ bị
tiêu diệt và
vô luân phát xuất, đưa đến kết quả
quan niệm sai,
giải quyết sai,
lời nói sai,
giáo dục học thuyết sai
chống lại với
học thuyết cao thượng, tự tâng bốc mình và
miệt thị người khác. Cóù nhiều điều
bất thiện cũng phát xuất do
quan niệm sai lầm.
"Trong
trường hợp này, người chủ hộ,
thông minh suy nghĩ như sau:
Nếu không có
thế giới khác, xác thân bị
tiêu hủy sẽ được
an toàn (bởi sự hủy diệt), nhưng nếu có
thế giới khác,
cá nhân ấy với sự
tiêu hủy của xác thân
sau khi chết sẽ
tái sanh vào một
cảnh giới bất hạnh đau khổ. Nếu bạn thích, hãy
giả sử không có
thế giới khác hay
giả sử những
lời nói của những
nhà tu khổ hạnh và
Bà La Môn là đúng. Nhưng
cá nhân ấy bị
quở trách bởi người trí ngay trong lúc sống này vì nắm
quan niệm sai và là một
chúng sanh theo
chủ nghĩa hư vô. Nhưng nếu thực sự có
thế giới khác,
cá nhân ấy ở trong đẳng cấp
bất hạnh trong cả hai
trường hợp, vì bị
quở trách ngay trong lúc sống bởi người trí vì nắm giữ
quan niệm sai, và với xác thân bị
tiêu hủy sau khi chết sẽ
tái sanh vào
cảnh giới bất hạnh. Như vậy theo và ôm ấp
học thuyết đặc biệt này
hết sức sai lầm; người đó
cố chấp một chiều, và
từ bỏ địa vị tốt lành".
"Trong
trường hợp điều đó có thể xẩy ra là những
nhà tu khổ hạnh và
Bà La Môn xác nhận và cho là có quả chín từ hành động
thiện ác, có
một thế giới khác, họ sẽ bỏ ba điều ác, bỏ
cư xử tội lỗi trong hành động,
lời nói và
tư tưởng, và sẽ nghe theo và
thực hành ba điều thiện,
cư xử thiện trong hành động,
lời nói và
tư tưởng. Tại sao vậy? Vì họ nhìn thấy cái nguy hiểm, điên rồ và sa đọa của điều ác, và nhìn thấy những phước lành của sự
từ bỏ trần tục và sự
thanh tịnh của điều thiện. Như vậy, điều
tội lỗi trước đây của họ bị
tiêu diệt và
đức hạnh được tạo ra, và đưa đến
chánh kiến,
giải quyết đúng,
chánh ngữ,
giáo dục trong
học thuyết đúng này không ngược lại với
học thuyết cao quý, tránh được tự cao tự đại và
miệt thị người khác. Có rất nhiều điều thiện cũng phát sinh từ
chánh kiến của họ".
Thuyết giảng về
học thuyết của Nghiệp,
định luật khoa học về hành động và
phản ứng cho
một sinh viên
Bà La Môn tên Subbha,
Đức Phật đề cập đến một
vấn đề hết sức nổi bật trong
tư tưởng này, đó là sự
bình đẳng của
con người:
Sự
biểu lộ bất
bình đẳng giữa
chúng sanh lúc nào cũng là nét
đặc biệt trong đời sống
con người, và do đó
Phật Giáo giải thích cái dường như bất
bình đẳng mà
con người phải
chịu đựng từ lúc sanh ra.
Học thuyết về Nghiệp đưa ra
đời sống và
vũ trụ dưới ánh sáng của một
định luật hợp lý và
vô tư, hơn thế nữa một
định luật đúng theo nguyên tắc khoa học về
nguyên nhân và
hậu quả.
Khi được hỏi về
phúc lợi của
quốc gia và
cộng đồng,
Đức Phật đặc biệt nhắc đến những người Vajjians, một bộ lạc bị
đe dọa bởi những bộ lạc lân bang. Ngài nói: "Này
A Nan,
chừng nào người Vajjians thường
tụ tập lại đông đủ để đoàn kết, chừng đó họ
phồn thịnh, và không
suy tàn.
Chừng nào người Vajjians tập họp trong
hòa hợp, và giải tán trong
hòa hợp,
chừng nào họ
phục vụ trong
hòa hợp,
chừng nào họ
ban hành đúng cách bất cứ
đạo luật cải cách nào, hay hủy bỏ một
đạo luật đã được
thiết lập, với luật cũ của người Vajjians
ban hành mà họ vẫn
trân trọng, họ
quý mến và
kính trọng những người già, coi những người già
đáng giá và
vâng lời họ,
chừng nào những người
phụ nữ và những trinh nữ sống
hòa hợp không bị
ép buộc hay bắt cóc, bao lâu người Vajjians vẫn
tôn trọng,
tôn sùng,
quý mến và
thờ phụng đền thờ, bên trong cũng như bên ngoài,
chừng nào họ không
cho phép tập tục dâng hiến, đã được đưa ra và
thực hiện vô ích;
chừng nào họ giữ tập tục
quan sát trông nom các vị
A la hán được
duy trì tốt đẹp, thì họ
tự do vào hay đã vào
cảnh giới sung sướng; này
A Nan chừng nào họ giữ được những nguyên tắc ấy thì người Vajjians sống trong
thịnh vượng và không sống trong suy tàn".
Cách mạng thay những
lời Phật dạy trong
ý nghĩa thay thế
luật lệ đạo đức, và
thiết lập nguyên tắc hạnh kiểm thay vì
nghi thức chính thức của người
Bà La Môn đương thời- điểm đặc trưng
nổi bật rõ ràng và trước sau như một qua những bài
thuyết giảng của Ngài-
hiển nhiên trong những
vấn đề thế tục, Ngài tán thành việc
gìn giữ tất cả những tập tục mang
lợi ích vào lúc đó, và chỉ lên án những tập tục nào ngăn chặn sự
tiến bộ xã hội, chẳng hạn như chế độ đẳng cấp,
tinh thần tối tăm, như tầm quan trọng của thầy tu trong lễ hiến tế và
khổ hạnh cực đoan mà trong
Phật Giáo coi như "dị đoan". Về
vấn đề đẳng cấp, như
chúng ta đã thấy,
Đức Phật thừa nhận nét
đặc biệt là không thể tách rời khỏi được từ sự hành hoạt của Nghiệp, điều mà
Đức Phật bác bỏ giáo lý của
Bà La Môn cho đẳng cấp là từ nguồn
thần thánh, và
bác bỏ quan niệm vật linh cho bốn đẳng cấp chính trong
xã hội Ấn Độ bắt nguồn từ những bộ phận khác nhau trên cơ thể
con người Bà La Môn. Điều này được trình bày ngắn gọn trong những câu kệ trong Kinh Dhammapada (
Pháp Cú) nói rằng
Bà La Môn là
Bà La Môn không phải do sanh ra đã là
Bà La Môn mà bởi sự
thanh tịnh của
tư tưởng,
lời nói và hành động. "Chẳng phải vì núm tóc, chẳng bằng sanh, mà một người trở nên
Bà La Môn, nhưng ai
hiểu biết chân thật, và
chánh Pháp, kẻ đó là một người
thanh tịnh, kẻ đó mới là
Bà La Môn". (
Kinh Pháp Cú, Câu 393). Điều đáng
ghi nhận là đề cập về câu hỏi từ một góc độ
thuần túy xã hội,
Đức Phật đặt để
Giai Cấp Khattiya (cao thượng) là đẳng cấp cao nhất. Sự
phân biệt chỉ có ở bình diện
trần thế, nhưng với những ai
từ bỏ trần tục, không có sự
phân biệt,
giá trị của người
thánh thiện chỉ đo lường được bởi
đức hạnh của người ấy.
Nguyên tắc này được
áp dụng rộng rãi hơn về những
vấn đề chủng tộc và
quốc gia ngày nay. Trong
Phật Giáo không có
vấn đề tôn sùng chủng tộc thượng đẳng hay
thù địch. Mỗi người đều có
giá trị cá nhân riêng của mình, không kể đến
chủng tộc hay
kiến thức văn hóa.
Vấn đề nhân quyền ràng buộc chặt chẽ với
trách nhiệm cá nhân. Trong mối bận tâm hiện nay với quyền của
cộng đồng và
cá nhân, có một khuynh hướng không chú ý tới
thực tế là khái niệm về quyền cũng hàm ý đến khái niệm về bổn phận và
nhiệm vụ. Cũng cùng trong
thời gian Đức Phật thuyết giảng tại Ấn, Đức
Khổng Tử ở Trung Hoa
tuyên bố chân lý này trong
học thuyết duy lý về
nhân loại của Ngài. Trong khi Đức
Khổng Tử vạch ra
quan niệm về nhà cầm
quyền lý tưởng,
nhân từ,
công bằng và
lo lắng cho
phúc lợi người dân của Ngài, thì
Đức Phật thay
đổi hướng tư tưởng của các
đệ tử ra khỏi
lý tưởng cổ xưa với
nhiệm vụ áp đặt trong
tôn giáo chỉ là
thực hành nghi lễ thành
lý tưởng cao cả trong bổn phận người
cư sĩ, cùng
trách nhiệm đối với người khác.
Trong Kinh Sigalovada, Ngài
thuyết giảng cho một người
Bà La Môn trẻ tuổi theo lời
dạy bảo của người cha
lễ lạy sáu hưóng, đông, tây nam bắc, bên trên và bên dưới với quần áo và tóc đẫm nước và đan tay vào nhau đưa lên cao. " Này người trẻ tuổi kia trong
tôn giáo của người Aria, không phải lễ sáu hướng là như vậy". Rồi
Đức Phật bắt đầu giảng cho người trẻ tuổi, Ngài
giải thích lễ sáu hướng phải được hiểu trong
ý nghĩa đạo đức. Thứ nhất là sự
mô tả chung theo thứ tự những thứ cần phái tránh vì dẫn đến tan nát và ô danh, mà dẫn đến
đức hạnh phải trau dồi đem
hạnh phúc và
thịnh vượng. Bài
thuyết giảng tiếp tục". "Này người trẻ tuổi,
đệ tử Ariyan vinh danh và
bảo vệ sáu hướng như thế nào? Sau đây là sáu hướng phải nhìn vào:
Cha mẹ về Phương Đông, Thầy học về Phương Nam, Vợ và con về Phương Tây, bè bạn và người
đồng hành về Phương Bắc, đầy tớ và người làm công về phía Dưới,
đạo sư và các bậc thánh về phía Trên".
Theo sau là lời
giải thích chi tiết bổn phận của một người đối với mỗi hạng người này vì họ đứng trong tương quan với chính mình, tổng quát của bài giảng về
đạo đức xã hội không gì
so sánh được về sự
phóng khoáng và cao thượng về
quan niệm, cũng như về sự khả thi phổ thôngõ. Hai
thí dụ sau đây
chứng tỏ ý tưởng về sự
nhân nhượng ra sao trong bổn phận được
nhấn mạnh.
"Một thành viên thị tộc nên giúp đỡ bạn bè và
cộng sự theo năm
phương cách như một cách kính ngưỡng Hướng Bắc, do đó là nên
rộng lượng,
lịch sự và
nhân từ, đối xử với họ như chính đối với mình, và
chân thật trong
lời nói. Trong năm đường này Hướng Bắc có sự giúp đỡ như thế, bạn bè và
cộng sự viên sẽ yêu mến người ấy; họ bao che người ấy khi người ấy không
đề phòng,
bảo vệ tài sản của người ấy; họ
trở thành nơi nương tựa khi nguy hiểm, họ không
bỏ rơi lúc khó khăn, và họ
quan tâm đến
gia đình người ấy. Phương Bắc là như thế bởi người ấy được
che chở và an toàn".
Một chủ nhân Ariyan nên giúp đỡ tôi tớ và người làm công theo năm
phương cách như một cách kính ngưỡng Phương Hạ, đó là nên
sai khiến họ làm việc vừa với sức họ,
cung cấp họ
thực phẩm và tiền lương, giúp đỡ họ khi đau yếu, chia sẻ với họ về những vụ khó xử bất thường và
ban cho họ
giải trí thích hợp. Trong những
phương cách này, được giúp đỡ bởi chủ nhân, người đầy tớ và người làm công
thương yêu ông chủ bằng năm
phương cách: Họ dạy sớm trước chủ, họ đi nằm nghỉ sau chủ, họ
mãn nguyện với những gì chủ cho, họ làm việc giỏi, và họ lan truyền lời
ca ngợi và
danh thơm cho ông chủ. Phương Hạ là như thế,
che chở chủ nhân và làm cho chủ nhân được an toàn".
Cách đối xử của
Đức Phật với
chủ đề này là đường lối điển hình mà
Đức Phật thường dùng niềm tin tôn giáo đã ù
hiện hữu và đưa vào một
tinh thần hay
ý nghĩa đạo đức cao hơn. Ngài
truyền đạt chân lý cao cả của Ngài qua sự chiết trung của
truyền thống đương thời. Phải nhớ rằng
Đức Phật không dạy Pháp mới. Ngài
thuyết giảng "Chân Lý Cổ Xưa" của những
Đức Phật trước Ngài. Mặc dù
Giáo Lý của Ngài đã chết trong ký ức của
con người hay chỉ còn
tồn tại dưới
hình thức bên ngoài còn
ý nghĩa bên trong đã mất, nhưng Pháp
hoàn vũ không thay đổi vẫn hãy còn, và còn mãi nguyên tắc
căn bản về
nguyên nhân và
hậu quả chi phối hiện tượng cuộc sống. Những gì của
Đức Phật có thể nói là Ngài
xuất hiện để
chu toàn Pháp, để
tuyên bố rõ ràng pháp trong
tinh thần ý nghĩa cao nhất.
Chúng ta hiện đứng trước bước ngoặt của
lịch sử, sự
lựa chọn ở nơi
chúng ta nên hay không chọn
con đường dẫn đến
tiến bộ hay chọn
con đường dẫn đến
tiêu diệt.
Ít nhất nhân loại đã có đủ
kinh nghiệm cho thấy
kiến thức khoa học và quyền làm chủ
vũ trụ vật chất không phải là cùng một điều trong
văn minh tiến bộ. Mắt
chúng ta phải
quay về hướng mới nếu
chúng ta định tìm dường ra khỏi thế bế tắc. Nhưng,
chúng ta giới hạn bởi đường vòng của
không gian -
thời gian vật lý, cho nên
chúng ta bị bao vây bởi
phạm vi của các khái niệm
liên quan. Cái mới nhất là cái cũ
vô cùng tận; Pháp
bất diệt,
Chân Lý đời đời vượt qua cái
thế giới nhỏ bé
vật chất.
Chúng ta phải
quay về, trong khiêm nhường và
hy vọng, vì bệnh cổ phải tìm thuốc cổ để trị. Nhưng trong
lãnh vực chân lý, không có cái gì cũ và cũng không có cái gì mới.
Mặt trời lặn buổi chiều ở Phương Tây sẽ mọc buổi sáng ở Phương Đông.