PHẬT DẠY VƯỢT QUA THIỆN ÁC
Cư Sĩ Nguyên Giác
Phật Tử vẫn thường nằm lòng với câu 183 trong Kinh Pháp Cú, “Đừng làm ác, hãy làm thiện, giữ tâm trong sạch. Đó là lời chư Phật.” Nơi đây, hãy suy nghĩ về một câu hỏi xa hơn: có phải rằng Niết Bàn, cảnh giới mà Phật gọi là không tham sân si, không sanh diệt, không trở thành, không tạo tác... cũng là cảnh giới xa rời thiện ác? Từ đây, câu hỏi sẽ khảo sát trong bài này sẽ là, có phải Đức Phật cũng dạy pháp vượt qua thiện ác?
Để dễ tiếp cận, chúng ta sẽ nêu câu hỏi cụ thể, rằng “Ai đã vượt qua cả thiện và ác?” và các trích dẫn nơi đây sẽ chỉ tập trung riêng vào Kinh Pháp Cú (Dhammapada).
Đọc kỹ Kinh Pháp Cú, chúng ta sẽ thấy Đức Phật:
- nói trong đoạn 39 rằng người đã
buông bỏ cả thiện và ác thì không
sợ hãi gì;
- nói trong đoạn 97 rằng người đã
phá hủy các
nhân duyên cho mọi
pháp thiện và ác là người
tối thắng;
- nói trong đoạn 126 rằng người không trụ vào tất cả
pháp thiện và ác thì
thành tựu Niết Bàn;
- nói trong đoạn 267 rằng người đã ném bỏ hết mọi
pháp thiện và ác thì được gọi là một vị sư;
- và nói trong đoạn 412 rằng người
vượt qua sự
trói buộc của mọi
pháp thiện và ác thì được Phật gọi là một vị
Bà La Môn.
Dưới đây sẽ trích dẫn 5 bản dịch Kinh Pháp Cú sau: 2 bản Việt dịch bởi HT Thích Thiện Siêu và HT Thích Minh Châu, 2 bản Anh dịch của Thanissaro Bhikkhu và Acharya Buddharakkhita (các đoạn dẫn ra, sẽ được dịch ra Việt ngữ trong bài này). Các liên kết mạng cho 4 bản này sẽ ghi ở cuối bài này. Riêng trường hợp bản của Ngài Thiện Siêu có kèm bản Anh dịch của Đại Sư Narada, mà chúng ta sẽ dẫn ra chỉ một câu trong đoạn 97 của Pháp Cú. Riêng Ngài Thiện Siêu còn cẩn thận dịch 2 cách, trước là dịch nghĩa theo văn xuôi, rồi mới chuyển thành văn vần cho dễ tụng, dễ nhớ.
Sau đây là các đoạn Pháp Cú 39, 97, 126, 267 và 412.
Đoạn 39.
Bản dịch HT Thích Thiện Siêu:
39. Người tâm đã
thanh tịnh, không còn các hoặc loạn, vượt trên thiện và ác, là người
giác ngộ chẳng
sợ hãi.
39. Người
tâm không ái dục,
Không bị
sân nhuế hành,
Vượt trên mọi
thiện ác,
Tỉnh giác, hết sợ quanh.
Bản dịch HT Thích
Minh Châu:
39.
Tâm không đầy tràn dục,
Tâm không (hận) công phá,
Đoạn tuyệt mọi
thiện ác,
Kẻ tỉnh không
sợ hãi.
Bản dịch Thanissaro:
39. For a person of unsoddened mind, unassaulted awareness, abandoning merit & evil, wakeful, there is no danger no fear. (Dịch: Với người có
tâm không ái dục, có tuệ không
dao động, xả ly thiện và ác,
tỉnh thức, sẽ không còn nguy hiểm, không còn
sợ hãi.)
Bản dịch Acharya Buddharakkhita:
39. There is no fear for an awakened one, whose mind is not sodden (by lust) nor afflicted (by hate), and who has gone beyond both merit and demerit. (Dịch: Sẽ không còn nỗi sợ nào cho người đã
tỉnh thức, người có
tâm không nhiễm ái dục, không nhiễm
sân hận, và người đã
vượt qua cả thiện và ác.)
Đoạn 97.
Bản dịch HT Thích Thiện Siêu:
97. Những vị
A la hán chẳng còn phải tin ai, đã thấu hiểu đạo
vô vi, dứt trừ
vĩnh viễn nguyên nhân cùng
quả báo ràng buộc, lòng
tham dục cũng
xa lìa; Thật là bậc
Vô thượng sĩ.
97. Không tin nơi người khác,
Thông đạt lý vô sanh,
Cắt đứt mọi
hệ lụy,
Triệt tiêu các mối manh (Bản của Ananda: who has put an end to occasion [of good and evil]; Dịch: người đã
kết thúc mọi
nhân duyên cho thiện và ác.)
Tận diệt mọi
tham ái,
Bậc
thượng sĩ tu hành.
Bản dịch HT Thích
Minh Châu:
97. Không tin, hiểu
vô vi.
Người cắt mọi
hệ lụyCơ hội tận, xả ly
Vị ấy thật
tối thượng.
Bản dịch Thanissaro:
97. The man faithless / beyond conviction; ungrateful / knowing the Unmade; a burglar / who has severed connections; who's destroyed his chances / conditions; who eats vomit: / has disgorged expectations: the ultimate person. (Dịch: Người không còn cần
đức tin / đã
vượt qua tín điều; không còn gì để bất đồng / hiểu được cái Không Tạo Tác; người đã
phá ngục / người đã cắt mọi
nhân duyên; người đã hủy các
cơ duyên / các
điều kiện; người đã nhai thuốc để ói mửa [xả ly]: / người đã xả ly mọi
mong đợi: bậc
tối thượng.)
Bản dịch Acharya Buddharakkhita:
97. The man who is without blind faith, who knows the Uncreated, who has severed all links, destroyed all causes (for karma, good and evil), and thrown out all desires — he, truly, is the most excellent of men. (Dịch: Người không còn
niềm tin mù quáng, người biết cái Không Tạo Tác, người cắt mọi
liên hệ,
phá hủy mọi
nhân duyên (với nghiệp là, thiện và ác), và xả ly mọi
tham ái -- người đó thực sự là bậc
tối thượng.)
Đoạn 126
Bản dịch HT Thích Thiện Siêu:
126.
Con người sinh ra từ
bào thai, nhưng kẻ ác thì đọa vào
địa ngục, người
chính trực thì sinh lên
chư Thiên, còn cõi
Niết bàn chỉ dành riêng cho những ai đã diệt sạch nghiệp
sanh tử.
126. Một số sanh
bào thai,
Kẻ ác đọa ngục hình,
Người hiền lên
thiên giới,
La hán chứng
vô sinh.
Bản dịch HT Thích
Minh Châu:
126. Một số sinh
bào thai,
Kẻ ác sinh
địa ngục,
Người thiện lên
cõi trời,
Vô lậu chứng
Niết Bàn.
Bản dịch Thanissaro:
126. Some are born in the human womb, evildoers in hell, those on the good course go to heaven, while those without effluent: totally unbound. (Dịch: Một số sẽ sinh vào
bào thai [
cõi người], kẻ ác xuống
địa ngục, người
thiện sinh lên trời, người không nhiễm nghiệp: sẽ vào cõi
vô sanh.)
Bản dịch Acharya Buddharakkhita:
126. Some are born in the womb; the wicked are born in hell; the devout go to heaven; the stainless pass into Nibbana. (Dịch: Một số sinh vào
bào thai; kẻ ác sinh vào điạ ngục; người
thiện tín sẽ lên trời; người
vô nhiễm sẽ vào
Niết Bàn.)
Đoạn 267
Bản dịch HT Thích Thiện Siêu:
267. Bỏ thiện và bỏ ác,
chuyên tu hành
thanh tịnh, lấy “Biết”
chánh pháp mà ở đời, mới thật là
Tỷ kheo.
267. Ai
siêu việt thiện ác,
Sống
đức hạnh tuyệt vời,
Thấu triệt được lẽ đời,
Là
tỳ kheo đích thực.
Bản dịch HT Thích
Minh Châu:
267. Ai
vượt qua thiện ác,
Chuyên sống đời
Phạm Hạnh,
Sống thẩm sát ở đời,
Mới xứng danh
tỷ kheo.
Bản dịch Thanissaro:
267. But whoever puts aside both merit & evil and, living the chaste life, judiciously goes through the world: he's called a monk. (Dịch: Bất kỳ ai
vượt qua thiện ác, sống được đời
thanh tịnh,
cẩn trọng vượt qua thế giới này: vị đó là một
nhà sư.)
Bản dịch Acharya Buddharakkhita:
267. Whoever here (in the Dispensation) lives a holy life, transcending both merit and demerit, and walks with understanding in this world — he is truly called a monk. (Dịch: Bất kỳ ai nơi đây [trong
giáo đoàn] sống đời
thánh hạnh,
vượt qua cả thiện và ác, và đi với
hiểu biết trong
thế giới này -- vị đó
chân thực là một
nhà sư.)
Đoạn 412
Bản dịch HT Thích Thiện Siêu:
412. Nếu ở
thế gian này
không chấp trước thiện và ác,
thanh tịnh không ưu lo, đó gọi là
Bà la môn.
412. Người
siêu việt thiện ác,
Dứt
phiền não buộc ràng,
Thanh tịnh sống
thênh thang,
Bà la môn ta gọi.
Bản dịch HT Thích
Minh Châu:
412. Người sống ở đời này
Không nhiễm cả
thiện ác,
Không sầu, sạch không bụi
Ta gọi Bà-la-môn.
Bản dịch Thanissaro:
412. He has gone beyond attachment here, for both merit & evil — sorrowless, dustless, & pure: he's what I call a brahman. (Dịch: Người đã
vượt qua mọi dính mắc nơi đây, xả ly cả
thiện ác – không
buồn phiền,
không vương bụi & giữ
trong sạch: Ta gọi đó là một
Bà La Môn.)
Bản dịch Acharya Buddharakkhita:
412. He who in this world has transcended the ties of both merit and demerit, who is sorrowless, stainless and pure — him do I call a holy man. (Dịch: Người nào trong cõi này đã
vượt qua cả thiện và ác, người không buồn,
vô nhiễm, và
thanh tịnh – Ta gọi đó là một
thánh nhân.)
Ngôn ngữ vượt qua thiện ác nêu trên của Kinh Pháp Cú, sau này được giữ làm pháp an tâm của Tổ Sư Thiền, trong đó Lục Tổ Huệ Năng nói cụ thể trong Pháp Bảo Đàn Kinh -- bản Việt dịch của Minh Trực Thiền Sư, nơi phẩm Định Huệ sẽ trích như sau.
Nhưng thế nào là pháp của Lục Tổ Huệ Năng:
“...Chư Thiện tri thức, pháp môn của ta đây từ trên truyền xuống, trước hết lập Không Niệm (Vô Niệm) làm tông, Không Tướng (Vô Tướng) làm thể, Không Trụ (Vô Trụ) làm gốc. Không niệm nghĩa là trong khi niệm, lòng không động niệm. Không tướng nghĩa là đối với sắc tướng, lòng lìa sắc tướng. Không trụ có nghĩa là đối với các điều lành dữ, tốt xấu ở thế gian, cùng với kẻ thù, người thân, đối với lúc nghe các lời xúc phạm, châm chích, khinh khi, tranh đấu, Bổn tánh con người xem cả thảy như không không, chẳng nghĩ đến việc đền ơn trả oán. Trong niệm niệm lòng không nghĩ đến các cảnh mình đã gặp trước. Nếu niệm trước, niệm nay, niệm sau, niệm niệm nối tiếp nhau chẳng dứt, thì gọi là bị buộc ràng. Đối với các pháp, niệm niệm lòng không trụ vào đâu thì khỏi bị buộc ràng. Ấy là lấy Không Trụ làm Gốc...”(hết trích)
Như thế, ở cái nhìn này, Pháp Bảo Đàn Kinh là một ấn bản mới của Kinh Pháp Cú, và lời Đức Phật dạy về pháp xả ly mọi thiện ác, lành dữ, tốt xấu, ân oán buộc ràng... đã được Ngài Huệ Năng diễn lại một cách sinh động.
GHI CHÚ LIÊN KẾT:
Kinh Pháp Cú (Dhammapada). Bản Việt dịch của HT Thích Thiện Siêu và bản Anh dịch của Đại sư Narada: http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-69_4-10977_5-50_6-1_17-35_14-1_15-1/#nl_detail_bookmark Bản Việt dịch của HT Thích Minh Châu: http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-69_4-8448_5-50_6-1_17-34_14-1_15-1/ Bản Anh dịch của Thanissaro Bhikkhu: http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/kn/dhp/dhp.intro.than.html Bản Anh dịch của Acharya Buddharakkhita: http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/kn/dhp/dhp.intro.budd.html Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Định Huệ: http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-58_4-648_5-50_6-2_17-88_14-1_15-1/#nl_detail_bookmark http://old.thuvienhoasen.org/kinhphapbaodan-minhtruc-04.htm
楥