BỬU TẠNG LUẬN
Tác Gỉa: Đại Sư Tăng Triệu - Việt dịch: Hoà Thượng Thích Duy Lực
Xuất Bản Saigon, Việt Nam 2001
PHẨM LY VI THỂ TỊNH
(thứ nhì)
Nhập là ly (lìa), xuất là vi (tế). Ngoài ly biết nhập thì
ngoại trần chẳng có chỗ dựa, trong vi biết xuất thì
vọng tâm chẳng có chỗ tạo tác, trong tâm chẳng tạo tác thì
chư kiến (đủ thứ
kiến chấp) chẳng thể
chướng ngại,
ngoại trần chẳng chỗ dựa thì
vạn vật chẳng thể
trói buộc.
Vạn vật chẳng thể trói thì tưởng niệm chẳng đuổi theo cảnh,
chư kiến chẳng
chướng ngại thì
tịch diệt bất tư nghì. Sao gọi là thể tịnh? Vì
bản thể tự
ly vi vậy.
Nói về
thể nhập nên gọi là ly, nói về sự dụng nên gọi là vi, dung hợp thành một thì chẳng ly chẳng vi. Thể ly thì chẳng thể nhiễm, chẳng nhiễm nên chẳng phải tịnh, thể vi thì chẳng thể có, chẳng có nên chẳng chỗ dựa,
vậy thì dùng mà chẳng có, tịch mà chẳng không. Chẳng không nên chẳng phải đoạn, chẳng có nên chẳng phải thường.
Cái tánh của
ly vi chẳng lấy chẳng bỏ, chẳng tu chẳng học, chẳng phải xưa không mà nay có, chẳng phải xưa có mà nay không.
Cho đến một pháp chẳng sanh, một pháp chẳng diệt, chẳng
phụ thuộc nơi
tam giới, chẳng
biến hóa theo
lục đạo, chẳng
sửa đổi theo ngu trí, chẳng xoay chuyển theo chơn vọng,
phổ biến bình đẳng, tất cả
viên mãn gọi là một
đại pháp giới, cũng gọi là nguồn gốc của sự ứng
cơ giáo hóa. Kẻ mê thì uổng tu nhiều kiếp, kẻ ngộ thì ngay đó tịch lặng, hễ có sự
ham muốn thì chẳng thấy cái ly, hễ có
sự tạo tác thì chẳng thấy cái vi. Kẻ chẳng thấy vi tức là bên trong nổi
ác kiến, kẻ chẳng thấy ly tức là bên ngoài khởi
trần lao, ngoài khởi
trần lao nên bị cảnh ma nhiễu loạn, trong nổi
ác kiến nên bị
tà kiến mê hoặc, trong ngoài đã có
nhân duyên sanh khởi thì chơn
nhất tự ẩn.
Vì vậy kẻ mê
ly nhiễm theo vọng gọi là
phàm phu, kẻ mê nhiễm ly theo vọng gọi là
nhị thừa, kẻ
thông đạt bổn tánh của ly gọi là
Bồ tát, kẻ
liễu đạt tam thừa chẳng khác gọi là
bình đẳng chơn Phật. Nhưng lý ấy
thâm sâu,
ngôn thuyết chẳng thể
hiển bày,
hình tướng chẳng thể
tỏ rõ, muốn tỏ
hình tướng thì mê nơi
vô tướng, muốn hiển
ngôn thuyết thì mê nơi
vô thuyết, nếu chẳng hiển chẳng tỏ thì
đại nghĩa khó thông, nên
huyền đạo ly vi, chơn lý khó tả.
Sở dĩ nói ly, là vì
bản thể chẳng hợp với vật, cũng chẳng lìa vật. Như
gương sáng hiện bóng vạn tượng, mà
gương sáng chẳng hợp với bóng, cũng chẳng lìa bóng, cũng như
hư không,
dung nạp tất cả mà chẳng hợp chẳng lìa,
ngũ sắc chẳng thể
ô nhiễm,
ngũ âm chẳng thể nhiễu loạn,
vạn vật chẳng thể
trói buộc, sum la chẳng thể hỗn tạp nên gọi là ly vậy.
Sở dĩ nói vi là vì
diệu thể vô tướng, vô hình
vô sắc,
ứng dụng mọi thứ mà chẳng thấy
dung mạo, gồm đủ
vạn năng mà chẳng hiện
công đức, mắt nhìn chẳng thấy, lắng tai chẳng nghe, mà sẵn đủ
hằng sa công dụng, chẳng thường chẳng đoạn, chẳng lìa chẳng tan nên gọi là vi vậy.
Hai chữ ly và vi là
pháp yếu của đạo, sự
cảm giác của
lục căn chẳng
dấu tích gọi là ly, muôn ngàn
ứng dụng chẳng có ngã gọi là vi. Vi tức là ly, ly tức là vi, vì nói theo
căn trần nên
giả lập hai tên, mà
bản thể vốn là một.
Người
học đạo đều muốn dứt
phiền não, cầu
bồ đề, bỏ
tiểu thừa, vào
đại thừa, nhưng trong
diệu lý thật chẳng có những việc này.
Bản thể ly thì vốn chẳng có
phiền não để dứt, chẳng có
tiểu thừa để bỏ;
bản thể vi thì chẳng có
bồ đề để cầu, chẳng có
đại thừa để vào. Tại sao? Vì chẳng một pháp có thể
tương ứng vậy. Cho nên bậc thánh chẳng dứt vọng, chẳng
chứng chơn,
ứng dụng vạn năng mà chẳng
tác ý. Nếu thật muốn
cầu pháp thì phải
vô sở cầu, vì chỗ
thực tế vốn
vô danh, cũng chẳng cần mong cầu ấy gọi là
diệu giác.
Nói ly và vi chẳng phải
vọng tâm có thể biết, chẳng phải
tà trí có thể hiểu,
vọng tâm tức là
lục thức,
tà trí tức là
nhị trí (
quyền trí và
thật trí), vì
bản thể chơn nhất nên
nhị trí chẳng thể hiểu, vì
bản thể vô vật nên
lục thức chẳng thể biết; chẳng một pháp từ bên ngoài đến, chẳng một pháp từ bên trong ra, cũng chẳng một pháp do
hòa hợp mà sanh, nên gọi là thái thanh, cũng gọi là chơn tinh (
tự tánh). Vì
bản thể lìa tất cả
tri kiến nên chẳng thể dùng
ý thức để đo lường, vì
bản thể lìa tất cả số lượng nên chẳng thể dùng
lời nói diễn tả, cho nên
Duy Ma Cật im lặng,
Như Lai tịch nhiên, dù nói các thừa, đều là
phương tiện để
khai thị ngộ nhập tri kiến Phật.
Nói biết là biết ly, nói thấy là thấy vi, nên Kinh nói "thấy vi gọi là Phật, biết ly gọi là pháp". Hễ biết ly thì chẳng lọt vào tất cả
phiền não, hễ thấy vi thì chẳng lọt vào tất cả
hư vọng; chẳng có
hư vọng thì lý chơn nhất hiện, chẳng có
phiền não thì
sáng tỏ tự nhiên. Diệu nghĩa của
ly vi chẳng một chẳng hai,
ngôn thuyết chẳng thể nói, phải dùng
thâm tâm thể cứu mới được
sáng tỏ hiện tiền. Người
học đạo chẳng nên quên cái đạo
ly vi, đuổi theo tình thức,
lời nói trái với tâm thì
nghĩa lý chẳng thật. Nếu đối cảnh
vô tâm, gặp duyên chẳng động,
dụng công chẳng kể ngày đêm, chẳng màng đến động tịnh,
chú tâm một chỗ, mới có thể khế ngộ, hễ có sự
lấy bỏ, vọng có sở tu, vọng có sở chứng, đều chẳng vào được chơn thật, ấy là trái nghĩa
ly vi, hủy pháp
đại đạo.
Hễ chơn thì chẳng
cần cầu, vì bên ngoài
vô sở đắc, hễ thật thì chẳng
cần tu, vì bên trong
vô sở chứng, hễ không có
vọng tưởng thì đạo
ly vi hiện tiền. Ly là trống rỗng, vi là nhiệm mầu,
hư vô tịch lặng nên gọi là
ly vi.
Bậc thánh
sở dĩ không có
vọng tưởng vì
thông đạt sự ly,
diệu dụng vô cùng vì liễu triệt sự vi, vi thì
vô tâm, ly thì vô thân,
thân tâm đều mất, linh trí độc tồn, tuyệt nơi
hữu vô, bặt nơi
năng sở,
pháp giới tự nhiên,
công dụng sáng tỏ mà
vô sanh. Nên bậc thánh ở nơi
vô vi mà
tùy cơ hóa độ, dùng
giáo pháp chẳng cần
ngôn ngữ mà âm thầm khế hợp chơn lý, tịch lặng chẳng thấy tướng người, cho nên được
dung thông đại tượng, bao hàm
vạn vật, cũng như
hư không đầy đủ khắp nơi; kẻ mê nơi
vô ngã mà lập ngã thì bên trong
sanh khởi ngã đảo (
ngã chấp điên đảo), trong sanh
ngã đảo thì thánh lý bị kẹt; thánh lý bị kẹt thì bên ngoài có
sở lập, ngoài có
sở lập thì trong ngoài đều bị
chướng ngại. Trong ngoài
chướng ngại thì
vật lý chẳng thông, bèn vọng khởi
lưu chuyển luân hồi, sự
lưu chuyển hỗn độn nơi
tịch chiếu nên đại tượng chìm mất, chơn nhất nhiễu loạn; chơn nhất nhiễu loạn thì
tà kiến vọng khởi, nên bị trôi lăn
trong vòng sanh tử, vì thế nên
giả lập cái luận
ly vi để
tỏ rõ thể dụng nhiệm mầu của
tự tánh. Người
học đạo hễ
tham cứu mãi thì
cuối cùng sẽ rõ được nguồn gốc của hư thật.
Sắc pháp thanh pháp, như bóng như tiếng, nếu chỉ dùng bóng và tiếng để chỉ bày
thật tướng thì chưa thể cho là chơn thật, bởi vì ngón tay chẳng phải
mặt trăng,
lời nói chẳng phải là đạo, người học nên được đạo quên lời, thấy trăng quên ngón.
Vậy thì kẻ mê ly tức
tà ma, vì
tham ái trần lao,
cam chịu sanh tử; kẻ mê vi tức
ngoại đạo, vì ham so đo tìm cầu, vọng khởi
chư kiến.
Hữu và vô là
căn bản của
chư kiến. Sao gọi là hữu? Vì vọng có
sở tác; sao gọi là vô? Vì quán xét thấy
vô sở đắc. Đã có hai thứ
kiến chấp hữu vô nên
sanh khởi chư kiến,
chư kiến đã khởi tức
tà kiến bất chơn nên gọi là
ngoại đạo.
Tồn và vong là
căn bản của
sanh tử, thân tồn thì sanh, thân vong thì diệt, kẻ
chấp trước vọng tưởng,
ham thích ngoại cảnh, ôm chặt
thân kiến (chấp thân là thật), mong cầu
vị lai được sanh nơi
thù thắng, thọ
quả báo tốt đẹp nên gọi là
tà ma.
Hễ thấu được ly thì tất cả chẳng nhiễm, chẳng nhiễm tức
siêu việt cảnh giới tà ma; hễ thấu được vi thì tất cả tịch lặng, chẳng có
vọng tưởng, tức
siêu việt đủ thứ
tà kiến ngoại đạo, nên Kinh nói "vi diệu thâm sâu", chẳng lìa
tự tánh vậy.
Nói vi là chẳng có
chư kiến, nói ly là chẳng có
nhiễm trước, chẳng nhiễm chẳng trước thì
tịch diệt làm vui. Sao gọi là khổ? Vì chẳng liễu được vi nên bên trong có suy tư, vì chẳng liễu được ly, nên bên ngoài có nương tựa. Ngoài có nương tựa là tham, trong có suy tư là duyên, duyên tham đã khởi, liền bị cảnh ma
sai khiến, ngày đêm bâng khuâng chẳng được tạm ngừng,
cam chịu trần lao nên gọi là khổ. Sao gọi là vui? Vì liễu được vi nên bên trong chẳng suy tư, vì liễu được ly nên bên ngoài chẳng nương tựa. Ngoài chẳng nương tựa tức chẳng tham, trong chẳng suy tư tức chẳng duyên, chẳng duyên chẳng tham thì không bị
vạn hữu trói buộc, cũng không bị
trần lao sai khiến, do đó thanh hư tịch lặng, chẳng có gì
chướng ngại,
tự tánh giải thoát nên gọi là vui.
Ly tức lý, vi tức mật. Sao gọi là lý? Vì chẳng lìa tất cả vật; Sao gọi là mật? Vì
bản thể ẩn mật mà
hiện ra công dụng.
Ly tức không, vi tức hữu, "không" nên
vô tướng, "hữu" nên hiển dụng. Do vậy
phi hữu phi không là chánh tông của muôn pháp,
phi không phi hữu là
cha mẹ của
vạn vật, ra chẳng
phương hướng để đến, vào chẳng xứ sở để ở,
bao gồm vạn hữu mà chẳng có
việc làm,
hóa độ muôn loài mà chẳng phải
pháp chủ. Cho nên tiểu thất mà rộng
vô biên,
nhất niệm mà thông muôn loài, tâm chẳng thể suy lường, ý chẳng thể
hiểu biết, ấy gọi là sức dụng trụ nơi
giải thoát bất tư nghì. Sao gọi bất tư nghì? Vì
bản thể vốn
ly vi. Sao gọi là giải thoát? Vì chẳng có gì
trói buộc vậy.
Ly tức pháp, vi tức Phật, cả hai
hòa hợp gọi là tăng, ba tên
một thể,
một thể ba tên, hòa lẫn thì chẳng thể
phân biệt,
trở về cội nguồn lại thành
vô danh. Ly tức dung, vi tức dùng. Dung thì bao hàm cáu bẩn, dùng thì chẳng gì
so bằng. Chẳng gì
so bằng nên
diệu hạnh hóa độ thường xuyên, bao hàm cáu bẩn nên thường
lẫn lộn trong
vạn hữu. Lại chẳng mắt chẳng tai gọi là ly, có thấy có nghe gọi là vi,
vô ngã vô tác gọi là ly, có trí có dụng gọi là vi;
vô tâm vô ý gọi là ly, có thông có đạt gọi là vi. Lại ly tức
niết bàn, vi tức
bát nhã,
bát nhã thì
vô biên đại dụng,
niết bàn thì
tịch diệt vô dư;
vô dư thì
phiền não chấm dứt, đại dụng thì
giáo hóa vô cùng. Nếu người chẳng
liễu đạt ly vi, dù cho
khổ hạnh đầu đà,
xa lìa cảnh trần, dứt
tham sân si,
thành tựu nhẫn nhục trải qua vô lượng kiếp, cũng chẳng vào được chơn thật. Tại sao? Vì bị kẹt nơi
y báo chánh báo, trụ nơi có sở đắc, chẳng lìa
điên đảo mộng tưởng tà giác và
chư kiến. Nếu có người thấu rõ
ly vi, dù
tập khí,
vọng tưởng và
phiền não vẫn còn
hiện hành, nhưng luôn luôn
cảnh giác diệu nghĩa của
ly vi, thì người ấy chẳng bao lâu sẽ vào được chơn thật của
vô thượng đạo. Vì sao? Vì liễu được
căn bản của
chánh kiến.
Nói ly là đối với
lục nhập, nói vi là đối với
lục thức, nếu hợp sáu thành một thì tịch lặng vô vật. Bậc thánh
tùy theo sự chấp chẳng đồng của
chúng sanh mà
thiết lập đủ thứ
ngôn giáo để ứng cơ
hóa độ, nhưng trong lý
cứu cánh thì chẳng có
danh tự,
ví như hư không, lìa số và phi số, lìa tánh và phi tánh, phi nhất phi dị, phi cảnh phi lìa cảnh, chẳng có xuất nhập,
tâm thức chẳng thể suy lường.
Tất cả
kinh luận đều
tùy theo phàm tình mà
phá chấp,
tùy theo căn cơ trình độ của
chúng sanh mà
giả lập phương tiện, đều chẳng trụ nơi
danh tướng và sự vật. Nếu chẳng trụ
danh tướng thì chẳng cần tất cả
ngôn thuyết và nghĩa của
ly vi, nên Kinh nói "tùy nghi
thuyết pháp,
lý thú khó hiểu", dù nói các thừa, đều chỉ là
phương tiện để
trợ đạo cho
chúng sanh chớ chẳng phải thật có
cứu cánh giải thoát niết bàn.
Ví như có người vẽ hình trong
hư không và phát ra đủ thứ
âm thanh, nhưng
hư không cũng chẳng
hiện tướng gì cả, cũng chẳng thấy
thêm bớt biến động,
hóa thân của chư
Phật thuyết pháp cũng như vậy, ở nơi
thực tế chẳng có đồng dị. Cho nên trời đất hàm ly,
hư không hàm vi, mà
sự tạo tác của
vạn vật biến hóa vô cùng.
Tự tánh có thần, trong thần có trí, trong trí có thông, thông có
ngũ thông, trí có ba thứ. Thế nào là Ngũ thông? Một là
đạo thông, hai là
thần thông, ba là
y thông, bốn là
báo thông, năm là yêu thông. Sao gọi yêu thông? Côn trùng già
biến thành tinh, nhập vào thân người,
thông minh kỳ lạ, ấy là yêu thông. Sao gọi báo thông? Biết
quá khứ vị lai của
quỷ thần,
biến hóa của
cõi trời và thần long, ấy là
báo thông. Sao gọi y thông?
Y theo pháp mà biết, duyên theo thân mà dùng,
vãng lai bằng
phù chú,
y theo luyện đơn để tỏ linh biến, ấy là
y thông. Sao gọi thần thông?
Tịnh tâm chiếu soi, biết
quá khứ vị lai,
tùy theo sức định có đủ thứ
biến hóa, ấy là
thần thông. Sao gọi đạo thông? Ứng vật
vô tâm,
tùy duyên giáo hóa vạn hữu, quán tất cả pháp đều như
hoa đốm trên không, bóng trăng trong nước, dù thấy mọi thứ
hình tướng đều chẳng chấp thật, ấy gọi là
đạo thông.
Thế nào là ba thứ trí? Một là chơn trí, hai là nội trí, ba là ngoại trí. Sao gọi ngoại trí?
Lục căn phân biệt,
hiểu biết cảnh trần,
bác học cổ kim,
thông suốt thế tục, ấy là ngoại trí. Sao gọi nội trí? Tự ngộï
vô minh,
phiền não cắt đứt, tâm ý tịch lặng, tất cả đều không, ấy là nội trí. Sao gọi chơn trí? Ngộ được
bản thể tịch lặng, vốn là vô vật,
thông đạt khắp nơi, tịnh nhiễm chẳng khác, ấy là chơn trí. Nên chơn trí
đạo thông, chẳng thể gán tên,
ngoài ra đều
tà ngụy. Ngụy tức chẳng chơn, tà tức chẳng chánh, vì tâm sanh
vọng chấp, mê nơi
thể tánh, nên
giả lập hai tên nội trí và ngoại trí. Nếu
ngộ nhập ly vi,
thông đạt vạn hữu thì
tự tánh vốn chơn,
siêu việt tất cả. Muốn
phân biệt tà chánh, thấu rõ chơn ngụy
cần phải pháp nhãn sáng tỏ mới được
thông suốt. Nhưng người
thế gian phần nhiều
tin theo tà ngụy,
chánh tín rất ít,
tiểu thừa hiện hành,
đại thừa bị kẹt, nên
diệu lý khó được
hiển bày. Ly là vô thân, vi là
vô tâm; vô thân nên
đại thân,
vô tâm nên
đại tâm.
Đại tâm thì cùng khắp
vạn vật,
đại thân thì ứng cơ đầy đủ, nếu chấp thân là thân thì mất đại ứng (ứng cơ), nếu
chấp tâm là tâm thì mất
đại trí, cho nên muôn ngàn
kinh luận đều nói phải lìa
thân tâm, phá hết
tri kiến chấp trước mới vào được chơn thật.
Ví như thợ bạc luyện lấy
vàng ròng, phải lược bỏ những chất khác mới làm đồ dùng bằng vàng thiệt được, nếu chấp thật có thân thì bị "có thân"
chướng ngại, có thân
chướng ngại thì
pháp thân ẩn nơi
hình tượng; nếu chấp thật có tâm thì bị "có tâm"
chướng ngại, có tâm
chướng ngại thì chơn trí ẩn nơi tưởng niệm, thế thì
lục thức nhiễu loạn bên trong,
lục căn phan duyên bên ngoài, ngày đêm bâng khuâng chẳng được ngừng nghỉ, khiến cho
diệu lý chìm mất,
đại đạo chẳng thông.
Chẳng
quán tâm thì chẳng thấy vi, chẳng
quán thân thì chẳng thấy ly, nếu chẳng thấy
ly vi thì lạc mất
pháp yếu của đạo. Nên
kinh Kim Cang nói "Phật thuyết phi thân, thị danh đại thân" là nghĩa này vậy. Nói bỏ quyền (
phương tiện tùy nghi) về thật, bỏ giả về chơn, cũng như thợ bạc lấy nhiều đồ bằng vàng để đúc thành một tượng, diệt những tướng khác nhau,
hỗn hợp thành một, tức là đại dã (rèn đúc nhiều đồ kim loại trong một lò). Nói đại dã tức là
đại đạo vậy, trong lò đúc của
đại đạo, tạo hóa
vô cùng, làm ra muôn ngàn đồ dùng, hoặc thành hoặc hoại mà
bản thể chẳng có
thêm bớt. Nên Kinh nói "có Phật chẳng Phật,
tánh tướng thường trụ"
sở dĩ nói dung tướng (nhiều tướng dung hợp thành một) là vì
phàm phu chấp hữu tướng, sợ
vô tướng;
sở dĩ nói tướng là vì
ngoại đạo chấp
vô tướng, sợ
hữu tướng,
sở dĩ nói
trung đạo là muốn khiến cho
hữu tướng và
vô tướng chẳng khác, phàm dùng
lời nói diễn tả được đều chẳng phải chơn lý, tất cả đều là để
phá chấp và dứt trừ sự
nghi ngờ mà thôi. Nếu có người
liễu ngộ Thật tướng chẳng có một pháp,
bình đẳng bất nhị, chẳng lấy chẳng bỏ, chẳng bỉ (cái kia) chẳng thử (cái này), cũng chẳng
trung gian (chính giữa), thì chẳng nhờ
lời nói của bậc thánh mà chơn lý tự thông vậy.
Hể cho tướng là
vô tướng thì tướng tức
vô tướng, nên Kinh nói "sắc tức thị không", chẳng phải dùng sắc để diệt không, cũng như nước chảy im lìm, bị gió đánh lên bọt, tức bọt là nước, chẳng phải dùng bọt để diệt nước. Hễ cho
vô tướng là tướng thì
vô tướng tức là tướng vậy. Kinh nói "không tức thị sắc", chẳng phải dùng không để diệt sắc,
không vô tận thì sắc
vô tận, cũng như hủy bọt thành nước, nước tức là bọt, chẳng phải lìa nước có bọt. Kẻ ham
hữu tướng sợ
vô tướng, vì chẳng biết
hữu tướng tức
vô tướng; kẻ ham
vô tướng sợ
hữu tướng, vì chẳng biết
vô tướng tức là tướng, kỳ
thật hữu tướng,
vô tướng tất cả đều ở trong
tự tánh, người
giác ngộ được gọi là Phật. Hễ ngộ thì
vọng tưởng chẳng sanh, nếu vọng chẳng sanh thì
bản thể vốn chơn thật.
Tướng của
vô tướng gọi là ly, vì
bản thể của ly vốn
vô tướng;
vô tướng của tướng gọi là vi, vì
bản thể của vi chẳng phải
vô tướng. Cho nên người
hành đạo sống chẳng thấy vui, chết cũng chẳng buồn. Tại sao? Vì sống là
trôi nổi, chết là nghỉ ngơi, cho sống là
huyễn hóa, chết là chơn thật. Nên Kinh nói "sanh chỉ là pháp sanh, diệt chỉ là pháp diệt". Nói đến những pháp này, mỗi mỗi đều chẳng biết nhau, lúc sanh chẳng nói ta sanh, lúc diệt chẳng nói ta diệt. Bởi vì
đại trí vô tri,
đại giác vô giác,
chơn tế lý không (nơi
nghĩa lý chơn thật của
tự tánh vốn trống rỗng), chẳng thể gán tên, chẳng thể lập tướng, cho nên
niết bàn đại tịch,
bát nhã vô tri,
pháp thân viên mãn, tất cả
sắc tướng có số lượng đều
tịch diệt vậy.