BỬU TẠNG LUẬN
Tác Gỉa: Đại Sư Tăng Triệu - Việt dịch: Hoà Thượng Thích Duy Lực
Xuất Bản Saigon, Việt Nam 2001
PHẨM QUẢNG CHIẾU KHÔNG HỮU
(thứ nhất)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc
vô tướng, chơn
không vô danh,
vô danh là cha của danh
vô tướng là mẹ của tướng, ấy là nguồn gốc của muôn loài,
thái tổ của trời đất, trên
tỏ rõ đủ thứ
hình tượng, dưới bày ra nhà cửa cây cối,
nguyên khí (
tự tánh) hàm nơi đại tượng, đại tượng ẩn nơi
vô tướng, ấy là cái linh tánh hay nhận vật trong linh có thần, trong thần có thân,
vô vi biến hóa, mỗi mỗi theo nơi
tự nhiên. Vừa mống lên chút sự dụng thì
dần dần mới có
danh tướng, tướng
sanh khởi khi chưa có thật chất, danh lập ra lúc chưa có tên gọi,
danh tướng đã hiện thì du khí (1)[1] làm đục cái
trong sạch của
tự tánh, từ
tịch liêu trống rỗng sanh ra đủ thứ
phân biệt, trên thì có vua, dưới thì có thần,
cha con thân cận cùng ở, tôn ty ngôi bậc khác nhau,
đời sống văn minh bắt đầu,
con người thành lập gia đình, rồi từ đó tụ nhau hình thành bộ lạc, trong mỗi bộ lạc gồm nhiều hộ, mỗi người tự giữ lấy bổn phận của mình. Vì
an ninh trật tự mà đặt ra
lễ giáo, nên có danh từ để
phân chia thiện ác, người thiện được trọng, kẻ ác bị khinh; người trí
thong thả, kẻ ngu tự trói, từ đó mống khởi đủ thứ
thị phi, trên bày ra sự
phiền phức, dưới chẳng có sự an vui, làm mất cái
ý chí tự nhiên của
con người, bị
bó buộc vào cái khuôn khổ của
ngoại vật,
mê lầm cái
hữu vi của
vô vi, động thành cái
tác dụng của
hữu tác.
Giáo hóa đã
thi hành, khiến trên dưới đều phải
tuân theo, cho nên, thanh lập
ngũ âm, sắc lập
ngũ sắc, hạnh lập
ngũ hành,
đức lập ngũ đức, có thầy có trò, thầy đã
dạy bảo trò phải
tuân theo,
mảy may xê dịch, lỗi bằng
Tu Di, luật cấm khi chưa phạm,
phòng ngừa lúc chưa làm, có nhiều điều
hạn chế, chẳng
tha thứ khoan hồng. Tại sao vậy? Vì
con người tham dục chẳng biết đủ, từ đó sanh ra
hỗn loạn.
Trời đất
vắng lặng,
vũ trụ trống rỗng, trong niệm vừa dấy lên chút
bụi trần, liền thành lớp màng che phủ con mắt của
tự tánh. Cái
bản thể lừng lẫy vốn là trong ngoài
thần linh,
vọng tưởng bỗng khởi thì chơn nhất (
tự tánh) ẩn dấu, do vọng sanh
ý thức phân biệt nên chơn tánh bị
mê hoặc, chẳng
cần cầu mà mong cầu, chẳng cần đắc mà muốn đắc, nói về lý thì
vô cùng, nói về vật thì
vô tận, từ đó sanh ra động loạn, bên trong
sanh khởi tam độc, bên ngoài
lãnh thọ ngũ dục,
thân tâm bận rộn
bối rối, đuổi theo thấy nghe, tùy cảnh tạo tác, như lửa cháy bừng. Nên bậc thánh
kiến lập chánh giáo, nói ra chơn lý, khiến những kẻ
ngu muội có
nơi nương tựa, tu
vô vi, ngưng
hữu vi,
dần dần đến chỗ
như như. Cái lý
như như này là
bản thể của chơn tánh, chẳng thể
tu chứng, chẳng thể mong cầu, chỉ là tánh
tịch diệt vậy.
Nói đến chữ Chơn là
tổ tiên của
vạn vật, chẳng
thế giới, chẳng
chúng sanh, chẳng bờ bến, chẳng xứ sở, là
căn bản của
tam giới, chẳng cho mắt thấy tai nghe, chẳng có
hồn phách và
sắc tướng. Người tu
chánh pháp trước tiên phải
lìa tướng, bặt
tình ái, chẳng đuổi theo vật, chẳng chấp
sanh tử, mới có thể dung hợp
đại đạo,
thông đạt thần minh. Có dụng là thần, có tướng là thân,
vô vi là đạo,
vô tướng là chơn, tùy vật
lập danh, theo vật tạo tác,
thường trụ thường tồn, chẳng sanh chẳng diệt. Lý hợp muôn đức, sự tỏ khôn khéo, sự dù
vô cùng, lý chỉ có một. Chẳng có người chứng, chẳng có kẻ đắc, nhưng chẳng chứng chẳng đắc, nơi tâm vẫn còn
mê hoặc, cái tâm chẳng chơn lại
mê hoặc người khác, hoảng hốt như gặp ma, dùng
tư tưởng suy cứu thì
cuối cùng chẳng có gì cả. Như gương bỗng có bụi, như trời bỗng có mây, tất cả
duyên khởi với nhau, vì
vọng chấp thật có
tồn tại, có vọng là ngu, chẳng vọng là chơn, như băng chơn tan thành nước, nước vọng đóng thành băng, băng nước dù hai,
bản thể chẳng khác.
Mê vọng là ngu, ngộ chơn là trí,
mùa đông thì băng chẳng thể tan,
mùa xuân thì nước chẳng thể đóng, nên ngu chẳng thể sửa ngay, trí chẳng thể liền được, băng tan dần rồi mới chảy vào biển cả, ấy là cái đạo của
tự nhiên, sự dụng của nhiệm mầu, chẳng phải
tâm niệm có thể suy lường, chỉ có thể kéo dài
mãi mãi, chẳng thể siêng năng tìm cầu.
Cái
nhân duyên vào đạo có muôn ngàn đường lối, như cá bị kẹt nơi vũng lầy, chim bệnh mắc trong đám sậy, cả hai đều chẳng biết nơi biển lớn rừng sâu,
con người tu theo
tiểu thừa thì cái nghĩa cũng vậy. Ấy là
phí công tu lâu, ngưng nghỉ giữa đường, vì chẳng
thông đạt được lý
như như, bỏ lớn cầu nhỏ, được ít cho là đủ, tự an nơi tiểu an, chẳng bằng sự
an ổn của
đại an. Nói "đại" là
mênh mông chẳng bờ bến, tất cả
hàm linh vạn vật đều đồng, ứng cơ thì có muôn ngàn
phương tiện,
biến hóa thì có đủ thứ tướng hiện, nhưng chẳng xuất chẳng nhập, sự dụng chẳng có
gián đoạn. Có
tâm vô tướng, có dụng chẳng người,
thị hiện sanh mà
vô sanh,
thị hiện thân mà vô thân, thường suy lường mà chẳng lường, thường biết mà chẳng biết, vi mà
vô vi, đắc mà vô đắc, gương tỏ ngàn tượng, nước hiện muôn sắc, trong bóng phân ra
trần thế tam giới,
ứng dụng vô tận,
vô tướng mà
thành tướng,
vô danh mà
lập danh, loài vật
cảm ứng với nhau,
hòa hợp mà sanh. Nhưng sanh cũng chẳng sanh, tình cũng chẳng tình
chúng sanh gọi là thánh,
chúng sanh gọi là minh, đủ thứ
danh hiệu, tùy
mọi vật mà gán tên, kỳ thực đều lấy
vô vi làm
tông chỉ,
vô tướng làm
dung mạo, trống rỗng đồng như
hư không, muốn tìm thì chẳng có xứ sở, mà sự dụng thường ở trong đó. Kẻ đắc là nhất, kẻ chứng là mật, đắc thì bất nhất, chứng thì bất mật, nhưng phi bất nhất, phi bất mật,
bản thể âm ly, sự dụng dương vi (âm ly và dương vi,
giải thích nơi phẩm sau), nói lý thì
vô cùng,
nói hành thì
vô tận, ấy gọi là thái vi (
tự tánh). Cũng như cây cỏ
vô cùng, nước suối
vô tận, gió thổi chẳng ngưng,
tiếng chuông chẳng ngừng, loài vật còn như vậy, huống chi là đạo! Sự hữu ắt phải chóng mất, sự vô ắt được
lâu dài, trời đất dù có thay đổi,
hư không luôn luôn trống rỗng.
Người
học đạo thì học theo
vô dư, kẻ chẳng
học đạo thì học theo
hữu dư.
Vô dư thì đạo gần,
hữu dư thì đạo xa,
tri hữu thì hữu hoại, tri vô thì vô hoại, sự tri của chơn tri,
hữu vô đều chẳng chấp, nơi hữu mà chẳng hữu, nơi vô mà chẳng vô,
hữu vô đều chẳng chấp thì
tánh tướng như như,
bản thể của
tự tánh tịch nhiên vô vật, sự dụng từ đó mà ra. Nếu chẳng như thế thì
trở thành nhiều vọng nhiều sai, trong có
mộng tưởng, do đó
huân tập thành nhiều bệnh, chẳng hung mà hung, chẳng kiết mà kiết (lành), những việc kiết hung,
chướng ngại chơn nhất, nên người
hành đạo chẳng nên mê theo
mộng tưởng.
Người
học đạo có ba loại: một gọi là chơn, hai gọi là lân (
lân cận), ba gọi là văn (nghe), tập học gọi là văn,
tuyệt học gọi là lân, vượt cả hai này gọi là chơn. Người chẳng
học đạo cũng có ba: bậc thượng gọi là tường, bậc trung gọi là lương, bậc hạ gọi là ương (
tai họa); cực vui gọi là lương,
cực khổ gọi là ương, chẳng khổ chẳng vui gọi là tường, nhưng ba loại này đều chẳng nhập chơn thường, tức là chẳng phải đạo vậy.
Tự tánh nhiệm mầu, sự dụng
mênh mông, hễ
tâm trần nhiễu động thì như biển nổi làn sóng,
thành sự sanh tử luân hồi trong
lục đạo, chẳng thể dùng đạo
tiếp tế, chẳng thể dùng Chơn cứu giúp, thật đáng buồn thay! Chư Phật
thương xót như mẹ nhớ con, dù muốn độ hết nhưng phải có
cơ duyên, nên có duyên thì hiện, chẳng duyên thì ẩn,
đại đạo như thế,
xưa nay đều vậy, chẳng thể
thình lình, chẳng thể làm gấp.
Chơn tánh tự có trí, trong trí tự có bi (
từ bi), bi hay
cứu khổ, khổ cứu chẳng được, Chỉ tự lao nhọc, hễ khi độ được thì cứ độ tiếp mãi. Nhưng
chúng sanh thường ở trong
mộng tưởng, dù
học đạo siêng năng
tinh tấn, nhưng chẳng tin
tự tâm, mà
tìm kiếm bên ngoài, lạc mất đường lối
chánh pháp, như ô uế làm đục nước trong, bởi do tình chấp thật có
thật không, chẳng lìa được
phiền não, thật là khổ thay!
Mặt trời ẩn trong
đám mây, dù sáng mà chẳng chiếu;
trí huệ ẩn trong
mê hoặc, dù chơn mà chẳng phải đạo. Tại sao vậy? Vì tự mình chưa ra khỏi
ràng buộc, cho nên xa thì chẳng thể dung hợp, gần thì chẳng thể
lìa bỏ, kẻ chưa đạt đạo chẳng nên làm càn! Kẻ quyết
quay về thì chẳng màng việc sau, kẻ quyết chiến thì chẳng màng cái đầu, kẻ quyết học thì chẳng quý cái thân, kẻ quyết
học đạo thì chẳng quý nơi sự, nhập chẳng
dấu tích, xuất không chỗ tìm, ngộ
vô sở đắc,
phan duyên tự tịch, tịch mà chẳng sanh, tự thể
vô danh,
vô danh là thật, lý chẳng ngoài dục,
hằng sa công đức,
rõ ràng cụ túc.
Loài vật sống trong vỏ như cua, ốc thì chẳng biết sự rộng lớn của
vũ trụ; loài vật sống trong ao giếng thì chẳng biết sự
mênh mông của biển cả, trong tối thì chẳng sáng,
trong sáng thì chẳng tối, các pháp mỗi mỗi chẳng biết nhau, nên vật cách tình lìa, nghịch tình thì khó hiểu, cũng như trái táo có sâu, bên trong đã hư mà bên ngoài vẫn tốt; như nước với cát cùng chảy thì trên trong dưới đục; cũng như
quốc gia có gian thần thì đất nước chẳng yên, hễ trong tâm có ẩn dấu
hình tướng thì
vạn vật đều loạn. Tại sao? Vì đã mắc bệnh vậy. Cho nên, hễ vật có linh (giác tri), linh tất có yểu (tà vọng), yểu tất có dục, dục tất có tâm (
ý thức phân biệt), tâm tất có tình, tình động thành dục, yểu phát thành tinh (yêu tinh), tinh mê nơi thần, dục mê nơi chơn.
Vậy thì người
học đạo chẳng nên lọt vào loại lân (
tuyệt học), cũng như gương cổ chiếu soi yêu tinh thì yêu tinh tự
hiện hình, cổ giáo (
giáo pháp của
cổ đức) chiếu soi nơi tâm thì tâm
tự minh. Hễ nói về trời đất thì có trên dưới; nói về nhựt nguyệt thì có đông tây, nói về
thân thể thì có bỉ thử, nói về
tâm thức thì có
thị phi,
nếu không có bỉ thử thì
thị phi chẳng sanh. Chỉ vì vật theo tình đổi, tình tùy vật dời, trong ngoài lay động, tâm đuổi theo vật, tự thành lao nhọc, khi sống thành người, khi chết thành hồn, tương tợ
tương tục, như thân trong
chiêm bao, khi
chiêm bao thì chấp cái thân trong
chiêm bao là ta,
vậy thì cái
thân thức tỉnh chẳng phải ta; khi
thức tỉnh thì chấp cái
thân thức tỉnh là ta,
vậy thì cái thân trong
chiêm bao chẳng phải ta. Kỳ thực, tất cả đều như chim bay
trên trời, chẳng có
dấu tích, những
hiện tượng kỳ lạ khó suy khó lường,
âm dương tương đối, võng tưởng âm thầm, mỗi mỗi tự có nhân quả?, sự vật
như huyễn hóa, đủ thứ
hiện tượng đều chẳng phải thật, ấy gọi là bất chơn, chỉ làm
mê hoặc con người.
Chơn lý trống rỗng, vốn là vô thân, sự
thần thông biến hóa như con rồng
trên trời, sự
che khuất vũ trụ như mây bỗng tụ, ấy chưa phải là quý, ấy chưa phải là chơn, nếu chấp đó cho là thật tức là người chưa đạt đạo. Hoặc có
hình tướng đẹp đẻ, hoặc có
ngôn ngữ biện tài, hoặc có
trí huệ thông minh, hoặc có
ứng dụng khéo léo, nếu chấp ấy cho là đạo cũng chưa phải là
việc lành vậy. Sự hữu tất bất chơn, tạo tác tất bất thường, trời đất còn phải hoại, huống là
vật chất, đâu thể
vững chắc lâu bền!
Chỉ có đạo là
vô căn (gốc),
trạm nhiên thường tồn, chỉ có đạo là
vô thể,
vi diệu thường chơn, chỉ có đạo là vô sự,
xưa nay thường quý chỉ có đạo là
vô tâm, muôn vật đầy đủ. Nên
đại đạo vô tướng, vô hình, vô sự,
vô ý,
vô tâm hay
lợi ích chúng sanh vạn vật, làm chủ cho tất cả người và vật,
vạn vật đều có
đối đãi, chỉ có
đại đạo độc tồn, bên ngoài chẳng có cái khác, bên trong chẳng phải trống rỗng, chẳng trong chẳng ngoài, bao hàm thái nhất (
tự tánh), gồm cả
vũ trụ,
vạn vật đầy đủ. Cái
thực tướng ấy phi nội phi ngoại, phi tiểu phi đại, phi nhất phi dị, phi
minh phi muội,
phi sanh phi diệt, phi thô phi tế,
phi không phi hữu, phi khai phi bế, phi thượng phi hạ,
phi hành phi hoại, phi động phi tịnh, phi quy phi thệ (mất), phi thâm phi thiển, phi ngu phi huệ, phi nghịch phi thuận, phi thông phi tắc, phi bần phi phú, phi tân phi cố (cũ), phi hảo (tốt) phi tệ (xấu), phi cương phi nhu, phi độc phi đôi, tại sao vậy? Nếu nói là nội thì bao hàm
pháp giới, nếu nói là ngoại thì
ứng dụng đầy đủ, nếu nói là tiểu thì phổ khắp
xa gần, nếu nói là đại thì nhập vào
vi trần, nếu nói là nhất thì
hình tướng đủ thứ, nếu nói là dị thì
bản thể vô vật, nếu nói là minh thì mờ
mờ mịt mịt, nếu nói là muội thì chiếu
soi sáng tỏ, nếu nói là sanh thì
vô tướng vô hình, nếu nói là diệt thì
xưa nay thường linh, nếu nói là thô thì rút thành
hạt bụi, nếu nói là tế thì thân bằng
tu di, nếu nói là không thì sự dụng
mênh mông, nếu nói là hữu thì chẳng có
dung mạo, nếu nói là khai thì chẳng nhập
trần ai, nếu nói là bế thì nghĩa rộng
vô biên, nếu nói là thượng thì
bình đẳng vô tướng, nếu nói là hạ thì chẳng vật nào
so bằng, nếu nói là thành thì duyên hết liền tan, nếu nói là hoại thì luôn luôn
tồn tại, nếu nói là động thì
trạm nhiên vắng lặng, nếu nói là tịnh thì bận rộn
lăng xăng, nếu nói là quy thì đi mà chẳng về, nếu nói là thệ thì ứng cơ
trở lại, nếu nói là thâm thì
vạn vật cùng ở, nếu nói là thiền thì gốc chẳng thể tìm, nếu nói là ngu thì ứng cơ chẳng sai, nếu nói là huệ thì
tịch diệt vô dư, nếu nói là nghịch thì có tín có tựa, nếu nói là thuận thì vật chẳng thể trói, nếu nói là thông thì chẳng thấu tông tích, nếu nói là tắc thì ra vào trống rỗng, nếu nói là bần thì muôn ngàn
công đức, nếu nói là phú thì chẳng có một vật, nếu nói là tân thì sẵn từ
đời xưa, nếu nói là cố thì vật chẳng
ô nhiễm, nếu nói là hảo thì chẳng vật để giữ, nếu nói là tệ thì từ xưa vẫn vậy, nếu nói là cương thì
sanh diệt bất thường, nếu nói là nhu thì
sức mạnh vô cùng, nếu nói là độc thì
hằng sa chủng tộc, nếu nói là đôi thì chơn
nhất chỉ một. Nên
đại đạo chẳng thể dùng chữ nhất để gán tên, chơn lý chẳng thể dùng một nghĩa nào để
diễn tả, nay chỉ thể trình bày
đại khái, chẳng thể
tỏ rõ tận cùng, dù cho chặt đầu thiêu xác cũng chẳng thể làm
thương tổn sự sanh, kim đơn
cam lồ cũng chẳng thể giữ mãi sự sanh, nếu chơn sanh thì
bất diệt, chơn diệt thì
bất sanh, nên có thể gọi là thường diệt, cũng có thể gọi là thường sanh. Kẻ ham sanh sợ diệt ấy là chẳng ngộ lý thường diệt, kẻ muốn diệt chán sanh ấy là chẳng ngộ lý thường sanh, nhưng kẻ mê người ngộ đều là chẳng thấy chơn nhất, vì có tâm
lấy bỏ, đuổi theo tình chấp
hư vọng vậy.
Thường không chẳng có,
thường có chẳng không, nếu cả hai chẳng
đối đãi thì mỗi mỗi đều là chánh tông. Cho nên bậc thánh tùy có nói có, tùy không nói không, không chẳng trái có, có chẳng trái không, hai lời chẳng bệnh,
hai nghĩa đồng thông,
cho đến nói "ngã" cũng chẳng
trái với "vô ngã", nói "sự" cũng chẳng
trái với "vô sự", nên chẳng bị
lời nói xoay chuyển.
Đúc vàng thành người, nếu chỉ nhìn người mà chẳng nhìn vàng thì bị
hình tướng mê hoặc, ấy gọi là mê, tại sao? Vì mất cái chơn vậy. Thế thì tất cả đều huyễn,
hư vọng chẳng thật, biết huyễn là huyễn, trong giữ chơn nhất, ngoài chẳng nhiễm vật, ấy là sự trống rỗng của thái nhất, thì chơn đâu có mất! Quên tâm bỏ ý, thể lìa bệnh tật (bệnh chấp thật), một tướng chẳng sanh, kiết hung tịch lặng, kiết còn không theo, hung làm gì được! Sự kiết sự hung đều chẳng nương tựa.
Đường lối vào đạo như nước trong lặng hiện bóng vạn tượng, trong ngoài
rõ ràng, tâm chẳng nổi, ý chẳng sanh, chẳng xuất chẳng nhập, trạm tịch
như như, trong ngoài chẳng nhiễm, vật chẳng biết nhau, chẳng nhờ
lời nói văn tự, mỗi mỗi tự có cái bản nhất. Như lửa chẳng nhờ
mặt trời mà nóng, gió chẳng nhờ
mặt trăng mà mát, sáng chẳng nhờ tối, khô chẳng nhờ ướt, vật vật còn chẳng nhờ nhau huống chi là đạo!
Vạn vật do
con người mới được
hiện ra sự dụng, người
phụ thuộc nơi vua, vua nương tựa nơi người, ngộ được tất cả
bất nhị ấy gọi là Phật,
tam giới độc tôn,
giác ngộ vô vật, chẳng làm mà làm,
việc làm đã xong, hiệu
chánh biến tri. Là
đạo sư của trời người, dẫn dắt
chúng sanh,
phương tiện tùy nghi, lý tịnh dù
hư vô, ánh sáng siêu
huệ nhật, chiếu khắp
mười phương, trên dưới cùng được
lợi ích, chẳng muốn khác với
con người, chẳng muốn khác với
trần thế, chẳng muốn khác với
nghĩa lý, chẳng muốn khác với
nhân quả, tất cả đều
bình đẳng bất nhị,
nhất thể viên thông, lý ấy khó thấy, nhờ sự gì, thiết
phương tiện, lập ra
pháp số,
vấn đáp,
ngôn luận,
tùy cơ ứng hiện, gọi là chơn thật của đại tượng.
Kẻ ham bên ngoài là chấp trần, kẻ ham bên trong là chấp thân, kẻ ham thấy nghe là
chấp tâm, dựa theo
lục trần là
dục giới, dựa theo
hình tướng là
sắc giới, dựa theo tâm so đo là
vô sắc giới, diệt ba loại này gọi là
đạo đế, hễ
diệt đế tức là đạo vậy. Nhưng cái đạo này chỉ là
phương tiện tạm thời, chưa phải là chánh,
tam giới hư vọng chẳng thật,
lục đạo như
mộng huyễn vô vật. Người đạt đạo chẳng bỏ một pháp, chẳng đắc một pháp, chẳng tu một pháp, chẳng chứng một pháp,
tự tánh thiên chơn
trong sạch, gọi là
đại đạo. Do đó quán khắp
thiên hạ, tức người tức chơn, nếu ngộ lý này thì
bình đẳng đồng một, nhưng kẻ
học đạo này đã hiếm có, mà kẻ
đắc đạo này lại càng ít hơn, vì việc này
thâm sâu, mịt mù khó biết, người biết được là
đạo sư, kẻ
thông suốt là
yên ổn, động tác
vô tâm thì tác mà
vô vi,
vô vi mà vi thì
vô sở bất vi, hòa quang tùy vật nên vật chẳng thể trói.
Ở nơi trời đất, khắp cả
vũ trụ, có một bửu vật, ẩn trong
hình tượng,
tự tánh linh chiếu, trong ngoài trống rỗng, tịch lặng khó thấy gọi là
huyền diệu, sự dụng khéo léo ra ngoài tưởng tượng,
sức lực ẩn nơi
hư vô,
tùy cơ giáo hóa mà chẳng động, độc
nhất không hai, hễ
lên tiếng thì phát ra
diệu âm,
hiện hình thì
tỏ ra diệu sắc, muốn thấy thì chẳng có xứ sở, chỉ có thể tạm gán tên gọi là
không không. Chỉ giữ
âm thanh, chẳng thấy
hình tướng, chỉ giữ
công đức, chẳng thấy
dung mạo, ẩn hiện đều chiếu
soi sáng tỏ, vật và lý
dung thông ấy là bửu ấn của sum la,
chơn tông của vạn tượng. Nói về
hình tướng thì âm thầm tịch lặng,
bản thể trong sạch mà chẳng phải sáng, pháp vốn
viên mãn,
quang minh siêu nhựt nguyệt,
đức dụng vượt
vũ trụ,
vạn vật vô tác, tất cả
vô danh,
chuyển biến trời đất,
tự tại tung hoành,
hằng sa diệu dụng,
hỗn độn mà thành, ai
nghe được chẳng
vui mừng, ai thấy được chẳng
ngạc nhiên,
chúng sanh tại sao cho cái bửu vật
vô giá đem chôn vùi trong hầm của
ngũ ấm lục nhập! Sự
đen tối nhiều kiếp làm sao mà sáng được? Ấy là tự khinh, thật đáng thương xót!
Cái bửu vật ấy sáng lạn chói chang, chiếu khắp
mười phương,
tịch nhiên chẳng động, sự dụng
cảm ứng rõ ràng, tùy thanh ứng thanh, tùy sắc ứng sắc, tùy âm ứng âm, tùy dương ứng dương, kỳ lạ chẳng gốc,
trạm nhiên thường tồn, mắt nhìn chẳng thấy, lắng tai chẳng nghe,
bản thể nhiệm mầu, muôn ngàn
biến hóa,
diệu dụng linh động gọi là
tinh vi của
đại đạo. Cái
tinh vi ấy rất chơn thật, là nhân
sanh khởi của
vạn vật,
tịch liêu thường trụ, chẳng gì
so bằng. Nên kinh nói: "tùy nơi tâm tịnh tức
Phật độ tịnh",
diệu dụng sum la gọi là Bậc thánh.
[1] Du khí:
Vọng tưởng hóa thành khí trược, phù du lơ lững trong
hư không, gọi là du khí.