I. Bồ-đề tâm“Trong các Pháp, tâm
dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác. Nếu nói hay làm với tâm
ô nhiễm, thì sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo”. “Trong các pháp, tâm
dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác… Nếu nói hoặc làm với
tâm thanh tịnh, sự
vui vẻ sẽ theo nghiệp kéo đến như bóng theo hình”. “Vậy,
chế ngự tâm vào một chỗ, không việc gì chẳng nên” (
Pháp Cú 1,2).
Đức Phật dạy những lời này để khuyên
chúng ta phải luôn luôn
tu tâm, nhận rõ tâm, phát huy hết khả năng
tốt đẹp của tâm. Kính
Tịnh danh có dạy: “Bồ-đề tâm là
cõi Tịnh độ của Bồ-tát”.
Tịnh độ của Bồ-tát
xây dựng bởi
Bồ-đề tâm,
nếu không có
Bồ-đề tâm thì không
xây dựng được
Tịnh độ. Lại nữa,
kinh Hoa nghiêm viết: “Bỏ mất
Bồ-đề tâm mà làm các
thiện pháp thì đều thành ma nghiệp”. Tại sao vậy? Vì làm các
thiện pháp tuy là việc tốt, nhưng nếu
hành giả làm
việc thiện đó
xuất phát từ
Bồ-đề tâm thì nó dẫn đưa
hành giả tiến đến
quả vị giải thoát ngoài vòng
chấp ngã, chấp nhơn, chấp
chúng sanh,
chấp thọ giả, tức ngoài vòng
hữu vi sanh tử. Ngược lại,
hành giả làm
việc thiện mà không
xuất phát từ
Bồ-đề tâm thì không khỏi vướng vào tâm vì ngã, vì
danh lợi, vì
ích kỷ, và
kết cuộc chỉ đưa đến
quả báo là
thọ sự an lạc trong
cõi trời,
cõi người, chứ không đưa đến
giải thoát an lạc hoàn toàn. Khi
việc thiện đó hết
năng lực rồi thì
quả báo trong
cõi trời cũng hết và
quay trở lại làm các loài thấp hơn để chịu cảnh
trầm luân đau khổ. Đấy gọi là ma nghiệp (chữ ma ở đây nên hiểu theo nghĩa rộng là ở
trong vòng lục đạo tam giới). Vậy
Bồ-đề tâm là gì?
Bồ-đề tâm là phiên âm từ chữ Bodhicitta, có nghĩa là
tâm giác ngộ,
Chánh giác hay là Giác - tức không còn
vô minh.
Ngôn ngữ học
Ấn Độ thường có phức âm, tiếp vĩ ngữ,
ý nghĩa của nó cũng thay đổi theo. Ví dụ Bodhi gọi là Bồ-đề nhưng Buddha là
đấng Giác Ngộ. Chữ Buddha, Bodhi đều có nghĩa Giác, nhưng khi
biến thành Bodhisattva thì đọc là Bồ-đề-tát-đỏa. Chữ Sattva gọi là
hữu tình, là một loài sinh vật; loài này được
phân biệt theo cao, thấp, lớn, nhỏ, ngu, trí, trời, người,
địa ngục,
ngạ quỷ, súc sanh… đều nằm trong
hữu tình, nhưng khi
Giác ngộ thì gọi Bodhisattva và dịch là Bồ-đề-tát-đỏa, là giác
hữu tình hay
hữu tình giác, tức là loài
hữu tình đã có sự
giác ngộ, có sự
phát tâm Bồ-đề và muốn dẫn dắt kẻ khác
giác ngộ nên gọi là Bồ-đề-tát-đỏa, gọi tắt là Bồ-tát. Khi nói đến Bồ-tát, trong kinh thường chỉ cho người có hạnh tự độ và
độ tha, hạnh này phát nguồn từ
Bồ đề tâm, cho nên nói không có
Bồ-đề tâm thì không có Bồ-tát và Bồ-tát là
sự nghiệp tạo thành đưa đến quả
Chánh Đẳng Giác và
độ thoát chúng sanh.
Hữu tình này có
phát Bồ-đề tâm thì gọi là Bồ-tát. Do đó, người muốn
thọ giới Bồ-tát, điều quan trọng
trước tiên là
phát Bồ-đề tâm. Trong giới Bồ-tát, người nào bỏ mất
Bồ-đề tâm thì mất giới,
nếu không bỏ mất
Bồ-đề tâm thì dù có
phạm giới còn có thể theo luật
phát lộ sám hối được. Người
phát Bồ-đề tâm là người thế nào? Trong kinh Phật dạy: “Người
phát Bồ-đề tâm là người
phát tâm tỉnh giác, nguyện trên cầu
thành Phật đạo, dưới
hóa độ chúng sanh” (Cầu
thành Phật đạo là
tự lợi,
hóa độ chúng sanh là
lợi tha). Chư Phật ra đời cốt chỉ cho
chúng sanh con đường thoát
vòng luân hồi sanh tử, dứt hết
nghiệp hữu lậu và tâm
hữu lậu, tức là tâm
chấp ngã, chấp nhơn, chấp
chúng sanh,
chấp thọ giả. Người chấp như vậy, dù có tu và làm
việc thiện nhưng tâm còn vướng ngã thì
việc thiện ấy chỉ là
việc thiện hữu lậu, kết quả chỉ được hưởng
phước báo ở
cõi người,
cõi trời. Vậy nên, muốn hưởng quả
vô lậu giải thoát thì phải tu và
hành thiện theo tâm
vô lậu, tâm
vô lậu tức là tâm Bồ-đề, là
không chấp ngã, chấp nhơn, chấp
chúng sanh,
chấp thọ giả. Người
chấp ngã là chấp
thân thể và
tâm niệm vô thường là ta. Khi đã
chấp ngã thì thấy ngã của mình là ngã của một con ngưởi, có nhân cách, chứ không phải là
súc sanh hay loài
địa ngục,
ngạ quỷ, thế là chấp nhơn tướng. Lại tự mình thấy mình là một
con người, là loài
chúng sanh, chứ không phải là loài
vô tri vô giác. Đó là chấp
chúng sanh tướng. Khi đã chấp mình là một
chúng sanh, thì thấy
chúng sanh này đang sống trên cõi đời
trong khoảng thời gian mấy chục năm gọi là
một đời người, chấp như thế gọi là
chấp thọ giả tướng, Khi tâm còn vướng vào các
vọng tưởng chấp tướng thì ấy là tâm
hữu lậu,
cấu uế, hẹp hòi, chỉ phát sanh những
phiền não và
đọa lạc trong
tam giới. Chỉ khi nào
hành thiện, như
kinh Kim cang nói: “Với cái
tâm không chấp ngã,
không chấp nhơn,
không chấp chúng sanh,
không chấp thọ giả mà làm tất cả
việc thiện thì sẽ được kết quả
Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác” mới là sự
hành thiện đáo bỉ ngạn.
II. Bốn hoằng thệ nguyệnCăn cứ
Bồ-đề tâm mới có Bồ-tát hạnh, không có
Bồ đề tâm thì không có Bồ-tát hạnh.
Bồ-đề tâm có khi còn gọi là Bồ-đề nguyện, cả hai đều cùng một nghĩa,
phát Bồ-đề tâm, hay phát Bồ-đề nguyện cũng đều là tâm thượng cầu,
hạ hóa. Vậy
hành tướng của
Bồ-đề tâm như thế nào? Đó là bốn
hoằng thệ nguyện:
Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành. Bốn
lời nguyện trên cũng bắt nguồn nơi
giáo lý cơ bản của
Đức Phật mà khai triển ra.
Đức Phật sau khi
thành đạo,
trước tiên chuyển Pháp luân tại
Lộc Uyển, Ngài dạy về pháp
Tứ đế cho năm Thầy Kiều-trần như… gọi là
Sơ chuyển pháp luân, đó là Khổ, Tập, Diệt và
Đạo đế.
Hành giả Thanh văn tu tập Tứ đế thì
đạt được quả vị A-la-hán, dứt trừ ái thủ, ái thủ được dứt là
Diệt đế, chứng
Hữu dư y Niết-bàn,
Vô dư y Niết-bàn. Các vị
Bồ tát thì đi
xa hơn một bước, cũng từ nơi
Tứ đế, nhưng
hiểu rõ mục đích siêu việt của
Đức Phật trong lời dạy đó mà phát bốn
thệ nguyện rộng lớn: Duyên
Khổ đế phát ra
lời nguyện:
Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ.Duyên
Tập đế phát ra
lời nguyện:
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn. Duyên
Diệt đế phát ra
lời nguyện:
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành. Duyên
Đạo đế phát ra
lời nguyện:
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học. Bốn lời
thệ nguyện này rất quan trọng, cần xét đến
tác dụng và kết quả của nó để
hiểu rõ và
áp dụng trong bước đường
tu tập.
Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ Trong câu này có chữ “chúng sanh” cần
cắt nghĩa. Trong
kinh Kim cang nêu ra
các loại noãn sanh,
thai sanh,.
thấp sanh và
hóa sanh,
hữu tưởng,
vô tưởng,
phi hữu tưởng, phi
vô tưởng,
hữu sắc,
vô sắc.
Kinh Từ bi còn nêu
chúng sanh hai chân, bốn chân, nhiều chân, đã sanh, sắp sanh, hay
hiện có, hoặc lớn, hoặc nhỏ.
Chúng sanh giữa
thế giới này
vô cùng vô tận không sao kể xiết, nếu phân thành sáu nẻo thì
gồm có chúng sanh cõi Trời, Người, A-tu-la,
Địa ngục,
Ngạ quỷ,
Súc sanh. Nếu chia theo loại sanh thì
gồm có bốn loại:
noãn sanh,
thai sanh,
thấp sanh,
hóa sanh.
Vậy mà người
tu hành phát nguyện độ tất cả là nhờ
hiểu biết giáo lý và
lòng từ bi của Phật, thấy
chúng sanh tuy
vô lượng nhưng đều là
như huyễn, nên mới
phát nguyện được như vậy. “Độ chúng sanh” là danh từ
đặc biệt của
Phật giáo. “Chúng đa sanh tử” là loại
hữu tình đang còn ở
trong vòng luân hồi, nhiều lần
sanh tử vì mắc nhiều
nghiệp hữu lậu. Khi còn
nghiệp hữu lậu thì phải thọ
sanh thân hữu lậu trong
tam giới và gọi là
chúng sanh. Như vậy, hễ còn một chút
vô minh, một niệm
tham ái, một chút
hữu lậu thì còn là một
chúng sanh.
Chúng sanh có tướng
chúng sanh và tánh
chúng sanh. Tướng
chúng sanh là
chúng sanh mang
thân hình của
tứ đại vô thường. Tánh
chúng sanh là những tánh
chấp ngã, chấp nhơn,
phân biệt mình, người. Nếu còn mắc
hình tướng chúng sanh, nhưng không còn tánh
chúng sanh là
vô minh,
thì giờ phút đó không còn là
chúng sanh nữa. Tự
bản tánh không là
chúng sanh, nhưng nếu còn móng niệm
vọng tưởng là còn
chúng sanh. Móng niệm tham thì thành
chúng sanh của niệm tham, cho nên móng niệm sân, si,
chấp ngã, thì thành
chúng sanh của các niệm ấy. Nhưng nếu
ngộ nhập lý
Vô ngã, tức là
vô lậu, thì không còn
luân hồi và bấy giờ không còn là
chúng sanh nữa.
Đức Phật mặc dầu Ngài
hiện diện trên
thế giới chúng ta, Ngài có
sanh tử như
chúng ta, nhưng không thể gọi Ngài là
chúng sanh được, mà gọi Ngài là một vị Phật. Vì sao? Vì Ngài đã hết
vô minh, hết
chấp ngã, cái tưởng
chúng sanh vẫn còn nhưng tính
chúng sanh nơi Ngài không còn nữa. Khi nhìn một
chúng sanh, ta thấy người ấy vừa là tính vừa là tướng, cho nên khi nào ta độ cho ta và cho người
giải thoát khỏi sự
ràng buộc của tham, sân, si thì đó là
độ sanh. Như vậy, việc
độ sanh rất đa dạng và
tế nhị, nếu có
Bồ-đề tâm thì lúc nào cũng có thể
độ sanh. Người
Phật tử phải theo
học hạnh từ bi của Phật,
phát nguyện độ
vô biên chúng sanh.
Lời nguyện đó không phải là
lời nguyện suông không thể
thực hành được trong hàng ngày. Phật dạy có nhiều cách
độ sanh: Không
phá hoại sự sống của muôn loài, đó là
độ sanh.
Bảo vệ sự sống, phóng thích sự sống cho muôn loài, đó là
độ sanh. Làm cho
chúng sanh được
giác ngộ giải thoát khỏi
vô minh ái thủ, đó là cách
độ sanh cao thượng nhất. Ta có thể
thực hành hạnh
bố thí,
ái ngữ, lợi hành,
đồng sự hoặc
thực hành lục độ Ba-la-mật để
độ sanh. Hiểu như vậy, mới thấy rõ lời dạy của Phật
vô cùng thấm thía. Khi nào biết nghĩ tới tự độ và
độ tha, khi đó là Bồ-tát, là
ý nghĩa của câu
chúng sanh vô biên thệ nguyện độ.
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạnKinh nói
phiền não có 88 thứ hoặc
vô lượng vô biên phiền não, nhưng
tóm lại không ngoài
vô minh, ái và thủ.
Vô minh là sự
chấp ngã, chấp mình có một cái ta riêng khác với
mọi người,
mọi vật. Nhưng
ngã không phải là một cái gì
độc lập riêng rẽ với cái khác mà chỉ là sự tương quan tương duyên với cái khác mà có. Tôi
hiện hữu nhờ có anh, anh
hiện hữu nhờ có tôi. Tôi
hiện hữu được nhờ những
yếu tố khác như
cha mẹ, cơm áo, ánh sáng, không khí, đất, nước, gió, lửa và nhiều sự vật
xung quanh, chứ không phải tách ngoài các cái đó mà có sự
hiện hữu của tôi. Người khác
cũng thế, không phải tách ngoài
mọi người,
mọi vật mà có sự
hiện hữu tồn tại ngoài cái khác để bảo đó là ta. Ai còn thấy mình khác với người khác thì người đó còn
vô minh, chính vì sự thấy ấy không đúng với
thực tại. Như vậy, ta chỉ nói ngã trên những cái
phi ngã, ngã chính là
phi ngã, nên ngã chỉ là
giả danh.
Thực tại, là
đạo lý duyên khởi mà nếu nghĩ khác đi thì đó là
vô minh, vì
vô minh mới sinh ra ái thủ.
Chúng ta lấy ví dụ, có hai người lúc đi ngang qua một cánh đồng, cả hai người cùng thấy hoa, một trong hai người thấy hoa,
tự nhiên không
để ý đến nó và cứ
tiếp tục đi, còn người kia thấy hoa lại cho là đẹp mà không biết
bản chất của hoa là không đẹp không xấu, bởi nó nở là nở
tự nhiên. Nhưng anh ta
vọng tưởng cho hoa là đẹp và ưa hoa đó, muốn hái hoa đó, muốn
sở hữu hoa đó cho bằng được. Khi đã yêu thích nó thì ban ngày hái không được sẽ chờ hái ban đêm, đêm hái không được thì
ăn cắp cho được. Như vậy là anh ta
vô minh cho nên mới có ái, có ái cho nên có thủ, dẫn đến hành động tạo nghiệp.
Chúng sanh vì ái thủ mà tạo nghiệp nên có
luân hồi.
Đức Phật dạy
chúng sanh muốn không bị
luân hồi thì phải đoạn ái thủ. Ai ngộ được
chân lý đó thì bớt
đau khổ, ai không ngộ được thì
đau khổ lâu dài. Song muốn đoạn tận gốc ái thủ thì phải đoạn
vô minh, muốn đoạn
vô minh thì phải
hiểu rõ thực tướng của
vạn pháp là
duyên sanh vô tướng,
duyên sanh vô tác…
Đạo lý Thập nhị nhân duyên Đức Phật dạy
rõ ràng như vậy. Muốn đoạn
phiền não thì phải có một tâm
tỉnh giác. Cho nên, trong phép
tu Thiền luôn luôn dùng hai chữ
tỉnh giác.
Tỉnh giác trong khi đi, đứng, nằm, ngồi, khi ăn, khi mặc, khi ngủ, khi thức…
cho đến khi không tham, không sân, không si, cũng
biết mình không có ba thứ ấy xâm chiếm. Cách
đối trị các
phiền não thì nhiều nhưng cách
tỉnh giác vẫn là
phương pháp hữu hiệu nhất. Ví dụ khi mình
khởi tâm tham liền biết và dặn lòng đừng tham, ngay khi ấy lòng tham sẽ lắng xuống. Phép
tỉnh giác trong
Thiền định giúp ta
tĩnh tâm trong những công việc và
cử động hàng ngày. Nếu luôn luôn
tỉnh giác thì
vô minh, ái thủ không làm sao
xâm nhập được, tợ như cây bị đốn trụi cành lá, không phát triển được tất sẽ chết.
Tóm lại,
phiền não vô tận thệ nguyện đoạn, chủ yếu là đoạn
vô minh, ái thủ, vì nó là một mắt xích rất
kiên cố, đoạn nó thì phải dùng đến tâm
tỉnh giác.
Pháp môn vô lượng thệ nguyên họcTrong suốt 45 năm giảng dạy cho
chúng sanh,
Đức Phật không đưa ra một
pháp môn nhứt định nào hết, nhưng
chúng sanh thấy lời Ngài dạy thì thật
vô lượng, nó như một phương thuốc trị bệnh.
Chúng sanh bệnh khổ.
Nguyên nhân khổ của
chúng sanh là
vô minh, ái và thủ gây ra. Ba thứ giặc
phiền não này biến ra muôn hình vạn trạng, nên pháp của Phật cũng có nhiều cách để
đối trị. Ví dụ, người có tâm
tham dục nhiều thì Phật dạy
tu pháp quán bất tịnh, người có tâm
sân hận nhiều thì Phật dạy tu phép
quán từ bi, người có tâm
trì độn nhiều thì Phật dạy
tu pháp quán giới
phân biệt,
quán nhân duyên.
Tóm lại,
pháp môn của Phật
tùy theo căn bệnh của
chúng sanh mà
biến chế ra, chứ không có một phương thức gì
nhất định. Trong kinh Phật có nêu 37 Pháp
trợ đạo, Tứ nhiếp, Lục độ… cũng
y như những phương thuốc trị bệnh cho
chúng sanh mà thôi. Trong thời
Đức Phật tại thế, có
một lần, các Tỳ-kheo trong khi đi
hóa đạo, có dạy cho hai
đệ tử cư sĩ thợ rèn và thợ giặt, tu hai
pháp môn quán bất tịnh và quan
sổ tức, cả hai đều tu mà không có kết quả. Họ đi đến hầu Phật trình bày việc trên. Phật hỏi: “Ông ở nhà sống về nghề gì?”. Ông
cư sĩ thợ rèn thưa: “Con sống về nghề thợ rèn”. Phật hỏi tiếp: “Các Tỳ-kheo dạy ông
tu pháp gì?”. “Dạ! Các Thầy dạy con tu phép quán bất tịnh”. Phật cũng hỏi ông
cư sĩ thợ giặt sống nghề gì; ông ta thưa: “Làm nghề thợ giặt”. Phật hỏi: “Các Tỳ-kheo dạy ông tu phép gì?”. Ông đáp: “Dạ! Các Thầy dạy con tu phép quán sổ tức”.
Đức Phật dạy: Thôi được, bây giờ Ta chỉ thay đổi
phương pháp tu một chút để cho hợp
căn cơ hai ông”. Ngài liền dạy: “Ông thợ rèn nên tu phép
quán sổ tức, vì hàng ngày thợ rèn phải thụt ống lò hợp với
hơi thở vô
hơi thở ra của phép
quán sổ tức. Còn ông thợ giặt thì nên tu phép
quán bất tịnh, vì hàng ngày thợ giặt phải giặt đồ nhơ thì
quán bất tịnh dễ thành”. Phật đổi cho họ
phương pháp tu như vậy, họ tu một
thời gian sau đó có kết quả. Như thế,
pháp môn của Phật chỉ là phương thuốc để cứu
chúng sanh thoát khổ theo đúng
căn cơ, Do vậy, người
học đạo phải tìm minh sư,
nếu không gặp minh sư thì
cố gắng lựa chọn cho được
pháp môn thích hợp mà tu thì mới dễ có kết quả.
Tóm lại, dù Phật có
vô lượng pháp môn nhưng không ngoài ba
pháp môn căn bản nhất đó là Giới, Định, Tuệ. Giới là gì? Là điều để ngăn chặn
tai hại xảy ra. Có giới để giúp ta
nhận thức rõ hành động của mình như thế nào là đúng, như thế nào là sai để ngăn chặn sự sai quấy của
ba nghiệp, bởi vì tâm và
ba nghiệp của ta như ngựa không cương, khi buông ra sẽ chạy rong khắp chốn, tức nhiên là
tai họa. Giới cũng như dây cương, ngựa như người
hành giả, ngựa có cương đó là ngựa tốt, có
lợi ích; người
tu hành, có giới cũng vậy, sẽ có
lợi ích lớn. Định là gì? Là tập trung
tư tưởng.
Tư tưởng có ổn định thì
việc làm mới có
hiệu quả.
Pháp môn Thiền định là
pháp môn tu rất quý đã có từ xưa tại
Ấn Độ, được
Đức Phật sửa đổi bổ sung tạo thành
pháp môn ưu việt, đưa thẳng đến
giác ngộ cứu cánh,
đồng thời cũng từng bước đem lại
lợi lạc,
hạnh phúc cho
hành giả. Tuệ là gì? Là
trí tuệ. Tuệ có ba thứ là
Văn tuệ,
Tư tuệ, Tu tuệ.
Văn tuệ là nhờ
chú tâm nghe đọc là
hiểu rõ được
ý nghĩa của câu văn,
lời nói.
Tư tuệ là nhờ
suy nghĩ hiểu rõ câu văn,
lời nói. Nhờ đó mà ta
hiểu rõ vấn đề trong
thực tế. Tu tuệ là
thực hành ngay cả cái
Tư tuệ, tức những gì mình đã
suy nghĩ,
đúng đắn, liền
thực hành ngay theo sự
suy nghĩ đó.
Thí dụ như có một người quá nghèo, không
bố thí được nhiều nhưng với
tâm từ bi, họ đem một hạt cơm để
bố thí cho kiến, cũng là một cách Tu tuệ.
Tóm lại,
pháp môn nào của Phật, nếu
cố gắng suy tư thật kỹ và sau đó
áp dụng từng bước hay từng
hoàn cảnh cụ thể,
tự nhiên thấy
khai tâm mở trí và ngay khi đó hưởng được sự
an lạc.
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thànhLời nguyện này có hai
chừng mực áp dụng:
Thành Phật đạo một cách
viên mãn như
Đức Phật và
thành đạo từng phần một như những người đang tu. Nếu mỗi ngày mình có
độ sanh, có đoạn
phiền não, có
hành thiện pháp thì cũng là mỗi ngày mình có
thành Phật đạo, chứ không hẳn phải chờ một ngày nào đó ngồi dưới cội Bồ-đề mới gọi là
thành Phật đạo. Đây là
ý nghĩa câu: “Chư Phật là Phật đã thành,
chúng sanh là Phật sẽ thành”. Vậy trong việc
tu tập, giờ phút nào mình không còn
tham ái, không còn
sân si, không còn
vô minh,
thì giờ đó mình cũng
thành Phật đạo, tức
thành tựu lời dạy của Phật,
thành tựu sự giải thoát giác ngộ từng phần.
Tóm lại, bốn
lời nguyện trên là
hành tướng của Bồđề tâm, ai
thành tựu bốn
lời nguyện đó là
thành tựu Bồ-đề tâm. Bốn
lời nguyện này có thể nói là thâu tóm tất cả các
nguyện lực khác.
Phật tử tụng kinh hàng ngày với bao nhiêu
lời nguyện cũng đều là
thực hiện Bồ-đề tâm.
Thí dụ như tụng: Nguyện tiêu
tam chướng trừ phiền não Nguyện đắc
trí tuệ chơn
minh liễu Phổ nguyện tội chướng tất
tiêu trừ Thế thế thường hành Bồ-tát đạo. Hoặc: Nguyện đem
công đức này Hướng về khắp tất cả
Đệ tử và
chúng sanh Đều trọn
thành Phật đạo. Đây là những
thể hiện Bồ-đề tâm qua bốn lời
thệ nguyện.
Tạp chí
Văn Hóa Phật Giáo số 288 ngày 1-1-2018