Bài Pháp thoại của Thiền Sư như dưới đây sẽ giúp những ai đang trên đường hành trì giáo pháp thâm diệu của Đức Thế Tôn có thể vượt thoát mọi buộc ràng của tư duy lưỡng nguyên và từ đó khám phá ra cái vô tận, vô thỉ, vô chung của cái Không trong Bát Nhã. Và nếu bạn là nhà khoa học bạn sẽ chạm được tánh Không trong Phật học nhờ cái Không của lượng tử mà các bạn đã quan sát được trong quá trình thí nghiệm. Và từ đó, nhà Khoa học có thể nắm tay nhà Phật học đi chung trên con đường nghiên cứu và phụng sự. Phù Sa.
Không gian không phải là một pháp vô vi. Không gian chỉ biểu hiện chung với thời gian, vật thể và tâm thức. Chúng ta có thể bắt đầu bằng
ý niệm về
không gian (spaces) mà trong “
Một trăm pháp” được
liệt kê là một trong những
Pháp vô vi.
Hư không là vô vi.
Tại Làng Mai
chúng ta không chủ trương
Hư không là một
pháp vô vi. Cho nên
chúng ta nói rằng
hư không, không gian không phải là một pháp vô vi. Không gian chỉ biểu hiện chung với thời gian, vật thể và tâm thức. Và quý vị có thể ghi lại câu đó như một trong những chủ trương của Làng Mai. Cố nhiên chủ trương này kéo theo nhiều chủ trương khác cùng một loại.
Ngày xưa khi các thầy nhìn và thấy rằng các vật thể như cái bàn, cái nhà, cái hoa, đám mây… đều thay đổi, đều
vô thường, đều
vô ngã, đều thay đổi hết. Cái gì cũng do những
nhân duyên, những
điều kiện tập
hợp lại mà biểu hiện.
Vì vậy cho nên chúng là
hữu vi.
Cái bông, con người, cái bàn hay là đám mây… tất cả đều bị điều kiện hóa. Và khi những
điều kiện đó không còn đầy đủ nữa thì chúng tan rã. Những vật đó được gọi là những
pháp hữu vi.
Nhưng
hư không nhìn thấy giống như là
thường hằng, nó không bị dính tới những cái khác. Dầu có mây hay không có mây, dầu có mưa hay không có mưa, dầu có
tâm thức hay không có
tâm thức, dầu có
mặt trăng hay không có
mặt trăng, dầu có
mặt trời hay không có
mặt trời thì
hư không vẫn là
hư không.
Hư không là một
Pháp vô vi, không bị
lệ thuộc vào các pháp khác. Đó là cái thấy của một số thầy trong
quá khứ.
Học “Một Trăm Pháp”,
chúng ta thấy rằng có nhiều
Pháp vô vi.
Chân như là một
Pháp vô vi.
Chân như không sinh không diệt, không
tùy thuộc vào những
điều kiện.
Vì vậy Chân như là
vô vi. Khi các thầy
quan sát không gian thì các thầy thấy rằng
không gian cũng
không sinh không diệt.
Không gian không có
tùy thuộc vào những
điều kiện. Và
vì vậy cho nên
không gian được gọi là một
Pháp vô vi.
Nhưng Làng Mai không đồng ý. Tại Làng Mai chúng ta thấy rằng không gian là một ý niệm. Ý niệm về không gian được tạo ra bằng các ý niệm về thời gian, vật thể và tâm thức. Nhà bác học Einstein[1] có nói tới không gian bốn chiều. Không gian ba chiều có: chiều ngang, chiều dọc và chiều sâu. Nhưng không gian còn có chiều thứ tư là chiều thời gian. Nếu quán sát kỹ thì chúng ta thấy rằng: không gian được làm bằng thời gian và thời gian được làm bằng không gian. Không gian được làm bằng vật thể, vật thể làm bằng không gian. Và trong ánh sáng của khoa học hiện đại chúng ta có thể thấy rõ là không gian trước hết là một ý niệm. Ý niệm không gian không thể tách rời ra khỏi ý niệm thời gian. Ý niệm về không gian không thể tách rời ý niệm vật thể. Và nhất là không tách rời ra khỏi cái ý niệm về tâm thức. Vì vậy cho nên không gian không là một thực tại khách quan, mà không gian là một sáng tạo của tâm thức. Không gian chứa đựng thời gian, chứa đựng vật thể, chứa đựng tâm thức. Nếu lấy tâm thức ra, lấy vật thể ra, lấy thời gian ra thì không gian không còn là không gian nữa. Vì vậy cho nên không gian không phải là một Pháp vô vi.
Trong
kinh Hoa Nghiêm chúng ta cũng thấy được điều này:
cái một chứa đựng cái tất cả, một
vi trần chứa đựng
tam thiên đại thiên thế giới. Mà
vi trần tức là vật thể, vật thể có
liên hệ tới
không gian. Khoa học
cho biết là nơi nào có vật thể thì
không gian ở đó, nơi nào có sự cô đọng nhiều của vật thể thì
không gian ở đó nó cong lại.
Vì vậy cho nên vật thể với
không gian tương tức, chúng
ảnh hưởng với nhau. Nói rằng
không gian không bị
ảnh hưởng bởi vật thể là nói sai,
không gian là vật thể, vật thể là
không gian. Sắc với
Không rất gần nhau, chúng là nhau. Và cái một nó chứa đựng cái tất cả, đó là nói về
không gian.
Đứng về phương diện thời gian cũng vậy. Thời gian được chia ra làm ba thời : quá khứ, hiện tại và tương lai. Tại Làng Mai chúng ta hay nói rằng sống trong giây phút hiện tại và không bị quá khứ và tương lai kéo đi. Nếu không khéo, chúng ta nghĩ rằng ba cái : quá khứ, hiện tại và tương lai chúng tồn tại độc lập. Chúng ta sẽ rơi vào chủ trương của Hữu bộ[2] là tất cả đều có: quá khứ, hiện tại và tương lai. Nhưng cái thấy của Làng Mai là ba thời tương tức. Quá khứ hiện tại và tương lai dung chứa nhau. Trong quá khứ có hiện tại có tương lai. Trong tương lai có quá khứ và hiện tại. Và trong hiện tại có quá khứ và có tương lai. Nếu chúng ta tiếp xúc được với hiện tại một cách sâu sắc, chúng ta có thể tiếp xúc được quá khứ và tương lai ngay trong giây phút hiện tại. Đó là cái thấy của Làng Mai. Nếu chúng ta hành xử, chăm sóc giây phút hiện tại với tất cả tấm lòng với tất cả năng lượng niệm định tuệ tức là chúng ta đang chăm sóc quá khứ, đang chăm sóc tương lai. Và vì vậy cho nên đứng về phương diện thời gian cũng là tương tức, một giây phút chứa đựng tất cả các giây phút khác, một giây phút chứa đựng thiên thu.
Đứng về
phương diện không gian cái một chứa đựng cái tất cả. Đứng về
phương diện thời gian thì giây phút chứa đựng
thiên thu.
Đi xa thêm bước nữa, theo
kinh Hoa Nghiêm, không những
không gian chứa đựng
không gian,
thời gian chứa dựng
thời gian mà
không gian còn chứa đựng
thời gian, và
thời gian chứa đựng cả
không gian.
Chúng ta có những câu kinh trong
kinh Hoa Nghiêm nói rất
rõ ràng về chuyện này. Không những một
hạt bụi chứa đựng cả
vũ trụ mà
hạt bụi đó chứa đựng cả
thời gian.
Thời gian chứa đựng
không gian và
không gian chứa đựng cả
thời gian.
Vì vậy cho nên
không gian và thời gian không phải là những Pháp vô vi. Và nó cũng tương tức.
Chúng ta đã bắt đầu thấy được chủ trương cái thấy về
không gian nó kéo theo cái thấy về
thời gian. Cái thấy về
không gian là cái thấy
tương tức, là thấy cái một trong cái tất cả và
chúng ta cũng đã bắt đầu thấy được cái
thời gian nó cũng như vậy, cái giây phút nó chứa đựng cái
thiên thu. Tính
tương tức của
không gian mình thấy được, tính
tương tức của
thời gian mình thấy được và mình thấy luôn được tính
tương tức của
không gian và
thời gian.
Ý niệm của mình về
không gian có được là nhờ mình có
ý niệm về
thời gian.
Ý niệm không gian và
thời gian mình có được là cũng nhờ mình có
ý niệm về vật thể.
Vì vậy rõ ràng không gian không phải là một
Pháp vô vi. Nếu
chúng ta chia ra các Pháp làm hai loại, một là
vô vi hai là
hữu vi thì
chúng ta không có thể nói
không gian thuộc về
Pháp vô vi.
Nếu mà nói có
Pháp vô vi thì chỉ có một Pháp thôi, đó là
Niết bàn, đó là
Chân như, đó là
tự tính không sinh không diệt, đó là nền tảng của tất cả các Pháp.
Vì vậy cho nên ở Làng Mai, nếu
chúng ta cần
phân biệt tất cả các Pháp thì
chúng ta nói rằng tất cả các Pháp đều là
hữu vi trừ một Pháp là
không hữu vi thôi, Pháp đó là
Niết Bàn. Cũng như là tất cả các đợt sóng ở trên biển đều có lên có xuống, chỉ có một cái không lên không xuống đó là nước.
Niết Bàn là nền tảng của tất cả các Pháp. Nhưng tới đây
chúng ta thấy rằng chia các Pháp ra làm hai loại, một loại là
hữu vi, một loại là
vô vi cũng là tạm bợ.
Chúng ta không có thể để
Niết Bàn ngang hàng với các
Pháp hữu vi và gọi nó là một Pháp. Thật ra
chúng ta không có thể nói
Niết Bàn là một Pháp được. Dể hơn là
chúng ta nói
Niết Bàn là nền tảng của tất cả các Pháp. Cũng như
chúng ta không có thể nói nước là một trong những đợt sóng.
Chúng ta phân biệt ra nước và sóng thì
chúng ta thấy rằng có hàng ngàn đợt sóng.
Chúng ta gọi những đợt sóng đó là những
Pháp hữu vi có lên có xuống, có sanh có diệt. Và
chúng ta có một cái
Pháp không sanh không diệt không lên không xuống, gọi là nước. Và
chúng ta cho nước là một Pháp và
chúng ta đặt nước lên
ngang hàng với sóng, đó là một sự
sai lầm. Sóng với nước không có thể đặt
ngang hàng được. Không có thể coi nước là một đợt sóng.
Đứng về
phương diện Niết Bàn và các
Pháp hữu vi cũng như vậy.
Chúng ta đã học đủ để có thể thấy rằng đứng về
phương diện hiện tượng thì
Niết Bàn và các
Pháp hữu vi đều
có sinh, có diệt, có có, có không, có còn, có mất. Đó là đứng về
phương diện hiện tượng, đứng về
phương diện tích môn mà nói. Còn đứng về
phương diện bản môn thì
các Pháp không sinh không diệt không tới không đi. Các Pháp đó đứng về
phương diện hiện tượng ta nói là
hữu vi. Như những cái bông cúc này, bông cúc là một
Pháp hữu vi là
tại vì mình thấy rằng bông cúc này nó
tùy thuộc vào các
điều kiện để nó biểu hiện và nó
tùy thuộc vào những
điều kiện để nó tan rã. Và
vì vậy cho nên bông cúc là
hữu vi.
Các pháp đều là vô vi.
Nhưng đứng về phương diện bản môn thì tự tánh của bông cúc là không sinh không diệt, không có không không, không còn không mất. Và
vì vậy cho nên nhìn kỹ thì bông cúc nó cũng là
vô vi. Đứng về
phương diện hiện tượng ta nói nó là một
Pháp hữu vi, đứng về
phương diện bản thể ta gọi nó cũng là một
Pháp vô vi. Điều này thấy rõ trong
giáo lý đại thừa thị chư Pháp không tướng, bản tính của
chư Pháp là không,
không sinh không diệt không dơ không sạch không thêm không bớt. Và như vậy
không có Pháp nào là hữu vi hết, tất cả các Pháp đều là vô vi hết. Ta thấy nó là
hữu vi nhưng kỳ thực các Pháp vốn thật là
vô vi, không
sanh không diệt không lên không xuống không có
không không. Và
vì vậy cho nên
ban đầu ta nói rằng là
không gian không phải là một
Pháp vô vi. Nhưng bây giờ
chúng ta lại nói ngược lại
không gian cũng là một Pháp vô vi. Thành ra câu này là một cơ hội, nó là một
phương tiện để
chúng ta đi vào chứ không phải là một
giáo điều chúng ta mắc kẹt.
Ban đầu chúng ta nói rằng
hư không không phải là một
Pháp vô vi, mà giống như
chúng ta bị kẹt vào cái sự
phân biệt giữa
hữu vi và
vô vi. Nhưng nhờ có
quán chiếu,
chúng ta có thể
buông bỏ được danh từ,
buông bỏ được
ý niệm cho nên
chúng ta có thể thấy được rằng là cái
hư không nó cũng là
vô vi. Trước hết nó là một
ý niệm, cũng như là cái bông cúc. Và khi ta kẹt vào cái tướng của
hư không cũng như cái tướng của bông cúc đó thì ta không có
an lạc không có
hạnh phúc.
Chúng ta còn
sợ hãi, còn luyến tiếc. Nhưng mà khi
chúng ta tiếp xúc được cái
tự tánh không sanh không diệt,
tự tánh Niết Bàn của
không gian và
thời gian của bông cúc. Lúc đó
chúng ta không còn luyến tiếc,
chúng ta không còn
sợ hãi nữa.
Vì vậy cho nên cái
định đề thứ nhất nó
đưa tới cái
định đề thứ hai.
Đứng về tích môn tất cả các Pháp đều hữu vi, đứng về bản môn tất cả các pháp đều vô vi. Đó là chủ trương của Làng Mai.
Sinh tử chính là Niết bàn, cái Hữu vi chính là cái Vô vi
Vì vậy ta thấy được rằng
vô vi không phải là một Pháp, mà vô vi là nền tảng của các Pháp. Nếu quý vị tới từ
truyền thống của
Cơ đốc giáo quý vị có thể có những khó khăn trong khi nghĩ tới
Thượng đế.
Tại vì trong
thần học Cơ đốc giáo Thượng đế là tạo hóa, còn tất cả những gì mình thấy đây, mình cảm nhận, mình
tiếp xúc đây là tạo vật. Và có những nhà
thần học Cơ đốc giáo đã từng
tuyên bố rằng
Thượng đế là nền tảng của hiện hữu, quan niệm đó rất gần với vô vi Niết Bàn. Nếu nói rằng
Thượng đế là nền tảng của
hiện hữu thì cũng gần giống như nói rằng
Niết Bàn là bản môn của tất cả các
sinh diệt, của các cái mà mình gọi là
sinh diệt. Đi tìm
Niết Bàn không phải tìm trong cái
sinh diệt, ở trong
sinh diệt có
Niết Bàn.
Sinh diệt chẳng qua chỉ là những cái
ảo giác của mình.
Sự thật bản chất của bông cúc hay là của
đám mây nó là
Niết Bàn, nó là
vô sinh bất diệt.
Đạo Phật có cái thấy đó và có sự
chấp nhận đó. Tất cả các
Pháp hữu vi đều
dựa trên một
Pháp vô vi mà có, mà biểu hiện đó là
Niết Bàn. Nhưng
vô vi không phải là một Pháp riêng biệt,
vô vi là chiều sâu của
hữu vi. Phải
tiếp xúc được với
hữu vi tức là thấy được cái tính
vô vi của tất cả các Pháp. Và
vì vậy cho nên không rời tích môn mà vẫn
tiếp xúc được với bản môn, bản môn nằm trong tích môn. Còn trong
Cơ đốc giáo nó vẫn còn có sự khó khăn của một số nhà
Thần học coi mình là tạo vật, mà tạo vật thì không thể nào được
lẫn lộn với đấng Tạo hóa. Cái nhìn đó vẫn còn nặng nề
tính chất lưỡng nguyên. Nói như
vậy thì câu
tuyên bố Thượng đế là nền tảng của thực hữu của nhà
Thần học kia thì nên hiểu như thế nào? Trong
đạo Phật thì rất rõ,
cái không sinh diệt nằm ngay trong cái sinh diệt. Và mình không
cần phải chối bỏ cái
sinh diệt, mình không cần
chạy trốn cái
sinh diệt mà mình vẫn
tìm ra được cái
không sinh diệt, như đợt sóng nó không cần đi tìm nước, nó chính là nước.
Sinh tử chính là Niết Bàn, cái hữu vi chính là cái vô vi. Cơ đốc giáo vẫn còn có sự
lúng túng ở điểm này. Đã có những nhà
thần học bước tới và nói rằng mình chính là
Thượng đế,
Thượng đế chính là mình,
Thượng đế chính là gốc gác
bản chất của mình.
Bản chất của mình là
thiêng liêng, là thần. Nhưng đứng về
phương diện bản thể học thì nó vẫn còn có cái gì kẹt,
tại vì nhận thức lưỡng nguyên vẫn còn đó.
Khuynh hướng cho rằng
Thượng đế là
nguyên nhân của
mọi vật,
Nguyên nhân là một cái gì đó tách rời với
kết quả,
cái nhân không phải là cái quả, điều đó không
phù hợp với cách
quán chiếu, cách
nhận thức của
đạo Phật.
Trong đạo Phật cái nhân với cái quả nó không phải là hai, quả là sự tiếp nối của nhân, nhìn vào trong quả mình thấy nhân được. Và trong
đạo Phật chúng ta nói tới cái
chân như duyên khởi,
chân như là một
điều kiện làm phát sinh ra tất cả mọi sự vật. Và
chân như nó giống như là nhân và
vạn hữu tức là quả.
Về điểm này trong
đạo Phật rất là
thông suốt,
chân như không phải là một cái gì có mặt ngoài
vạn hữu. Nếu
tiếp xúc vạn hữu sâu sắc thì mình
tiếp xúc được
chân như, cái tánh và cái
tướng không phải là hai. Tướng tức là
hiện tượng còn tánh tức là
bản thể. Và
vì vậy cho nên để
Niết Bàn ngang hàng với các Pháp khác là một
sai lầm. Chia các Pháp ra làm hai loại, những
Pháp hữu vi là khác, những
Pháp vô vi là khác cũng là sự
sai lầm. Cho nên câu thứ hai này nói rõ được
lập trường của Làng Mai là
đứng về phương diện hiện tượng, đứng về phương diện tích môn thì các Pháp là hữu vi có sinh có diệt, có có có không, có còn có mất. Nhưng đứng về phương diện bản môn, đứng về phương diện bản thể thì tự thân của các Pháp là không sinh không diệt, không có không không, không đi không tới. Và đó là điều
chúng ta thấy ở trong
Tâm Kinh Bát Nhã :
“Thị chư Pháp không tướng bất sinh bất diệt bất cấu bất tịnh”…
Cửa vô sinh mở rồi
Sự
thực tập ở Làng Mai căn cứ trên những
nhận thức như vậy về
giáo lý.
Chúng ta sẽ
tiếp tục khám phá những chủ trương
giáo lý của Làng Mai. Đây không phải là triết lý, không phải là
siêu hình học. Ví dụ khi
chúng ta đi thiền hành, nếu
niệm và
định của
chúng ta hùng hậu thì không những ta
tiếp xúc được với tích môn,
tiếp xúc được với những
mầu nhiệm của
vạn hữu. Những
mầu nhiệm đó có
tính cách vô thường vô ngã, nhưng chúng rất đẹp, rất là
nuôi dưỡng. Phải có niệm, có định mới
tiếp xúc được với cái đẹp, cái
mầu nhiệm của cuộc sống có khả năng
nuôi dưỡng trị liệu. Nhưng nếu cái niệm cái định đó hùng hậu hơn nữa thì ta
tiếp xúc luôn được cái bản môn và thấy được những cái
mầu nhiệm đó cũng
không sinh không diệt, không có
không không. Và đó là
ý nghĩa câu chót của
bài hát “
Đã về đã tới bây giờ ở đây”.
“Đã về đã tới bây giờ ở đây” là những
Pháp môn hữu vi. “
Vững chãi thảnh thơi, quay về nương tựa, nay tôi đã về, nay tôi đã tới, an trú bây giờ, an trú ở đây” là mình
an trú trong tích môn và nhờ
an trú đó cho nên mình có
vững chãi và
thảnh thơi. “
Vững chãi như núi xanh, thảnh thơi dường mây trắng”. Nếu mình
thực tập sâu sắc thì khi mình
tiếp xúc với tích môn, với cái
hiện tượng, mình
tiếp xúc luôn được với bản môn tức là
bản thể. Mình
tiếp xúc được với cái tướng và mình
tiếp xúc luôn được với cái tánh. Mình
tiếp xúc được với đợt sóng nhưng mình
tiếp xúc được luôn với nước ở trong đợt sóng, cái đó gọi
là cửa vô sinh mở rồi. Cửa
vô sinh mở rồi nghĩa là con đang đi trong tích môn nhưng mà con dẫm được vào bản môn, cửa
vô sinh mở rồi là như vậy.
Vô sinh tức là
không sinh không diệt, không có
không không, đó là
Niết bàn, đó là
Pháp vô vi. Mà
Pháp vô vi không phải là một Pháp riêng biệt nằm ngoài
Pháp hữu vi.
Pháp vô vi là nền tảng của tất cả các Pháp gọi là
hữu vi nhưng mà thật sự không phải là
hữu vi; tất cả đều
vô vi. Trong
kinh Pháp Hoa cũng nói vậy,
bản chất của các Pháp từ
xưa nay vẫn là
tịch diệt,
Chư Pháp tùng bản lai thường từ tịch diệt, các Pháp từ xưa
đến nay nó
an trú trong cái
tự tánh Niết Bàn của nó, nó không có
sanh không có diệt như là mình tưởng đâu.
Vì vậy cái thấy của Làng Mai căn cứ trên cái thấy của
Phật giáo nguyên thủy và nó
thừa hưởng được những cái thấy sâu sắc của
Phật giáo đại thừa trong khi mình
tiếp xúc với những
mầu nhiệm của sự sống, của
thế giới tích môn. Nó rất
đơn giản nhưng lại có
tính cách nuôi dưỡng và
trị liệu. Hơn thế nữa, nếu
chúng ta tu tập khá hơn thì
niệm và
định của mình giúp mình
tiếp xúc luôn với
bản môn để mình vượt thoát
sinh tử.
Mình đang đi trong thế giới sinh diệt, tự nhiên mình dẫm được vào thế giới chân như, đó là cửa vô sinh mở rồi. Cửa
vô sinh chưa bao giờ đóng, chỉ vì niệm và định của mình không đủ sâu sắc cho nên mình không dẫm lên được cái
vô sinh. Và
vì vậy cho nên
đi thiền hành cũng có
thể đạt tới sự vượt thoát
sinh tử, khi mình dẫm được vào cái chỗ
vô sinh./.
Trích trong Pháp thoại Thầy Nhất Hạnh giảng ngày 17/11/2005 tại Xóm Mới - Làng Mai trong mùa An cư kiết Đông 2005. Bài này cũng đã được chọn làm định đề đầu tiên trong 40 định đề giáo lý Làng Mai đã được in thành sách dưới tựa đề LÀNG MAI NHÌN VỀ NÚI THỨU xuất bản lần đầu vào mùa Xuân năm 2014. Để có sách này, bạn có thể liên lạc với nhà xuất bản Phương Nam Book: http://www.phuongnambook.com.vn/index.php