Pháp hành thiền là
trung tâm điểm và phần nòng cốt của
Giáo Pháp mà
Đức Phật truyền dạy. Đề tài rộng
mênh mông, nơi đây sẽ
thảo luận về vài sắc thái của
thiền tập trong
Phật Giáo liên quan đến Tứ Niệm Xứ (Satipatthàna), "sự áp đặt hay gắn chú niệm vào."
Thế gian ngày nay không còn giống như ở vào nửa thế kỷ về trước.
Quan niệm về những gì tốt và những gì xấu đã thay đổi nhanh chóng,
thái độ tinh thần đối với những gì hợp
đạo lý và những gì không hợp lẽ đạo luôn luôn
chuyển biến, và cái nhìn chung vào
con người cũng trở nên khác biệt nhiều.
Chúng ta đang sống trong
thời đại hối hả, gắp rút và nhanh chóng.
Căng thẳng, ở đâu và nơi nào cũng
căng thẳng. Nếu đứng ở một góc đường nhộn nhịp và nhìn kỷ sắc mặt của người qua kẻ lại luôn luôn vội vã hấp tấp, quý vị sẽ
nhận thấy rằng phần lớn những người ấy có vẻ
lăng xăng lộn xộn,
nghĩ ngợi lo âu, không có mấy người thấy
thoải mái. Họ
mang theo với họ bầu không khí
căng thẳng. Phần lớn họ là
hình ảnh của
lo âu và rộn rịp.
ít khi ta gặp
hình ảnh tĩnh lặng,
hài lòng và ngơi nghỉ. Đó là
thế gian hiện đại.
Đặc điểm của
thế gian ngày nay là
hối hả vô
trật tự, dẫn đến
quyết định nhanh chóng và hành động kém
thận trọng. Người
ta la to nói lớn trong khi có thể ăn nói
nhỏ nhẹ bình thường, và có những người rối rít bồn chồn,
nóng nảy tung ra cả tràng những lời lẽ
giận dữ để rồi mệt nhừ khi
câu chuyện kết thúc. Đứng về
phương diện sinh lý học, bất luận
kích thích nào cũng làm
căng thẳng thần kinh, và
thần kinh căng thẳng khơi động, đẩy mạnh
sinh hoạt của cơ thể. Ta thường thấy một người lái xe
tỏ ra bực dọc khi vừa đến ngã tư thì đèn xanh cũng vừa tắt và đèn vàng bật cháy. Người có tánh
nóng nảy xem một diễn biến nhỏ nhặt như một khủng hoảng quan trọng, một
hăm dọa. Rốt cùng,
con người lo âu, bất
toại nguyện và
vô phúc.
Một
đặc điểm khác của
thế gian hiện đại là
ồn ào. Người ta nói rằng "âm nhạc có tánh cách hấp dẫn" nhưng ngày nay, chí đến cái
âm nhạc ấy cũng không làm vừa tai đẹp ý nếu nó không nhộn nhịp
ồn ào. Đối với họ, tiếng ồn càng to thì càng có nhiều "âm nhạc tính", nhạc càng "hấp dẫn". Những ai trong
chúng ta đang sống trong thành phố lớn không còn
thì giờ để nghĩ đến tiếng ồn. Cuộc sống của
chúng ta đã bị
điều kiện hóa, bị
uốn nắn theo khuôn khổ của nó.
Chúng ta đã trở nên rất
quen thuộc với tiếng ồn.
Tình trạng ồn ào, nhộn nhịp và
căng thẳng ấy làm
tổn hại sức khỏe nhiều và gây nên những chứng bịnh như đau tim, ung thư, ung nhọt,
thần kinh và
mất ngủ. Phần lớn các chứng bịnh của
chúng ta phát sanh do những
trạng thái lo âu,
phiền muộn, những cơn
chấn động thần kinh,
tâm trí căng thẳng vì
tình trạng kinh tế, và
tinh thần luôn luôn bị
kích thích, không mấy khi
an tĩnh -- tất cả đều là sản phẩm của cuộc sống
hiện đại.
Với cuộc sống lúc nào cũng
hối hả vội vàng,
thần kinh của
con người mệt mỏi, sớm
kiệt quệ. Chuyện thường xảy ra là sau ngày làm việc người ta
trở về nhà với
tâm thần mệt mỏi. Do đó sự
chú tâm suy giảm và có làm việc gì, bằng chân tay hay trí óc, cũng không được
công hiệu như thường. Người ta dễ bị kích động và nhanh chóng tìm lỗi ở kẻ khác,
kiếm chuyện gây gổ. Bao nhiêu chuyện dồn dập quay trở vào trong, gây nên đau mỏi, áp xuất huyết tăng cao, và
mất ngủ. Những
triệu chứng thần kinh mệt mỏi ấy
rõ ràng chứng tỏ rằng tâm của
con người hiện đại cần phải được an nghỉ -- một
tình trạng an nghỉ có phẩm chất ở mức cao.
Chúng ta nên
nhận thức rằng rút tâm rời ra khỏi những
phiền toái của cuộc sống rộn rịp và tịnh dưỡng
tinh thần là nhu cầu thiết yếu để giữ tâm
lành mạnh. Mỗi khi có được cơ hội, hãy
cố gắng thoát ra khỏi thành phố rồi ngồi lại trầm tư mặc niệm. Gọi đó là
hành pháp du dà (yoga), chú niệm, hay hành thiền cũng được. Hãy tập giữ
im lặng.
Im lặng đem lại rất nhiều
lợi ích. Nghĩ rằng chỉ có những người
ồn ào, ham nói, và lúc nào cũng
lăng xăng lộn xộn mới là
dũng mãnh thì
quả thật là
sai lầm.
Im lặng là vàng, và
chúng ta chỉ nên nói khi nào
lời nói bổ ích hơn
im lặng. Chính trong sự
im lặng mà những
năng lực vĩ đại nhất được
un đúc rèn luyện. Giữ
im lặng rất là quan trọng. Trong khi hành thiền ta giữ
im lặng. Sau đây là lời dạy của
Đức Phật:
"Này chư tỳ khưu, khi các con tụ hợp thì có hai điều nên làm: hoặc là thảo luận về Giáo Pháp (Dhamma, giáo huấn của Đức Phật, hay giáo lý chân chánh), hoặc giữ im lặng." [1]
Giá Trị Của
Lối Sống ẩn DậtVì đã
quen thuộc với
tiếng động và chuyện trò nên lúc nào không nói chuyện thì người ta cảm nghe
cô đơn quạnh quẽ. Nhưng nếu
chúng ta tự
rèn luyện "nghệ thuật trau giồi im lặng", ta sẽ học được bài học
thỏa thích với
im lặng.
Hãy lặng lẻ tiến bước giữa cảnh
ồn ào nhộn nhịp và luôn luôn ghi nhớ rằng có
trạng thái an lạc trong
im lặng.
Chúng ta phải rời bỏ cuộc sống
phồn hoa đô hội và rút vào
ẩn dật để tìm
im lặng.
Thỉnh thoảng chúng ta phải tự tách rời ra khỏi cảnh nhộn nhịp quây cuồng để sống tĩnh lặng. Đó là
hình thức nhàn lạc của kiếp
sinh tồn. Trong
nếp sống ẩn dật cô đơn chúng ta sẽ
chứng nghiệm giá trị của những giờ phút
trầm lặng.
Chúng ta mở một cuộc
hành trình vào
trở lại bên trong. Khi ẩn rút vào
im lặng ta sẽ
tuyệt đối đơn độc để nhìn trở vào chính mình, nhìn vào
thực chất của
chúng ta, thấy
chúng ta đúng
như thật sự
chúng ta là vậy. Và chừng đó ta có thể học được
phương cách vượt qua những khuyết điểm và những
giới hạn của cuộc sống
bình thường.
Thời gian mà
chúng ta lặng lẽ trải qua lúc hành thiền không phải là
hoang phí. Về lâu về dài trên đường xa,
công trình tu tập này sẽ tạo cho
con người một bẩm tánh
dũng mãnh.
Nếu có thể tìm
thì giờ để tự rút rời ra khỏi những
việc làm hằng ngày và
bỏ ra một hay hai ngày
để yên tĩnh hành thiền thì điều đó rất
lợi ích cho
việc làm thường nhật cũng như cho sự
tiến bộ của ta. Đây
chắc chắn không phải là đào tẩu
nhiệm vụ hay quen thói ăn không ngồi rồi, mà là
phương cách tốt đẹp nhất để
tăng cường tâm trí và phát triển
tinh thần. Đó là nhìn trở vào bên trong chính mình, và lối nhìn này mang lại nhiều
lợi lạc. Chính nhờ
quan sát những
tư tưởng và những
cảm thọ của mình mà ta có thể
quán chiếu sâu vào
ý nghĩa của sự vật và
khám phá những hùng lực bên trong.
Con người hiện đại rất thiếu
nếp sống đơn độc. Chút ít
thì giờ sống yên tĩnh
một mình mỗi ngày, chút ít giờ phút
xa lìa, chút ít giờ phút tách rời ra khỏi "đám đông cuồng loạn", rất là thiết yếu để giữ
tâm trí quân bình, cái
tâm trí mà từ lâu đã lâm bịnh vì
hối hả quây cuồng, vì
ồn ào huyên náo, vì
va chạm, vì
tranh đua, trong cuộc sống
hiện đại. Chính ở trong
tình trạng đơn độc, và
xuyên qua tình trạng đơn độc, mà
tâm thần con người tăng thêm mức độ
dũng mãnh. Hình như
con người hiện đại mưu tìm
hạnh phúc ở bên ngoài mình, thay vì ở trong. Họ hướng ngoại, nhưng
hạnh phúc không
tùy thuộc nơi
thế gian bên ngoài. Nền
văn minh hiện đại không phải là cái gì
thuần túy tốt đẹp, một phước lành không có
pha lẫn.
Con người hình như đã
chế ngự thế gian bên ngoài. Khoa học và kỹ thuật hình như hứa hẹn có thể
biến đổi thế gian này thành một
thiên đàng. Từ mọi hướng người ta không ngưng
hoạt động để làm cho
thế gian trở nên
tốt đẹp hơn. Các khoa học gia
hết lòng nhiệt thành,
quyết chí theo đuổi những
phương pháp và những cuộc thí nghiệm.
Nỗ lực của
con người nhằm vén lên bức màng
bí mật bao trùm và che kín
thiên nhiên vẫn
tiếp tục bất khuất. Những
khám phá và những
phương pháp truyền thông ngày nay đã tạo được nhiều
thành quả ly kỳ. Tất cả những
cải thiện trên,
mặc dầu đã mang lại nhiều
lợi ích khả quan,
hoàn toàn thuộc về
ngoại cảnh và chỉ
liên quan đến phần
vật chất.
Mặc dầu đã
thành tựu tất cả những
ưu điểm kể trên,
con người vẫn chưa
kiểm soát được cái tâm của mình -- vẫn chưa trở nên
tốt hơn, dầu đã tạo được bao nhiêu
tiến bộ khoa học. Bên trong luồng
trôi chảy của tâm và cơ thể
vật chất (danh và sắc) có những
kỳ diệu mà các nhà khoa học có thể còn phải
bỏ ra nhiều năm nữa để
khám phá.
Người ta cố
tìm giải pháp cho những
vấn đề khác nhau của mình, nhưng thất bại vì
phương pháp và đường lối
giải quyết sai lạc. Họ tưởng rằng tất cả
vấn đề đều có thể
giải quyết từ bên ngoài. Nhưng phần lớn các
vấn đề nằm bên trong
con người, không phải ở
ngoại cảnh.
Vấn đề phát xuất từ
thế gian bên trong và như vậy,
giải pháp cũng phải tìm ở bên trong.
Chúng ta có nghe những người hằng chú trọng đến các nạn
ô nhiễm lên tiếng,
chống lại ô nhiễm không gian,
ô nhiễm biển cả,
ô nhiễm đất đai v.v... Nhưng còn tâm
ô nhiễm của
chúng ta thì sao?
Chúng ta có
quan tâm đến việc
bảo vệ và gội rửa tâm của
chúng ta không?
Đức Phật dạy:
"Đã từ lâu, tâm của con người bị tham, sân, si làm ô nhiễm. Bợn nhơ tinh thần làm cho tâm của chúng sanh ô nhiễm. Gội rửa tâm làm cho chúng sanh trong sạch."[2]
Lối sống của người
Phật tử là một tiến trình
tích cực thanh lọc thân, khẩu, ý. Đó là tự trau giồi, tự phát triển và tự thanh lọc, nhằm tự mình
chứng ngộ. Điểm chánh yếu là
thành quả thâu đạt chớ không phải ở lối
tranh luận về
triết học hay
trừu tượng hợp lý. Do đó,
cần phải thực hành hằng ngày, hành thiền mỗi ngày một ít, giống như gà mái ấp trứng, bởi vì
cho đến nay
chúng ta thường hành động như con sóc chạy vòng quanh, lẩn quẩn trong cái lồng.
Pháp hành thiền không phải là một
pháp môn mới có từ hôm nay hay ngày hôm qua. Từ ngàn xưa đã có nhiều người hành thiền, bằng nhiều
phương cách khác nhau. Các vị du dà (yogi), các bậc
Thánh Nhân và các
đấng Giác Ngộ trong các
thời đại đều phải
trải qua con đường hành thiền. Các Ngài đã
chứng đắc và
thành tựu Đạo Quả nhờ hành thiền, tức
pháp hành nhằm trau giồi
tâm trí. Chưa hề bao giờ có sự phát triển
tâm trí hay gội rửa bợn nhơ
tinh thần nào mà không nhờ hành thiền. Chính nhờ hành thiền mà Đức Siddhattha Gotama (Sĩ-đạt-đa Cồ-đàm)
chứng ngộ Đạo Quả Vô Thượng,
Chánh Đẳng Chánh Giác,
trở thành Phật.
Pháp hành thiền không phải chỉ dành riêng cho người
Ấn Độ, xứ
Ấn Độ hay cho
thời kỳ Đức Phật còn
tại thế, mà cho tất cả
nhân loại, tất cả mọi
thời đại và, khắp
mọi nơi.
Thiền tập không thể có
giới hạn về
chủng tộc,
tôn giáo,
không gian hay về
thời gian.
Tất cả
tôn giáo đều có giáo truyền một vài
hình thức hành thiền, hay
phương pháp luyện tâm, để cho hàng
tín đồ trau giồi
tâm trí. Những
hình thức này có thể là
im lặng tụng niệm, từng
cá nhân hay tập thể
đọc tụng "Thánh Kinh", hoặc chú niệm một
đề mục, một nhân vật hay một
ý niệm thiêng liêng. Người ta
tin tưởng rằng những
công trình trau giồi
tâm trí ấy đôi khi đưa đến kết quả là nhìn thấy các vị
Thánh Nhân hoặc các đấng
Thiêng Liêng, và có thể hầu chuyện cùng các Ngài,
nghe được tiếng nói lạ thường, đôi khi cũng xảy ra vài diễn biến huyền bí. Nói rằng đó là
ảo tưởng, là do trí tưởng tượng tạo nên, là cái gì chỉ biểu hiện trong tâm, là một
hình ảnh do
tiềm thức biến chế, hay đó là những
hiện tượng thật sự có, ta không thể xác quyết một cách
chắc chắn. Tâm là một
năng lực vô hình có thể gây nên tất cả những
hiện tượng trên.
"Trạng thái xuất thần của một vài vị du dà và các
đạo sĩ huyền bí có thể được đưa đi xa đến đổi trong khi ấy các vị đó không còn hay biết gì, không còn
cảm giác điều gì." [3]
Chúng ta đã từng thấy có người đang ngồi trong tư thế "hành thiền" mà
tâm thần mê mang, hình
như không còn biết gì hết. Có người cũng
mục kích những
cảnh tượng kỳ lạ và lầm tưởng rằng đó là một
hình thức hành thiền (bhàvanà).
Kinh điển Phật Giáo ghi nhận rằng do
sự đắc thiền (jhàna), nhờ phát triển các
năng lực tinh thần,
con người có thể đắc
thần thông.
Tuy nhiên, và đây là điểm rất quan trọng nên
ghi nhận nằm lòng:
Jhàna hay "Thiền" trong Phật Giáo không phải là trạng thái mê sảng hay tự thôi miên, mà là một trạng thái tâm trong sạch, đã chế ngự và đè nén khát vọng, điều phục những thúc giục có tánh cách gây xáo trộn và làm cho tâm trở nên vắng lặng và an trụ, tập trung vào một điểm, và nhập vào trạng thái sáng tỏ, minh mẫn, thấy rõ sự vật.Pháp hành thiền trong
Phật Giáo không nhằm hội nhập với một
đấng Tối Thượng, cũng không nhằm
thành đạt những
chứng nghiệm huyền bí, mà nhằm
thành tựu trạng thái tâm vắng lặng (samatha) và
tuệ minh sát (vipassanà), tiến đến
mục tiêu duy nhất là
tâm giải thoát không lay chuyển (akuppà ceto vimutti) --
tình trạng châu toàn
tối thượng vượt hẳn ra ngoài mọi
trói buộc, bằng cách tận diệt
toàn vẹn những bợn nhơ
tinh thần.
Không phải tất cả
mọi người đều có khả năng để tiến
đạt đến đỉnh cao cùng tột của
tâm giải thoát không lay chuyển, nhưng thất bại không quan trọng, ngày nào mà
chúng ta còn
thành thật trong
nỗ lực và
trong sạch trong
ý chí.
Chúng ta hãy
cố gắng lên,
tinh tấn thêm, không nên chùng bước. Đây là
công trình đáng cho ta
cố gắng,
cố gắng nữa, để hoàn mãn
viên thành. Rồi một ngày nào,
nếu không phải trong kiếp sống này,
chúng ta có
thể đạt đến mức tận cùng mà những vị
tiền bối đã tận lực
tinh tấn đạt đến, và đã
thành công.
Dầu không thể
chứng ngộ toàn giác,
chắc chắn nỗ lực của
chúng ta cũng sẽ được tưởng thưởng. Trong một
xã hội không ngừng chuyển động nhanh chóng, ta
cần phải hành thiền đôi chút để làm dịu bớt
tình trạng thần kinh căng thẳng và nhẫn nại
chịu đựng những
thăng trầm của cuộc sống. Do nhờ hành thiền
chúng ta có thể
vượt qua phần lớn các
vấn đề tâm lý khó khăn hay những
xáo trộn cơ thể do
tâm trí gây nên, những
xáo trộn tâm linh, những
cảm xúc và những thúc giục, và
thành tựu trạng thái tâm tĩnh lặng và
thanh bình an lạc mà
chúng ta hằng
ước vọng.
Tự Làm Chủ Lấy Mình và
Ma TúyĐức Phật dạy:
"Dầu có thể chinh phục cả triệu người ở chiến trường, tuy nhiên, quả thật vậy, chiến thắng vẻ vang nhất là tự chinh phục mình." [4] Điều này có nghĩa là
tự chủ [5], tự làm chủ lấy mình, làm chủ những cảm kích, những
xúc động, những
ưa thích và ghét bỏ v.v... Lời của
thi hào Milton chỉ là vang âm của những gì Phật dạy: "Tự điều khiển lấy mình là nắm quyền bá chủ vương quốc vĩ đại nhất mà
con người có thể
ước vọng, và cùng thế ấy, để cho những khát vọng điều khiển mình là làm
nô lệ một cách tệ hại nhất."
Tự
kiểm soát mình là chìa khóa để mở cửa vào
hạnh phúc. Đó là
năng lực nằm phía sau mọi
thành tựu thật sự. Hành động mà thiếu
kiểm soát ắt không đưa đến
mục tiêu nhất định nào. Chỉ vì
con người không
kiểm soát được phần
tâm linh mình nên bị đủ mọi thứ
xung đột phát sanh trong tâm. Và nếu những
xung đột ấy
cần phải được
kiểm soát, hoặc nữa,
cần phải được loại trừ,
con người phải
kềm chế những
tham vọng và những
thích thú riêng tư của mình,
cố gắng sống đời
tự chủ và
trong sạch.
Mọi người đều biết
lợi ích của thể thao, hay
công trình rèn luyện cơ thể.
Tuy nhiên,
con người không phải chỉ là thể xác.
Chúng ta còn có cái tâm, và tâm cũng
cần phải được
rèn luyện. Luyện tâm, hay hành thiền, là cái chìa khóa mở đường dẫn đến
tự chủ, đến
trạng thái thoải mái, và
thoải mái đem lại
hạnh phúc. Trong tất cả
năng lực,
tâm lực công hiệu hùng mạnh nhất.
Chính tâm lực tự nó là
năng lực. Để thấu đạt
bản chất thật sự của
đời sống ta phải khảo sát tận tường,
đào sâu vào những hóc hẻm sâu kín bên trong
nội tâm. Điều này chỉ có thể
thực hiện được bằng cách nhìn trở vào sâu bên trong mình, một
công trình khảo sát đặt nền tảng trên
giới đức trong sạch và
thiền tập.
Theo
quan điểm của
Phật Giáo, tâm hay thức là phần nòng cốt của kiếp
nhân sinh. Tất cả những
kinh nghiệm như
đau khổ và
thích thú, buồn và vui, thiện và ác, sống và chết, đều đến với ta không phải do nguyên lý
ngoại lai nào. Nó chỉ là
hậu quả của những
tư tưởng và những hành động của
chúng ta.
Chính hành động cũng
xuất phát từ
tư tưởng. Do đó trong guồng máy
phức tạp của
con người, tâm là
yếu tố vô cùng quan trọng.
Trong
thời gian gần đây người ta
gia công khảo sát và
nghiên cứu những
hiện tượng tâm linh, và hình như
công trình tìm học ấy đã
khám phá những tài nguyên
phong phú của tâm mà từ lâu còn bị
che dấu.
Con người ngày càng
nóng lòng tìm sự hướng dẫn
tinh thần và ước muốn phát triển
nội tâm. Đó là dấu hiệu tốt. Người phương Tây càng ngày càng
thích thú nghiên cứu tư tưởng Ấn Độ,
pháp hành du dà (yoga) và
pháp hành thiền. Không
cần phải tìm
lý do ở đâu
xa lạ. Có một
cảm giác bất an tâm ngày càng
tăng trưởng cùng khắp năm châu, và
cảm giác bất an này càng
nổi bật trong giới trẻ. Người thanh niên muốn có nhanh chóng một phương thuốc chữa trị bịnh
rối loạn quây cuồng của
thế gian vật chất. Họ đi tìm
an lạc và
vắng lặng.
Không có một
giải pháp thỏa đáng cho
vấn đề thanh niên ngày nay trong
hệ thống tín ngưỡng cổ truyền lấy
tín điều làm nền tảng. Câu hỏi về
thế giới nội tâm không được
giải đáp. Đối với
tâm trí tìm tòi,
giá trị mà người ta đặt vào những sắc thái
vật chất của
đời sống, vốn được
con người hiện đại xem là
hiển nhiên phải có, hình như quá nông cạn. Điểm
trọng yếu trong những
vấn đề của người phương Tây là phần
tâm lý.
Kiến thức về
vật chất, khoa học và kỹ thuật
hiểu biết "phải làm thế nào"
rõ ràng không đem lại câu
giải đáp cho
vấn đề thế gian,
vấn đề con người. Loại
hiểu biết này chỉ đưa đến
tình trạng tạo thêm nhiều
vấn đề khác. Những bạn trẻ, trước kia dùng chất
ma túy với
lòng tin tưởng rằng đó là
giải đáp cho những
bất mãn của họ, nay đã
quay về kỷ luật du dà và
thiền tập. Trong
công trình đi tìm
nội tâm vắng lặng các loại ma túy chắc chắn không phải là cái gì có thể thay
thế pháp hành thiền chân chánh.
Ma túy chỉ làm giảm suy
tâm lực, thay vì
tăng trưởng.
"Thế gian bị phủ vây tứ bề và bị tấn công từ mọi phía do một chứng bịnh mới, một chứng bịnh không thể chữa trị đối với phần lớn những người bị nhiễm độc và rất đông bịnh nhân đã bỏ mạng; một chứng bịnh truyền nhiễm hứa hẹn đưa bịnh nhân thả hồn vào
thế giới mơ mộng thần tiên, rời xa cuộc sống (mà họ nghĩ là) vô
chí hướng và
vô giá trị; một chứng bịnh mà trên hết
đe dọa giới trẻ trong
thời đại kỹ thuật
chúng ta: bịnh ghiền
ma túy. Hàng triệu thanh niên đã mắc chứng bịnh ấy, hàng ngàn
chắc chắn không
thoát khỏi phải yểu mạng, hàng trăm ngàn đã ghiền nặng, hoặc về
phương diện tâm lý phải
tùy thuộc vào các thứ thuốc nhẹ hơn như cần xa, làm
hao mòn trí não, giảm suy khả năng làm việc và đưa đến tan rã
tâm tánh..." [6]
Có những
trường hợp hiển nhiên, không còn
tranh luận gì nữa, cho thấy rằng
pháp hành thiền có thể tạo nên những
biến chuyển sinh lý, và
biến chuyển sinh lý này đưa đến những
biến đổi lợi ích về mặt
tâm lý. Người ta
gia công đo lường các
biến chuyển này.
Bác Sĩ Herbert Benson đã
dày công trắc nghiệm
pháp hành thiền trong gần một thập niên, đã
đặc biệt quan tâm tìm xem làm thế nào những
yếu tố có tách cách
tâm lý lại có thể gây
ảnh hưởng đến trái tim, đến áp xuất huyết và những sắc thái khác trong
hệ thống tuần huờn máu huyết.
Quan niệm về những
công trình nghiên cứu của ông được trình bày trong
tác phẩm The Relaxation Response. Những cuộc khảo sát của Havard University, Cambridge, U.S.A.
tiết lộ rằng hàng trăm thanh niên trước kia dùng thuốc L.S.D. và
ma túy, đã cay thuốc sau nhiều tháng
gia công hành thiền. [7]
Hành Thiền Chữa Trị
Căng ThẳngHành thiền không phải là
tình nguyện tự
lưu đày ra khỏi
đời sống; cũng không phải làm điều gì để nhận lãnh
hậu quả trong một kiếp sống
vị lai.
Thiền tập phải được
áp dụng vào cuộc sống
hằng ngày, và kết quả của
công phu này phải được
thọ hưởng nơi đây, trong
hiện tại. Hành thiền không phải là tự mình tách rời, lìa xa những công việc mà thường ngày mình vẫn làm, mà là một phần của
đời sống, là cái gì dính liền với cuộc sống. Điều này trở nên
rõ ràng khi
chúng ta nghiên cứu pháp
Tứ niệm xứ (satipatthàna), hay bốn nơi để ta đặt chú niệm vào. Khi đã thoát lìa ra khỏi
tình trạng hối hả rộn rịp của thành phố và những
phiền toái bực dọc của
thế gian,
chúng ta không còn bị
ngoại cảnh thúc giục buông lơi việc
kiểm soát tâm như trước. Trong cuộc sống dấn thân vào
xã hội ta phải cần nhiều
cố gắng hơn nhằm canh chừng những lúc hờ hửng
để tâm buông lung. Chút ít
thì giờ nào hành thiền cũng giúp ích ta rất nhiều trong việc
đối phó với các diễn biến của
đời sống một cách
bình tĩnh. Nếu
chúng ta không biết hành thiền cuộc sống sẽ thiếu
ý nghĩa, thiếu
mục tiêu và thiếu nguồn gợi cảm.
Có một thời nào nhiều người tưởng rằng
thiền tập là một
pháp môn chỉ dành riêng cho các
đạo sĩ ẩn dật, các vị du dà và những người sống trong rừng sâu
thanh vắng. Nhưng sự vật đã đổi thay. Hiện nay càng ngày càng có đông người
thích thú lưu tâm đến
thiền tập. Nếu hành thiền có nghĩa là kỷ luật
tinh thần hoặc là
phương pháp trau giồi
tâm trí thì khỏi phải nói, tất cả
mọi người, không
phân biệt nam nữ, màu da,
tín ngưỡng, hay bất luận lối
phân chia nào khác, đều nên hành thiền.
Xã hội tân tiến
hiện đại đang lâm vào hiểm họa tự trầm mình trong những
tình trạng vọng động và những
quyến rũ mà chỉ có cách phải
gia công kiên trì rèn luyện tâm tánh mới mong
kiểm soát được.
Quả thật rất khó ngoảnh mặt
xây lưng, tách rời ra khỏi lối suy tư xưa cũ và những tác phong mà từ lâu đã
trở thành rất
quen thuộc với ta.
Tuy nhiên,
pháp hành thiền có thể giúp ta đặt nhẹ xuống
gánh nặng của cuộc sống
xáo trộn và vọng động.
Mục tiêu cùng tột của
thiền tập trong
Phật Giáo là
chứng ngộ toàn giác,
hoàn toàn tự chủ và
tâm trí tuyệt đối lành mạnh, hay
Niết Bàn, bằng cách
điều phục tâm và gội rửa tận cùng những bợn nhơ
tinh thần. Nhưng, ngoài
mục tiêu cứu cánh cùng tột ấy còn có những
lợi ích mà
hành giả có thể
thọ hưởng.
Thiền tập có thể gợi nguồn
cảm hứng cho ta
khám phá trạng thái sáng suốt minh mẫn,
tình trạng phong phú dồi dào và phẩm cách
thiên nhiên của chính ta. Hành thiền cũng có thể giúp ta khơi dậy những
năng lực tiềm tàng ngủ ngầm trong tâm, giúp ta suy tư
sáng suốt,
hiểu biết thâm sâu, thoa dịu
tình trạng thần kinh căng thẳng, giữ
tâm trí cân bằng và
an tĩnh. Hành thiền là một tiến trình
sáng tạo nhằm
biến đổi những
cảm xúc vọng động và những
tư tưởng bất thiện thành
trạng thái tinh thần điều hòa và
trong sạch. Đây là phương thức
trị liệu có nhiều
ý nghĩa nhất cho những
vấn đề khó khăn của cuộc sống
hiện đại. Khi tâm đã được
rèn luyện theo
pháp hành thiền ta có thể
tri giác sự vật vượt ra ngoài tầm mức thông thường của
giác quan.
Chúng ta có thể
thành đạt tất cả những
lợi ích trên, không phải cùng một lúc hay trong tức khắc, mà
dần dần, bằng cách
thường xuyên hành thiền theo đúng
phương pháp.
Hơn nữa, hành thiền còn có những
lợi ích cho cơ thể.
Thiền tập có thể làm dịu bớt
thần kinh,
kiểm soát hoặc hạ giảm áp xuất huyết, có thể làm cho ta cảm nghe
thoải mái dễ chịu và hăng say
hoạt động bằng cách thoa dịu
tình trạng căng thẳng thần kinh và do đó
gìn giữ năng lực, có thể giúp ta
cải thiện sức khỏe và an vui. Ngành y học
nhận định tánh cách
công hiệu của
pháp hành thiền như bài viết dưới đây cho thấy: "Ngày nay người ta đã
chứng minh rằng bịnh áp xuất huyết cao và những chứng bịnh khác
liên quan đến tim có thể được chữa trị bằng
pháp hành thiền của
Phật Giáo.
Bác Sĩ Buddhadasa Bodhinayake,
Cố Vấn ngành
tâm lý của bịnh viện Harley Hospital Essex, UK (Anh Quốc), và là Giáo Sư Đở Đầu những sinh viên sau
thời kỳ tốt nghiệp
cử nhân của Tổng Công Đoàn Y Học Anh Quốc, có phận sự
bổ nhiệm các
bác sĩ tại vùng Đông Luân Đôn, nói rằng Hội British Cardiac Society
mới đây vừa
công nhận ảnh hưởng của
pháp hành thiền
Phật Giáo trong việc trị bịnh.
Bác Sĩ Bodhinayake
tuyên ngôn rằng hiện nay (1982) có 68,000 bịnh nhân người Anh đang
thực hành pháp Niệm
Hơi thở (Ànàpànasati). Họ thấy rằng
pháp hành thiền này chữa trị họ nhiều hơn là thuốc. Ông nói rằng tất cả mọi
tôn giáo đều có
thực hành thiền định, nhưng pháp Niệm
hơi thở (Ànàpànasati) chỉ
duy nhất có trong
Phật Giáo. Không phải như các
pháp hành khác, pháp này có
ảnh hưởng đến cả hai phía của bộ óc, và như vậy, có thể đem lại những
ảnh hưởng kỳ diệu cho người bịnh. Ông nói rằng 30 phút hành thiền -- 15 phút buổi sáng và 15 phút buổi chiều -- làm cho người bịnh an thần ngơi nghỉ bằng 6 hay 7 tiếng ngủ.
"Ngày nay khoa học đã
chứng minh, qua pháp electro-encepholograph (EEG), đọc những
sinh hoạt được ghi lại của bộ óc, cho thấy rằng
pháp hành niệm
hơi thở, Ànapanasati, có khả năng giúp hai phía của bộ óc
sinh hoạt điều hòa. Điều này làm
giảm bớt nhu cầu về dưỡng khí của người bịnh,
giảm bớt sức đập của tim, áp xuất huyết, và
hơi thở.
Mười lăm phút hành Ànàpànasati có
ảnh hưởng bằng ba liều Aldomat (250mg), thuốc chữa trị bịnh áp xuất huyết cao.
Bác Sĩ Bodhinayake nói cũng đã được
chứng minh rằng
pháp hành này có thể dùng để cay nghiện
ma túy. Nó cũng giúp nhiều cho việc mở mang tâm não, khả năng suy tư và
trí nhớ.
"Hiện nay tại Harvard University, Hoa Kỳ, có một số lớn sinh
viên hành pháp niệm
hơi thở, Ànàpànasati bhàvana, để luyện thi." [8]
Phật Giáo và
Thần Bí Giáo
Vài
xáo trộn cơ thể do
tâm thần gây nên cũng có thể được chữa trị bằng
pháp hành thiền.
Chúng ta có thể dùng
thiền tập để chữa trị các chứng bịnh phát sanh do
xúc động mạnh hoặc
tinh thần căng thẳng cũng như bịnh ghiền
ma túy. Hành thiền,
an dưỡng tinh thần, và một vài phương thức
trị liệu khác có thể được
áp dụng hữu hiệu vào việc chữa trị các chứng bịnh
kinh niên.
Hành thiền là một
lối sống. Đó là
lối sống toàn vẹn, chớ không phải là một phần
sinh hoạt của
đời sống. Pháp này nhằm phát triển
toàn thể con người.
Chúng ta hãy tận lực
cố gắng để tiến
đạt đến mức độ toàn hảo, nơi đây và trong
hiện tại, chớ không phải
đợi chờ đến một
thời kỳ vàng son nào trong tương lai. Có thể
chúng ta sẽ
thành đạt những gì mình thật sự ước muốn
trong đời sống, bằng cách tháo mở, phóng thích những
năng lực tinh thần bên trong ta, những
năng lực kỳ diệu của
nội tâm. Hành thiền
rõ ràng là một
hiện tượng của kiếp
nhân sinh và như vậy, phải được đề cập đến dưới khía cạnh
con người, với những
cảm thọ và những
hiểu biết của
con người.
Bản chất của những
vấn đề khó khăn của
con người và
giải pháp cho những
vấn đề ấy
trọng yếu thuộc về
tâm lý.
Pháp hành thiền thật sự và
thần bí giáo không cùng
tồn tại chung. Đó là hai việc khác biệt. Trong khi chủ thuyết
thần bí đưa
con người tách rời xa
thực tại thì
thiền tập đem ta đến
thực tại; bởi vì
xuyên qua pháp hành thiền chân chánh ta có thể diện
đối diện nhìn vào những ảo kiến của chính ta và những
ảo cảnh mà ta cho là thực, nhìn một cách
rõ ràng, không bị
che lấp, không
sai lạc. Điều này
biến đổi hoàn toàn con người chúng ta. Đây không phải là học thêm, mà là
tháo gỡ, bứt rời ra những gì đã học. Ta phải dứt bỏ nhiều điều đã học trước kia và đã
thích thú ôm ấp
vững chắc, một khi
nhận thức rằng những điều ấy chỉ là trở ngại, cản ngăn
con đường tiến bộ tinh thần đạo đức.
Tất cả những
vấn đề khó khăn của
chúng ta đều bắt nguồn từ
vô minh,
si mê lầm lạc.
Vô minh là ô nhiễm đứng hàng đầu (avijjà paramam malam) [9]. Tham, sân,
ngã mạn và rất nhiều
ô nhiễm khác của
chúng ta cùng đi chung với
vô minh.
Giải pháp cho
vấn đề phải nằm trong
vấn đề và do đó, không nên tách rời, chạy đi tìm ở đâu ngoài
vấn đề. Hãy
phân tách và khảo sát,
nghiên cứu đến tận cùng, ta sẽ thấy rằng tất cả những
vấn đề ấy đều là
vấn đề của kiếp
nhân sinh, của
con người, vậy không nên đỗ
trách nhiệm cho ai khác hơn là
con người. Những
vấn đề của
chúng ta phải được, và chỉ được
giải quyết bằng cách dứt bỏ những ảo kiến và những khái niệm
sai lầm, rồi
thu xếp nếp sống vào khuôn khổ, điều hòa và đồng nhịp với
thực tại. Điều này chỉ có thể
thực hiện bằng
pháp hành thiền.
Bát Chánh ĐạoTự
kềm chế không dùng chất say và
kiên trì tinh tấn,
củng cố vững chắc trong hạnh
nhẫn nhục và
trong sạch, người
thiện trí gia công rèn luyện tâm. Khi mà mọi sự việc quanh mình đều
diễn tiến tốt đẹp, thuận chiều theo ý, thì giữ
thái độ trầm tĩnh không phải là khó lắm. Nhưng giữa những
nghịch cảnh rối ren bất
thuận lợi, thì
quả thật rất khó mà có thể
điềm nhiên tọa thị, giữ
tâm bình thản, không chao động. Chính việc khó làm ấy mới đáng cho ta
cố gắng thành tựu, bởi vì chính những điều ấy mới
un đúc tâm tánh hùng dũng.
Nhờ
tu tập yên tĩnh hành thiền mà có thể
thành đạt trạng thái tâm
vắng lặng.
Chúng ta có thể làm được việc ấy không? Câu
trả lời của Lord Horder là: "Được. Nhưng bằng cách nào? Tốt lắm, không phải bằng cách làm cái gì vĩ đại. 'Tại sao các vị
thánh nhân là thánh nhân?' có người hỏi. Và câu
giải đáp đến như sau: 'Bởi vì các vị ấy tươi cười trong những
hoàn cảnh khó tươi cười, và
nhẫn nhục trong lúc khó
nhẫn nhục. Các Ngài vẫn tiến bước trong khi lòng thúc giục bảo dừng, và trong khi muốn nói, các Ngài giữ
im lặng.' Chỉ thế thôi. Thật giản dị, nhưng cũng thật khó hành. Một
vấn đề vệ sinh
tinh thần ..." Hãy
kiên trì cố gắng, và
cố gắng thêm lên, không nên bỏ dỡ cuộc chiến. Không ai thoạt nhiên mà lên đến tận đỉnh núi cao. Cũng như người thợ bạc
thiện xảo gạn lọc bợn nhơ trong bạc, mỗi lần một chút, làm cho bạc
dần dần trở nên
trong sạch, cùng thế ấy,
con người phải
nỗ lực tự thanh lọc mọi
nhiễm ô. [10]
Con đường mà chư Phật, tức các đấng
Toàn Giác từ ngàn xưa, đã chỉ vạch nhằm phát triển
tâm tánh là
con đường hành thiền, và đó là
Bát Chánh Đạo.
Tám chi của
Bát Chánh Đạo hợp thành ba nhóm: Giới, Định, và Tuệ (sìla, samàdhi, và pannà). Đó là
con đường duy nhất; không có đường nào khác dẫn đến
giác ngộ và
giải thoát tâm. Tất cả những gì
Đức Bổn Sư giáo truyền và mọi hướng dẫn
thực hành để
diệt trừ những
xung đột tinh thần do
hoàn cảnh bất
toại nguyện của
đời sống tạo nên, đều nằm
trọn vẹn trong
Bát Chánh Đạo:
chánh kiến,
chánh tư duy,
chánh ngữ,
chánh nghiệp,
chánh mạng,
chánh tinh tấn,
chánh niệm,
chánh định.
Hai
Pháp Hành Thiền
Phần trình bày
pháp hành thiền như đã được
lưu truyền đến nay trong
kinh điển Phật Giáo từ những ngày xa xưa, được căn cứ trên những
phương pháp mà chính
Đức Phật đã
áp dụng để
chứng ngộ Đạo Quả và
Niết Bàn, và trên những
kinh nghiệm bản thân của Ngài trong
công phu trau giồi và phát triển tâm.
Danh từ "
hành thiền" mà thường được dùng để dịch chữ "
bhàvanà" thật sự không hẳn theo
sát nghĩa. Đúng theo
ý nghĩa uyên nguyên, "bhàvanà" trong
Phật Giáo là mở mang, trau giồi, tức là mở mang tâm, trau giồi tâm, hay "làm-cho-tâm-trở-thành". Đó là
nỗ lực xây dựng tâm an trụ và
vắng lặng, có khả năng
nhận thức rõ ràng bản chất thật sự của tất cả các
pháp hữu vi và
chứng ngộ Niết Bàn,
trạng thái lý tưởng của tâm
lành mạnh.
Pháp hành thiền mà
Đức Phật đã giáo truyền có hai:
an trụ tâm (samatha hay samàdhi), tức hợp
nhất tâm, tập
trung tâm vào một điểm (cittekaggatà,
nhất điểm tâm) và
minh sát (vipassanà). Samàdhi, định, có
tác dụng làm cho tâm trở nên
vắng lặng, và
vì lẽ ấy ở vài nơi danh từ samatha hay samàdhi được dịch là
vắng lặng, yên tĩnh hay tĩnh lặng. Làm cho tâm trở nên
vắng lặng hàm ý là thống nhất hay an
trụ tâm vào một điểm. Hợp
nhất tâm bằng cách an
trụ tâm vững chắc vào
đề mục và không hay biết gì khác ngoài
đề mục ấy.
Pháp môn hành thiền (bhàvanà) bắt đầu bằng sự
định tâm (samàdhi). Định là
trạng thái tâm
vững chắc trụ vào một điểm, không chao động.
Định là gì? Dấu hiệu,
điều kiện tất yếu để tiến đến
tâm định và phát triển
tâm định là thế nào.
"Bất luận gì là trạng thái tâm hợp nhất, tập trung lại thành một, đó là định; bốn nơi để áp đặt chú niệm vào (tứ niệm xứ) là dấu hiệu của định; bốn cố gắng chân chánh (tứ chánh cần) [11] là điều kiện tất yếu để định tâm; bất luận pháp tu tập nào theo các pháp hành trên, đó là phát triển tâm định." [12] Lời dạy trên
minh bạch nói lên rằng ba chi của nhóm định (samàdhi), tức
chánh tinh tấn,
chánh niệm và
chánh định cùng
sinh hoạt chung và hỗ trợ lẫn nhau. Ba chi này thật sự hợp thành định.
Phải
ghi nhận rằng
pháp hành thiền
Vắng Lặng (samatha bhàvanà -- cũng gọi là
thiền Chỉ, hay
thiền Định -- như đã được dạy trong
Phật Giáo, không phải chỉ
đặc biệt có riêng trong
Phật Giáo. Từ trước thời
Đức Phật các
đạo sĩ du dà (yogi) đã có hành những
pháp môn thiền khác nhau, như hiện nay họ vẫn còn hành. Xứ
Ấn Độ từ bao giờ vẫn là một vùng đất huyền bí, nhưng
pháp hành mà các
đạo sĩ du dà
áp dụng nhiều
nhất thời bấy giờ ở
Ấn Độ không bao giờ
vượt quá xa hơn một mức độ nào.
Thiền
vắng lặng (samatha bhàvanà) được dạy trong
Phật Giáo đưa đến tột đỉnh là các tầng Thiền (jhàna) [13].Nhưng
Đức Phật không
thỏa mãn với những tầng Thiền và các
kinh nghiệm huyền bí;
mục tiêu duy nhất của Ngài chỉ là
chứng đắc Toàn Giác và
Niết Bàn. Đã
hoàn toàn định tâm bằng thiền
vắng lặng, giờ đây Ngài có thể
triển khai thiền minh sát (vipassana bhàvanà). Danh từ "
vipassanà",
tuệ minh sát, (vi + passanà), có nghĩa là nhìn thấy một cách khác thường -- "
passanà" là thấy, và tiếp đầu ngữ "vi" là
đặc biệt. Như vậy,
vipassanà là có cái thấy vượt ra ngoài tầm mức thông thường, thấy một cách
rõ ràng. Đây không phải là thấy phớt qua trên bề mặt, không phải chỉ thấy thoáng qua cái dáng
bề ngoài, mà thấy sự vật đúng trong bối cảnh của nó, tức thấy dưới ánh sáng của ba đặc tướng, hay ba dấu hiệu đặc thù của tất cả các
pháp hữu vi, tất cả những
hiện tượng sinh tồn:
vô thường, khổ và vô ngã (anicca, dukkha và anattà). Chính
thiền minh sát này,
dựa trên nền tảng của
tâm định vắng lặng, giúp cho
hành giả khả năng gội rửa tất cả mọi
ô nhiễm trong tâm đến mức tận cùng, lột bỏ mọi ảo kiến về cái "ta", nhìn thấy
thực tướng của
vạn pháp và
chứng ngộ Niết Bàn.
Như vậy,
thiền minh sát, vipassanà, là một
giáo lý trọng yếu, đặc thù của chính
Đức Phật, trước kia chưa từng được nghe đến. Đó là
chứng nghiệm duy nhất của
Đức Bổn Sư,
hoàn toàn riêng biệt
Phật Giáo, chưa ai từng
biết trước thời
Đức Phật.
Ta phải
nhấn mạnh rằng cả hai, thiền
vắng lặng và
thiền minh sát (samàdhi và vipassanà), đều thiết yếu để
chứng ngộ Giáo Pháp, đắc
Niết Bàn.
Đức Phật dạy:
"Khi vắng lặng được phát triển, tâm được phát triển, và tham ái được dứt bỏ; khi minh sát được phát triển, chánh kiến được phát triển và vô minh được dứt bỏ. Cái tâm mà bị tham ái làm ô nhiễm không được giải thoát; khi có ô nhiễm do vô minh, chánh kiến không phát triển ..." [14]
Samàdhi, (samatha), định, là một trong tám chi của
Bát Chánh Đạo, không thể
bị loại trừ trong bất cứ
trường hợp nào. Samàdhi là cittavisudhi, tâm tịnh,
tức tâm trong sạch phát sanh khi hành giã đã loại trừ những
chướng ngại tinh thần (nìvarana, năm pháp
triền cái).
Theo lời dạy của
Đức Bổn Sư,
rõ ràng là trong cuộc
hành trình đến
giác ngộ và
Niết Bàn không thể có ngã nào tắt, khỏi phải đi ngang qua samàdhi, định.
Những Loại
Tâm TánhTâm là một
hiện tượng tế nhị và
phức tạp đến độ không thể có hai người có tâm giống y hệt nhau.
Tư tưởng của
con người được
diễn đạt ra thành
lời nói và hành động.
Lời nói và hành động mà lặp đi lặp lại nhiều lần
trở thành thói quen và
cuối cùng,
thói quen lâu ngày
trở thành tâm tánh.
Tâm tánh là
hậu quả của những "sinh-hoạt-do-tâm-hướng-dẫn" của
con người và như thế
tâm tánh của mỗi
chúng sanh mỗi khác. Sách
Thanh Tịnh Đạo (Visuddhi-magga), đề cập đến
sáu loại tâm tánh (carita) chánh yếu,
bao gồm nhiều loại khác
kém quan trọng hơn. Đó là những
tâm tánh có chiều hướng tham, sân, say mê,
đức tin,
trí thức và
phóng dật. Vì nhiều
tâm tánh khác nhau nên cũng có nhiều
đề mục hành thiền (kammatthàna) khác nhau. Những
đề mục hành thiền này được lược thuật trong
kinh điển Pali, nhất là trong các bài giảng của
Đức Phật.
Thanh Tịnh Đạo mô tả bốn mươi
đề mục như vậy.
Quả thật đó là các toa thuốc để chữa trị những
xáo trộn tinh thần khác nhau mà
con người thừa kế từ những kiếp sống
quá khứ.
Trong bộ Majjhima Nikàya,
Trung A Hàm, một trong năm
bộ kinh Pali ghi lại những thời Pháp do
Đức Phật giảng, có hai bài (số 61 và 62)
bao gồm toàn vẹn những lời dạy của
Đức Bổn Sư về
thiền tập.
Trong
bài kinh số 62
Đức Phật dạy bảy
đề mục hành thiền cho vị
sa di trẻ tuổi Ràhula mà, theo bản
chú giải,
lúc ấy chỉ mười tám tuổi. Sau đây là một đoạn trích từ
bài kinh ấy:
"Hãy phát triển pháp niệm tâm từ (mettà), này Ràhula, bởi vì pháp hành này sẽ diệt trừ ác ý (vyàpàda).
Hãy phát triển pháp niệm tâm bi (karunà), này Ràhula, vì pháp hành này sẽ diệt trừ lòng hung bạo (vihesà).
Hãy phát triển pháp niệm tâm hỷ (mudità), này Ràhula, vì pháp hành này sẽ diệt trừ lòng không ưa thích (arati, đây là không ưa thích hành thiền) .
Hãy phát triển pháp niệm tâm xả (upekkhà), này Ràhula, vì pháp hành này sẽ diệt trừ lòng thù hận (patigha).
Hãy phát triển pháp quán niệm các uế trược (asubha), này Ràhula, vì pháp hành này sẽ diệt trừ lòng tham dục (ràga).
Hãy phát triển pháp tri giác vô thường (anicca sannà, nhận thức đặc tướng vô thường của vạn pháp), này Ràhula, vì pháp hành này sẽ diệt trừ lòng ngã mạn tự ái (asmimàna).
Hãy phát triển pháp quán niệm hơi thở-ra-thở-vào (ànàpànassati), này Ràhula, vì pháp hành này nếu được phát triển và thường xuyên trau giồi sẽ đem lại nhiều thành quả tốt đẹp, nhiều lợi ích trọng đại." [15]
Đức Phật chẳng những
chỉ dẫn và khuyên nhủ người khác hành thiền, mà chính Ngài cũng
thực hành thiền định như một lối
an trú tâm,
tịnh dưỡng tinh thần nơi đây và trong hiện tại (ditthadhamma sukhavihàri).
Một lần nọ
Đức Thế Tôn dạy: "Này chư tỳ khưu,
Như Lai muốn sống vắng vẻ
một mình trong ba tháng. Chớ nên để ai khác đến viếng
Như Lai ngoài người đem dâng vật thực." "Dạ xin vâng,
Bạch Đức Thế Tôn." Sau khi ba tháng
trôi qua Đức Thế Tôn dạy:
"Này chư tỳ khưu, nếu những người khác (những người thuộc
tín ngưỡng khác) hỏi các con: 'Trong
thời gian Nhập Hạ, Samana Gotama (
Sa Môn Cồ Đàm) thường
thực hành pháp môn nào?' các con nên
trả lời: 'Trong
thời gian Nhập Hạ Đức Thế Tôn thường
quán niệm hơi-thở-vào-thở-ra.' Nơi đây, này chư tỳ khưu, với
chánh niệm Như Lai thở vào, với
chánh niệm Như Lai thở ra ... Này chư tỳ khưu, người
nói đúng phải nói: chú niệm vào hơi-thở-vào-thở-ra là
lối sống cao thượng của bậc
thánh nhân (ariya), của bậc
phạm hạnh (brahma),
lối sống của
Như Lai (Tathàgata). [16]
Ta không
cần phải cố gắng thực hành đầy đủ tất cả bốn mươi
đề mục hành thiền. Điều quan trọng là nên chọn
đề mục nào
thích hợp nhất với mình. Nên tìm sự hướng dẫn của một người có nhiều
kinh nghiệm hành thiền. Sách về thiền cũng có thể hữu dụng. Dầu sao, điểm
trọng yếu là nên
nhận định tâm tánh mình một cách
thành thật, vì không vậy ắt không thể chọn đúng
đề mục thích hợp với mình. Một khi đã chọn ta nên đặt vững
niềm tin vào đó và
gia công tinh tấn thực hành. Hành thiền là một
pháp hành "tự mình làm lấy".
Nếu ta còn mãi bận rộn
tâm trí với những việc
thế gian, trong
việc làm hằng ngày, thì có
thể không dễ gì tự cắt lìa, tách rời ra khỏi
thế sự và ngồi lại yên tĩnh, đúng giờ giấc, mỗi ngày, để hành thiền một cách
nghiêm chỉnh. Nhưng nếu thật sự muốn, với
ý chí dũng mãnh, cũng có thể làm được.
Chắc chắn là mỗi ngày
chúng ta có thể dành riêng một ít, chút ít
thì giờ ngắn ngủi nào cũng tốt, hoặc lúc bình minh, hoặc ngay trước khi ngủ, bất luận lúc nào mà tâm sẵn sàng lắng động, để ngồi lại tập trung
tư tưởng và gom
tâm an trụ.
Nếu ngày này qua ngày khác ta có thể
cố gắng trau giồi
tâm an trụ như vậy ắt sẽ có thể
thực hành công trình này một cách
tốt đẹp hơn, hữu hiệu hơn,
ý chí sẽ
dũng mãnh hơn, để mạnh dạn
đối phó với những
lo âu và những
căng thẳng phiền toái của cuộc sống, và do đó có
thể đạt đến
trạng thái thoải mái dễ chịu hơn. Đây là
công trình đáng cho ta
thực hiện. Chỉ
cần phải kiên trì nhẫn nhục, bền công
thực hành, vững chí
cố gắng, và nếu thật sự thực lòng, ta sẽ có nhiều
hy vọng thành công.
Nếu có thể,
công phu hành thiền phải được
thực hiện đều đặn hằng ngày, vào giờ
nhất định, trong một
thời gian đáng kể, và không nên
nóng lòng trông đợi kết quả,
Chuyển biến tâm lý không
diễn tiến nhanh chóng.
Tam HọcTrước khi
gia công thực hành nhiệm vụ khó khăn hơn, là
uốn nắn trau giồi tâm bằng
thiền tập, điều chánh yếu là
chúng ta nên tự khép mình vào khuôn khổ
kỷ cương, đặt hành động và
lời nói trong
giới luật.
Giới luật (sìla) trong
Phật Giáo nhằm
điều ngự thân và
khẩu nghiệp,
hay nói cách khác,
giới luật nhằm thanh lọc thân và khẩu, làm cho
lời nói và hành động
trong sạch. Đây là pháp
tu học để trau giồi
đức hạnh (sìla-sikkhà, pháp
tu học về giới). Ba chi của
Bát Chánh Đạo hợp thành nhóm giới (sìla) trong
Phật Giáo là:
chánh ngữ,
chánh nghiệp,
chánh mạng. Người
quyết tâm hành thiền nghiêm trì
tối thiểu năm giới căn bản được gọi là
panca sìla (ngũ giới)--
kiêng cữ sát sanh,
trộm cắp,
tà dâm,
vọng ngữ và dể duôi dùng chất say như rượu mạnh,
ma túy v.v... vốn đầu
độc tâm trí và gây nên
tình trạng tâm thần buông lung phóng túng, không
giác tỉnh. Trong một khóa thiền,
thiền sinh phải sống
hoàn toàn trong sạch như người
độc thân và như vậy giới thứ ba, không
tà dâm,
trở thành không
thông dâm.
Giới (sìla) là nền tảng
vững chắc trong
lối sống của người
Phật tử. Đó là
căn bản của
công trình trau giồi
tâm trí. Người
quyết tâm thực hành thiền tập, hay gom
tâm an trụ, phải phát triển tâm
ưa thích giới đức, vốn là
yếu tố bồi dưỡng đời sống tâm linh, giúp cho tâm dễ dàng an trụ và tĩnh lặng. Người có
chú nguyện thành đạt trạng thái tâm
trong sạch cao thượng nhất hằng
thực hành pháp thiêu đốt
dục vọng, chất liệu làm cho tâm
ô nhiễm. Người ấy suy tư: "Kẻ khác có thể gây
tổn thương, nhưng ta không làm
tổn thương ai; kẻ khác có thể
sát sanh, nhưng ta không
sát hại sinh vật; kẻ khác có thể lấy một vật mà không được
cho đến mình, nhưng ta không thể
sai lầm lấy của nào không được
cho đến ta; kẻ khác có thể sống
phóng túng lang chạ, nhưng ta giữ mình
trong sạch; kẻ khác có thể nói
giả dối, đâm thọc,
thô lỗ hay
nhảm nhí, nhưng ta sẽ nói những lời
chân thật, đem lại
hòa hợp,
thuận thảo, những lời
vô hại, những lời
thanh nhã dịu hiền, đầy
tình thương, những lời làm đẹp dạ, đáng được ghi vào lòng,
đúng lúc, đúng nơi, những lời hữu ích; kẻ khác có
thể tham lam, nhưng ta sẽ không tham; kẻ khác có thể
để tâm cong queo
xiêu vẹo, nhưng ta sẽ giữ tâm ngay thẳng. Ta sẽ
tinh tấn, cao thượng,
chân thật,
chánh trực,
an lạc thanh bình,
thanh khiết,
tri túc,
quảng đại và luôn luôn
thành thật. Ta sẽ
chuyên cần nhiếp tâm chú niệm và khai triển
tuệ minh sát để luôn luôn
trọn vẹn hay biết
chân lý và sẽ không
xao xuyến vì sự vật tan biến hoặc cố bám vào sự vật." [17] Như vậy người ấy không hành động
đê hèn như những người không suy tư.
Giới luật (sìla) mà
Đức Phật ban hành không phải là những điều răn cấm
tiêu cực mà
rõ ràng xác định
ý chí cương quyết hành thiện, sự
quyết tâm có những hành động
tốt đẹp -- một
con đường toàn hảo
xây đắp bằng
thiện ý, nhằm tạo
an lành và
hạnh phúc cho
nhân loại. Những
quy tắc đạo lý này nhằm tạo dựng một
xã hội châu toàn bằng cách đem lại
tình trạng hòa hợp,
nhất trí, điều hòa,
thuận thảo và sự
hiểu biết lẫn nhau giữa người và người.
Giới đức trang nghiêm giúp phát triển
tâm định (samàdhi). Ba chi
cuối cùng của
Bát Chánh Đạo là:
chánh tinh tấn,
chánh niệm và
chánh định, hợp thành nhóm định, và được gọi là "đhều học về định" (samàdhi-sikkhà). Trong khi
tiến bộ hành trì giới luật ngày càng tinh nghiêm,
hành giả thực hành trau giồi
tâm trí. Ngồi lại trong một
tịnh thất, dưới một cội cây hay
ngoài trời, hoặc một nơi
thích hợp nào khác,
hành giả gom tâm chăm chú vào
đề mục hành thiền, rồi không ngừng
tinh tấn gội rửa mọi bợn nhơ trong tâm và
dần dần tiêu trừ năm chướng ngại tinh thần (năm pháp
triền cái),
định tâm vào một điểm.
Tâm định ở mức độ cao là
phương tiện để
thành đạt trí tuệ hay
tuệ minh sát. Tuệ
bao gồm chánh kiến và
chánh tư duy, hai chi đầu tiên của
Bát Chánh Đạo, được gọi là
"điều học về tuệ" (pannà-sikkhà). Như vậy, giới, định, tuệ, mà trong kinh sách thường gọi là
tam học (tividhà-sikkhà) là ba điều học, hay ba pháp
tu học.
Tuy nhiên, không có điều học nào trong
tam học tự nó là
mục tiêu cứu cánh. Mỗi điều học là
phương tiện để
tiến tới mục tiêu.
Chúng ta không thể
thực hành riêng rẽ một điều học và
bỏ quên hai điều kia. Cũng như chân máy chụp hình, đứng vững được là nhờ có đủ ba chân. Nếu một chân sụp gảy thì tất cả đều rơi. Cùng thế ấy,
chúng ta không thể
thực hành một điều học mà không nhờ sự hỗ trợ của hai điều kia. Các điều học ấy
nâng đỡ lẫn nhau.
Giới đức hay tác phong
đạo đức thanh cao
củng cố tâm định.
Tâm định, được
giới đức hỗ trợ, tạo nhiều
thành quả, nhiều
lợi ích và làm nền tảng để phát huy
trí tuệ.
Trí tuệ giúp
hành giả phá tan lớp mây mờ
si mê bao phủ sự vật và trực chứng
thực tướng của
vạn pháp, thấy
đời sống đúng
như thật sự
đời sống là vậy, tức thấy
đời sống và những gì
liên quan đến đời sống luôn luôn ở trong
trạng thái sanh rồi diệt (udaya-vaya, sanh-hoại). Bằng một tiến trình
biến chuyển dần dần [18], bằng
công trình tu tập dần dần,
thực hành dần dần,
hành giả thanh lọc mọi bợn nhơ, tận diệt mọi
ô nhiễm,
thành đạt giải thoát. Điều này có nghĩa là
hành giả tự chứng nghiệm
trạng thái chấm dứt ba căn
bất thiện,
tiêu trừ trọn vẹn nguồn gốc của mọi
hình thức đau khổ là: tham, sân, si (lobha, dosa, moha) mà từ lâu đã xâm chiếm
tâm trí con người.
Hành giả loại bỏ và
diệt trừ tận gốc rễ ba căn
bất thiện bằng cách
thực hành ba điều học: giới, định, tuệ (sìla, samàdhi, pannà).
Với sự thanh lọc
toàn vẹn cuối cùng ấy
hành giả tiến
đạt đến mức độ được Ánh Sáng
Niết Bàn soi tỏ,
tình trạng vắng lặng vượt ra ngoài
phạm vi của
ngôn ngữ,
vững vàng bất thối chuyển vượt ra ngoài mọi
tư tưởng,
tự do vượt ra ngoài mọi hành động, nền tảng
chắc chắn và châu toàn,
vinh quang rực rỡ không thể phai lạt,
hạnh phúc của tâm
tự tại, nhẹ nhàng thoát ra khỏi mọi
ràng buộc và
thành đạt trạng thái an lạc toàn hảo,
sâu xa huyền diệu và
thanh khiết mà không có bất cứ ai, bất luận gì, có thể làm
thối chuyển,
chân lý cao thượng nhất. Đó là mức
tuyệt đỉnh của cuộc sống hành thiền, là
thành quả quý báu nhất của
thiền tập. Do nhờ
thành quả này mọi
hiện tượng sanh, già, chết đều
chấm dứt, không còn trở đi
trở lại nữa,
đời sống thánh thiện đã được
trải qua đầy đủ, và tất cả những gì
cần phải làm đã được
thực hiện trọn vẹn, không còn gì trên
thế gian làm bận
tâm hành giả.
Như vậy ta thấy rằng giới, định, tuệ không phải là ba
đức độ riêng rẽ, không
liên quan với nhau, mà là những
thành phần dính liền nhau của
Bát Chánh Đạo, cũng là
con đường hành thiền, như đã được
sơ lược trình bày ở phần trên.
Niệm XứGiờ đây
chúng ta hãy tiến dần đến
phương pháp đặc thù của
thiền tập,
thảo luận về một sắc thái rất quan trọng của
pháp hành thiền trong
Phật Giáo. Đó là
pháp niệm xứ, satipatthàna, sự "thiết lập, áp đặt chú niệm vào." "
Patthàna" là một
hình thức rút ngắn của chữ "
upatthàna", có nghĩa là "để gần lại" (tâm của mình), hàm ý giữ tâm hay biết, đặt tâm trên,
thiết lập,
củng cố, áp đặt hay khơi dậy.
Thức tỉnh, làm
phát khởi sự hay biết sắc bén đối tượng đến một người.
Tác dụng của pháp này là khơi động, làm cho người ấy hay biết
rõ ràng đối tượng và đem lại, làm khơi dậy
ngũ căn (
tín căn,
tấn căn,
niệm căn,
định căn và
tuệ căn),
ngũ lực (
tín lực, tấn lực,
niệm lực,
định lực và
tuệ lực),
thất giác chi (niệm,
trạch pháp, tấn, phỉ, an, định, xả), và chi
chánh niệm của
con đường -- đó là
thiết lập chú niệm.
Bài kinh đề cập đến
pháp Niệm xứ (Satipatthàna Sutta, ta thường gọi là
kinh Tứ niệm xứ) là một trong những
bài kinh trọng yếu nhất mà
Đức Phật đã
thuyết giảng.
Bài kinh này được ghi chép hai lần trong
Tam Tạng Kinh Điển [19]. Lời mở đầu
bài kinh tuyên ngôn rõ ràng:
Pháp niệm xứ là
con đường duy nhất (ekàyano maggo) để
chúng sanh tự thanh lọc, nhằm
vượt qua khỏi
phiền não và
ta thán, để
diệt trừ đau khổ và
ưu phiền, để
đạt đến chánh đạo và
chứng ngộ Niết Bàn.
Niệm xứ có bốn, là
củng cố chú niệm nơi: 1) thân (kàyànupassanà,
niệm thân); 2) thọ hay
cảm giác (vedanà- nupassanà,
niệm thọ); 3) những
sinh hoạt của tâm (città-nupassanà,
niệm tâm); và 4) đối tượng của tâm (dhammà-nupassanà,
niệm pháp). Điểm quan trọng ở đây là niệm (sati), sự
chú tâm hay
quan sát (anupassanà).
Như đã được đề cập trên đây,
hành giả thành đạt trạng thái tâm an trụ và
vắng lặng nhờ
thực hành phối hợp ba chi của
Bát Chánh Đạo là:
chánh tinh tấn,
chánh niệm và
chánh định. Ba chi này cũng như ba tao nhợ hợp thành sợi thừng, chằng chịt lẫn nhau và
liên quan với nhau rất
mật thiết.
Tuy nhiên, niệm được xem là tao nhợ mạnh hơn hết, bởi vì niệm có một
vai trò vô cùng quan trọng trong
công phu tu tập nhằm
đạt đến cả hai,
vắng lặng và
minh sát. Niệm là một
cơ năng của tâm và do đó, là một
tâm sở.
Nếu không có
tâm sở tối
trọng yếu này ta không thể
nhận ra một vật -- đối tượng của
giác quan -- và
chúng ta không thể hay biết đầy đủ tác phong của chính
chúng ta. Được gọi là
chánh niệm vì một đàng nó giúp tránh xa
tình trạng chú tâm sai lạc theo chiều hướng
sai lầm, và
ngăn cản không
để tâm chăm chú vào
bất thiện pháp và đàng khác, hướng dẫn tâm theo chiều hướng chân chánh, đến
trạng thái trong sạch và
giải thoát.
Chánh niệm tăng trưởng năng lực quan sát của
chánh kiến và
chánh tư duy và hỗ trợ, làm cho hai chi này trở nên sâu sắc bén nhạy.
Con người hiểu biết và suy tư có
trật tự nhờ
chánh niệm.
Bài kinh chỉ dạy
rành mạch làm cách nào
hành giả có thể hay biết luồng
tư tưởng của mình,
giác tỉnh theo dõi,
ghi nhận và
quan sát mỗi
ý nghĩ và từng
ý nghĩ của mình,
tư tưởng tốt cũng như xấu, thiện hay thế nào khác. Vị
hành giả chuyên cần tu tập sẽ
ghi nhận rằng chính nhờ
thỉnh thoảng đọc lại
bài kinh Niệm Xứ làm cho ta
giác tỉnh hơn,
quyết tâm hơn và
thận trọng chú niệm nhiều hơn.
Chánh niệm là phẩm hạnh mà không có bất luận người suy tư và
hiểu biết nào
xem thường. Trong
thời đại hổn tạp mà
chúng ta đang sống, trong lúc mà rất nhiều người đang
mất thăng bằng tâm trí,
công trình trau giồi chú niệm
quả thật vô cùng thiết yếu.
Chánh niệm không những đem lại
tình trạng an trụ và tĩnh lặng mà còn giúp ta
hiểu biết chân chánh và có
lối sống chân chánh.
Chánh niệm là
yếu tố quan trọng trong tất cả những hành động của
chúng ta,
trần tục trong đời sống thường ngày hay những
hoạt động tinh thần có tánh cách
đạo đức. Giờ đây
chúng ta thấy rằng hành thiền không phải đào tẩu
nhiệm vụ, hay bỏ chạy, tách rời xa
đời sống và
trốn tránh xã hội, cũng không phải tự
lưu đày ra ngoài
đời sống, mà chính là một
hình thức của cuộc sống
lý tưởng.
Thực Hành Thiền TậpChỉ khi nào ngồi xuống hành thiền
chúng ta mới có thể
nghiêm chỉnh tự
phân tách mình mà không bị
thành kiến ảnh hưởng. Chừng ấy khái niệm về tự ngã hay một
bản ngã sẽ tan biến. Ta chỉ thấy một luồng
trôi chảy của danh và sắc,
tuyệt nhiên không có một
thực thể thường còn, hay bất luận gì
đơn thuần hoặc một
bản ngã vững bền không
hoại diệt. Nhìn trên
phương diện này,
đời sống không có phương Đông hay phương Tây, không có nam hay nữ, mà chỉ là một tiến trình
vượt qua khỏi mọi
giới hạn giai cấp,
chủng tộc, màu sắc,
tín ngưỡng và
không gian.
Vậy, hãy
cố gắng ngay thẳng,
thành thật và
thẳng thắn tự nhìn mình, nhìn những
cảm giác (thọ) của mình và những
tư tưởng (tâm) của mình một cách
sáng suốt. Hãy
cố gắng thấy mình
như thật sự mình là vậy, chớ không phải như mình có vẻ là vậy. Điều này chỉ có thể
thực hiện khi mà
chúng ta thật sự
thành thật và
tin tưởng nơi ta. Theo
pháp hành thiền trong
Phật Giáo,
mở rộng tâm trí và
tìm tòi quan sát một cách
thẳng thắn là
điều kiện tất yếu không
thể không có. Thiếu
yếu tố này một
hành giả sơ cơ sẽ không thể đặt nền tảng
vững chắc cho những cơ cấu xây cất bên trên. Và bởi vì thấu hiểu
chân lý là
vấn đề hoàn toàn cá nhân của mỗi người, mỗi
cá nhân phải tự mình
tìm hiểu chính mình chớ không có sự
chỉ dẫn hay
giáo huấn nào có thể giúp
hành giả, nếu
chính hành giả không tự
rèn luyện, không
tu tập tự quán chiếu.
Thiền tập quả thật là thiết yếu bởi vì nhờ hành thiền mà ta có thể mở khóa cửa, bước vào những
bí ẩn của
nội tâm.
Bài kinh Niệm xứ diễn tả kỹ thuật trau giồi
tâm linh nhằm vượt ra ngoài
phạm vi trí thức đến mức tự mình thật sự
chứng nghiệm đời sống, tự mình
khám phá những chứng bịnh
phổ cập sâu kín của tâm
con người và
gia công giải phóng tâm ra khỏi mọi
ràng buộc --
trạng thái châu toàn
tối thượng.
Giờ đây
chúng ta hãy
thảo luận về pháp
niệm thân (kàyànupassanà), và
đặc biệt phần
ànàpànassati, niệm hơi-thở-vào-thở-ra. Đây là
phương pháp hành thiền rất
phổ thông, được nhiều người
ưa thích và
thực hành khắp nơi trên
thế giới, vì pháp này có thể
thích hợp với nhiều người để gom
tâm an trụ và lắng tâm tĩnh lặng.
Bồ Tát Siddhattha Gotama
xưa kia cũng
áp dụng pháp này khi Ngài tận lực
cố gắng chứng ngộ Đạo Quả Vô Thượng dưới cội
bồ đề.
Đức Phật cũng
quả quyết khẳng định tầm quan trọng của
pháp hành này. Pháp này được
mô tả là làm cho
hành giả an lạc, cao thượng, tinh khiết và sống hạnh phúc (santo ceva panìto ca asecanako ca sukho ca vihàro) [20]. Phải
ghi nhận rằng ànàpànassati không phải là một "phương
pháp tập thở" để cho cơ thể được khỏe mạnh, cũng không giống
như pháp prànayàma, được dạy trong
hệ thống du dà của
Ấn Độ Giáo.
Về nơi chốn để hành thiền, ta được khuyên là nên chọn một nơi vắng vẻ, trong rừng, dưới một cội cây hay
ngoài trời, hay ở một nơi
thích hợp nào khác.
Nếu có thể được, hãy tìm một nơi yên tĩnh, xa những cảnh huyên náo
ồn ào,
rầm rộ xôn xao của
đời sống nhộn nhịp bận rộn. Trong phòng ngủ hoặc "phòng thờ" nếu ta
may mắn được có, có thể là nơi mà ta có thể sống
đơn độc, riêng biệt
một mình.
Theo
pháp hành đề mục này ta
cần phải ở thế ngồi. Ngồi thẳng lưng, tréo hai chân nhưng không gồng cứng mình, giữ
tâm chú niệm và
giác tỉnh. Vì hai chân tréo khóa cứng lại hay vì sàn nhà cứng, đôi khi ta cảm nghe không được
thoải mái và như vậy, tâm bị
chi phối, không an trụ được. Chừng ấy ta có thể ngồi trên một cái ghế có dựa đứng thẳng. Dầu ngồi thế nào,
đặc biệt trong
pháp hành này, không phải như các
pháp hành khác, ta phải giữ thân mình (xương sống) và đầu ngay thẳng, không nghiêng ngã bên nào. Nên ngồi cách nào cho được
thoải mái, nhưng không nên dựa lưng hay nằm xuống, để
tránh khỏi buồn ngủ. Hai tay có thể gát trên vế hoặc tay mặt đặt trên tay trái, cả hai đều lật ngửa lên. Mắt có thể nhắm hí hí phân nửa, hoặc nhắm kín luôn một cách
tự nhiên, không có
cố gắng. Hai môi ngậm lại và giữ lưỡi sát hàm trên. Tất cả những
chi tiết này cho thấy rằng người hành thiền cũng
cố gắng điều phục thân, và thân được
điều phục sẽ giúp tâm dễ chú niệm và an trụ. Giữ thân càng
bất động càng tốt. Tâm phải
giác tỉnh và
quán chiếu sâu sắc. Thân và tâm
cần phải căng thẳng vừa phải, như dây của cây cung, và điều hòa đúng nhịp như dây của cây đờn.
Pháp hành thiền
quả thật là một
công trình thực nghiệm. Cũng như rùa
giữ kín bốn chân dưới cái mu, cùng thế ấy, người hành thiền che chỡ
giữ gìn ngũ quan của mình và
chế ngự dục vọng bằng chú niệm và dành tất cả
năng lực để trau giồi
tâm trí. Hãy
cố gắng hành thiền
đều đặn,
nếu có thể được, mỗi ngày vào giờ
nhất định, bởi vì chính những
yếu tố tâm lý ấy sẽ giúp ta
thành công trong
công phu hành thiền.
Hơi thở vào và
hơi thở ra
diễn tiến một cách
tự nhiên, hầu như máy móc,
chúng ta biết vậy. Trong những lúc
bình thường không mấy ai
để ý đến
hơi thở. Nhưng khi hành thiền theo pháp niệm
hơi thở, thì điều chánh yếu là phải chú niệm, hay biết
hơi thở. Luồng hơi mà
chúng ta thở vào hay
thở ra phải được
ghi nhận và
quan sát. Sự chú niệm này làm cho thân trở nên yên tĩnh và được chuẩn bị sẵn sàng để
công phu hành thiền tiến sâu thêm, nhằm
tăng trưởng năng lực của
tâm định và
trạng thái vắng lặng.
Chúng ta hoan hỷ ghi nhận rằng các
nhà tâm lý học hiện đại đã
xác nhận giá trị và tầm quan trọng của
công trình niệm
hơi thở nhằm lắng dịu
tình trạng căng thẳng của cơ thể và
tâm trí. Như vậy,
công phu hành thiền này đúng thật là
việc làm có tánh cách
thực dụng, là một phương thức
trị liệu trong
ý nghĩa cao cả nhất của danh từ. Pháp này không phải để phát huy
kiến thức suông, mà để tự
giải phóng, vượt ra khỏi mọi bợn nhơ
tinh thần và
đạt đến trạng thái tâm linh trong sạch, tĩnh lặng và
tự tại. Trong
pháp hành niệm
hơi thở, điều
trọng yếu nhất là luôn luôn
chú tâm theo dõi hơi thở. Phải
nhiếp tâm chú niệm (sati) và chăm chú
quán chiếu (anupassanà) trong tất cả bốn loại
niệm xứ. Khi ngồi lại hành thiền, hãy an nghĩ hẳn. Hãy tự tách rời ra khỏi
thế giới căng thẳng. Trong khi
thở vào ba
hơi thở đầu, hãy tưởng tượng rằng từ bên ngoài ta đem vào tất cả những gì
tốt đẹp, cao cả và
trong sạch của
vũ trụ. Khi
thở ra ba hơi đầu, hãy tưởng tượng là ta đang vứt ra tất cả những
tư tưởng "đầu độc",
ô nhiễm, tất cả những gì
xấu xa,
thấp hèn và nhơ bẩn bên trong
chúng ta. Đó là
phương cách chuẩn bị
thân tâm để tiến vào
thiền tập.
Nghệ Sĩ Trên Sân Khấu
Bây giờ
chúng ta hãy bắt đầu
thực hành pháp niệm hơi-thở-vào-thở-ra (ànàpànassati). Hãy để cho
hơi thở hô hấp tự nhiên, không có
sự cố gắng nào. Cứ
an tĩnh thở. Không nên
cố gắng kiểm soát hơi thở. Chỉ để luồng hơi
thong thả tuôn ra, rồi
thong thả trôi vào, dưới ánh sáng của tâm
hoàn toàn giác tỉnh.
Hành giả thở vào và
thở ra với tâm luôn luôn
theo dõi ghi nhận và hay biết,
nhiếp tâm chú niệm vào
hơi thở chớ không phải vào chính mình.
Mục đích duy nhất của
hành giả là tập trung sự chăm chú vào
hơi thở rồi cột tâm vào đó,
ngoài ra không hay biết
tư tưởng nào khác. Nếu
hành giả còn
lưu tâm đến những gì
xuất hiện mập mờ "bên rìa", ngoài "phạm vi chăm chú" của mình ắt khó mà gom tâm, và chừng đó tâm sẽ phóng đi. Đối với quý vị còn
sơ cơ, nên
ghi nhận "vào", "ra", mỗi khi
thở vào hay
thở ra, tập cho quen
chú tâm theo dõi và
ghi nhận. Nếu còn thấy khó kềm được sự
chú tâm hay biết, khi
thở vào đếm "
một" (đếm và
ghi nhận thầm); khi
thở ra đếm thầm "
hai" khi
hơi thở chấm dứt. Đếm như vậy không quá mười, và không ít hơn năm, bởi vì tâm sẽ có chiều hướng duyên theo con số đếm mà
lìa bỏ hơi thở. Khi tâm đã tập trung được dễ dàng
hành giả sẽ không đếm nữa mà chỉ
theo dõi hơi thở.
Khi niệm hơi-thở-vào-hơi-thở-ra, phải đặt sự
chú tâm vào điểm mà
hành giả nghe luồng
hơi thở chạm thân, đầu lổ mũi hay ở chót môi trên. Hãy
ghi nhận luồng hơi trôi vào thế nào, và tuôn ra như thế nào ngang qua điểm ấy, mà không
theo dõi luôn đến lồng phổi, hay ra ngoài không khí. Không nên kềm giữ hay ngưng
hơi thở. Phải để cho
hệ thống hô hấp diễn tiến thật
tự nhiên, không có
cố gắng nào để
kiểm soát. Hãy tập trung sự
chú tâm vào điểm "ra-vào" ở mũi và
hoàn toàn hay biết,
ghi nhận mỗi
hơi thở vào,
thở ra.
Đôi khi
hơi thở có thể trở nên nhẹ nhàng,
tế nhị đến độ
hành giả cảm thấy khó có thể "bắt" được, hoặc còn
cảm thọ được. Nhưng điều này không có nghĩa là
tâm hành giả
trở thành trống không. Điều ấy không thể xảy ra, bởi vì ta không thể nghĩ rằng có cái tâm rỗng không, một cái tâm trong đó không có
tư tưởng nào.
Khi không còn cảm nghe
hơi thở nữa thì ta hay biết như vậy. Đã có sự hay biết,
tức tâm không phải rỗng không. Sau đó
hành giả sẽ
cảm giác, hay biết
hơi thở trở lại. Mỗi khi tâm phóng đi, duyên vào những
tư tưởng khác, hãy hay biết sự phóng tâm ấy nhưng không để mình
bị cảm xúc, cũng không suy tư về những
tư tưởng này. Không nên
phê bình,
chỉ trích,
đánh giá, hay
ngợi khen những
tư tưởng ấy mà chỉ đem sự
chú tâm của mình
trở về nhịp thở
tự nhiên.
Hành giả cũng có thể bị những
tư tưởng bợn nhơ hay
bất thiện tràn ngập. Điều này có thể xảy ra. Chính trong khi hành thiền ta
hiểu biết tâm mình
hoạt động như thế nào. Hãy
giác tỉnh và hay biết cả hai, những
tư tưởng cao thượng và những
ý nghĩ thấp hèn, những gì
tốt đẹp và những gì
xấu xa, thiện và
bất thiện. Không nên
ngã mạn tự tôn với những
tư tưởng tốt và
thất vọng ngã lòng với những
ý nghĩ xấu.
Tư tưởng đến rồi đi, không khác nào các nghệ sĩ trên sân khấu. Khi nghe
tiếng động hãy
ghi nhận, có "tiếng động", rồi đem tâm
trở về hơi thở. Cùng thế ấy, khi
có mùi, có vị, có xúc chạm, đau, sướng v.v... hãy
theo dõi quan sát những
tư tưởng ấy (
nhĩ thức,
tỷ thức,
thiệt thức,
thân thức) một cách khách quan,
tự tại và không dính mắc.
Giác tỉnh chú niệm có nghĩa là
quan sát bất cứ gì xảy đến bên trong ta và trong tác phong của
chúng ta, chớ không
xét đoán xem nó tốt hay xấu. Chỉ nhìn,
quan sát với sự hay biết suông. Nhìn một cách khách quan mà không
vấn vương dính mắc với những
tư tưởng ấy. Đó
rõ ràng là tận dụng sự tập trung chú niệm vào bất cứ điều gì mình đang làm hay đang
chứng nghiệm.
Hành giả có thể cũng
nhận thấy trong tâm những
hình ảnh do
trí nhớ hay trí tưởng tượng tạo nên như ánh sáng, màu sắc v.v... Không nên nghĩ rằng đó là một
tiến bộ tinh thần mà sẽ bị chán nản về sau. Ngược lại, đó là những
chướng ngại sẽ làm chậm trể bước tiến trong
công phu hành thiền của
chúng ta. Hãy
giác tỉnh, hay biết những
hình ảnh ấy mà không vọng móng theo, không dính mắc vào đó, chỉ đem sự
chú tâm trở về hơi thở. Ta
cần phải nhẫn nhục và
cố gắng nhiều để đoạn lìa những sản phẩm phụ ấy, tập trung
nỗ lực vào
nhiệm vụ gom
tâm an trụ. Mức độ tận lực
cố gắng và
kiên trì nhẫn nhục nhằm đem lại
thanh tịnh và toàn hảo bằng
pháp hành thiền
vắng lặng (samatha) và
thiền minh sát (vipassanà) mạnh mẽ và
phi thường như thế nào? Chỉ có người thật sự hành thiền mới có thể thấu hiểu.
Đối với một
hành giả còn là
phàm nhân (tức chưa đắc
thánh Quả) thì việc có những
tư tưởng bất thiện hay
sai lầm phát sanh là
tự nhiên.
"Tham ái thấm nhuần tâm không thuần thục như nước thấm dột vào căn nhà không khéo lợp." [21]
Khát vọng của
con người gây nhiều
xáo trộn cho
con người. Khi bị trở ngại vì một
lý do gì
tham ái này
trở thành tức giận, tâm sân.
Vì lẽ ấy ta nên
cố gắng trau giồi và phát triển những
tư tưởng tốt đẹp và
trong sạch, những khả năng
vô cùng tận ngủ ngầm trong bẩm tánh
con người. Muốn được vậy ta
cần phải cố gắng tu tập pháp hành thiền
vắng lặng (samàdhi-sikkhà). Chính nhờ
tu tập dần dần mà ta có thể
kiểm soát và
điều phục tâm (cittam vasam vattati) thay vì
trở thành nô lệ, bị nó
chi phối (cittassa vasena vattati) [22]. Nhờ
dày công rèn luyện, trau giồi tâm như vậy ta có thể vượt thoát ra khỏi
ảnh hưởng của nhục dục
ngũ trần.
Tiến bộ vật chất của
thế gian như
lợi lộc chẳng hạn,
tùy thuộc một phần lớn vào
sự cố gắng của ta.
Vậy thì ta càng phải
cố gắng nhiều hơn nữa để
rèn luyện tâm tánh và nhờ đó phát triển những gì
quý báu và cao cả nhất bên trong
chúng ta. Và bởi vì
công trình rèn luyện tâm tánh đòi hỏi phải vận dụng mọi
cố gắng, mỗi người cho chính mình,
chúng ta hãy tận lực
gia công ngay từ giờ phút này. "Chớ để ngày tháng trôi đi như bóng mát của
đám mây, bay qua mà không để lại dấu vết gì cho ta nhớ."
Lời Khuyên Hành GiảTrong
kinh điển Phật Giáo có rất nhiều đoạn đề cập đến
pháp hành niệm hơi-thở-vào-thở-ra (ànàpànassati), và không ai
ngạc nhiên khi thấy
Đức Thế Tôn khuyên dạy
sa di Ràhula (
La Hầu La)
hành pháp này với đầy đủ
chi tiết.
Giờ đây
chúng ta hãy
trở lại bài kinh số 62 của bộ Majjhima Nikàya,
Trung A Hàm, tựa đề Mahà Ràhulavàda Sutta:
"Này Ràhula, vị đệ tử rút ẩn dật vào rừng, dưới một cội cây, hoặc đơn độc một nơi vắng vẻ, ngồi tréo chân, thân người ngay thẳng và, giác tỉnh, nhiếp tâm chú niệm.
"Chú niệm, vị ấy thở vô, chú niệm, vị ấy thở ra; khi thở vô một hơi dài, vị ấy hay biết 'ta thở vô một hơi dài'; khi thở ra một hơi dài, vị ấy hay biết 'ta thở ra một hơi dài'; khi thở vô một hơi ngắn, vị ấy hay biết 'ta thở vô một hơi ngắn'; khi thở ra một hơi ngắn, vị ấy hay biết 'ta thở ra một hơi ngắn'; 'hay biết trọn vẹn tiến trình hơi thở [23] ta sẽ thở vô', vị ấy tự rèn luyện như thế; 'hay biết trọn vẹn tiến trình hơi thở, ta sẽ thở ra, vị ấy tự rèn luyện như thế.'
"'Làm lắng dịu tiến trình hơi thở, ta sẽ thở vô', vị ấy tự rèn luyện như thế; 'làm lắng dịu trọn vẹn tiến trình hơi thở, ta sẽ thở ra', vị ấy tự rèn luyện như thế.
"'Chứng nghiệm tâm phỉ, ta sẽ thở vô,' vị ấy tự rèn luyện như thế; 'chứng nghiệm tâm phỉ, ta sẽ thở ra', vị ấy tự rèn luyện như thế.
"'Chứng nghiệm tâm lạc, ta sẽ thở vô', vị ấy tự rèn luyện như thế; 'chứng nghiệm tâm lạc, ta sẽ thở ra', vị ấy tự rèn luyện như thế.
"'Chứng nghiệm sinh hoạt tâm linh (thọ và tưởng), ta sẽ thở vô', vị ấy tự rèn luyện như thế; 'chứng nghiệm những cấu thành của tâm (hành), ta sẽ thở ra', vị ấy tự rèn luyện như thế.
"'Làm lắng dịu thọ và tưởng, ta sẽ thở vô', vị ấy tự rèn luyện như thế; 'làm lắng dịu hành, ta sẽ thở ra', vị ấy tự rèn luyện như thế.
"'Chứng nghiệm tâm an trụ ở mức cao độ (jhànic, đắc thiền), ta sẽ thở vô', vị ấy tự rèn luyện như thế; 'chứng nghiệm tâm an trụ ở mức cao độ, ta sẽ thở ra', vị ấy tự rèn luyện như thế.
"'Tâm vô cùng phấn khởi (do thiền vắng lặng hay thiền minh sát, samatha hay vipassanà), ta sẽ thở vô', vị ấy tự rèn luyện như thế; 'tâm vô cùng phấn khởi, ta sẽ thở ra', vị ấy tự rèn luyện như thế.
"'Tâm an trụ hoàn toàn củng cố (vào hơi thở), ta sẽ thở vô', vị ấy tự rèn luyện như thế; 'tâm an trụ hoàn toàn củng cố, ta sẽ thở ra', vị ấy tự rèn luyện như thế.
"'Giải thoát tâm (ra khỏi những chướng ngại tinh thần, nivàranas, những pháp triền cái) ta sẽ thở vô', vị ấy tự rèn luyện như thế; 'giải thoát tâm, ta sẽ thở ra', vị ấy tự rèn luyện như thế.
"'Quán niệm lý vô thường (trong thân, thọ, tưởng, hành, thức), ta sẽ thở vô' vị ấy tự rèn luyện như thế; 'quán niệm lý vô thường, ta sẽ thở ra', vị ấy tự rèn luyện như thế.
"'Quán niệm hạnh buông xả, ta sẽ thở vô', vị ấy tự rèn luyện như thế; 'quán niệm hạnh buông xả, ta sẽ thở ra', vị ấy tự rèn luyện như thế.
"'Quán niệm trạng thái chấm dứt, ta sẽ thở vô', vị ấy tự rèn luyện như thế; 'quán niệm trạng thái chấm dứt, ta sẽ thở ra', vị ấy tự rèn luyện như thế. "'Quán niệm trạng thái dứt bỏ, ta sẽ thở vô', vị ấy tự rèn luyện như thế; 'quán niệm trạng thái dứt bỏ, ta sẽ thở ra', vị ấy tự rèn luyện như thế.
"Pháp hành niệm hơi-thở-vô-thở-ra, này Ràhula, nếu được trau giồi như vậy và thường xuyên thực hành, sẽ đem lại nhiều thành quả tốt đẹp, nhiều lợi ích trọng đại. Khi pháp quán niệm hơi-thở-vào-thở-ra được trau giồi như vậy và thường xuyên thực hành, này Ràhula, thì chí đến hơi thở-vào-thở-ra cuối cùng cũng được hay biết rõ ràng lúc nó chấm dứt, không phải không hay biết." [24]
Có người cho rằng
pháp hành thiền này là
thấp kém,
vô ích và không đưa đến đâu.
Chúng ta cứ để họ
tự nhiên, muốn nói gì thì nói. Hãy để cho các
triết gia luận triết, để cho các nhà hùng biện
trổ tài hùng biện. Hãy tiến bước trên
con đường của ta và
thực hành pháp quán niệm của ta. Chí đến
Đức Thế Tôn xưa kia cũng không
tránh khỏi bị người đương thời
chỉ trích vì Ngài xa lánh cuộc sống "tranh chấp và
xung đột thấp hèn của đám đông cuồng loạn", như ta thấy trong bộ Dìgha Nikàya,
Trường A Hàm, những lời
phỉ báng thậm tệ mà
đạo sĩ du phương Nigrodha vung vải vào
Đức Phật: "Tình trạng
sáng suốt của Samana Gotama (
Sa Môn Cồ Đàm) bị
thói quen sống
ẩn dật của mình làm
suy tàn. Ngài không ở nhà để dẫn dắt hàng
tứ chúng. Ngài không sẵn sàng để
thảo luận. Ngài chỉ bận lo những việc
phụ thuộc bên ngoài. Cũng như con bò chột mắt,
cố tránh né sự
va chạm và
đi vòng quanh ngoài rìa, Samana Gotama cũng cùng thế ấy (sống ngoài rìa
cuộc đời và tránh né
va chạm)." [25]
Đúng ra thì không phải lúc nào
Đức Phật cũng tìm nơi vắng vẻ để ẩn sống
một mình. Ngài đi bộ trên những
con đường cái lớn và các nẻo nhỏ, cùng khắp xứ
Ấn Độ, bao trùm tất cả trong vừng
hào quang từ ái và bi mẫn của Ngài. Người ta đến với Ngài, lắng tai nghe, và xin về nương tựa nơi Ngài. Được
rọi sáng và dẫn dắt trên
con đường dẫn đến
an lạc và
giác ngộ, họ bước
theo dấu chân Ngài,
con đường rộng mở cho tất cả
mọi người.
Thỉnh thoảng Ngài sống
đơn độc trong một
thời gian.
Năm Pháp
Triền CáiKhi
gia công dần dần trau giồi chú niệm, tâm của
hành giả sẽ an trụ vào
hơi thở. Chừng đó
hành giả ghi nhận rằng chỉ có
hơi thở và cái tâm hay biết
hơi thở,
ngoài ra không có gì ở phía sau
hơi thở và tâm hết -- không có một tự ngã hay một
thực thể đơn thuần nào nguyên vẹn, thường còn, không
biến đổi hay một cái gì tương tợ.
Hành giả và
hơi thở không phải là hai mà chỉ là một tiến trình, một
hiện tượng tái sanh và
hoại diệt suông, giống như những lượn sóng trên biển cả. Trong
ý nghĩa cao
siêu nhất, chỉ có sự hành thiền mà không có người hành thiền. Nếu
hành giả tiến đến mức
hiểu biết trạng thái tâm định của mình như
vậy thì mức độ
định tâm của
hành giả đã rất cao, và chừng ấy
tâm phỉ lạc,
vắng lặng,
tự tại cũng phát sanh, và đó là một loại
chứng nghiệm phi thường mà
hành giả chưa bao giờ cảm thọ.
Chứng nghiệm thích thú này có thể chỉ
tồn tại trong chốc lát, rồi tâm của
hành giả lại rời
đề mục. Tâm phóng đi và có thể
hành giả thấy khó mà tập trung
trở lại.
Hành giả có thể cảm nghe
uể oải hoặc
buồn ngủ, bồn chồn
xao xuyến, và chán nản dững dưng không còn muốn hành thiền nữa. Không hề gì, đó là
sinh hoạt tự nhiên của tâm. Giờ đây
hành giả đã
hiểu biết tâm mình vận chuyển như thế nào,
xuyên qua kinh nghiệm bản thân, chớ không phải qua sách vở hay nghe nói lại.
Hành giả phải
tăng cường lòng nhiệt thành, tập trung
nỗ lực,
can đảm xông tới và
cố gắng tự
quên mình. Ngày kia
hành giả có thể
thành đạt những
chứng nghiệm của các tầng thiền (jhàna) bằng cách loại trừ những
chướng ngại tinh thần.
Trạng thái tâm định, lối hành thiền
vắng lặng (samatha-bhàvanà) này, thiết yếu để tiến đến
chánh kiến,
hiểu biết thâm sâu và
tuệ minh sát (vipassanà),
thành tựu trạng thái tinh thần hoàn toàn lành mạnh --
Niết Bàn.
Hành giả sẽ gặp nhiều
chướng ngại, nhưng
đặc biệt có năm, ngăn trở bước tiến đến
trạng thái tâm an trụ và
con đường giải thoát. Năm ấy được gọi là nìvaranàni [26], năm pháp
triền cái, vì nó
hoàn toàn đóng chặt, cắt đứt và ngăn chận. Nó đóng khoá cánh
cửa giải thoát. Năm ấy là gì?
Tham dục,
ác ý,
dã dượi hôn trầm,
phóng dật lo âu và
hoài nghi.
Một cái tâm mà bị những
năng lực tệ hại như vậy làm trở ngại ắt không thể
thành công an trụ vào
đề mục nào có
bản chất thiện. Không có
chánh tinh tấn ắt sẽ không thể khắc phục
năm chướng ngại tinh thần này.
Nhiệm vụ của
chánh tinh tấn có bốn:
ngăn ngừa, dứt bỏ, khai triển và
duy trì.
Chánh tinh tấn là
sự cố gắng (a)
ngăn ngừa những
tư tưởng bất thiện chưa phát sanh, không để cho nó phát sanh trong tâm; (b) loại trừ những
tư tưởng bất thiện đã phát sanh; (c) khai triển những
tư tưởng thiện chưa phát sanh và (d)
củng cố và
bảo trì những
tư tưởng thiện đã phát sanh. [27]
Bốn
nỗ lực chân chánh trên là
điều kiện tất yếu không
thể không có, để
định tâm.
Chánh tinh tấn sinh hoạt chung và
cùng lúc với hai chi kia của nhóm định, tức:
chánh niệm và
chánh định.
Chánh tinh tấn loại trừ những
tư tưởng bất thiện, vốn ngăn trở
tâm an trụ vắng lặng và khai triển và
bảo trì những
yếu tố tâm (
tâm sở) thiện giúp trau giồi
tâm định. Khi lòng nhiệt thành của
hành giả đình trệ và
suy giảm đó là lúc phải thu hết
can đảm, đẩy mạnh
nỗ lực và khắc phục lòng
dã dượi hôn trầm.
Tình trạng chán nản lười biếng của tâm và các
yếu tố tâm (
tâm vương và các
tâm sở) là
kẻ thù nguy hiểm của người hành thiền, vì khi tâm
hôn trầm thì
dã dượi ắt phát sanh, dẫn đến dững dưng chai đá.
Chú thích:[1] Majjhima Nikàya, Trung A Hàm, 26/I. 21.[2] Samyutta Nikàya, Tạp A Hàm, iii, 100.[3] Alexandra David Neel, With Mystics and Magicians (London: Penguin, 1940), mô tả những diễn biến về Tây Tạng huyền bí rất hứng thú.[4] Dhammapada, Kinh Pháp Cú, câu 103.[5] Phật Giáo phủ nhận một linh hồn trường cửu, một tự ngã bất diệt, hay một thực thể vĩnh tồn, bởi vì không có gì, dầu hữu tri hữu giác hay vô giác vô tri, mà tồn tại thường còn, ổn định, vững bền, không biến chuyển. Tất cả mọi sự vật đều phải đổi thay, không tồn tại giống nhau trong hai khoảnh khắc kế tiếp.[6] International Scala, November 1971.[7] Time, Volume 100, No. 17, October 1972.[8] Edward Arambawela, "Meditation Cures Pressure," Sunday Observer (Ceylon), May 30, 1982.[9] Dhammapada, Pháp Cú Kinh, câu 243.[10] Dhammapada, Kinh Pháp Cú, câu 239.[11] Xem Phụ bản III.[12] Majjhima Nikàya, Trung A Hàm, 44/I. 301.[13] Các tầng Thiền (jhàna) này được mô tả với nhiều chi tiết hơn trong quyển "The Buddha's Ancient Path" (xuất bản lần thứ năm, 1987), BPS, cùng một tác giả.[14] Anguttara Nikàya, Tăng Nhứt A Hàm, I, 61.[15] Xem phần sau, dưới tiểu tựa "Lời Khuyên Hành Giả"[16] Samyutta Nikàya, Tạp A Hàm, 326.[17] Xem Majjhima Nikàya, Trung A Hàm, 8.[18] Anguttara Nikàya, Tăng Nhứt A Hàm, iv, 200; Udàna 54.[19] Majjhima Nikàya, Trung A Hàm, số 10; Dìgha Nikàya, số 22.[20] Samyutta Nikàya, Tạp A Hàm, v, 326.[21] Dhammapada, Kinh Pháp Cú, câu 13.[22] Majjhima Nikàya, Trung A Hàm, 32/I 214[23] Sabba-kàya. Đúng theo nghĩa từng chữ là, "toàn thân (của hơi thở)". Theo sách Visuddhimagga, Thanh Tịnh Đạo, "kàya" ở đây không có nghĩa là cơ thể vật chất này, mà là toàn thể khối hơi thở-vô và thở-ra.[24] Tepi viditvà nirujjhanti no aviditàti. Chú Giải của bài kinh.[25] Dialogues of the Buddha, Part III, page 35.[26] Về chi tiết xin đọc Phụ bản IV.[27] Xem Phụ bản III.LÁNH XA CỰC ĐOAN
Công trình trau giồi
tâm trí bằng những
cố gắng lớn lao như vậy không thể
hoàn thành viên mãn trong một sớm một chiều. Người hành thiền phải
chuyên cần thực hành một cách
kiên trì và
đều đặn. Một
lực sĩ hay một người thường muốn được có
thân hình tráng kiện,
đẹp đẽ thì không ngừng thao duợt
hằng ngày và luôn luôn theo đúng
chương trình tập luyện của mình. Tập luyện
đều đặn mà không quá ép mình một cách không
cần thiết là điểm chánh yếu để
thành công trong
công trình trau giồi cơ thể. Người chỉ
cố gắng từng cơn, từng lúc, không thể nào
trở thành một
lực sĩ thượng thặng. Khi luyện tập trau giồi
tâm trí cũng vậy, ta cũng phải
áp dụng phương pháp trung dung ấy --
thực hành đều đặn và
kiên trì.
Không
cần phải nhọc công chiến đấu
chống lại những
ý nghĩ bất thiện phát sanh trong lúc hành thiền. Phải để cho nó
diễn tiến một cách
tự nhiên. Nếu tập trung
nỗ lực để
xua đuổi những
tư tưởng xấu ấy ắt sẽ không
thành công. Ngược lại, phải
ghi nhận và
theo dõi,
quan sát lúc nó khởi sanh và làm cho nó lắng dịu
dần dần. Tập hành thiền cũng giống như tập lội. Nếu giữ yên tay chân, không bơi, không lội, ắt phải chìm. Nếu quơ tay quơ chân quây vòng vòng, cũng không đi đến đâu. Hoặc nữa, tập hành thiền cũng giống như người dỗ giấc ngủ. Người muốn ngủ, nếu
nỗ lực tranh đấu ép mình phải ngủ, sẽ không bao giờ ngủ được yên giấc mà chỉ
trằn trọc thao thức. Giấc ngủ phải đến một cách
tự nhiên, và ta phải để cơ thể nghỉ ngơi mà không có
sự cố gắng nào để ép mình ngủ. Như vậy có thể nói rằng tập hành thiền là một
"cố gắng trong khi đó không có cố gắng gì hết", để cho
tâm trí luôn luôn
cảnh tỉnh và hay biết trong
hiện tại.
Một lần nữa, tự ép mình
quá sức là một trong hai
cực đoan mà
Đức Phật muốn cho người hành thiền nên tránh, vì không bổ ích và không đưa đến
trạng thái vắng lặng --
cực đoan kia là
để tâm buông lung phóng túng. Tự
ép xác, như vài
đạo sĩ Ấn Độ ngày nay vẫn còn làm, với
dụng ý làm cho những
tư tưởng bất thiện không phát sanh,
quả thật không
lợi ích gì, bởi vì những lối
ép xác khổ hạnh như vậy thường đưa đến
tình trạng khó chịu và
bất mãn. Khi tâm bị
phiền lụy hành giả sẽ cảm nghe chán nản với
công phu hành thiền. Tất cả mọi
công trình rèn luyện tâm trí phải được
thực hành một cách
tự nhiên, và
hành giả luôn luôn
giác tỉnh ghi nhận. "Ép sức
cố gắng quá độ và kém
thận trọng cũng giống như cắm đầu chạy mau trong đêm tối".
Cũng như
Đức Thế Tôn chỉ dạy, bất luận ở đâu người có
ước nguyện giải phóng tâm bằng sự
giác ngộ phải
cố tránh những
cực đoan. Người ấy phải cố bám vào "Trung Đạo". Để
thực hành chánh tinh tấn cũng vậy, phải giữ
con đường ở khoảng giữa, tránh hai cực doan. Như người kỵ mã
để ý trông chừng vó ngựa của mình, mỗi khi thấy ngựa chạy mau hơn ý mình muốn thì từ từ gò cương lại, Đàng khác, nếu thấy ngựa có vẽ trì chậm lại thì thúc chân cho nó nhanh lên, và như vậy người ấy có thể giữ đều vận tốc. Ta phải trau giồi
chánh tinh tấn cùng
một thế ấy. Không để
quá sức, càng không nên để
tinh thần quá
căng thẳng. Cũng không nên dể duôi, buông lơi trì huởn, càng không nên để
tinh thần quá
dã dượi. Cũng như người kỵ mã tài giỏi, ta phải luôn luôn
thận trọng trong
sự cố gắng.
Khi lên dây đờn quá thẳng hay quá dùn, người nhạc sĩ không thể đờn đúng giọng và như vậy, cây đờn
không hữu ích. Đàng khác, nếu đờn lên dây vừa đúng, không quá thẳng hay quá dùn thì có thể đờn đúng giọng và cây đờn sẽ hữu dụng. Cùng
một thế ấy, ép sức
cố gắng quá mức sẽ làm cho
tinh thần căng thẳng, còn dể duôi
buông lung ắt trở nên lười biếng
dã dượi .
Thông hiểu mức độ
quân bình của
ngũ căn --
tín căn,
tấn căn,
niệm căn,
định căn và
tuệ căn (saddhà, viriya, sati, samàdhi, và pannà) -- là quan
trọng như thế nào, ta phải giữ
đồng đều năm chi ấy trong khi
cố gắng nhắm đến
mục tiêu.
Hiểu Biết Rõ RàngNơi đây cũng nên
ghi nhận rằng trong
kinh điển Phật Giáo danh từ
"niệm" (sati) thường được dùng chung với một danh từ khác cũng đồng nghĩa: sampajanna,
hiểu biết rõ ràng. Danh từ kép
"sati-sampajanna" (chú niệm-hiểu biết rõ ràng) thường được dùng trong các
bài kinh. Niệm và
hiểu biết rõ ràng hợp tác và hỗ trợ lẫn nhau. Đó là sự
hiểu biết rõ ràng từng
sinh hoạt và mọi
tác động của cơ thể.
Vị
hành giả nhiếp tâm chú niệm-hiểu biết
rõ ràng những
hoạt động của cơ thể mình, cũng hay biết
oai nghi của mình. Như khi đi, đứng, nằm, ngồi,
hành giả luôn luôn hay biết các tư thế ấy. Tất cả mọi
tác động của thân, vị ấy đều làm với tâm
hoàn toàn giác tỉnh:
"Khi đi tới đi lui, khi nhìn trước mặt hoặc nhìn một bên, hành giả chú tâm hay biết rõ ràng (sampajànakàri hoti); khi co tay vào hoặc duỗi tay ra, hành giả chú tâm hay biết rõ ràng; khi mặc áo, khi ăn, khi uống, khi nhai, khi nghe vị của thức ăn, khi đi giải, hành giả chú tâm hay biết rõ ràng; khi đi, khi đứng, khi ngồi, khi nằm (sutte), khi tỉnh giấc (jàgarite), khi nói, và khi giữ im lặng, hành giả hay biết rõ ràng". Danh từ "
sutte" -- khi dùng để chỉ một
oai nghi -- thì hàm ý là tư thế nằm nhưng một cách
chính xác, chữ này có nghĩa là "trong khi ngủ" hoặc "trong khi thiu thỉu ngủ".
Hành giả nằm xuống với chú niệm đặt trên
đề mục hành thiền (kammatthàna, cũng gọi là
công án), và ngủ với
tâm không xao lãng.
Danh từ "
jàgarite" có nghĩa là khi
tỉnh dậy, hoặc khi
tỉnh ngủ. Lúc
tỉnh giấc, trước khi
mở mắt,
hành giả liền
nhiếp tâm chú niệm vào
đề mục hành thiền (kammatthàna) tức thì. Danh từ này cũng có thể
áp dụng vào những
trường hợp như: (i)
thức dậy một cách
giác tỉnh (không để cơn
buồn ngủ lấn áp) khi
hành giả gia công chú niệm trong tư thế nằm (như khi lâm bịnh hoặc vì tật nguyền), và (ii) trong những đêm thao thức không
an giấc, khi ta
cố gắng ép giấc ngủ.
Tâm chú niệm và
hiểu biết rõ ràng có thể giúp ta
chấp nhận tình thế một cách
bình tĩnh và
hiểu biết nguyên do tại sao không ngủ được. Trong
trạng thái tĩnh lặng và
hiểu biết ấy may ra giấc ngủ
tự nhiên sẽ đến. Trong
ý nghĩa rộng rãi nhất, hai danh từ "sutte" và "jàgarite" (khi ngủ và khi
tỉnh giấc) vượt
xa hơn là hàm xúc
vấn đề nghi thế, vì ta có thể ngủ trong
oai nghi ngồi hay đứng chớ không phải chỉ có nằm mới ngủ. Trong
ý nghĩa cao
siêu nhất ta ngủ trong
tình trạng bị
ô nhiễm chi phối. Cùng thế ấy, danh từ "jàgarite" bao hàm
trạng thái giác tỉnh, đặc tánh của hạnh
chuyên cần chú niệm (appamàda), trong
ý nghĩa rộng rãi nhất.
Đức Phật dạy:
"Người luôn luôn giác tỉnh, ngày đêm thận trọng tu niệm (ahorattànusikkhitani) và trọn vẹn hướng tâm về Niết Bàn, mọi nhiễm ô của người ấy sẽ biến tan (sẽ bị tận diệt)."Như vậy, trong tất cả những
tác động của thân như kể trên, và trong tất cả những
hoạt động khác,
hành giả phải luôn luôn chú niệm và
tỉnh giác. Đây là lời dạy của
Đức Thế Tôn: "Này chư tỳ khưu,
Như Lai tuyên bố, trong tất cả
mọi việc, ở bất luận
trường hợp nào, chú niệm là thiết yếu." "Nó cũng như trong cà ry, muối là thiết yếu." ở một đoạn khác
Đức Thế Tôn dạy: "Chú niệm,
quả thật vậy, đem lại rất nhiều
lợi ích lớn lao."
Ta phải
nhận định vấn đề chú niệm và
hiểu biết rõ ràng trong
ý nghĩa rộng rãi.
Lẽ dĩ nhiên tứ chánh cần, như đã được trình bày ở phần trên, là một
bảo vệ chắc chắn. Chú niệm phải được
áp dụng rộng rãi vào tất cả mọi
trường hợp ngay từ
lúc đầu, và như vậy
trạng thái vắng lặng của
tâm giác tỉnh sẽ giúp
hành giả nắm vững
tình thế một cách
sáng suốt.
Tuy nhiên (đây là một sắc thái của
Trung Đạo) có những
trường hợp mà
hành giả phải vận dụng pháp
tứ chánh cần trong
hình thức mạnh mẽ
nhất như đã được chỉ dạy trong kinh Vitakkasanthàna Sutta, tức là khi mà chú niệm suông không
đủ khả năng chế ngự.
Kinh điển có thuật lại
câu chuyện lý thú về
Đại Đức Mahà Phussa. Ngài luôn luôn
nhiếp tâm chú niệm và
theo dõi những
tư tưởng phát sanh đến mình. Trong khi đi, nếu có một
ý nghĩ bất thiện phát sanh thì Ngài liền dừng chân, và chỉ đi
trở lại khi
tâm bất thiện ấy
chấm dứt. Nhiều người thấy vậy ngỡ rằng Ngài bị lãng
trí hoặc đã đánh lạc mất vật gì trên đường đi. Về sau, nhờ
thường xuyên chú niệm và
hiểu biết rõ ràng như vậy Ngài
thành tựu mỹ mãn
ước nguyện thanh lọc
hoàn toàn tâm trí và
trở thành một vị
A La Hán, đấng Trọn Lành, người
tuyệt đối trong sạch, không còn
mảy may ô nhiễm nào. Điều này cho thấy rằng các bậc thầy tổ từ ngàn xưa chẳng những
quan sát và hay biết tâm mình trong khi
ngồi thiền vào những giờ giấc
nhất định, mà luôn luôn từng giây, từng phút, không ngừng nghỉ.
Nghệ Thuật Nghỉ Ngơi
Khi
ngồi thiền một ít lâu
hành giả có thể cảm nghe tay chân
mệt mỏi hay đau nhức và thấy cần được
thoải mái. Chừng đó
hành giả có thể bắt đầu
đứng dậy đi, thường được gọi là
kinh hành, hay
thiền hành. Từ lúc chuẩn bị
đứng dậy hành giả không phải
chú tâm vào
hơi thở nữa mà chuyển sự
chú tâm vào mọi
tác động của cơ thể mình.
Hành giả đi chậm chậm và luôn luôn
theo dõi từng
cử động. Nếu thấy tâm phóng thì kéo nó
trở về theo dõi oai nghi đi mà không dính mắc vào ý nghỉ nào khác. Khi chân chấm đất, hãy
ghi nhận và hay biết
cảm giác xúc chạm này. Đi cũng là một
đề mục hành thiền,
hay nói cách khác, cũng là một
phương cách để
rèn luyện tâm giác tỉnh.
Trong khi theo học một khóa
thiền hành giả hãy
cố gắng luôn luôn giữ
tâm giác tỉnh, bất luận ở đâu và bất cứ đang làm gì, ngồi, đứng, đi, làm việc, ăn, uống v.v... , hãy luôn luôn chú niệm.
Trong khi
ngồi thiền nếu
hành giả tê
chân quá, hãy duỗi chân ra, lấy tay
xoa bóp.
Hành giả cũng có thể nghỉ ngơi trong tư thế nằm. Sau khi ngồi lâu
mệt mỏi có thể nằm trên ván hoặc trên giường mặt bằng phẳng.
Hành giả nằm ngửa và
cố gắng không dùng gối để gối đầu. Hai chân
thong thả duỗi ra
cách nhau không xa và hai tay
thoải mái để dọc theo thân mình, mắt nhắm. Không suy tư
sâu xa mà nhẹ nhàng
để tâm nghỉ ngơi nhưng không
phóng dật. Hãy để cho mỗi bắp thịt được nghỉ ngơi và
toàn thân thong thả tự nhiên trong vài phút. Đôi khi
hành giả có thể ngủ quên vài phút! Sau khi nghỉ ngơi
hành giả cảm nghe khỏe khoắn
dễ chịu, sẵn sàng để hành thiền
trở lại.
Hành giả có thể nghỉ ngơi như thế đó, không những trong
thời gian hành thiền mà bất luận lúc nào trong ngày, khi nghe mình
mệt mỏi hoặc
cảm thấy cần phải nghỉ.
Thiếu Nữ Hoa HậuPhương pháp luyện tâm
hiểu biết rõ ràng từng động tác của thân giúp ta
diệt trừ những
tư tưởng sai lạc,
tăng trưởng năng lực tâm an trụ và phát triển
trạng thái giác tỉnh cũng như đức
chuyên cần tinh tấn.
Đức Phật có thuật một
câu chuyện ngụ ngôn để
nhấn mạnh tầm quan trọng của
công phu phát triển pháp
niệm thân như sau:
"Này chư tỳ khưu,
thí dụ như có một đám đông người đang tụ hợp và
la ó, 'xem kìa,
thiếu nữ tuyệt đẹp,
quả thật là
hoa hậu của xứ này!' Lúc bấy giờ, này chư tỳ khưu,
thiếu nữ xinh đẹp tuyệt trần kia, điêu luyện về nghệ thuật khiêu vũ và ca hát, phô trình tài nghệ mình với tất cả
duyên dáng vô cùng hấp dẫn. Đám đông ngày càng đông thêm người, và họ la dậy, 'xem kìa,
thiếu nữ tuyệt trần đang vũ, đang ca hát!'
"Vừa
lúc ấy có chàng thanh niên rất
ham sống, không thích chết, rất ưa hưởng thụ
lạc thú, không muốn
đau khổ, và đám đông nói với chàng: 'Này anh chàng kia, hãy nhìn kìa! Đây là một cái chén đựng dầu đầy đến miệng. Anh phải bưng chén dầu ấy đi giữa đám đông người và
thiếu nữ hoa hậu tuyệt đẹp. Ngay phía sau anh có tên đao phủ
theo bén gót, tay cầm thanh kiếm sẵn sàng. Nếu anh làm đổ một giọt dầu thì tức khắc đầu anh sẽ rơi xuống đất!'
"Giờ đây, này chư tỳ khưu, các con nghĩ thế nào? Chàng thanh niên kia dám
xao lãng mà
không chú tâm vào chén dầu không? Anh chàng có nhìn
quanh quẩn và
lo nghĩ chuyện
đâu đâu, ngoài chén dầu không?
"Bạch
Đức Thế Tôn,
chắc chắn là không.
"Đúng vậy, này chư tỳ khưu, đây là một
câu chuyện ngụ ngôn mà
Như Lai nói ra để làm
sáng tỏ những gì
Như Lai muốn dạy. Những lời ấy là: Cái chén đựng dầu đầy đến miệng là pháp
niệm thân. Như vậy, tự các con phải tự
rèn luyện như sau:
'Ta phải thực hành pháp niệm thân, phải gia công chuyên cần chú niệm, phải nương tựa nơi pháp này, phải dùng pháp này như một phương tiện, phải kiên cố gìn giữ và làm cho pháp này công hiệu. Pháp niệm thân phải được tăng trưởng và thường xuyên áp dụng thực hành.'"Như thế ấy, này chư tỳ khưu, các con phải tự
rèn luyện."
Pháp
niệm thân (kàyànupassanà) không phải chỉ
bao gồm có pháp niệm hơi-thở-vào-thở-ra -- ànàpànassati chỉ là một trong mười sáu phần của pháp
niệm thân -- mà còn những pháp khác nữa như
quán niệm về
bản chất ô trược của cơ thể
vật chất (asubha) v.v...
Sắc Đẹp Mỏng Manh Như Lớp Da
Như
bài kinh giải thích, người hành thiền suy niệm về chính cái thân này, được bọc bên ngoài bằng một lớp da và bên trong chứa đầy uế trược, từ gót chân lên đến đỉnh đầu và từ tóc trở xuống.
Hành giả quán niệm: "Trong cơ thể này, đây là tóc, lông, móng tay, móng chân, răng, thịt, gân, xương v.v..." Như thế ấy
hành giả quán chiếu tánh
cách ô trược của thân.
Đây có
thể không phải là một
đề mục hành thiền có nhiều
thích thú đối với người phương Tây. Riêng đối với các bạn trẻ, dầu ở phương Đông hay phương Tây, vẫn không thích xem cơ thể này là
ô trược.
Tuy nhiên, dầu
chúng ta có thích hay không, nếu bình tâm
quan sát một cách khách quan "tấm thân dài một sải" này,
chúng ta sẽ không
tìm thấy trong đó có gì
đẹp đẽ như
trân châu, như ngọc báu v.v... mà chỉ là một khối uế trược. "Sắc đẹp chỉ ăn sâu bằng bề dày của lớp da" (dưới lớp da mỏng manh này chỉ là thịt, gân, xương, ruột, gan, phèo, phổi v.v... chẳng có gì là đẹp). Dầu là thanh niên,
thiếu niên, hay niên cao tuổi lớn,
chúng ta cũng nên thấu hiểu
thực tại mà ta phải
đối phó, cùng với ba đặc tánh của
đời sống: sanh, già và chết.
Chúng ta sống,
thương yêu nhau và vui cười
với nhau,
trong lúc ấy kiếp sống của
chúng ta đang bị
tuổi già lấn dần, bị những cảnh
vô thường biến đổi siết chặt dần và những đặc tánh kia
quả thật cố hữu dính liền với mọi kiếp
sinh tồn -- cũng như màu xanh dính liền với cỏ, như chất đắng cố hữu trong ký-ninh -- điều mà tất cả
phép mầu và
năng lực của khoa học không hề
biến chuyển được.
"Dường như cánh
hoa hồngĐẹp tợ nhung mà bạn thấy,
Như những nụ hoa vừa chớm nở trên cây,
Như cành mai
vô cùng xinh đẹp,
Như buổi bình minh,
Như ánh
thái dương, như bóng mát,
Như trái bầu
quý báu mà Jonas có trước kia,
Con người cũng dường thế ấy!
Từ ống chỉ tuổi thọ, chỉ được kéo ra,
Và kéo ra, và cứ thế, kéo ra
dần dần.
Cánh hồng héo xào,
Những nụ hoa tung toé rơi trước gió,
Mai tàn, bình minh
trôi qua,
Mặt trời lặn, bóng mát bay đi,
Trái bầu hư hoại; và
con người chết.
Con người cũng cùng thế ấy, chỉ sống từng
hơi thở,
Nay chỗ này, mai
nơi khác, dường thế ấy, sống và chết.
Con người cũng cùng thế ấy,
Chồng chất bao nhiêu
phiền muộn ưu sầu,
Chỉ sống trong ngày nay, và ngày mai sẽ ra đi.
Bản hành ca thật là ngắn ngủi,
Quả thật ngắn ngủi, cuộc hành trình!
Quả đào
chắc chắn phải chín mùi, rồi ung thúi,
Quả mận ắt phải rơi lìa cành,
Tuyết phải tan, và dường thế ấy, mọi sự vật."
Một
quan niệm về
đời sống như thế ấy không phải là
bi quan, cũng không phải
lạc quan, mà
thực tiễn. Đừng ai nghĩ rằng cái nhìn vào
đời sống và vào
thế gian của người
Phật tử là
đen tối, buồn thảm, và người
Phật tử có
tinh thần thấp kém. Nghĩ như vậy là
xa lìa hẳn
sự thật. Người
Phật tử vẫn đi
xuyên qua kiếp sống với một nụ cười.
Từ pháp niệm thân (kàyànupassanà) ta hãy tiến sang pháp
niệm thọ (vedanànupassanà). Người hành theo pháp này
giác tỉnh chú tâm vào những
cảm giác, hay thọ, của mình:
vui sướng,
đau khổ hoặc trung hoà --
không vui sướng cũng không
đau khổ. Khi
chứng nghiệm một
cảm giác vui,
hành giả biết "đây là thọ lạc", bởi vì chính mình đã
theo dõi,
quan sát và hay biết những thọ cảm của mình. Cùng thế ấy
hành giả hay biết các
cảm thọ khác và
cố gắng chứng nghiệm một cách
giác tỉnh các
cảm giác ấy theo đúng
thực tế, đúng
như thật sự nó là như thế ấy.
Thế thường, người ta
thất vọng khi
chứng nghiệm thọ khổ và phấn khởi
vui sướng khi hưởng
thọ lạc.
Công phu niệm thọ giúp cho
hành giả chứng nghiệm tất cả những
cảm thọ một cách khách quan với tâm xả (bình thản,
quân bình, không chao động), và tránh cho
con người khỏi
bị cảm thọ
chi phối, khỏi phải bị
lệ thuộc hay làm
nô lệ cho
cảm giác mình. Do nhờ
thiền minh sát (vipassanà)
hành giả cũng học
nhận thức rằng chỉ có thọ, một
cảm giác, và chính thọ ấy cũng phù du tạm bợ, đến rồi đi, sanh rồi diệt, và không có một
thực thể đơn thuần nguyên vẹn hay một tự ngã nào thọ cảm.
Niệm tâm (cittànupassanà), pháp thứ ba trong
tứ niệm xứ, nói lên cho
chúng ta tầm quan trọng của
công trình khảo sát
tìm hiểu tâm mình và của sự hay biết những
tư tưởng phát sanh đến mình. ở đây những
tư tưởng này là những
tư tưởng tham, sân, si, nguồn gốc khởi phát tất cả những hành động
lầm lạc,
bất thiện và những
tư tưởng đối nghịch, có tánh cách thiện, từ đó phát xuất những hành động tốt, tạo
nghiệp lành. Thay vì nhìn đó là những
tư tưởng tham ái,
hành giả nhìn cái tham chỉ là một
trạng thái tâm (saràgam cittam v.v...).
Xuyên qua pháp
niệm tâm hành giả cố gắng thấu đạt cả hai, những
trạng thái tâm bất thiện và những
trạng thái tâm thiện.
Hành giả quán chiếu, nhìn thấy cả hai mà không dính mắc
luyến ái hay
bất mãn khó chịu.
Phương pháp bình thản
quán chiếu tâm mình một cách khách quan giúp cho
hành giả thấu đạt
cơ năng thật sự của tâm và những
sinh hoạt tâm linh --
bản chất thật sự và
hoạt động thật sự của tâm. Những ai
thường xuyên niệm tâm sẽ học được
phương cách kiểm soát tâm mình.
Một
đặc điểm của
thế gian ngày nay là nông cạn, chỉ thấy lớp bên ngoài sự vật.
Con người hiện đại sẽ thẳng tay
bác bỏ những lời này, nhưng
nếu có thể nhìn
trở lại vào chính mình một cách
vô tư thì người ấy sẽ không phủ nhận
thực tại.
Con người hiện đại không chịu dừng bước để suy tư
sâu xa. Cái
hình dáng bề ngoài đã chiếm hết
tâm trí họ. Ta hãy nhìn xem đến mức độ nào
con người hiện đại bị các
quảng cáo thương mại và các hàng hoá trưng bày trong tủ kiếng các tiệm buôn
ảnh hưởng. Nếu các
quảng cáo và hàng hóa trưng bày không
ảnh hưởng con người ắt
các chủ tiệm sẽ không chịu
bỏ ra những số tiền lớn lao vào đó.
Phương pháp hành thiền trong
Phật Giáo là phương thuốc
trị liệu có
tác dụng chữa trị chứng bịnh nông cạn ấy: città-nupassana, pháp
niệm tâm tức
tự quán chiếu
nội tâm,
theo dõi và hay biết những
tư tưởng phát sanh đến mình.
Con người hiện đại rất
ít khi suy tư một cách
độc lập. Rất
ít khi họ có một quan kiến riêng của chính họ. Thời trang quần áo mà họ mặc, hiệu hàng hóa mà họ mua, tất cả, họ đều nhờ những người làm
quảng cáo, những người rao hàng,
định đoạt giùm cho họ. Họ bị các khẩu hiệu chính trị gây
xúc động thật là dễ dàng! Những khẩu hiệu và những lời tuyên truyền trong chính trường hình như
uốn nắn tâm trí con người, và
đời sống có chiều hướng trở nên máy móc,
con người trở thành bù nhìn, do kẻ khác điều khiển và
kiểm soát.
Con người hiện đại hình như
thấm nhuần đủ loại
ý niệm, quan kiến,
dư luận và
lý thuyết. Họ được dưỡng nuôi bằng phim ảnh.
Tâm trí họ được
un đúc bằng vô tuyến truyền hình và
rèn luyện bằng vô tuyến truyền thanh. Ngày nay, những gì được trình bày trên
báo chí, trên đài phát thanh, truyền hình, một vài loại phim ảnh, một số
văn chương và phim ảnh thuộc loại
tâm lý có
tính cách khiêu dâm, có khuynh hướng làm cho
con người rối loạn,
lầm lẫn, và đưa
con người ra khỏi đường lối chân chánh và
hiểu biết sáng suốt.
Nhưng người
thường xuyên giác tỉnh chú niệm sẽ được
bảo vệ chống lại các
năng lực hấp dẫn và
tế nhị của nhà làm
quảng cáo, được
bảo vệ chống lại những tiếng
la ó vang rền của nhà tuyên truyền và được
bảo vệ chống lại những
ảnh hưởng khủng khiếp của các
phong trào đại chúng.
Một điểm
suy nhược khác của
con người hiện đại là
ham muốn thay đổi, và họ muốn các thay đổi ấy nhanh chóng đi đến kết quả.
Thiếu sót lớn lao của họ là
trạng thái vắng lặng.
Vắng lặng tạo
sức mạnh tâm trí. Thiếu
vắng lặng đưa đến
tình trạng bồn chồn
nóng nảy,
không nhẫn nhục, và
con người mà
không nhẫn nhục sẽ không bao giờ
thỏa mãn, không bao giờ
toại nguyện. Người ấy luôn luôn muốn một cái gì mới lạ, muốn tìm
cảm xúc mạnh. Người ấy sẽ lấy làm
thất vọng nếu sáng ra cầm tờ báo lên mà không thấy hàng tít lớn "giựt gân".
Con người hiện đại khát khao những gì mới lạ. Họ
thèm muốn những
xúc động mạnh. Họ được dưỡng nuôi bằng những
cảm xúc mạnh. Họ sẽ luôn luôn
nóng nảy ước vọng điều mới lạ. Họ sẽ
hết lòng mong mỏi những
phương pháp mới, những cơ khí mới, những thuốc mới, một
lối sống mới, một
chủ nghĩa mới, và không bao giờ
chấm dứt.
Thái độ tân thời ấy là dấu hiệu của một chứng
bịnh tâm thần --bịnh
phóng dật, vọng động, không
an tĩnh.
Nơi đây,
một lần nữa,
giác tỉnh chú niệm là phương thuốc khẩn thiết
trọng yếu. Hiểu theo một lối, chú niệm có nghĩa là
vắng lặng, và
trạng thái tâm
vắng lặng làm cho
đời sống quân bình. Được
rèn luyện để
đạt đến tình trạng tĩnh lặng,
hành giả sẽ không ôm ấp dưỡng nuôi những khát vọng không
cần thiết.
"Người ấy sẽ đi xuyên qua những thăng trầm của cuộc sống một cách bình thản" (visame samam caranti)Công trình niệm tâm cũng giúp
hành giả nhận thức rõ ràng rằng cái được gọi là tâm chỉ là một tiến trình luôn luôn
biến đổi, gồm những
trạng thái tâm cũng luôn luôn
biến đổi, và trong đó không có gì như một
thực thể nguyên vẹn,
đơn thuần, gọi là ta hay
bản ngã.
Pháp chú niệm thứ tư là dhammànupassanà,
niệm pháp. Pháp này
bao gồm tất cả những lời dạy chánh yếu của
Đức Phật, phần lớn đã được
thảo luận trong quyển "The Buddha's Ancient Path", cùng một
tác giả với sách này.
Niệm pháp không phải là suy tư hay luận lý suông mà cùng đi chung với
tâm giác tỉnh chú niệm và phân biện, hay biết những đối tượng của tâm ấy như thế nào, khi nó phát sanh và
chấm dứt (samudayavaya).
Thí dụ như khi có
tham dục hiện hữu hành giả hay biết, "có
tham dục phát sanh đến ta". Hoặc khi không có
tham dục,
hành giả hay biết, "không có
tham dục ở ta" v.v...
Hành giả cũng chú niệm như thế ấy đối với các pháp
triền cái (nìvaranàni) khác.
Cùng
một thế ấy
hành giả giác tỉnh chú niệm và phân biện
ngũ uẩn thủ (panca-upàdànakkhandhà) -- sắc, thọ, tưởng, hành, thức.
Hành giả giác tỉnh chú niệm, phân biện
lục căn (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý) và
lục trần (sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp). Nơi đây
hành giả thấu đạt rành rẽ đây là mắt, đây là hình thể và thấu hiểu
thằng thúc nào phát sanh
tùy thuộc nơi
nhãn căn và nhãn trần ấy;
Hành giả thấu đạt rành rẽ tai và
âm thanh ... mũi và mùi ... lưỡi và vị ... thân và vật được xúc chạm ... ý và đối tượng của tâm, và thấu hiểu những
thằng thúc nào phát sanh
tùy thuộc nơi những căn và những trần ấy.
Hành giả cũng thấu đạt sự
chấm dứt của những
thằng thúc ấy.
Cùng
một thế ấy
hành giả phân biện
thất giác chi (satta bojjhanga, bảy chi của sự
giác ngộ) và
tứ diệu đế(cattàri ariyasaccàni). Nơi đây
tứ diệu đế không thuộc về loại
hiểu biết ở tầng lớp
trí thức,
hiểu biết bằng cách luận lý, mà là những gì
hành giả gặp thấy và thật sự
chứng nghiệm.
Như thế ấy
hành giả giác tỉnh chú niệm,
quán chiếu và thấu đạt các pháp, đối tượng của tâm.
Hành giả sống
độc lập,
hoàn toàn không bám níu vào bất luận gì trên
thế gian.
Tứ niệm xứ là pháp mà tất cả các sắc thái khác của
Giáo Pháp (Dhamma) đều tập trung hướng về.
Trong
bài kinh Niệm Xứ, mỗi đoạn
mô tả một "niệm xứ" đều
chấm dứt bằng câu:
"Hành giả sống độc lập, không bám níu vào bất luận gì trên thế gian; bởi vì "mọi sự vật đều không bền vững." Đó là
mục tiêu mà
hành giả nhắm đến, là
cứu cánh mà
hành giả hết lòng ước nguyện thành đạt và tận lực
gia công thành tựu. Nơi đây, "sống độc lập" có nghĩa là đã vượt lên, thoát ra khỏi
ái dục và
tà kiến (tanhà, ditthi), và "thế gian" là
thế giới của
chúng sanh, cái
thế gian "tâm-vật-lý" của chính mình.
Hành giả không còn bám níu vào tiến trình danh-sắc này, và không xem đó là một
bản ngã thường còn, một
thực thể đơn thuần, hay một cái "ta"
vĩnh cửu.
Câu Chuyện Chiếc Bè
Sở dĩ chúng ta bám bíu, đeo níu vào những sự vật,
vô tri vô giác hay hữu giác hữu tri, là vì
chúng ta còn tham, còn muốn có.
Nếu có thể tự
rèn luyện nghệ thuật nhìn sự vật với
tâm bình thản, không
luyến ái, chừng đó ắt
chúng ta học được pháp
buông xả, để cho tất cả
trôi qua. Dây
trói buộc chúng ta không phải ở trong
giác quan hay trong đối tượng của
giác quan. Nó ở trong lòng
tham ái của
chúng ta, khởi phát khi
giác quan tiếp xúc với đối tượng của nó. Như vậy,
vấn đề và đường lối
giải quyết vấn đề, chứng bịnh và phưong thức
trị liệu, đều nằm bên trong
chúng ta. Hãy tự
rèn luyện nghệ thuật từ khước,
buông bỏ. Đúng thật là rất khó mà sống không bám níu vào bất luận gì trên
thế gian, và
sự cố gắng của
chúng ta nhằm tiến
đạt đến mức độ
tinh thần cao siêu ấy
xem chừng như
vượt quá tầm khả năng của
chúng ta.
Mặc dầu vậy, đây là một
thành tựu đáng cho ta
kiên trì và
liên tục gia công. Có nhiều vị đã tận lực
gia công,
kiên trì cố gắng, và vượt đến
tuyệt đỉnh tinh thần trong chính kiếp sống này. "Hãy gieo một hành động và gặt hái một
thói quen, Hãy gieo một
thói quen và gặt hái một
tâm tánh. Hãy gieo một
tâm tánh và gặt hái một định mạng -- bởi vì
tâm tánh là định mạng."
Về điểm này
Đức Phật có dạy
câu chuyện ngụ ngôn chiếc bè rất là hứng thú. Hãy lắng tai
nghe lời Ngài:
"Này chư tỳ khưu,
Như Lai sẽ thuật cho các con nghe
câu chuyện chiếc bè, để dạy rằng
Giáo Pháp phải
được xử dụng để sang sông chớ không phải để ôm giữ. Hãy
thận trọng chú tâm lắng nghe."
"Bạch
Đức Thế Tôn, chúng con xin vâng," các vị tỳ khưu
trả lời.
Đức Phật dạy tiếp:
"Này chư tỳ khưu, trong cuộc
hành trình dài dẳng người kia đi đến một con sông rộng lớn, ngăn ngang
trước mặt. Bờ bên này thì đầy hiểm nguy rất
đáng sợ. Bên kia thì
an toàn. Nhưng không có thuyền hay cầu để sang sông. Người kia nghĩ: 'Thật là rộng lớn, con sông này
quả thật là rộng, bờ bên này đầy hiểm hoạ, nhưng bên kia thì châu toàn. Vậy ta nên quơ nhặt cây, nhánh và cỏ, lá để kết thành chiếc bè rồi sẽ dùng cả tay lẫn chân để bơi sang
bờ bên kia.'
"Và
lúc ấy, này chư tỳ khưu, người kia kết thành chiếc bè và tận lực
cố gắng dùng cả tay lẫn chân bơi sang sông một cách
an toàn. Khi đã
đến bờ bên kia người ấy
suy nghĩ: 'Chiếc bè này
quả thật là hữu dụng. Nhờ nó mà ta sang được đến bờ bên này một cách châu toàn. Vậy, dầu có đi đâu ta cũng nên đội nó trên đầu hay vác nó trên lưng.'
"Này chư tỳ khưu, các con nghĩ thế nào? Nếu hành động như vậy người ấy có xử dụng chiếc bè một cách
thích nghi không?"
"Bạch
Đức Thế Tôn, không."
"Bây giờ,
thí dụ như người ấy đã được
đến bờ bên kia một cách châu toàn rồi nghĩ rằng: 'Chiếc bè này
thật hữu dụng, nhờ nó mà ta đã vượt đến bờ bên này một cách châu toàn. Vậy ta nên kéo nó lên bãi, hoặc để nó trôi đâu cũng được, phần ta thì hãy
thong dong, mặc tình muốn đi đâu
tùy ý.' Nếu hành động như vậy, này chư tỳ khưu, ắt người kia đã xử dụng chiếc bè một cách
thích nghi.
Cũng dường thế ấy, này chư tỳ khưu,
Như Lai lấy
câu chuyện chiếc bè làm
hình ảnh cụ thể để dạy rằng
công dụng của
Giáo Pháp là giúp ta vượt sang
bờ bên kia, chớ không phải để ôm giữ. Này chư tỳ khưu, đã thấu
hiểu ý nghĩa của
Giáo Pháp (Dhamma) mà
Như Lai dùng
câu chuyện chiếc bè để dạy, các con hãy
buông bỏ các
thiện pháp (dhamma); càng phải
buông bỏ hơn nữa những pháp
bất thiện (adhamma)."
Ta
thích thú ghi nhận rằng theo Bản
Chú Giải, danh từ "
dhamma" mà ở đây được
phiên dịch là "
thiện pháp", có nghĩa là tâm
vắng lặng hay
tâm định (samatha) và
tuệ minh sát (vipassanà). Chí đến những
trạng thái tinh thần cao siêu như vậy, khi đã
đạt đến rồi
hành giả cũng không nên bám níu hay dính mắc, mà phải
buông bỏ. Khỏi cần đề cập đến các pháp
bất thiện.
Cái Nhìn
Chủ Quan và Cái nhìn Khách Quan
Trong
bài kinh Satipatthàna Sutta,
Niệm Xứ, chú niệm chỉ
đặc biệt liên quan đến bốn "xứ": thân, thọ, tâm và pháp. Pháp
niệm thân giúp ta
nhận thức rành mạch và tận tường
bản chất thật sự của
vạn pháp bằng cách
phân tách sự vật chí đến mức cùng tột, đến
thành phần cơ bản
cuối cùng.
Công trình nhận xét vô cùng tỉ mỉ chính
bản thân mình giúp ta
thấu triệt rằng thân này chỉ là một tiến trình luôn luôn
biến chuyển, trong đó không có một
thực thể hay một
đơn vị nào có thể được xem là
bền vững, thường còn.
Một điểm
đặc biệt của
tâm sở "niệm" tối quan trọng này là nó bao hàm
phương pháp nhìn sự vật một cách khách quan, thay vì
chủ quan. Vậy ta
cần phải hiểu rõ sự khác biệt giữa cái nhìn
chủ quan và cái nhìn khách quan. Pháp
tứ niệm xứ phải được
thực hành một cách khách quan, không có
phản ứng chủ quan nào. Điều này có nghĩa là
hành giả chỉ quan sát suông, không
vấn vương dính mắc với
đề mục, không thấy mình
liên hệ với
đề mục. Chí đến chừng ấy
hành giả mới có thể nhìn thấy
hình ảnh thật sự của sự vật -- thấy sự vật đúng trong bối cảnh của nó, đúng
như thật sự sự vật là vậy, chớ không phải thấy phớt
bề ngoài, hình như sự vật là vậy.
Khi
quan sát vật gì một cách
chủ quan thì tâm ta dính mắc trong ấy, và ta
cố gắng tự đồng hoá với nó. Ta
cố gắng suy xét,
ước đoán,
đánh giá, khen chê và
phê bình vật ấy.
Quan sát như vậy sự
quan sát của ta sẽ bị nhượm màu. Vậy, hành
tứ niệm xứ -- tức
niệm thân,
niệm thọ,
niệm tâm và
niệm pháp --
hành giả phải
quan sát một cách
vô tư, không
quanh co, không
thành kiến ưa thích hay ghét bỏ, hoặc có
ước đoán hay
ý niệm nào trước. Nói cách khác, chú niệm phải được
thực hành một cách khách quan, giống như ta là người ở ngoài nhìn vào mà không có bất luận
thành kiến nào.
Khi "niệm thân trong thân" (kaye kàyànupassi)
hành giả chỉ
chú tâm vào thân mà thôi, không
để ý gì đến những
cảm giác (thọ), đến những
trạng thái tâm (tâm), hay những đối tượng của tâm (pháp)
liên quan đến thân. Về điểm này ta nên nhớ nằm lòng
phương cách chính xác và
rõ ràng mà
Đức Phật dạy
đạo sĩ Bàhiya. Ông ta là vị
lãnh đạo của một
giáo phái và ông tin rằng mình đã
đắc Quả A La Hán, bậc ùng Cúng. Nhưng về sau,
nghe lời khuyên của một người khác ông đến xin
Đức Phật truyền dạy cho một
pháp hành có thể đưa đến
Đạo Quả A La Hán.
Đức Phật biết rằng Bàhiya là người
hiểu biết. Ngài dạy những lời như sau:
"Này Bàhiya, hãy rèn luyện như thế này: 'Trong cái thấy phải biết rằng chỉ có sự thấy, trong cái nghe chỉ có sự nghe, trong xúc cảm (như hay biết mùi, vị và xúc giác) phải biết rằng chỉ có xúc cảm, và trong khi hay biết, chỉ có sự hay biết.'"Ở đây,
ý niệm "Tôi đang thấy, tôi đang nghe, đang hưởi, đang nếm, đang sờ đụng, đang ý thức" đã được loại trừ.
Quan niệm về cái "ta", hay ảo kiến về một
bản ngã, đã tan biến.
Phương cách chú tâm này loại trừ
tình trạng căng thẳng, làm cho tâm trở nên
vắng lặng và nghỉ ngơi.
Vì lẽ ấy người hành thiền không thấy
cần phải ngủ nhiều. Khỏi cần bàn đến
thành quả của
pháp hành thiền ở mức độ cao, chỉ riêng nghệ thuật nhìn vào và thấy các
hiện tượng thiên nhiên không thôi cũng có nhiều người không biết, bởi vì nhiều người không bao giờ tập luyện nhìn sự vật một cách khách quan.
Thí dụ như đang nhìn một cảnh
hoàng hôn đẹp đẽ, nếu ta bắt đầu quán xét và
phê bình,
quan sát một cách
chủ quan, tâm trạng ấy đem ta đến rất gần,
rung động cùng nhịp, và sống với cảnh vật, mà không thấy cái đẹp của cảnh trời chiều. Ta
không thật sự thấy cái đẹp của cảnh
mặt trời lặn. Nhưng nếu nhìn một cách khách quan với
tâm hồn an tĩnh và
vắng lặng,
trọn vẹn chú tâm, ta sẽ
thưởng thức đầy đủ cái đẹp của cảnh
hoàng hôn và cũng thấy được rằng cái mà ta gọi là "đẹp" ấy chỉ phù du tạm bợ,
vô thường và không ngừng
biến chuyển.
Thí dụ kể trên có thể
áp dụng vào nhiều
trường hợp. Nếu ta có thể nhìn một nụ
hoa hồng hay một cành
hoa sen vừa chớm nở một cách khách quan, không có
phản ứng chủ quan, ắt ta sẽ thấy cái đẹp của nó, thấy
trọn vẹn và
rõ ràng hơn nhiều người khác. Nếu là người yêu nhạc và
trọn vẹn chú tâm lắng nghe tiếng nhạc, có thể ta
thưởng thức điệu nhạc hơn là người nhạc sĩ đang
lo lắng trong kỹ thuật
trình diễn.
Vắng Lặng và
Minh SátDầu tiến
đạt đến mức độ khá cao của
tâm định vắng lặng (samàdhi)
hành giả vẫn chưa ở trong vị thế châu toàn, bởi vì những khuynh hướng
ô nhiễm ngủ ngầm (anusaya) vẫn chưa được
hoàn toàn loại trừ. Các bợn nhơ
tinh thần ấy chỉ tạm thời ngủ ngầm và có thể phát hiện
trở lại bất cứ lúc nào mà
hoàn cảnh thuận tiện, và đầu
độc tâm trí nếu
hành giả lơ đểnh dể duôi, không
dũng mãnh kiên cố chánh tinh tấn,
chánh niệm và
chánh định. Vì lẽ chưa
hoàn toàn loại trừ các bợn nhơ ngủ ngầm trong tâm,
hành giả chưa
tuyệt đối thanh tịnh và còn có thể bị những thúc giục
bất thiện lôi cuốn, chưa ở trong
trạng thái tuyệt đối châu toàn.
Tâm hành giả
vắng lặng nhờ định (samàdhi). Nhưng chính nhờ
thiền minh sát (vipassana) mới có thể tận diệt các pháp
bất thiện ngủ ngầm. Do đó, vị
hành giả đã
tu tập trong giới và định, phát triển
tuệ minh sát. Như vậy,
công phu hành thiền nhằm phát triển
tâm định vắng lặng (samàdhi) không bao giờ tự nó là
mục tiêu cứu cánh. Nó chỉ là
phương tiện nhằm đưa đến cái gì cao siêu hơn, một cái gì tối quan trọng:
Tuệ minh sát, vipassanà. Nói cách khác
tâm định chỉ là
phương tiện để
thành tựu chánh kiến, chi đầu tiên của
Bát Chánh Đạo.
Mặc dầu chỉ là
phương tiện,
tâm định có một
vai trò tối quan trọng trên
Con Đường. Nó còn được gọi bằng một tên khác là citta-visudhi, tâm tịnh, và
hành giả hoàn tất giai đoạn này của
Thanh Tịnh Đạo bằng cách
tiêu trừ các pháp
triền cái.
Đức Phật dạy:
"Hãy phát triển tâm vắng lặng. Vị đệ tử đã thành đạt tâm vắng lặng thấy sự vật đúng như sự vật là vậy" (samàdhim bhàvetha, samàhito yathà bhùtam pajànàti)."Có hai pháp (dhamma), này chư tỳ khưu, phải được phát triển để thấu hiểu tham, sân, si ... Hai ấy là gì? --
vắng lặng và
minh sát. Hai pháp ấy phải được trau giồi và phát triển để
tiêu trừ, tận diệt và
chấm dứt tham, sân, si ..."
Ở một
trường hợp khác
Đức Phật còn dạy thêm:
"Có hai pháp, này chư tỳ khưu, cùng góp phần phát triển
trí tuệ (vijjà-bhàgiya):
vắng lặng và
minh sát. Khi
trạng thái vắng lặng được phát triển, tâm cũng phát triển; tâm phát triển
tiêu trừ ái dục. Khi
minh sát được phát triển,
trí tuệ cũng phát triển;
tuệ minh sát
tiêu trừ vô minh. Một cái tâm mà bị
ái dục làm
ô nhiễm ắt
không giải thoát được. Khi bị
vô minh che lấp, ắt
trí tuệ không phát triển."
Do đó, tâm
được giải thoát (ceto vimutti) nhờ rửa sạch
ái dục.
Giải thoát bằng
trí tuệ (pannà-vimutti) là nhờ rửa sạnh
vô minh.
Theo những lời dạy trên đây của
Đức Phật,
rõ ràng vắng lặng và
minh sát,
hay nói cách khác,
chánh định và
chánh kiến của
Con Đường không thể tách rời nhau. Cả hai cùng hỗ trợ lẫn nhau.
Nếu không có
tâm định ở một mức độ nào, ắt không thể phát triển
tuệ minh sát. Và
nếu không có
tuệ minh sát ở một mức độ nào, ắt không thể phát triển
tâm định vắng lặng. Cả hai không thể lìa nhau; điều này được
Đức Phật giải thích như sau:
"Người thiếu trí tuệ không định tâm, Người thiếu tâm định không có trí tuệ; Người được cả hai, định và tuệ, Người ấy quả thật đã ở cạnh Niết Bàn."Tự
Hiểu Biết Mình
Vị
hành giả đã an trụ
vững chắc tâm định bằng pháp niệm
hơi thở, giờ đây hướng tâm về
thiền minh sát (vipassanà bhàvanà). Nơi đây vipassanà, hay
minh sát, có nghĩa là
sáng suốt hiểu biết tận tường sự vật đúng
như thật sự sự vật là vậy, là
thấu triệt thực tướng của sự vật, tức thấy rõ
bản chất vô thường, khổ,
vô ngã của
ngũ uẩn. Theo
ngôn ngữ thông thường, đó là
hiểu biết chính mình.
Chúng ta không thể tự
hiểu biết mình một cách dễ dàng bởi vì những khái niệm
sai lầm, những
ảo tưởng vô căn cứ, những
thành kiến lầm lạc và những
ảo giác mê hoặc của
chúng ta đã dẫn dắt
chúng ta lầm đường lạc nẻo. Do
công phu hành
thiền minh sát ta
cố gắng tiêu trừ ảo tưởng (màyà), những khái niệm (pannati) và những
ảo giác mê hoặc (vipallàsa) và thấy đúng
thực tướng của chính mình.
Khi đã
tiến bộ khá nhiều trong pháp niệm
hơi thở, tâm trở nên
vắng lặng nhờ đã
chế ngự năm pháp
triền cái,
hành giả có thể
nhận thấy bản chất vô thường của chính
hơi thở mình; sự phát sanh và
chấm dứt của luồng
hơi thở cũng giống như các lượn sóng trên mặt biển, phát sanh, nhô lên, rồi tràn xuống và tan biến. Bây giờ, nương theo
hơi thở vô thường,
hành giả cố gắng nhận chân
bản chất vô thường của
ngũ uẩn. Sự
phân tách cái được gọi là
chúng sanh ra làm
năm uẩn luôn luôn
biến đổi cho thấy
rõ ràng rằng không có gì nằm trong đó, không có gì được vĩnh viển tồn trử bên trong cái được gọi là
chúng sanh ấy -- tiến trình danh và sắc ấy. Cũng nên nhớ nằm lòng
liên hệ mật thiết giữa các chi niệm (sati),
trạch pháp (dhamma-vicaya), tấn (viriya) v.v... của
thất giác chi đã được đề cập đến trong phần
niệm pháp (dhammànupassanà). Với
tâm giác tỉnh chú niệm
hành giả trạch pháp, tức
quan sát,
phân tách các pháp. Nơi đây danh từ "dhamma", "pháp", có nghĩa là danh và sắc, hai phần
tâm linh và thể xác của
con người. Muốn hoàn mãn
trạch pháp,
hành giả cần phải quyết tâm thực hành tứ chánh cần để
nhận thức rõ ràng sinh hoạt của những
tâm sở, hầu khắc phục những
tư tưởng bất thiện và
bảo tồn những
tư tưởng thiện. Khi
hành giả kiên trì tận lực
phân tách danh và sắc của mình như thế ấy và thấy được những gì mà
mắt thường không thể thấy, tức thấy đúng theo
tuệ minh sát chừng ấy ắt có phát sanh
tâm phỉ lạc
thuần túy (àraddha viriyassa uppajjati pìti niràmisa).
Biến đổi, hay
vô thường (anicca), là đặc tánh chánh yếu của các
hiện tượng sinh tồn.
Chúng ta không thể nói đến vật gì, dầu
vô tri vô giác hay hữu giác hữu tri rằng, "cái nầy tồn tại", bởi vì trong
thời gian mà ta thốt ra
lời nói trên thì nó đã đổi thay, thành cái gì khác.
Ngũ uẩn là cái gì được
kết hợp lại và phát sanh do
điều kiện và vì thế,
ngũ uẩn luôn luôn bị
định luật nhân và quả
chi phối. Thức, hay tâm và các
yếu tố thành phần của nó (
tâm sở), không ngừng
biến chuyển.
Mặc dầu ở một tốc độ thấp hơn, cơ thể
vật chất cũng dường thế ấy, luôn luôn thay mới,
biến đổi trong từng khoảnh khắc.
"Người thấy rõ ràng các uẩn vô thường là vô thường, là có chánh kiến."Đức Phật nêu ra năm
hình ảnh cụ thể để chỉ dạy
bản chất vô thường của
ngũ uẩn. Ngài ví sắc như một khối bọt, thọ như
bong bóng nước, tuởng
như ảo cảnh, hành như lục bình (một loại cây mềm, trống ruột), và thức
như ảo tưởng:
"Này chư tỳ khưu, có chăng một bản thể đơn thuần vững bền, trong khối bọt, trong bong bóng nước, ảo cảnh, loại cây trống ruột, hay ảo tưởng?"Và Ngài dạy tiếp:
"Bất luận hình thể vật chất nào trong quá khứ, vị lai, hay hiện tại, ở trong hay ở ngoài, thô kịch hay vi tế, thấp hay cao, xa hay gần, hành giả nhìn, suy niệm, quan sát hình thể vật chất ấy với sự chú tâm chân chánh (yoniso manasikàra, sự chú ý sáng suốt có hệ thống). Nhìn như thế ấy, suy niệm và quan sát với sự chú tâm chân chánh, hành giả sẽ thấy nó rỗng không, không có thực chất, không có bản thể. Này chư tỳ khưu, có chăng một bản thể đơn thuần trong sắc?".Cùng thế ấy
Đức Phật giảng giải bốn uẩn còn lại và hỏi:
"Này chư tỳ khưu, có chăng một bản thể đơn thuần vững bền trong thọ, tưởng, hành, thức?"Như vậy ta thấy rằng do
công phu trạch pháp ngũ uẩn, sẽ phát sanh đến
hành giả một mức độ
tư tưởng khá
tiến bộ. Chính đến giai đoạn này sự
hiểu biết chân chánh,
chánh kiến,
tuệ minh sát (vipassanà) bắt đầu
tác động. Và chính nhờ
tuệ minh sát này mà
hành giả nhận thức tận tường
bản chất thật sự của
ngũ uẩn, và thấy
ngũ uẩn dưới ánh sáng của ba đặc tướng (ti-lakkhana):
vô thường, khổ,
vô ngã.
Đức Bổn Sư
giải thích như sau:
"Này chư tỳ khưu, ngũ uẩn là vô thường (anicca); bất luận cái chi là vô thường, đó là khổ (dukkha, bất toại nguyện); đó là vô ngã (anattà), không phải là của ta, không phải là ta, không phải là bản ngã của ta, Vậy, phải thấy nó bằng trí tuệ tuyệt hảo (sammap-pannàya) đúng như thật sự nó là vậy. Người mà thấy thực tướng của nó bằng trí tuệ tuyệt hảo, tâm người ấy không cố bám vào, mà xa lìa phiền não, người ấy giải thoát."Không phải chỉ có
ngũ uẩn là
vô thường, khổ và
vô ngã mà những nhân và duyên tạo
điều kiện cho
ngũ uẩn phát sanh cũng là
vô thường, khổ và
vô ngã.
Đức Phật chỉ dạy
rành mạch điều này:
"Này chư tỳ khưu, sắc, thọ, tưởng, hành, thức là vô thường; bất luận những gì là nhân và duyên tạo điều kiện cho ngũ uẩn phát sanh cũng là vô thường. Làm thế nào mà ngũ uẩn, phát sanh từ những nhân và duyên vô thường, lại có thể thường còn?" "Cái gì là vô thường ắt không đáng cho ta thỏa thích trong đó, không đáng cho ta chấp nhận, chấp thủ vào ..."Chúng ta chỉ thật sự sống trong mỗi khoảnh khắc, và khoảnh khắc
kế tiếp sau đó là một kiếp sống khác. Như vậy, hiểu theo
ý nghĩa cùng tột, kiếp sống của
chúng ta chỉ
tồn tại trong một khoảnh khắc. Đôi khi ta nói cuộc sống bay qua như
chớp nhoáng. Sống rồi chết trong mỗi khoảnh khắc. Hôm nay là ngày mai của ta trong ngày hôm qua. Tâm của người hành thiền không còn dính mắc trong
quá khứ hay
vị lai, sẽ có thể sống
sáng suốt và hữu lý trong
thế gian.
Điều chánh yếu trong
thiền minh sát nằm trong sự
chứng nghiệm, chớ không phải trong những buổi
thuyết Pháp và trong kinh sách giảng về
pháp hành thiền,
mặc dầu nghe
giảng Pháp và
đọc kinh sách về
thiền tập vẫn có lợi ích. Không nên vọng móng duyên theo, hay cố bám vào
mục đích hay
thành quả nào trong khi hành thiền. Đây là
pháp hành trong đó không có bất
luận sự cố chấp vào bất cứ gì,
vật chất,
tinh thần hay
đạo đức; bởi vì tất cả mọi sự vật đều không
bền vững. Khi ta vừa bám vào thì nó đã không còn nữa. Hãy luôn luôn
giác tỉnh và chú niệm.
Kinh Niệm Xứ luôn luôn nhắc đi và lặp lại câu:
"Vị ấy sống độc lập và không bám níu vào bất luận gì trong thế gian" (anissito ca viharati na ca kinci loke upàdiyati). Đó là
thành quả mà người hành thiền
đạt đến.
Loại Trừ
Mê HoặcKhi còn chưa thấy được
thực chất của sự vật thì quan kiến của
chúng ta luôn luôn bị
che lấp trong
đám mây mờ
mê hoặc. Bởi những
ưa thích và ghét bỏ của mình,
chúng ta không thấy rõ
giác quan (căn) và những đối tượng của nó (trần) một cách khách quan trong bối cảnh thật sự của nó, rồi
chạy theo rượt bắt những
ảo cảnh,
ảo tưởng,
ảo giác và những gì giả tạo phỉnh lừa ta.
Giác quan của
chúng ta bị
lầm lạc và dẫn dắt
chúng ta đi lầm đường lạc nẻo.
Chúng ta không thấy sự vật trong ánh sáng của
thực tế,
vì lẽ ấy phương cách mà
chúng ta nhìn sự vật bị
sai lạc.
Tâm
mê hoặc lầm tưởng cái
không thật là thật, thấy cái bóng bay qua ngỡ đó là cái gì có
thực chất và
trường tồn vĩnh cửu, và kết quả là
tâm thần bấn loạn mù mờ,
xung đột, bất điều hòa, và
triền miên đau khổ. Người sống trong
tình trạng mê hoặc ắt
nhận thức, suy tư và
hiểu biết sai lầm. Người ấy thấy
trường tồn vĩnh cửu trong những sự vật
vô thường tạm bợ, thấy
hạnh phúc trong
đau khổ, thấy một
bản ngã trong cái
vô ngã, thấy
đẹp đẽ trong cái đúng ra phải dứt bỏ, khước từ. Người ấy cũng suy tư và
hiểu biết lầm lạc như thế ấy. Như vậy, mỗi
mê hoặc tác động theo bốn đường lối và dẫn dắt
con người đi
sai lạc,
che lấp quan kiến, và gây hoang mang.
Chính giác quan của
con người làm cho
con người sai lầm mê hoặc. Đó là do sự
chú tâm không
thích nghi (ayoniso-manasikàra, sự chú ý kém
sáng suốt, không có
quy củ), suy tư không
sáng suốt. Người mà không thấy rõ
bản chất thật sự của
thế gian này, không thấy đường lối và khuynh hướng của nó và
hậu quả đương nhiên phải có của hành động và người mà không thể thấy rằng kiếp sống này
quả thật không
vĩnh cửu trường tồn trong đó không có
chân hạnh phúc, rồi
luyến ái, đeo níu, dính mắc vào
thế gian, người ấy rõ thật chưa
trưởng thành. Người ấy phải
thuần thục trong
chánh kiến trước khi
thông điệp của
Giáo Pháp (Buddhadhamma)có thể
thấm nhuần họ.
Đám mây mờ
tham ái,
ngã mạn và
si mê đang bao phủ kín mít người ấy thật là dầy đặc và
kiên cố. Mối hiểm họa
vô cùng rùng rợn của
đời sống, nằm trong sự
hiểu biết đời sống; bởi vì tất cả mọi sự vật ở đây, tất cả những gì
liên quan đến thế gian, đều
biến đổi; không có
trường hợp ngoại lệ, ta không thể nương cậy vào bất luận gì.
Chỉ có
chánh kiến, hay
tuệ minh sát, mới loại trừ những
mê hoặc ấy và giúp
con người nhận chân
bản chất thật sự của cuộc sống, nằm phía dưới lớp mặt bên ngoài. Đến lúc vượt ra khỏi
đám mây mờ
mê hoặc và
lầm lạc,
con người mới có thể chói ngời,
rực rỡ sáng lạng với
trí tuệ thật sự, như vầng
trăng rằm vượt qua khỏi
đám mây đen kịch che án.
Khi
thảo luận về
tam học: giới, định, tuệ, tức ba pháp
tu học dẫn đến
giải thoát cuối cùng và
hoàn toàn thanh tịnh, ta cũng nên
hiểu biết những bợn nhơ
tinh thần, hay các khuynh hướng
bất thiện ngủ ngầm bên trong
con người tác động như thế nào.
Khi những
ô nhiễm và khuynh hướng ngủ ngầm nằm im lìm sâu kín trong tâm của
con người thì được gọi là anusaya. Nó ngủ ngầm ngày nào mà không có gì khơi động. Năm
giác quan cùng với ý là sáu,
lục căn,
cung cấp thức ăn để khơi động các pháp
bất thiện ngủ ngầm dưới
hình thức sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp.
Sáu loại thực phẩm này có thể ngọt bùi, cũng có thể
cay đắng. Dầu
cay đắng hay ngọt bùi, sáu đối tượng của
giác quan này
tác động như những
kích thích, và liền sau đó những khuynh hướng hay
ô nhiễm ngủ ngầm, được khích động, phát sanh và trồi
lên mặt. Sự trổi dậy của các khuynh hướng ngủ ngầm này được gọi là pariyutthàna hay samudàgata. Một khi được khơi động và trổi dậy, các khuynh hướng ngủ ngầm này tìm một lối thoát để vượt đi. Nếu
con người không thể vận dụng sự
chú tâm chân chánh và có
hệ thống (yoniso-manasikàra) để làm lắng dịu những khuynh hướng vừa trổi lên thì nó thoát ra bằng cửa miệng hay cửa hành động, khẩu hay thân, hoặc cả hai cùng một lúc, và điều này được gọi là vìtikkama,
vượt quá mức, hay
vượt qua khỏi.
Trong ba
giai đoạn phát triển của khuynh hướng ngủ ngầm, giai đoạn thứ ba, "vượt quá mức" là thô kịch, giai đoạn thứ nhì, "trổi dậy" là
vi tế, và giai đoạn đầu tiên, "ngủ ngầm", càng
vi tế hơn. Ba loại
khí giới để khắc phục nó và
giải phóng tâm ra khỏi kềm kẹp của nó là: giới, định và tuệ.
Do giới, sìla, mọi hành động
bất thiện bằng thân và khẩu đều được
kiểm soát và loại trừ. Đúng rằng trong pháp học để
rèn luyện thân và khẩu, phần nào cũng
cần phải có kỷ luật
tinh thần,
mặc dầu không
nhất thiết phải
kiên trì hành thiền.
Nhờ
giới đức trong sạch con người có thể trở nên
vắng lặng và
bình tĩnh trong thân và khẩu, nhưng ở tâm thì không. Người ấy còn thiếu
tâm định (samàdhi).
Mặc dầu có chiều hướng giúp cho tâm trở nên
vắng lặng,
giới đức không thể
kiểm soát tâm.
Tâm định an trụ, với sự
chú tâm sáng suốt và chân chánh,
chế ngự loại khuynh hướng
bất thiện thứ nhì (trổi dậy), và
ngăn ngừa không để cho nó thoát ra.
Tuy nhiên,
tâm định không thể tận diệt các khuynh hướng ngủ ngầm Chính nhờ
trí tuệ, tức
tuệ minh sát, vipassanà, tất cả mầm móng, tất cả khuynh hướng
bất thiện ngủ ngầm được
diệt trừ tận gốc rễ. Và từ đó
hành giả không còn bị những sự vật phù du tạm bợ làm hoang mang, bấn loạn
tinh thần hay lầm đường lạc bước, không còn bị
thế gian hiện tượng bao phủ
tâm trí như
đám mây mờ dầy đặc; bởi vì
hành giả đã vượt lên khỏi mọi khả năng của sự
lầm lạc, không còn có thể
sai lầm, đã trở nên
tuyệt đối vô nhiễm,
tình trạng mà chỉ có
tuệ minh sát mới có thể đem lại. Và đây là
giải thoát (vimutti),
bước ra ngoài (nissarana) vòng
luân hồi (samsàra) lẩn quẩn
sanh tử triền miên. Giờ đây ta hãy tự nhắc lại
tuyên ngôn của
Đức Thế Tôn trong phần mở đầu
kinh Niệm Xứ, Satipattthàna Sutta:
"Pháp Niệm Xứ là con đường duy nhất để chúng sanh tự thanh lọc, nhằm vượt qua khỏi phiền não và ta thán, diệt trừ đau khổ và ưu phiền, đạt đến chánh đạo và chứng ngộ Niết Bàn."Tóm Lược
Như đã
thảo luận ở phần trên, khởi điểm trong
hệ thống quản trị và
giáo huấn của
Đức Phật (Buddha-sàsana) là giới, hay tác phong
đạo đức. Đứng vững hai chân trên nền tảng
giới đức,
hành giả phải
cố gắng thuần hóa, khép cái tâm chao động vào khuôn khổ kỹ cương.
Đức Phật chỉ dạy hàng
môn đệ những đường lối và
phương tiện để
chế ngự khẩu nghiệp và
thân nghiệp bất thiện. Đã
thuần hóa lời nói,
kiểm soát hành động và nuôi mạng
trong sạch bằng cách
hành nghề sinh sống chân chánh,
hành giả vững vàng thiết lập cho mình một
nếp sống đạo đức thanh cao. Trong khi luyện tập tự chế thân và khẩu,
hành giả cũng nên canh phòng những cánh cửa của
giác quan -- thu thúc
lục căn -- bởi vì nếu lơ đểnh lãng quên canh phòng sáu cửa
giác quan, các tư tuởng
bất thiện sẽ từ từ lẫn chen vào, lấn át
dần dần và xâm chiếm tâm.
Hành giả cố gắng giữ tâm
quân bình bằng cách
đẩy lui những
ưa thích và ghét bỏ, và
kiên trì thu thúc
lục căn,
ăn uống độ lượng và luôn luôn
giác tỉnh, không ngừng chú niệm.
Bây giờ, nếu
kiên trì chuyên cần và
giác tỉnh chú niệm,
hành giả sẽ
tiến bộ vững chắc và bắt đầu
công phu khó khăn hơn, là hành thiền.
Hành giả chọn một
đề mục hành thiền
thích hợp với
tâm tánh mình và
liên tục thực hành, không để
gián đoạn.
Chuyên cần làm như vậy, một ngày nọ
hành giả sẽ
chế ngự mọi
chướng ngại tinh thần,
hoàn toàn kiểm soát cái tâm chao động của mình và
thành đạt tâm định vắng lặng. Với thân khẩu
thanh tịnh,
lục căn thu thúc và tâm
thuần hóa,
hành giả hoàn toàn làm chủ lấy mình.
Khi đã hoàn bị trong pháp
tu tập về giới và định (sìla-sikkhà và samàdhi-sikkhà),
hành giả tận lực
thành tựu trí tuệ thật sự,
tuệ minh sát, bằng cách thấy tất cả mọi sự vật đúng theo
thực tướng của nó (yathàbhùtam). Thấy đúng
thực tướng của
vạn pháp, như đã
thảo luận ở phần trên, là thấy
bản chất vô thường, khổ,
vô ngã, của tất cả các
pháp hữu vi. Đối với vị
đệ tử của
Đức Phật mà
chuyên cần hành thiền như vậy "thế gian" không phải là cái
thế gian bên ngoài, hay là
thế gian mà ta được biết
xuyên qua kinh nghiệm, mà chính là thân và tâm của
con người --
thế gian ngũ uẩn thủ. Chính cái
thế gian mà
hành giả cố gắng thấu triệt là
vô thường, khổ và
vô ngã. Và cũng chính cái
thế gian sắc và danh ấy mà
Đức Phật hàm ý khi Ngài dạy Mogharàja:
"Này Mogharàja, hãy luôn luôn giác tỉnh chú niệm, nhận thức rằng thế gian là hư không (sunna) -- từ bỏ ý niệm về một bản ngã thường còn -- nhờ đó mà có thể khắc phục Ma Vương (Màra, cái chết).Phương pháp hành
thiền minh sát bao hàm việc
thành tựu tri kiến bằng cách
quán chiếu trực tiếp. Và
công phu trực tiếp
quán chiếu đưa đến tự nương tựa nơi chính mình và tâm
quân bình vững chắc.
Tri kiến này vượt ra ngoài
phạm vi trí thức, thoát ra ngoài mọi luận lý hay mọi
diễn dịch có tánh cách khái niệm, hướng đến
tình trạng thật sự
chứng nghiệm đời sống và những gì
liên quan đến cuộc sống.
Hoàn toàn thấu triệt thực tướng của
vạn pháp như vậy,
hoàn toàn nhận thức bản chất thật sự của
ngũ uẩn thủ như vậy và bằng cách gội rửa mọi bợn nhơ
tinh thần,
hành giả "sống
độc lập, không cố bám vào bất luận gì trên
thế gian."
Người đọc sẽ
ghi nhận rằng trong
công trình tự thanh lọc
thân tâm và tự làm chủ lấy mình, nhằm
thành đạt giải thoát cuối cùng, như đã được trình bày, không có sự
áp chế hay
cưỡng bách từ bên ngoài, không có
ban thưởng và
hành phạt cho những hành động đã làm hoặc
thiếu sót bỏ qua không làm.
Tình trạng giải thoát ra khỏi mọi bợn nhơ
tinh thần tuyệt đối và
trọn vẹn nằm trong tay chính ta, không do ai khác -- dầu người hay
thần linh. Cánh cửa đưa đến
giải thoát rộng mở, không có song sắt, song hồng hay chốt, khóa,
trừ phi chính
con người tự tạo ra những chốt, những khóa, những song hồng hay những song sắt ấy. Dầu một vị Phật
chí tôn chí thánh cũng không thể
tháo gỡ cho
con người những
thằng thúc của vòng
luân hồi, mà chỉ có thể
dạy bảo,
rọi sáng con đường.
Con đường là: giới, định, tuệ.
Tất cả những
vấn đề của kiếp
nhân sinh có thể rút keo gọn lại thành một
vấn đề duy nhất là
vấn đề dukkha,
đau khổ hay bất
toại nguyện. Và
giải pháp cho
vấn đề mà từ nghìn xưa chư Phật -- những bậc
Toàn Giác, những đấng
Chánh Biến Tri trong
tam thế -- đã giáo truyền là
Bát Chánh Đạo.
Công hiệu của
con đường này nằm trong
công trình thực hành con đường.
Con đường hành thiền của
Đức Phật, tức
Bát Chánh Đạo, vẫn còn vẩy tay kêu khách
hành hương mệt mỏi hãy lần bước đến
trạng thái châu toàn và
thanh bình an lạc của
Niết Bàn. "Cuộc
hành trình xa xôi ngàn dậm cũng chỉ bắt đầu bằng một bước đi", và như lời người xưa, "vài người nhanh chân
rảo bước, vài người chẩm rải đưa chân, vài người khác nữa bò lết một cách
đau khổ, nhưng tất cả những ai
tiếp tục tiến hành sẽ đến
mục tiêu."
[1] Xem Phụ bản V, câu chuyện lý thú về một người hành thiền.[2] Xem kinh Jàgara Sutta, Devatà Samyutta, I. 6.[3] Dhammapada, Kinh Pháp Cú, câu 226.[4] Samyutta Nikàya, Tạp A Hàm, v, 115.[5] Satipatthàna Commentary, Bản Chú Giải Kinh Niệm Xứ.[6] Anguttara Nikàya, Tăng Nhứt A Hàm, i, 3.[7] Xem Phụ bản VI, Loại Trừ Những Tư Tưởng Bất Thiện.[8] Samyutta Nikàya, Tạp A Hàm, v, 170[9] Trích từ tập The Centuries Poetry, quyển 2, trang 153-155.[10] Samyutta Nikàya, Tạp A Hàm, i, 4.[11] Xem Phụ bản IV, Pháp Triền Cái.[12] Thằng thúc (kiết sử) có nghĩa là dây trói buộc. ở đây là những dây trói buộc cột chắc chúng sanh vào vòng luân hồi. Có 10 thằng thúc:1. tham dục,2. ác ý,3. ngã mạn,4. tà kiến,5. hoài nghi,6. ái dục bám níu đời sống.7. giới cấm thủ, dể duôi tin theo những nghi thức lễ bái, sai lầm nghĩ rằng các nghi thức cúng tế thần linh có thể đưa đến giải thoát.8. ganh tỵ,9. bỏn xẻn, và10. vô minh.Các thằng thúc này phát sanh tùy thuộc nơi những căn và những trần liên hệ, như nhãn và sắc, nhĩ và thinh v.v... Bản Chú Giải có giải thích rõ ràng các thằng thúc ấy phát sanh như thế nào. Xin đọc quyển The Way of Mindfulness (Kandy: BPS), trang 132.[13] 1. Niệm, 2. trạch pháp, 3. tấn, 4. phỉ, 5. an 6. định, 7. xả. Xin đọc chương "Thất Giác Chi" trong sách này.[14] Sabbe dhammà nàlam abhinivesayati, Majjhima Nikàya, Trung A Hàm, i,251.[15] Samyutta Nikàya, Tạp A Hàm, i, 39.[16] Majjhima Nikàya, Trung A Hàm, 22.[17] Xem Phụ bản IV, Pháp Triền Cái.[18] Samyutta Nikàya, Tạp A Hàm, ii, 13.[19] Anguttara Nikàya, Tăng Nhứt A Hàm, i, 100.[20] Anguttara Nikàya, Tăng Nhứt A Hàm, i, 61.[21] Dhammapada, Kinh Pháp Cú, câu 372.[22] Xem Phụ bản III, Chánh Tinh Tấn.[23] Majjhima Nikàya, Trung A Hàm, 118/III. 85.[24] Samyutta Nikàya, Tạp A Hàm, iii, 51.[25] Samyutta Nikàya, Tạp A Hàm, iii, 44.[26] Samyutta Nikàya, Tạp A Hàm, iii, 23[27] Majjhima Nikàya, Trung A Hàm 106/II. 263.[28] Anguttara Nikàya, Tăng Nhứt A Hàm ii, Catukka Nipàta 49; Anguttara Nikàya, Part I, do Đại Đức Nyanaponika dịch (Kandy: BPS) Wheel 155/158, trang 86.[29] Có bảy khuynh hướng ngủ ngầm: 1) tham dục, 2) ác ý, 3) tà kiến, 4) hoài nghi, 5) ngã mạn, 6) luyến ái vào kiếp sinh tồn, 7) vô minh (kàma-raga, patigha, ditthi, vicikicchà, màna, bhava-ràga, avijjà) -- Dìgha Nikàya, Trường A Hàm, iii, 254; Anguttara Nikàya, Tăng Nhứt A Hàm vii, 11.12.PHỤ BẢN I
Tôi Nghe
Như VầyLúc bấy giờ một vị tỳ khưu đến hầu Phật,
đảnh lễ Ngài và ngồi lại một bên. Khi
đảnh lễ xong vị tỳ khưu bạch:
"Bạch
Đức Thế Tôn, người ta nói, 'Sống đúng theo
Giáo Pháp (dhamma-vihàri).
Bạch Đức Thế Tôn, một vị tỳ khưu sống như thế nào là đúng theo Giáo Pháp?"
1) "Nơi đây, này tỳ khưu, một vị tỳ khưu
thông suốt thấu đáo
Giáo Pháp và suốt ngày sống với sự
hiểu biết thấu đáo ấy, không tìm nơi vắng vẻ, không hành thiền. Vị tỳ khưu ấy được gọi là người sống thiên về pháp học, vị ấy không sống đúng theo
Giáo Pháp.
2) "Lại nữa, này tỳ khưu, một vị tỳ khưu dạy người khác
Giáo Pháp, cặn kẻ, với đầy đủ
chi tiết như mình đã được nghe, như mình đã
thông suốt thấu đáo; vị ấy suốt ngày cố
thuyết phục, làm cho người khác hiểu
Giáo Pháp, không tìm nơi vắng vẻ, không hành thiền. Vị tỳ khưu ấy được gọi là người cố
giáo huấn người khác, nhưng không sống đúng theo
Giáo Pháp.
3) "Lại nữa, này tỳ khưu, một vị tỳ khưu lặp đi lặp lại
Giáo Pháp, cặn kẻ, với đầy đủ
chi tiết như mình đã được nghe, như mình đã
thông hiểu thấu đáo; vị ấy suốt ngày lặp đi lặp lại, không tìm nơi vắng vẻ, không hành thiền. Vị tỳ khưu ấy được gọi là người cố lặp đi lặp lại, nhưng không sống đúng theo
Giáo Pháp.
4) "Lại nữa, này tỳ khưu, một vị tỳ khưu hướng tâm về
Giáo Pháp, suy tư, nghiền ngẩm lời dạy như đã được nghe, như đã
thông suốt thấu đáo; vị ấy suốt ngày
suy gẫm về
Giáo Pháp, không tìm nơi vắng vẻ, không hành thiền. Vị ấy được gọi là suốt ngày nghiền ngẩm
Giáo Pháp, nhưng không sống đúng theo
Giáo Pháp.
5) "Tuy nhiên, này tỳ khưu, một vị tỳ khưu
thông suốt thấu đáo
Giáo Pháp, không dành hết
thì giờ sống với sự
thông suốt ấy mà tìm nơi vắng vẻ và hành thiền.
Quả thật vậy, này tỳ khưu, vị ấy
quả thật sống đúng theo
Giáo Pháp.
"Này tỳ khưu,
quả thật vậy,
Như Lai tuyên ngôn: người
cố gắng học, người
cố gắng dạy, người
cố gắng lặp đi lặp lại, người nghiền ngẩm suy tư và người sống đúng theo
Giáo Pháp.
"Những gì mà, do
tâm từ tâm bi, một vị thầy nên dạy
môn đệ mình,
Như Lai đã dạy các con. Đây là những gốc cây, những nơi
hoang vắng yên tĩnh; hãy hành thiền, này tỳ khưu, không nên dể duôi
buông lung, không nên để về sau phải
hối tiếc. Đó là lời mà
Như Lai kêu gọi các con."
-- (Anguttara Nikàya, Pancaka Nipàta 73)
PHỤ BẢN II
Nếp Sống Phạm Hạnh (Brahma-vihàra)
Brahma-vihàra,
tứ vô lượng tâm, là một
đề mục hành thiền khác mà bất cứ ai cũng có thể
thực hành và gặt hái
lợi ích. Danh từ "brahma" có thể được dịch là
tuyệt diệu, cao cả,
thù thắng, hay cao quý, và "vihàra" là
nếp sống. Như vậy, Brahma-vihàra là
nếp sống cao thượng, cũng được gọi là
tứ phạm trú, hay bốn nơi trú ẩn của bậc
phạm hạnh, hay của chư
Phạm Thiên. Cũng có thể xem là "nghệ thuật sống cao cả", "lối sống cao siêu nhất" (trong
thế gian).
Có bốn loại tâm như vậy là:
Từ, hay
tình thương bao quát
đồng đều (mettà)
Bi,
lòng trắc ẩn thương hại (karunà)
Hỷ, lòng
hoan hỷ có tánh cách
vị tha (mudità)
Xả, tâm
quân bình (upekkhà).
Đó là bốn phẩm hạnh dẫn đến
lối sống cao thượng. Bốn
đức độ này loại trừ tánh
ích kỷ và
trạng thái bất hoà và
đồng thời tạo nên đức
vị tha,
trạng thái hòa hợp và tình
huynh đệ. Cũng được xem là bốn
trạng thái tâm
vô lượng vô biên (appamannàyo),
tứ vô lượng tâm, bởi vì đây là bốn đức tánh cao thượng được rộng mở bao trùm tất cả
chúng sanh, không trừ bỏ
chúng sanh nào, bất luận nòi giống,
chủng tộc,
giai cấp, màu da,
tín ngưỡng, Đông hay Tây. Subha-vimokkha là một danh từ khác để
mô tả bốn loại tâm cao thượng này. Vimokkha là
giải thoát, làm cho được
tự do, subha là
tốt đẹp. Đây là
giải thoát tâm (vimokkha) mình bằng cách nhìn những gì
tốt đẹp nơi người khác. Thay vì nhìn vào và chỉ thấy cái xấu cái hư,
hành giả nhìn phần
tốt đẹp của người, để trau giồi và phát triển bốn
trạng thái tâm cao thượng: từ, bi, hỷ, xả.
Sâu ẩn ngủ ngầm bên trong
mọi người có những tánh hư tật xấu đủ loại, những điều hư xấu ấy
tự nhiên bộc lộ thành những
tư tưởng xấu xa bất thiện, khởi sanh đến
con người.
Tuy nhiên, nên
ghi nhận rằng tất cả, và mỗi tật xấu đều có một đức tánh đối nghịch; vậy, có thể phát triển một đức tánh để khắc phục và loại trừ một
ô nhiễm.
Trong khi phát triển tâm
vô lượng (từ, bi, hỷ, hay xả) ta không
loại bỏ bất luận
chúng sanh nào. Những đức tánh này không có sự
phân biệt nào giữa người và người, xem người này là thấp, người kia là cao hơn, giàu hay nghèo hơn, mạnh hay yếu hơn,
thông minh sáng suốt hơn hay
tối tăm ngu muội, ở
giai cấp bà la môn hay candàla (chăn
đà la) hoặc theo
Thiên Chúa Giáo,
Ấn Độ Giáo,
Do Thái Giáo,
Hồi Giáo hay
Phật Giáo v.v... vì như đã thấy ở phần trên, những tâm cao thượng
tuyệt hảo này là
vô lượng vô biên, và không quá trể hơn khi,
dựa trên những nguyên tắc
sai lầm, ta
cố gắng phân chia con người ra từng nhóm, thì ngay
lúc ấy ý niệm chia rẽ lẫn chen vào, những
đức độ vô lượng sẽ có
giới hạn,
vô biên trở thành có
biên giới. Như vậy là trái nghịch với
lý tưởng cao cả của bốn loại tâm
thù thắng cao siêu này. Brahma-vihàra,
tứ vô lượng tâm, cũng có thể được
áp dụng như một
đề mục hành thiền gọi là "brahma-vihàra bhàvanà",
công phu trau giồi những
trạng thái tâm cao siêu bằng
pháp hành thiền. Qua
pháp hành nhằm phát triển những
đức hạnh tích cực này,
hành giả có thể lắng
tâm an trụ và thanh lọc, làm cho tâm
trong sạch.
Khi niệm
tứ vô lượng tâm,
hành giả thấy dễ dàng hơn nếu bắt đầu bằng chính mình.
Thí dụ như bắt đầu niệm: "ùớc mong tôi được an vui
hạnh phúc, không bịnh hoạn, không
phiền lụy, v.v..." Rồi nghĩ đến thầy tổ, bạn bè, những người mà đối với họ mình không thương cũng không ghét và sau cùng, đến những người xem là
thù nghịch (nếu có, nhưng không nên tạo ra trong tâm một người thù), và rải đến họ những
tư tưởng từ ái. Có thể hình như rất khó rải
tâm từ đến người mà mình xem là
thù nghịch, nhưng chính việc khó làm ấy sẽ phá vỡ hàng rào ngăn cách.
Tâm từ phải được rải khắp
đồng đều mà không có sự hạn định chăm chế
hòa giải nào.
Ta có thể hỏi tại sao rải
tâm từ đến mình trước. Có phải là
ích kỷ không? Thoáng nghe qua hình như đúng vậy, nhưng ta sẽ thấy rằng làm như thế ta sẽ rải
tâm từ đến người khác dễ dàng hơn. "Tôi thích được an vui
hạnh phúc. Vậy,
ước mong rằng
chúng sanh khác cũng được an vui, hạnh phúc". "Tôi như thế nào, người khác cũng được như thế ấy, người khác như thế nào tôi cũng được như thế ấy", và
chúng ta trau giồi
tâm từ đối với tất cả.
Câu 130 của kinh Dhammapada (
Pháp Cú ) dạy:
"Ai cũng run rợ trước hình phạt,Tất cả đều quý trọng đời sống.Hãy lấy bụng ta so lòng người,Không nên giết chóc, Cũng không nên làm cho ai giết."I.
Tâm Từ (Mettà)
Mettà (Skt. maitri) là lòng ước muốn rằng tất cả
chúng sanh, không có bất luận hạn định nào, đều được an vui
hạnh phúc.
Tâm từ (mettà) là đặc tánh của người bạn lành.
Kẻ thù trực tiếp của
tâm từ là tánh hung dữ, lòng
sân hận, còn người thù mang lốt bạn của
tâm từ là
tình thương thiên về xác thịt, sự
thương yêu trìu mến có tánh cách
tham dục hay lòng
luyến ái vị kỷ (pema), những
trạng thái tâm khác hẳn với
tâm từ.
Tình thương thiên về xác thịt, khi sâu ẩn lẫn núp dưới lốt
tâm từ, có thể gây nhiều
tai hại cho mình cũng như cho người khác. Ta phải
cẩn mật canh phòng
kẻ thù mang lốt bạn này, tức lòng
tham ái muốn chiếm làm
sở hữu của mình. Nếu
tình thương là
hậu quả trực tiếp của
lòng ham muốn, bám níu và cố giữ cho mình thì thật sự là không phải
tâm từ.
Có lòng thương một người hàm ý là đem lòng
luyến ái, bám níu vào người mình thương, và nếu người kia cũng
thương yêu mình như thế ấy, ắt có sự
trói buộc giữa hai người, nhưng khi phải
xa lìa nhau hoặc khi
tình thương phai lạt thì ta trở nên
đau khổ và có thể hành động điên rồ. Khi giảng về
khổ đế của
Tứ Diệu Đế Đức Phật dạy: "Sống chung với người mình không
ưa thích là khổ,
xa lìa người
thân yêu là khổ."
Tuy nhiên,
tâm từ là
trạng thái tâm cao thượng
vô cùng trong sạch, không bám níu,
luyến ái hay dính mắc vào bất luận gì.
Quả thật khó
thương yêu một người mà không có chút
luyến ái nào, thương một cách
vô tư, không có
ý niệm tự ngã,
ý niệm về ta và của ta; bởi vì từ thủa nào
con người luôn luôn ôm ấp dưỡng nuôi cái "ta" một cách sâu ẩn trong lòng. Thương mà không có sự
phân biệt nào giữa cái này với cái kia, không đặt một
ranh giới nào giữa người này với người khác, xem tất cả
mọi người là anh, là chị, thương bao quát
đồng đều vô hạn định, một
tình thương như thế xem hình
như không thể có.
Tuy nhiên, những ai đã
cố gắng thể hiện, dầu ở mức độ ít oi khiêm tốn nào, sẽ được
ân thưởng và sẽ thấy không hoài công.
Những
tư tưởng thù nghịch và
sân hận rất là
tai hại và gây rất nhiều
tổn hại cho người
nuôi dưỡng nó. Khi lòng sân trổi dậy họ có thể hành động giống như thú. Đó là tâm trạng
si mê của
con người. Điều này đúng trên bình diện
cá nhân cũng như ở tầm mức quốc tế.
Mettà,
tâm từ là chất liệu
giải độc hữu hiệu nhất để
tiêu trừ lòng
sân hận bên trong, mà cũng là phương thuốc
trị liệu công hiệu nhất để
giải trừ tâm sân của những ai
nóng nảy phiền giận mình.
Chúng ta hãy bủa rộng
tâm từ vô lượng vô biên, bao trùm những ai cần đến.
Tình thương là
ngôn ngữ của tâm.
Tình thương là
sức mạnh nối liền,
kết hợp lại
với nhau những quả tim, nhằm
hàn gắn những vết thương lòng và thống hợp
con người trong tình
huynh đệ thật sự. Khi được trau giồi đến mức độ cao siêu,
tâm từ hình như có một
năng lực hấp dẫn phi thường. Bằng cách rải những
rung động từ ái ta có thể
ảnh hưởng và
cảm hóa người khác.
Với
tình thương,
con người tăng trưởng dồi dào kho tàng
hạnh phúc của
nhân loại, làm cho
thế gian tươi sáng hơn, cao quý hơn,
trong sạch hơn, hơn là bằng cách nào khác. Không có
bất hạnh nào tệ hại hơn
sân hận, có
lời nói như vậy, và trước
cơn giận dữ
thù nghịch của kẻ khác, không có gì châu toàn hơn là tấm
lòng từ ái, tấm lòng mà trong đó
sân hận đã
cáo chung.
Tâm từ là một
năng lực tích cực. Mỗi hành động
thấm nhuần tình thương đều được
thể hiện với tâm
trong sạch hỗ trợ, giúp đỡ, khích lệ, làm cho
con đường của người khác được dễ dàng, suôn sẻ và
thuận lợi chinh phục đau khổ,
thành đạt hạnh phúc tối thượng.
Phương cách trau giồi
tâm từ là suy niệm về những hiểm họa do lòng
sân hận gây nên và những
lợi ích của
tâm không thù hận. Nếu suy tư đúng theo chiều hướng của
thực tại, đúng theo lý
nghiệp báo, thì thật sự là không có ai, không có gì để
hận thù, rằng oán ghét thù hận là lối
cảm xúc điên rồ
chỉ dẫn vào đêm tối, ngày càng
tối tăm hơn. Đó là lối
cảm xúc ngăn chận
con đường dẫn đến
chánh kiến.
Sân hận hạn chế,
tâm từ phóng thích.
Sân hận bóp nghẹt;
tâm từ buông thả.
Sân hận đem lại
hối tiếc;
tâm từ đưa đến
an lạc.
Sân hận khuấy động;
tâm từ lắng dịu, tĩnh lặng, an trụ.
Sân hận chia rẽ;
tâm từ hoà hợp.
Sân hận làm chai cứng;
tâm từ làm dịu hiền.
Sân hận gây trở ngại;
tâm từ hỗ trợ. Và như thế ấy, do nhờ khảo sát và trị giá đúng mức
hậu quả tai hại của
sân hận và
lợi ích của
tâm từ, ta nên trau giồi
lòng từ ái.
Tâm từCũng như bà từ mẫu thương yêu con, Người con duy nhất của bà,Với tình thương không giới hạn.Mở rộng, nới xa, Mênh mông vô bờ bến --Và, cho con, bà có thể hy sinhTánh mạng của chính bà -- Cùng thế ấy, hãy nới rộng tình thươngCủa chúng ta đối với tất cả chúng sanh,Phương Đông, Phương Tây, Phương Bắc và phương Nam,Phía dưới, phía trên --Mở rộng và mở rộng ra,Vô lượng, không biết mệt.Xa thẩm, không thể đo lường.Một tình thương thuần khiết, Không pha lẫn luyến ái -- và như thếKẻ điên rồ không thể hiểu;Nhưng bậc thiện trí thì thấu hiểu,Và thấu hiểu, thông suốt đầy đủGiá trị vàng ngọc của nó."(Kassapa Thera, dựa theo bài kinh Mettà Sutta)II.
Tâm Bi (Karunà)
Karunà,
tâm bi, được định nghĩa là: "Đức tánh làm cho tâm
rung động trước
hoàn cảnh nguy khổn của kẻ khác", "đức tánh làm khởi sanh những
cảm xúc dịu hiền
trước cảnh tượng khổ đau của người khác". Hung dữ, bạo tàn là
kẻ thù trực tiếp của
tâm bi (karunà), trong khi ấy
phiền muộn âu sầu,
mặc dầu có thể xem hình như bạn, nhưng thật sự không phải
lòng trắc ẩn thương hại và
phát tâm muốn giúp người
hoạn nạn, mà chỉ là người thù
gián tiếp hay
kẻ thù mang lốt bạn.
Chúng ta phải
cố gắng phân biệt rõ ràng loại
tâm bi nào là đúng thật và loại nào là giả. Người có
tâm bi không bao giờ gây
tổn thương hay
áp chế ai khác và tận lực làm vơi cạn nỗi sầu của người, tạo
tình trạng an lành cho mình và cho tất cả, không có bất
luận sự phân biệt nào.
Karunà,
tâm bi, là
lòng trắc ẩn thương người. Đây là phẩm hạnh cao cả làm cho quả tim của
con người thánh thiện rung động trước
tình trạng đau khổ của
thế gian.
Karunà có đặc tánh của bà mẹ lúc nào cũng suy tư, hành động và nói những lời êm dịu để
an ủi con trong cơn
phiền muộn âu sầu. Người có
tâm bi không thể
chịu đựng những
đau khổ của kẻ khác, và không bao giờ
bạo động. Mức độ
tuyệt đỉnh của
tâm bi là
hoàn toàn tận diệt mọi
hình thức bạo động.
Nguyên nhân kế cận làm phát sanh
tâm bi là nhìn thấy
hoàn cảnh tuyệt vọng của người khốn khổ. Đúng theo
giáo huấn và gương lành mà Ngài ban truyền,
Đức Phật là bậc
Đại Bi (Mahàkàrunika). Ngài ban rải
tâm bi rộng lớn đến tất cả
chúng sanh và không bao giờ khuyến khích cãi vã,
thù nghịch và
bạo hành. Có lần Ngài dạy các vị
đệ tử như sau:
"Như Lai không hề gây gổ với thế gian, chính thế gian gây gổ với Như Lai. Người sống đúng theo Giáo Pháp không cãi vã với bất cứ ai trong thế gian." [1]
Toàn thể giáo huấn của
Đức Phật đượm nhuần
đức hạnh bi mẫn cao thượng.
Bi mẫn và bạo tàn không thể cùng
tồn tại chung.
Tâm bi xây dựng trong khi hung bạo
tiêu diệt. Người
ích kỷ, người ôm ấp dưỡng nuôi những
ý tưởng chỉ
biết mình, không thể trau giồi
tâm bi.
Con người biết
hy sinh quyền lợi riêng tư của mình,
con người vị tha bất
cầu lợi, cũng
thấm nhuần tâm mình với những
tư tưởng bi mẫn
trong sạch tinh khiết và lòng muốn cứu giúp và
phục vụ người khác. Người
ích kỷ không thể thật sự
phục vụ ai, bởi vì chính
động cơ thúc đẩy họ
phục vụ đã mang
tính chất vị kỷ, do đó
ngăn cản họ làm điều gì thật sự
tốt đẹp. Không quá trể hơn khi lòng
vị kỷ cố hữu trổi dậy và làm chủ
tình hình thì họ không còn giữ tâm
trắc ẩn dịu hiền nữa. Chính
lòng trắc ẩn dịu hiền và thương người
hoạn nạn khổ đau sẽ khắc phục tâm chai đá dững dưng cứng rắn.
Nếu rứt bỏ, tách rời
tâm bi ra khỏi
giáo huấn của
Đức Phật ắt ta bỏ đi phần nòng cốt và
tinh túy của
Phật Giáo, bởi vì
tâm bi là nền tảng của tất cả những phẩm hạnh, những gì
tốt đẹp và
chánh đáng và tất cả những
hạnh lành trên đều được sanh ra từ
bào thai tâm bi (karunà nidhànam hi sìlam).
Tất cả những phẩm hạnh (pàramità, ba-la-mật) mà một vị
Bồ tát -- người có nguyện vọng
trở thành Phật --
gia công trau giồi, đều khởi sanh
từ tâm bi.
Tâm bi do
trí tuệ, hay
chánh kiến, hướng dẫn, và
trí tuệ do
tâm bi hướng dẫn. Hai
yếu tố này
mật thiết đi chung
với nhau và là
quy tắc dẫn đạo nòng cốt của
Phật Giáo.
Tâm bi chắc chắn không phải là một
trạng thái tâm thoáng phớt qua. Nó thật sự là cái gì mạnh mẽ và
vững bền. Trước một người đang nguy khổn,
chính tâm bi
thúc đẩy ta có hành động hỗ trợ, giúp người ấy
vượt qua khỏi
hoàn cảnh khó khăn. Và như vậy ta
cần phải có
ý chí dũng mãnh.
Người ta say mê
học hỏi những loại máy móc khác nhau mà khoa học sáng chế. Nhu cầu
cấp bách hơn là
học hỏi, khảo sát cái tâm, guồng máy
phức tạp của
con người. Chính sự
nghiên cứu học hỏi này mới làm
sáng tỏ mọi
hiểu lầm giữa người và người.
Có những vần thơ rằng:
"Phần lớn
đời sống như sương mờ, như bọt nước,
Có hai điều
vững chắc như tảng đá;
Tình thương, trong cảnh
hoạn nạn của người,
Lòng
quả cảm, bên trong chính mình."
III.
Tâm Hỷ (Mudità)
Hoan hỷ trong sự
thành công của kẻ khác là
trạng thái tâm cao thượng thứ ba, được gọi là mudità,
tâm hỷ.
Đây không phải chỉ là
vui vẻ hỷ hạ suông mà là một niềm vui
chân thật,
vị tha, chia sẻ với người
thành công. Người thù trực tiếp của
tâm hỷ là
ganh tỵ và
kẻ thù gián tiếp là bãi buôi mừng rỡ.
Ganh tỵ là một tật xấu làm
ô nhiễm tâm và gây buồn khổ cho
con người nuôi dưỡng nó.
Khi người khác lâm
cơn hoạn nạn thì ta
mở lòng trắc ẩn thương xót và
cố gắng giúp họ ra khỏi cảnh nguy khổn. Nhưng để chia sẻ niềm vui trong sự
thành công của người thì ta
cần phải có
tâm hỷ. Đây là đức tánh làm cho ta
thành thật chia sẻ niềm vui với sự
thành công của người, cũng như
hân hoan vui vẻ với sự
thành công của chính ta.
Con người ganh tỵ không thể cảm nghe
hạnh phúc khi người khác
tiến bộ hay
thành công,
trái lại, lấy làm
thích thú khi có ai thất bại và
rủi ro. Vài người
cha mẹ ganh tỵ với
gia đình khác, vì trong nhà người ta con cái
công thành danh toại, còn con nhà mình thì hư hỏng.
Quả thật vô nghĩa lý, vì như vậy chỉ tự chuốc lấy
hậu quả buồn phiền.
Ganh tỵ là một tật xấu mà hình như hầu hết những hạng người khác nhau trong
xã hội --
trí thức,
chánh trị gia và chí đến những người cao sang
quyền quý v.v... -- đều chia sẻ. Nếu
quả thật là vậy, thì có cần nói đến những người
nghèo khổ và thất học không?
Tuy nhiên, đôi khi những người này còn ít
vị kỷ và
hợp tác dễ dàng hơn. Thay vì ôm ấp dưỡng nuôi những
tư tưởng ganh tỵ,
chúng ta phải tận lực
gia công quyết chí vượt qua khỏi mọi trở ngại và
viên mãn hoàn thành ước vọng của mình. Hãy ghi nhớ rằng cái nghiệp của ta có
vai trò quan trọng trong cuộc sống của
chúng ta.
Mudità,
tâm hỷ, là
thái độ ngợi khen một người,
tâm hỷ loại
trừ ác cảm. Do
công phu hành thiền và khảo sát những
thăng trầm của kiếp sống
chúng ta sẽ có thể trau giồi
đức hạnh cao cả này và
hoan hỷ với
tình trạng an lành,
hạnh phúc và
tiến bộ của người khác.. Khi
chúng ta đã
thuần thục,
thành thật vui với niềm vui của người khác, thì tâm ta trở nên
trong sạch tinh khiết và cao thượng. Thấy người bụng đói ta cho
thức ăn với
tâm bi (karunà). Khi ăn xong, người ấy hết đói và cảm nghe
thoải mái vui vẻ, ta cũng nghe
vui vẻ hân hoan. Một hành động bất vụ lợi như vậy đem lại cho ta niềm vui
tinh khiết trong sạch,
tâm hỷ (mudità). Đến đây ta
nhận thức rõ rằng những
trạng thái tâm cao thượng này
tác động chung và hỗ trợ lẫn nhau.
IV. Tâm Xả (Upekkhà)
Trạng thái tâm cao thượng thứ tư, và
cuối cùng là tâm xả, upekkhà. Đây là "tâm quân bình", bình thản và không phải là
trạng thái dửng dưng lãnh đạm. Xả là
hậu quả của
tâm an trụ vắng lặng. Bốn phẩm hạnh cao thượng từ, bi, hỷ, xả
liên quan và
tùy thuộc lẫn nhau rất
mật thiết, nhưng
chính tâm xả luôn luôn canh phòng ba tâm kia. Xả là đức tánh
trọng yếu nhất, sâu sắc nhất và cũng khó trau giồi nhất.
Đời sống không phải là một vườn
hoa hồng. Ta phải cần nhiều
nhẫn nhục,
tinh tấn và
ý chí bất lay chuyển để trau giồi những
đức hạnh ấy và
đồng thời tránh khỏi ích kỷ hay
thiên vị. Xả, hay tâm
quân bình,
lãnh đạo, hướng dẫn ba loại tâm cao thượng kia, giữ
hành giả trong
vị trí an toàn và đem lại
niềm tin nơi chính mình, không
ỷ lại nơi ai khác.
Tất cả
chúng ta đều phải
đối phó với tám
thăng trầm của
đời sống (attha loka dhamma,
tám pháp thế gian): được và thua,
danh thơm và
tiếng xấu,
ca tụng và khiển trách,
hạnh phúc và
đau khổ. Và khi đã chạm trán với những
kinh nghiệm phũ phàng ấy thì
quả thật là khó mà không chao động. Nhưng người đã có trau giồi đầy đủ tâm xả thì không
phiền lụy. Người ấy không lay chuyển. Giữa những lời
ca tụng và khiển trách, dầu
hạnh phúc hay
đau khổ, người ấy vẫn
vững chắc như tảng đá sừng sựng giữa cơn gió lốc.
Lẽ dĩ nhiên đó là
thái độ của chư vị
A La Hán, bậc
Toàn Thiện. Các Ngài được
mô tả như sau:
"Bậc
Thiện Trí từ bỏ tất cả, không nắm giữ bất luận gì trên
thế gian. Các Ngài không thốt ra lời nào với
ẩn ý tham ái. Dầu gặp phải
hạnh phúc hay
đau khổ các Ngài cũng không để
tinh thần bồng bột hay
suy sụp." Những người kém hơn cũng vậy, dầu không
toàn thiện, nhưng khi đã
am tường bản chất thật sự của kiếp
sinh tồn với những
thăng trầm của nó và đã trau giồi tâm xả, cũng có thể đương đầu với cuộc sống lên xuống bất
thường một cách
can đảm. Những vị này có thể thấy sự vật phát sanh và
hoại diệt như thế nào đúng trong bối cảnh của nó. Không
lo âu và vọng động, các Ngài có thể
nhận thức những gì phù du là tạm bợ. "Tâm
vắng lặng ...
tiếp tục tiến bước, trong
hạnh phúc cũng như
bất hạnh,
đều đặn như cái đồng hồ, trong cơn giông tố." [2]
Nguyên nhân kế cận làm cho tâm xả khởi sanh là sự thấu hiểu rằng mỗi
chúng sanh là kết quả của cái nghiệp (kamma) của mình.
Kẻ thù trực tiếp của tâm xả là bám níu,
luyến ái, và người thù
gián tiếp mang lốt bạn là lòng chai đá
dửng dưng,
thờ ơ lãnh đạm.
Nhằm trau giồi tâm xả, một
kiến thức về lối
tác động của lý
nghiệp báo, nhân sanh quả (kamma-vipàka) như thế nào,
quả thật vô cùng thiết yếu. Trong ánh sáng của lý
nghiệp báo (kamma) ta sẽ có thể phát triển
thái độ buông xả đối với tất cả
chúng sanh, chí đến các vật
vô tri vô giác.
Upekkhà, tâm xả, gác qua một bên cả hai, bám níu (anurodha) và phẩn uất (virodha). Đó là hai
cực đoan. Người hành thiền đã đi trên
Trung Đạo, thì không còn
chạy theo cái
vừa lòng hay
ưa thích và
xua đuổi điều phật ý hay ghét bỏ.
Hành giả giữ
tâm bình thản,
quân bình, không
giận dữ,
phẩn nộ, chán nản
buồn phiền hay
lo âu. Như Wordsworth
ghi nhận: " Những
tâm hồn dũng mãnh nhất là những ai mà tiếng
ồn ào của
thế gian ít lọt vào tai nhất". Và hơn 2,500 năm trước đó
Đức Phật dạy:
"Đúng vậy, rỗng không thì kêu to, nhưng đầy thì im lặng.Kẻ ngu như cái hũ trống; người trí như ao hồ." [3]
Mettà,
tâm từ, bao trùm tất cả
chúng sanh; karunà,
tâm bi, gồm những
chúng sanh đau khổ; mudittà,
tâm hỷ, những
chúng sanh dồi dào phong phú; và upekkhà, tâm xả,
bao gồm cả hai, những gì thiện và những gì
bất thiện, những gì yêu
quý mến thương và những gì không
ưa thích; những gì
vừa ý và những gì phật lòng, những gì
xấu xí và những gì
đẹp đẽ, mà không có bất
luận sự phân biệt thiên vị nào.
"...
Hành giả chứng nghiệm phỉ lạc, đã phỉ lạc ắt
tâm an trụ.
Hành giả đượm nhuần
dồi dào tâm từ (mettà) và rải bủa xa rộng về một hướng. Cùng thế ấy
hành giả rải
tâm từ về hướng thứ nhì, thứ ba, thứ tư, bên trên, phía dưới, khắp quanh mình.
Hành giả rải khắp
đồng đều toàn thể thế gian với tâm tràn đầy
từ ái,
dồi dào, ngày càng rộng lớn,
vô lượng vô biên, không
căm hờn, không
ác ý.
Hành giả sống với tâm
thấm nhuần tràn đầy bi mẫn (karunà), ... hỷ cảm (mudità), ...xả (upekkhà)... không
ác cảm, không thù hận.
"Tựa hồ như có đầm sen kia dễ mến, nước trong veo,
mát mẻ, dịu ngọt, nằm giữa cồn bãi trắng phao
ngoạn mục; và một người nọ từ hướng Đông, Tây, Nam hay Bắc,
mệt mỏi nhuể nhoại dưới
ánh nắng nóng bức,
kiệt lực, khát nước, miệng khô. Đến đầm sen người ấy mặc tình giải khát và tắm rửa tươi tỉnh. Cùng thế ấy ... người đã đến với
Giáo Pháp và
Giới Luật (dhamma-vinaya) mà
Đức Phật đã ban truyền, đã trau giồi
tâm từ,
tâm bi,
tâm hỷ và tâm xả, cũng
đạt đến trạng thái nội tâm vắng lặng --
Như Lai tuyên ngôn, chính với
nội tâm vắng lặng mà người ấy theo đúng
pháp hành thích nghi của người hành thiền." [4]
PHỤ BẢN III
Chánh Tinh Tấn
Chánh tinh tấn có bốn
tác dụng là:
ngăn ngừa, dứt bỏ, phát triển, và
củng cố. [5]
1. Cái gì là tinh tấn ngăn ngừa?"Nơi đây, người hành thiền đặt hết
ý chí mình vào
công trình ngăn ngừa, không để cho
bất thiện pháp
phát khởi;
gìn giữ, không để cho những
tư tưởng bất thiện chưa phát sanh có thể phát sanh. Vị này
kiên trì cố gắng phát triển
năng lực và
dũng mãnh tăng cường tâm mình (để
ngăn ngừa).
"Nơi đây, khi
hành giả thấy một hình thể, nghe một
âm thanh, hưởi một mùi, nếm một vị, xúc chạm một vật, hoặc hay biết một
ý tưởng,
nhận biết rõ ràng dấu hiệu hay
chi tiết (tức
hành giả không để bị
toàn thể hay
chi tiết nào của đối tượng ấy gây
xúc động).
Hành giả chăm chú
kiểm soát,
cẩn mật canh phòng và
chế ngự lục căn, không để cho những
tư tưởng như khát khao
ham muốn hay chán nản
thất vọng,
tội lỗi và
bất thiện pháp
xâm nhập vào như người không thu thúc
lục căn (bị nó
xâm nhập). Đó là
tinh tấn ngăn ngừa."
2. Cái gì là tinh tấn dứt bỏ?"Nơi đây
hành giả đặt hết
ý chí mình vào
công trình dứt bỏ những tư tuởng
tội lỗi,
bất thiện, đã phát sanh. Vị này
kiên trì cố gắng phát triển
năng lực và
dũng mãnh tăng cường tâm mình (để dứt bỏ).
"Nơi đây
hành giả không chấp nhận những
dục vọng đã phát sanh mà dứt bỏ, tránh xa và
xua đuổi, làm cho nó
chấm dứt và tan biến. Cùng thế ấy (vị này tránh xa và
xua đuổi) những
tư tưởng sân hận và hung bạo đã phát sanh. Đó là
tinh tấn dứt bỏ."
3. Cái gì là tinh tấn phát triển?"Nơi đây,
hành giả đặt hết
ý chí mình vào
công trình tạo nên và phát triển những
tư tưởng thiện chưa phát sanh. Vị này
kiên trì cố gắng phát triển
năng lực và
dũng mãnh tăng cường tâm mình (để phát triển).
"Nơi đây, vị
hành giả phát triển những
yếu tố của sự
giác ngộ (
thất giác chi), vốn đặt nền tảng trên cuộc sống
ẩn dật, trên sự
dứt khoát buông xả, và trên sự
chấm dứt mà
cuối cùng đưa đến
giải thoát.
Thất giác chi là: niệm,
trạch pháp, tấn, phỉ, an, định và xả. Đó là
tinh tấn phát triển."
4. Cái gì là tinh tấn củng cố?"Nơi đây
hành giả củng cố đề mục hành thiền
thích hợp của mình. Đó được gọi là
tinh tấn củng cố."
Đó là
bốn tinh tấn. Những
bất thiện pháp được đề cập ở đây là ba căn
bất thiện, nguồn cội của tất cả những
nghiệp bất thiện. Đó là những
tư tưởng tham ái,
sân hận và
si mê (lobha, dosa, moha). Tất cả những say mê khác đều
kết hợp quây quần chung quanh ba căn cội này. Đối nghịch với ba căn này là ba căn thiện: không-tham, không-sân, không-si (alobha, adosa, amoha).
Tác dụng của bốn
nỗ lực này là giúp
thành tựu viên mãn công trình hành thiền.
Tứ chánh cần hay
chánh tinh tấn là
điều kiện tất yếu không
thể không có, để
đạt đến trạng thái định. Ta đã thấy rằng
chánh tinh tấn nằm trong nhóm "định", và như vậy,
liên quan mật thiết và
tùy thuộc lẫn nhau với hai chi kia là
chánh niệm và
chánh định. Ba chi này
sinh hoạt chung và
cùng lúc với nhau.
Nếu không có
chánh tinh tấn ắt không thể khắc phục năm pháp
triền cái [6].
Chánh tinh tấn tiêu trừ những
tư tưởng bất thiện vốn làm trở ngại sự lắng tâm và đàng khác, phát huy và
củng cố những
tâm sở thiện, nhằm phát triển
trạng thái định.
PHỤ BẢN IV
Pháp Triền Cái (Nìvarana)
"Này chư tỳ khưu, có
năm chướng ngại làm cho ta
mù quáng, không thấy, không
hiểu biết và do đó cướp
mất trí tuệ của ta.
Năm chướng ngại ấy
kết hợp với
đau khổ và không đưa đến
Niết Bàn." [7]
"Nìvarana",
triền cái, có nghĩa là những gì làm trở ngại và ngăn chận sự phát triển
tinh thần. Được gọi là
triền cái hay
chướng ngại tinh thần, bởi vì nó
hoàn toàn đóng chắc, cắt đứt và ngăn chận. Nó khóa hẳn cánh cửa mở vào
giải thoát. Năm ấy là gì?
1.
Tham dục (kàmacchanda),
2. Oán ghét (vyàpàda),
3.
Hôn trầm và
dã dượi (thìna-midha),
4.
Phóng dật và
lo âu (uddhacca-kukkucca),
5.
Hoài nghi (vicikicchà).
1. Kàmacchanda,
tham dục, là sự
ham muốn duyên theo nhục dục
ngũ trần. Những
tư tưởng tham dục chắc chắn làm chậm trể sự phát triển
tinh thần. Nó làm tâm chao động và trở ngại
công trình lắng
tâm an trụ.
Sở dĩ có
tham dục phát sanh là vì không thu thúc
lục căn. Vì không
cẩn mật canh phòng sáu cửa (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý) nên những
tư tưởng tham ái có thể
xâm nhập vào và làm
ô nhiễm tâm thức. Do đó người hành thiền
cần phải cẩn trọng thu thúc
lục căn, không dể duôi hờ hửng để cho
chướng ngại tham ái ngăn chận, khoá đóng
con đường giải thoát của mình.
2.
Chướng ngại kế đó là oán ghét hay
ác ý. Cũng như
trường hợp của
tham dục, sự
chú tâm sai lầm, kém khôn ngoan, không
sáng suốt, dẫn đến
ác ý, oán ghét hay
sân hận. Và
nếu không được
kiểm soát kịp thời, những
tư tưởng bất thiện này sẽ
thấm nhuần tâm và
che lấp kiến thức, làm cho ta
mù quáng, không thấy rõ
sự thật. Nó làm méo mó
toàn thể tâm thức và các
tâm sở liên hệ và như vậy, gây trở ngại cho Ánh Sáng
Chân Lý, đóng kín
con đường đưa đến
Tự Do.
Tham dục và oán ghét đặt nền tảng trên
si mê, chẳng những làm chậm trể sự
trưởng thành của
tâm trí mà còn
tác dụng như
nguyên nhân của những cuộc chia rẽ,
tranh chấp và
xung đột giữa người và người, giữa
quốc gia này với
quốc gia khác.
3.
Chướng ngại thứ ba là
hôn trầm và
dã dượi, một
trạng thái tâm
uể oải, không buồn
hoạt động. Đó không phải là
trạng thái uể oải của cơ thể
vật chất như có người lầm tưởng, bởi vì chí đến các vị
A La Hán và chư Phật là những bậc đã
hoàn toàn khắc phục các pháp
triền cái, đôi khi vẫn còn cảm nghe cơ thể
mệt mỏi. Giống như miếng bơ quá đặc, dính cục lại, làm cho ta khó trét trên bánh mì,
trạng thái hôn trầm dã dượi làm cho ta nhuể nhoại. biếng
hoạt động và như vậy, làm cho người hành thiền
mất lòng nhiệt thành, kém
quyết tâm, rồi
tinh thần trở nên ươn yếu và lười biếng. Sự
hôn trầm làm cho
tâm thần càng thêm
dã dượi và
cuối cùng đưa đến
trạng thái tâm chai đá hửng hờ.
4.
Chướng ngại thứ tư,
phóng dật và
lo âu, là một
chướng ngại khác làm chậm trể bước tiến
tinh thần. Khi mà tâm trở nên
phóng dật thì nó giống như bầy ong bị vỡ ổ, cứ vo vo bay
quanh quẩn không ngừng và như vậy, khó an trụ được. Một cái tâm chao
động tức nhiên không thể
vắng lặng. Chính
tình trạng chao động là một trở ngại trên
con đường dẫn đến
vắng lặng,
con đường hướng thượng.
Trạng thái lo âu cũng tệ hại như
phóng dật. Khi mà người kia
mãi mãi lo âu, hết chuyện này đến chuyện khác, hết việc nọ đến việc kia, những
việc đã làm xong và những việc chưa làm được, và luôn luôn
tư lự lo âu về những chuyện rủi may của
đời sống, thì
chắc chắn là tâm người ấy không bao giờ
an lạc. Tất cả những
tình trạng quấy rầy, bực dọc,
phiền phức,
lo âu và không yên ấy là những trở ngại cản ngăn, không
để tâm an trụ. Do đó,
phóng dật và
lo âu hẳn là pháp
triền cái.
5.
Chướng ngại thứ năm,
hoài nghi, cũng là
chướng ngại cuối cùng. Danh từ Pali vi + cikicchà, đúng theo nghĩa từng chữ, là "không (vi = vigata) thuốc (cikiccha)". Các nhà
chú giải giải thích chướng ngại này là
tình trạng thiếu khả năng
quyết định về bất luận điều gì; và cũng xem
hoài nghi là không
tin tưởng rằng có ai có thể đắc thiền (jhàna).
Quả thật vậy, người mà mắc phải chứng bịnh
hoài nghi,
bất định, không
nhất quyết về điều mình đang làm, thì rõ thật là
vô cùng tai hại, và ngoại trừ khi nào
chấm dứt tâm trạng ấy người kia sẽ còn
tiếp tục đau khổ vì nó. Ngày giờ nào mà
con người còn bị tâm trạng
hoài nghi làm lung lạc
tinh thần, như người ngồi trên hàng rào, thì đó là một tệ hại
tinh thần rất
trầm trọng cho
công trình trau giồi
tâm trí.
Tâm mà bị những
chướng ngại tai hại trên
thấm nhuần sẽ không thể an trụ một cách
tốt đẹp vào bất cứ
đề mục nào có
bản chất trong sạch. Đúng rằng người kia có thể gom tâm vào một đối tượng với những
tư tưởng bất thiện như
tham ái,
sân hận v.v... nhưng đó là
tà định (micchà-samàdhi). Ngày giờ nào mà các bợn nhơ
tinh thần hay khát vọng (kilesa) còn
tồn tại nơi người nào thì
tư tưởng nhiễm ô và
bất thiện sẽ còn phát sanh nơi người ấy.
Tuy nhiên, người hành thiền đã
gia công thực hành tâm
vắng lặng (samàdhi) không còn có thể
lầm lạc phạm điều
bất thiện; bởi vì đã
kiểm soát các pháp
triền cái.
Nhằm
điều phục năm pháp
triền cái,
hành giả cần phải trau giồi và phát triển năm
yếu tố tâm lý gọi là chi thiền (jhànanga). Đó là: vitakka, vicàra, pìti, sukha và ekaggatà (tầm, sát, phỉ, lạc, trụ), đối nghịch với năm
triền cái. Chính năm chi thiền này
nâng đỡ, đem tâm trạng của
hành giả từ thấp lên cao. Loại tâm
kết hợp với những
yếu tố tâm lý ấy được gọi là "thiền" (jhàna). Năm chi thiền, kể theo thứ tự và từng
bước một,
điều phục năm pháp
triền cái, vốn ngăn chận
con đường đưa đến
trạng thái tâm "định". Mỗi chi thiền
chính xác đối nghịch với một
triền cái.
Chi thiền trụ (ekaggatà, nhứt
điểm tâm, hay gom
tâm an trụ vào một điểm)
chế ngự chướng ngại tham dục; chi thiền phỉ (pìti)
chế ngự chướng ngại oán ghét (vyàpàda); chi thiền tầm (vitakka)
chế ngự chướng ngại hôn trầm và
dã dượi; chi
thiền lạc (sukha)
chế ngự chướng ngại phóng dật và
lo âu; chi thiền sát (vicàra)
chế ngự chướng ngại hoài nghi. Nếu sắp xếp ngang nhau thì sẽ như thế này:
tham dục <-> trụ
oán ghét <-> phỉ
hôn trầm và
dã dượi <-> tầm
phóng dật và
lo âu <-> lạc
hoài nghi <-> sát
PHỤ BẢN V
Sona, Vị Hành Giả Nhiệt Thành
Vào thời
Đức Phật có
Đại Đức Sona-kolivisa [8] rất là
tinh tấn. Ngài cố ép mình
quá sức -- cả thân lẫn tâm -- trong khi hành thiền, nhưng rồi thất bại. Và Sư có
ý nghĩ như sau:
"Trong số các
đệ tử của
Đức Thế Tôn mà đã tận lực
cố gắng hành thiền, thì ta đây là một.
Mặc dầu vậy, ta vẫn chưa thanh lọc hết những
ô nhiễm trong tâm.
Gia đình ta khá giả. Ta có thể
thọ hưởng tài sản sự nghiệp để làm
việc thiện. Hay là ta
từ bỏ công trình tu tập này,
trở về nếp sống thấp kém hơn,
thọ hưởng tiền của và
làm việc phước thiện, tạo
nghiệp lành."
Đức Thế Tôn đọc được
ý nghĩ của
Đại Đức Sona,
đến gần và hỏi: "Này Sona,
phải chăng là con đang
suy nghĩ rằng: 'Trong số các
đệ tử của
Đức Bổn Sư mà đã tận lực
cố gắng ... (như trên) ... tạo nghiệp lành?" "Bạch
Đức Thế Tôn, đúng như vậy."
"Và con nghĩ thế nào, này Sona, khi còn
tại gia cư sĩ có phải con là một nhạc sĩ rất tài chăng?" "Bạch
Đức Thế Tôn, đúng như vậy." "Và con nghĩ thế nào, này Sona, khi cây đờn của con lên dây cao
quá mức, con có thể dùng nó mà đờn đúng giọng không?" "Bạch
Đức Thế Tôn,
quả thật không được."
"Và con nghĩ thế nào, này Sona, khi cây đờn của con lên dây quá thấp, con có thể đờn đúng giọng không?" "Bạch
Đức Thế Tôn,
quả thật không được."
"Tuy nhiên, này Sona, khi đờn được lên dây vừa đúng, không quá căng cũng không quá dùn, con có thể đờn đúng giọng không?" "Bạch
Đức Thế Tôn,
chắc chắn là con đờn được."
Cùng thế ấy, này Sona,
cố gắng quá mức làm cho
con người quá
căng thẳng, và không đủ
cố gắng sanh ra lười biếng. Như vậy, này Sona, con hãy
quyết tâm dũng mãnh như thế này: Thấu hiểu
tình trạng quân bình của
ngũ căn [9], ta sẽ
quyết chí thành đạt mục tiêu bằng cách
kiên trì và
đều đặn tinh tấn." "Bạch
Đức Thế Tôn, con xin vâng."
Đại Đức Sona hành đúng theo lời chỉ giáo và về sau
trở thành một trong các vị
đệ tử A La Hán của
Đức Phật. [10]
PHỤ BẢN VI
Loại Trừ Những Tư Tưởng Bất Thiện
Bài kinh số 20 của bộ Majjhima Nikàya,
Trung A Hàm, tựa đề Vitakka-santhàna Sutta có ghi lại những điều chỉ dạy về
phương cách loại trừ những
tư tưởng bất thiện, rất
cần thiết cho người hành thiền. Sau đây là phần chánh yếu của
bài kinh. [11]
Đức Phật dạy:
"Này chư tỳ khưu, người hành
thiền gia công thành tựu
tâm trí cao thượng nên
thỉnh thoảng nhớ suy tư năm điều. Năm điều ấy là gì?
1. "Nếu, khi suy niệm về một
đề mục mà những
tư tưởng xấu xa tội lỗi,
bất thiện,
kết hợp với tham, sân, si phát sanh đến
hành giả, vị này nên (để loại trừ những
tư tưởng bất thiện ấy) hãy hướng tâm suy niệm về một
đề mục khác có tánh cách thiện. Chừng ấy,
tâm bất thiện bị loại trừ, biến tan. Do sự loại trừ này tâm
trở lại vững vàng, an trụ và trở nên
vắng lặng, hợp nhất và định vào
đề mục.
"Giống như người thợ mộc rành nghề hay tập sự, đẻo một cái chốt
vừa vặn,
tốt đẹp, rồi đóng vào lỗ để tống đẩy ra một cái chốt thô kịch,
xấu xí, không vừa, cùng thế ấy
hành giả loại trừ,
đẩy lui đối tượng
bất thiện bằng cách hướng tâm suy niệm về đối tượng khác có tánh cách thiện. Chừng ấy những
tư tưởng bất thiện,
kết hợp với tham, sân, si,
bị loại trừ và tan biến. Do sự loại trừ này ... (như trên) ... và định vào
đề mục.
2. "Nếu, khi đã hướng tâm về
đề mục khác có tánh cách thiện mà những
tư tưởng bất thiện vẫn còn phát sanh,
hành giả hãy
suy xét về hiểm họa của nó như sau: 'Quả thật vậy, những
tư tưởng này của ta
rõ ràng là
bất thiện, đáng bị khiển trách và nó sẽ đem lại
đau khổ.' Chừng ấy, những
tư tưởng bất thiện bị loại trừ, tan biến. Do sự loại trừ này ... và định vào
đề mục.
3."Nếu, khi đã
suy xét về hiểm họa của những
tư tưởng bất thiện mà nó vẫn còn phát sanh,
hành giả hãy lờ đi, không
để ý đến, không
lưu tâm suy niệm về các pháp
bất thiện ấy nữa. Chừng ấy, những
tư tưởng bất thiện bị loại trừ, tan biến. Do sự loại trừ này ... và định vào
đề mục.
4. "Nếu, khi đã không
để ý đến, không
lưu tâm suy niệm về các
tư tưởng bất thiện ấy nữa mà nó vẫn còn phát sanh,
hành giả hãy suy niệm về việc loại trừ nguồn gốc của những
tư tưởng bất thiện ấy. Chừng ấy, những
tư tưởng bất thiện bị loại trừ, tan biến. Do sự loại trừ này ... và định vào
đề mục.
5. "Nếu, khi đã suy niệm về việc loại trừ nguồn gốc của những
tư tưởng bất thiện ấy mà nó vẫn còn phát sanh,
hành giả hãy cắn răng lại và ép lưỡi sát vào nắp vọng, thu thúc, khắc phục và lấy tâm (thiện)
kiểm soát tâm (
bất thiện). Chừng ấy, những
tư tưởng bất thiện bị loại trừ, tan biến. Do sự loại trừ này ... và định vào
đề mục.
"Nếu, do suy niệm về một
đề mục thiện,
suy xét về hiểm họa của những
tư tưởng bất thiện, không
lưu tâm đến và không suy niệm về những
tư tưởng bất thiện, suy niệm về việc loại trừ nguồn gốc của những
tư tưởng bất thiện, cắn chặt răng và ép lưỡi sát vào nắp vọng và thu thúc, khắc phục,
chế ngự tâm (
bất thiện) bằng tâm (thiện), mà
hành giả loại trừ được những
tư tưởng bất thiện, tâm
trở lại an trụ
vững vàng và
vắng lặng, hợp nhất và định vào
đề mục, vị
hành giả ấy được gọi là đã
vững chắc làm chủ
con đường mà tiến trình
tư tưởng mình đã
trải qua. Vị ấy có
tư tưởng mà chính mình muốn suy tư. Vị ấy đã cắt đứt lìa
tham ái và
trọn vẹn tháo gỡ thằng thúc (phát sanh do
tham ái). Vị ấy đã khắc phục
ngã mạn và
chấm dứt đau khổ."
Chú thích:[1] Majjhima Nikàya, Trung A Hàm 40/I 284[2] R. L. Stwevenson.[3] Sutta Nipàta, v, 721.[4] Majjhima Nikàya, Trung A Hàm, 40/I284[5] Samvara, pahàna, bhàvanà, anurakkhana.[6] Xem Phụ bản IV.[7] Samyutta Nikàya, Tạp A Hàm, v, 97[8] Vinaya Pitaka, Tạng Luật, II. I ff; Anguttara, Tăng Nhứt A Hàm, iii, 374-5.[9] Ngũ căn là: tín căn, tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn (saddhà, viriya, sati, samàdhi và pannà). Majjhima Nikàya, Trung A Hàm, 70, 77. Về ngũ căn, xin đọc Samyutta Nikàya, Tạp A Hàm, v, 377.[10] Câu chuyện này được ghi lại trong Bản Chú Giải của kinh Trưởng Lão Tăng Kệ, Theragàtha:Sư nhận lãnh một đề mục hành thiền nơi Đức Phật, nhưng không thể gom tâm an trụ vì lúc ấy Sư ngụ tại Rừng Mát, nơi có đông người. Rồi Sư nghĩ: 'Thân ta quá tiều tụy để có thể tiến đạt hạnh phúc thật sự. Bổn phận của người đạo sĩ là phải khắc phục những khổ đau của cơ thể.' Do đó Sư không quan tâm đến những cơn đau nhức ở chân vì quá sức thiền hành, và tận lực gia công, nhưng vẫn không thâu hoạch được thành quả nào. Rồi Sư tự nghĩ, 'Đã hết sức cố gắng mà ta không thể thành tựu đạo quả nào. Vậy thì cuộc sống tu hành này có lợi ích gì cho ta? Ta sẽ huờn tục, trở lại cuộc sống thấp kém hơn và tạo phước.' Lúc bấy giờ Đức Bổn Sư thấu hiểu ý nghĩ ấy và, muốn cứu giúp Sư, Ngài dạy Câu Chuyện Cây Đờn, dạy Sư làm thế nào để giảm bớt tình trạng căng thẳng tinh thần. Lãnh hội lời dạy Sư lên đỉnh núi Kên Kên hành đạo và đắc Quả A La Hán." -- Psalms of the Brethen, do Mrs. Rhys Davids dịch (P.T.S.) trang 275.[11] Để được vắn tắt, nơi đây chỉ ghi lại một câu chuyện. Muốn có đầy đủ chi tiết xin đọc "The Removal of Distracting Thoughts", do Soma Thera dịch, (Kandy, BPS), Wheel 21.