BÁT NHÃ TÂM KINH GIẢNG GIẢI
VÔ THƯỢNG NIẾT BÀN
Lê Sỹ Minh Tùng
36 Bốn Chân Lý Tứ Diệu Đế.
Khi nói đến
Tứ diệu đế thì
chúng ta có
ấn tượng ngay đây là những
chân lý mà
Đức Thế Tôn đã truyền dạy cho nhóm ông
Kiều Trần Như tại
vườn Lộc Uyển của xứ Ba-la-Nại sau khi Ngài vừa
thành đạo.
Trong suốt 49 năm
hành đạo, chính
Đức Phật đã
thuyết giảng Tứ Diệu Đế cho không biết bao nhiêu
đệ tử. Ngày nay
Tứ Diệu Đế vẫn là cánh cửa lớn và nền tảng cho
chúng sinh bước vào căn nhà
giác ngộ.
Chân lý nầy đã được trích dẫn
rõ ràng trong phần trên của
Tâm kinh.
Tứ diệu đế nầy rất
phổ thông trong hầu hết tất cả những
kinh điển của
Phật giáo vì nó chính là nền tảng
căn bản để giúp
chúng sinh đoạn
trừ phiền não khổ đau ngỏ hầu
đạt đến cứu cánh thanh tịnh của
Niết Bàn. Nhưng đây chỉ là
Tứ diệu đế cho hàng
Thanh văn A La Hán mà thôi chớ không phải cho hàng
Bồ tát.
Tứ diệu đế bao gồm:
1)
Khổ đế là nói về tất cả những nỗi khổ trên
thế gian nầy từ
tam khổ như
khổ khổ,
hoại khổ và hạnh khổ
cho đến bát khổ như
sanh khổ,
lão khổ,
bệnh khổ,
tử khổ,
ái biệt ly khổ,
cầu bất đắc khổ,
oán tắng hội khổ và sau cùng là
ngũ uẩn thạnh khổ.
2)
Tập đế là
nguyên nhân của những nỗi khổ. Đó là:
Kiến hoặc là bị nhiều
thành kiến,
tà kiến làm cho tâm
mê hoặc vì
tin theo các thuyết của các đạo tà, ma, thần, quỷ và các
học thuyết của
các chủ nghĩa
sai lầm. Đó là
thân kiến, biện kiến,
kiến thủ,
giới cấm thủ và
tà kiến.
Tư hoặc là bị các
phiền não của tham, sân, si, mạn, nghi làm cho tâm
mê hoặc.
Vô minh hoặc là sự
mê lầm bởi không thấy biết
chánh kiến.
Trần sa hoặc là còn nhiều thứ
mê hoặc nhiều như cát, như bụi không kể xiết. Muốn
đạt đến địa vị Bồ tát phải đoạn trừ cho hết tất cả những
mê hoặc sa trần.
Vì
chúng sinh sống trong
thế gian nên phải chịu
ngũ trược ác thế tức là năm thứ
vẩn đục độc ác làm nhân khổ cho
con người.
Ngũ trược ác thế gồm có:
Ø
Kiếp Trược là
thời đại tụ hợp toàn những pháp vẫn đục của
thế gian.
Ø
Kiến Trược là
thời đại có 5
tà kiến. Đó là:
a)
Thân kiến là
si mê lầm tưởng thấy thân ta và những vật của ta là thật Có.
b) Biện kiến là khi đã
cố chấp thân ta và vật của ta là thật Có. Nếu họ theo
chủ nghĩa “đoạn” tức là Vô có nghĩa là khi thân ta chết là hết hoặc theo
chủ nghĩa “thường” tức là Hữu có nghĩa là thân ta chết mà vẫn còn, không mất, không thay đổi.
c)
Kiến thủ là học theo những
ý kiến chủ nghĩa tà ngụy, kém cỏi, hẹp hòi của các
tà thuyết,
tà đạo mà họ cho là
mầu nhiệm hay hơn hết.
d)
Giới cấm thủ là học theo những
giới luật nhảm nhí của bọn
tà ma để
cầu sinh lên trời…
e)
Tà kiến là học theo tất cả những
lý luận, những
chủ nghĩa, những
đạo giáo sai lầm cho là
đời người không có nhân, có quả chi hết, cũng không có thiện báo,
ác báo chi cả.
Chúng sinh ở vào
thời đại có năm
tà kiến nầy sẽ làm cho họ
tối tăm mù quáng và đắm chìm vẫn đục nên gọi là đời Ki��n trược.
Phiền Não Trược là năm thứ
phiền não mà nó ngấm ngầm
sai khiến con người vì nó đã
ăn sâu vào trong
tiềm thức từ bao nhiêu đời bao nhiêu kiếp. Năm thứ
phiền não đó là:
a)
Tham lam: yêu thích,
ham muốn.
b)
Sân hận:
giận dữ,
thù hằn.
c)
Si mê: ngu dốt,
mê muội.
d) Mạn:
kiêu ngạo, khinh người,
trịch thượng.
e)
Nghi ngờ: không có
tín tâm chân thật.
Năm cái
Tâm Sở xấu xa nầy luôn luôn ngấm ngầm gây ra
phiền não,
rung động,
rối loạn và làm
vẩn đục cái
tâm tính yên tĩnh
trong sạch,
sáng suốt của
con người nên được gọi là đời
Phiền Não Trược.
Ø
Chúng Sinh Trược là cái
thân thể và cái
thế giới của
chúng ta ở đây do năm
Kiến Trược và năm
Phiền Não Trược cảm ứng mà
hiện ra ngũ uẩn hòa hợp với nhau. Nó rất
thô bỉ, tệ ác và giả tạm mà được gọi là
thân thể chúng ta.
Ø
Mạng Trược là phần nhân, phần quả đều kém cỏi, mạng sống quá ngắn ngủi cho dù là
trường thọ cũng chẳng
toàn vẹn một trăm năm cho nên gọi là đời
Mạng Trược.
3)
Diệt đế: chính là
Niết bàn.
4)
Đạo đế: có tất cả 37 phẩm
trợ đạo để giúp
chúng sinh đạt đến cứu cánh Niết bàn.
Vậy bốn loại
Tứ diệu đế là:
Sinh diệt Tứ diệu đế,
Vô sinh Tứ diệu đế,
Vô lượng Tứ diệu đế và
Vô tác Tứ diệu đế.
37 Sinh diệt Tứ diệu đế
Đây chính là
chân lý Tứ diệu đế mà
Đức Phật đã
thuyết giảng cho nhóm ông
Kiều Trần Như. Triết lý nầy lấy chữ “Khổ” làm đối tượng và
vô thường tức là thành, trụ, hoại, không là kết quả của nó.
Con người cũng như
vạn vật trong
thế gian nầy chẳng qua là nằm
trong vòng sinh diệt của
vô thường mà thôi. Loài
hữu tình thì bị
chi phối bởi sanh, lão, bệnh, tử còn loài vô tình thì cũng không
thoát khỏi định mệnh của sinh, trụ, di, diệt. Thật vậy, không có vật gì trên
thế gian nầy mà tự nó có thể sanh ra và
tồn tại được mà không nhờ sự trợ giúp của những
nhân duyên khác. Cho nên tất cả
vạn pháp trong
vũ trụ nầy đều là
vô ngã cả. Vì không có ngã nên tất cả
vạn pháp đều bị
chi phối bởi luật
vô thường tức là có sinh tất sẽ có diệt.
Con người vì thấy
hiện tượng sinh diệt hiển hiện trước mắt làm cho họ đâm ra lo sợ và
dĩ nhiên khổ đau cũng bắt đầu nẩy sinh từ đây.
Ngày xưa chúng ta mạnh khỏe tráng kiện bao nhiêu thì bây giờ già yếu,
bệnh hoạn bấy nhiêu. Tiền tài,
danh vọng mà
con người thành đạt bằng cách làm
ăn lương thiện hay bằng
thủ đoạn lưu manh thì họ có
đem theo được đâu? Nghèo cũng khổ mà giàu cũng chưa chắc đã
sung sướng gì. Sống trong một
xã hội càng
văn minh tân tiến thì càng có nhiều bệnh tật
hiểm nghèo, khó trị. Vì phải
đối diện với bao nhiêu
đau khổ của
cuộc đời như thế nên
tâm thức con người trở thành ô nhiễm và
bất tịnh.
Như thế
Sinh diệt Tứ diệu đế là
dựa trên bốn
căn bản là
vô ngã,
vô thường,
đau khổ và
bất tịnh. Cốt tủy của
chân lý Tứ diệu đế nầy là đoạn trừ Tham-Sân-Si
phiền não để tâm được
thanh tịnh mà chứng được
Niết bàn. Trong phần
đạo đế Đức Phật đã đưa ra 37 phẩm
trợ đạo để giúp
chúng sinh đạt được cứu cánh Niết bàn.
Niết bàn là
Liễu nhân chớ không phải là
Tác nhân có nghĩa là
Niết Bàn chính là
tự tánh thanh tịnh có sẵn trong mọi
chúng ta chớ không phải do
con người tạo ra. Khi tu theo
đạo đế tức là dùng 37 phẩm
trợ đạo để đánh tan
đám mây vô minh hắc ám làm cho
bản tâm thanh tịnh được bừng sáng thì
Niết bàn sẽ
hiển hiện tức thì. Đây chính là
Tạng giáo và là
giáo lý của
Tiểu thừa để
đạt được bốn hàng
thánh quả của
Thanh văn thừa là
Tu Đà Hoàn,
Tư Đà Hàm,
A Na Hàm và
A La Hán. Trong số tất cả những
đại đệ tử của
Đức Phật như
Xá Lợi Phất,
Mục Kiền Liên,
Đại Ca Diếp,
Phú Lâu Na,
A Nan,
A Na Luật…đều tu theo pháp
sinh diệt Tứ diệu đế nầy để
trở thành A La Hán.
38 Vô sinh Tứ diệu đế
Đây là bắt đầu của triết lý
đại thừa về
lý Không trong
thế gian vũ trụ nầy. Tất cả vật thể mà
ngũ quan nhận biết được chẳng qua đó chỉ là cái Tướng bên ngoài là
sinh diệt. Nhưng thật ra bên trong
tiềm ẩn cái Thể
bất sinh bất diệt tức là Không.
Tâm kinh dạy rằng Sắc tức là Không và Không tức là Sắc. Như thế thì Tướng và Thể là một tức là
bất nhị.
Trong
Vô sinh Tứ diệu đế thì không có
khổ đế vì khổ đau bây giờ
không thật bởi vì nếu
con người quay lại tìm trong họ thì làm gì có cái khổ. Không có khổ thì không có Tham-Sân-Si mạn nghi…vì trong
tự tánh chỉ có
bản nhiên thanh tịnh,
trong sáng mà thôi. Không có
khổ đế thì làm gì có
tập đế vì
tập đế cũng là
không thật.
Vì
thật tướng của
vạn pháp là
vô tướng cho nên trong
vô sanh tứ diệu đế thì
tự tánh vốn
an nhiên thanh tịnh tức là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh nên
Niết bàn không còn
cần thiết nữa. Không có
Niết bàn thì
Diệt đế cũng là không.
Nếu không có
Niết bàn thì
đạo đế cũng chẳng dùng vào đâu được bởi vì
nếu không có gì
ràng buộc thì cần gì phải tháo gở. Nói một cách khác
nếu không bệnh thì uống thuốc để làm gì?
Khi thấy nước thủy triều lượn sóng, làn sóng trước tan thì làn sóng sau nối tiếp
vô tận. Làn sóng có tan có hợp cũng như
cuộc đời sinh diệt nhưng thể nước có mất đi bao giờ? Vì thế nước muôn đời vẫn là nước,
không sinh không diệt.
Con người thì
cũng thế. Vì
nhân duyên hòa hợp nên
chúng ta sanh có nghĩa là
tứ đại hòa hợp với
không gian và
tâm thức thì có
con người. Khi
nhân duyên tan rã thì
lục đại phân ly. Đất, nước, gió, lửa về lại với
tứ đại.
Không gian trở về với
không gian vô tận và
tâm thức tan rã chỉ còn lại những
chủng tử của nghiệp được lưu lại mà thôi. Khi
nhân duyên kết thì
nghiệp lực dựa vào tiền duyên mà đưa đẩy những
chủng tử của nghiệp theo tinh trùng của người cha vào noãn bào của người mẹ mà tạo thành
con người mới. Tinh trùng của người cha chính là sự sống của hài nhi cộng với máu huyết của người mẹ và tất cả những
chủng tử của nghiệp để tạo
tác thành một
con người. Tất cả những
chủng tử của nghiệp sẽ là
động lực chính để tạo
thành hình dáng, tánh tình, nhân cách, sức khỏe…và
định đoạt sự
sung sướng cũng như khổ đau của hài nhi sau nầy.
Nên biết Phật dạy trong
Tâm kinh rằng
ngũ uẩn giai không có nghĩa là sắc, thọ, tưởng, hành, thức là không. Sắc là thân xác tức là
tứ đại sẽ về
trở lại với
tứ đại. Không có sắc thì thọ, tưởng, hành cũng tan rã. Sau cùng thức tức là
tâm thức cũng bị tan rã theo. Thế thì khi
con người chết tức là
ngũ uẩn tan rã thì làm gì còn cái linh hồn? Người
tu Phật phải thấu hiểu
đạo lý nầy vì đây là
chân lý tối thượng của
Phật giáo. Không hiểu tường tận thì
chắc chắn sẽ rơi vào
mê tín dị đoan làm
cuộc đời thêm
điên đảo. Chỉ có tất cả những
chủng tử của nghiệp là
tồn tại mãi mãi và đây chính là phần
thần thức duy nhất còn lại của
con người. Nói một cách khác dựa theo
luật nhân quả của nhà Phật thì tất cả những
chủng tử của nghiệp sẽ
quyết định về
cuộc đời mới của
chúng ta.
Thí dụ hiện nay ở Thái lan có loại sầu riêng cơm dày và rất thơm ngon. Nếu bây giờ
chúng ta sang Thái lan xin một hột giống đem về quận Cam để trồng. Quý vị có nghĩ rằng trái sầu riêng trồng ở quận Cam cũng thơm ngon như ở Thái lan?
Dĩ nhiên là không bằng. Tại sao? Cái hột giống sầu riêng của Thái lan mà nếu đem trồng tại Thái lan thì
chắc chắn mùi vị sẽ giống nhau. Nhưng hột giống sầu riêng nầy bây giờ
hấp thụ bởi biết bao
nhân duyên hoàn toàn khác biệt chẳng hạn như
thời tiết khác nhau, nước đất và phân bón khác nhau, cách trồng trọt cũng khác nhau…thì kết quả trái sầu riêng tại quận Cam làm sao giống như ở Thái lan được. Cái giống là sầu riêng thì cái trái cũng là sầu riêng nhưng
nhân duyên hoàn toàn không giống nhau nên kết quả là trái sầu riêng trồng tại quận Cam không thơm ngon bằng trái sầu riêng trồng tại Thái lan.
Nói một cách khác là hai trái sầu riêng nhìn
bề ngoài có thể giống nhau nhưng thật chất bên trong
hoàn toàn khác biệt.
Con người khi chết thì
ngũ uẩn tan rã chỉ còn lại những
chủng tử của nghiệp mà thôi. Khi hội đủ
nhân duyên thì những
chủng tử nầy sẽ đi
tái sinh để thành
con người mới. Như thế thì
con người mới là kết quả của những
nghiệp quả mà nó đã tạo tác trong
tiền kiếp cộng với tất cả những
nhân duyên mới để tạo thành nó. Những
nghiệp quả cũng như cái hột sầu riêng của Thái lan. Trái sầu riêng bây giờ đâu còn là trái sầu riêng ở Thái lan mà là trái sầu riêng ở quận Cam. Tất cả những
nghiệp quả trong
tiền kiếp hòa hợp với biết bao
nhân duyên mới để tạo thành
con người mới thì
dĩ nhiên con người cũ không còn nữa.
Vì thế không có chuyện
cầu an hay cầu siêu trong nhà Phật. Tệ hại hơn nữa là cúng sao giải hạn. Mình gieo nhân mà người khác giải được không? Trong
thế gian nầy có mấy người giỏi thần toán bằng Khổng
Minh Gia Cát Lượng của nhà Hán
ngày xưa, thế mà
chính vị quân sư nầy vì muốn sống thêm mười năm để
phục hồi nhà Hán nên cho đăng đàn cúng sao giải hạn mà có được đâu. Vì thế Khổng Minh mới có câu:”Mưu sự tại nhân
thành sự tại thiên”. Nếu Khổng Minh
am hiểu Phật pháp thì ông sẽ nói lại rằng:”Lượng sự do
tâm thành sự do nghiệp”. Cả
một đời người thì sống sô bồ
hổn độn đến khi chết thì mời
chư tăng đến
cầu an, cầu siêu. Trên đời làm gì có
đạo lý như vậy.
Ngày xưa chính
Đức Phật cũng phải khuyên bảo
gia đình quyến thuộc của Ngài
tu đạo để
được giải thoát,
nếu không thì nhân nào quả nấy mà thôi.
Nhắc lại khi vua
Lưu Ly của nước
Kiều Tất La đem quân
xâm lược để
tiêu diệt cung
thành Ca Tỳ La Vệ.
Đức Phật biết
sự báo ứng của
nhân quả và muốn cho nó tự
kết thúc nên để cho vua
Lưu Ly được đi. Chính
Đức Phật mà còn không siêu nổi cho thân bằng
quyến thuộc thì ai dám
đủ sức siêu cho kẻ khác? Nếu
Đức Phật có thể siêu thì chính Ngài đã siêu cho con của Ngài là
tôn giả La Hầu La. Nhưng tại sao
Đức Phật lại phải
chứng kiến cảnh tre phải khóc măng? Khi
thọ mạng hết và
nhân duyên tan rã thì
ngũ uẩn tan rã. Tất cả những
chủng tử của nghiệp hay cái mầm của nghiệp sẽ
quyết định cuộc đời mới của
chúng ta về sau.
Muốn có tương lai tươi sáng thì khi sống phải tạo nhiều
thiện nghiệp còn ngược lại thì tương lai tăm tối, khổ đau. Không một
tha nhân nào trên
thế gian nầy có thể cải đổi những
nghiệp quả của người khác được. Muốn siêu thì phải thấu hiểu
Phật pháp và sống đời
đạo hạnh tức là tạo nhân lành thì cái quả
dĩ nhiên là
viên mãn. Nếu
đạo Phật chỉ lo
cầu an, cầu siêu thì
Đức Phật cần gì phải khổ nhọc
thuyết giảng suốt 49 năm và truyền lại 12 bộ
đại tạng kinh để khai thị cho
chúng sinh thấy được
con đường để tự mình
giải thoát giác ngộ. Trong thời
Đức Phật còn
tại thế không hề có chuyện
cầu an cầu siêu thì ngày nay
dĩ nhiên cũng không cần theo cái
tệ đoan tiền mất tật còn nầy. Muốn
tu đạo viên mãn hay sống đời an vui
tự tại thì phải
loại bỏ tất cả những
mê lầm tà kiến nầy thì mới có thể
phục hồi chánh kiến để giúp
chúng ta đi
thong dong trên
con đường chánh đạo.
Khi
chúng ta nhìn vào
thật tướng của
vạn vật thì không có cái gì sanh hay cái gì mất cả chẳng qua chỉ là sự
biến đổi do
duyên khởi mà thôi.
Thí dụ như từ nước
chúng ta có thể làm nước chanh, nước đá hay đun nước sôi nhưng thể nước lúc nào cũng vậy, không
sanh không diệt. Vì
nhận biết thật tướng vạn pháp không
sanh diệt cho nên
vạn pháp là Thường. Vì biết
vạn pháp là Thường cho nên có chân Lạc. Vì biết
vạn pháp là Thường, là Lạc cho nên
vạn pháp có chơn Ngã. Sau cùng vì biết
vạn pháp là Thường, là Lạc, là Ngã cho nên
vạn pháp có chơn Tịnh.
Vô sinh Tứ diệu đế chính là
Thông giáo và cũng là
giáo lý phổ thông của
Bồ tát vì với
tuệ nhãn của
Bồ tát thì chẳng có thật sinh thật diệt cho nên
vạn pháp có Chơn Thường, Chơn Lạc, Chơn Ngã và Chơn Tịnh hay gọi tắt là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh.
Khi nhìn
vạn pháp có chơn thường, chơn lạc, chơn ngã, chơn tịnh thì
Niết Bàn tịch diệt còn dùng vào đâu mà cầu mong “chứng” với “đắc”.
Vô sanh tứ diệu đế là một
chân lý rất
phổ thông và dễ
áp dụng trong cuộc sống thường nhật. Đây chính là
tư tưởng nòng cốt trong
kinh Pháp Bảo Đàn của
Lục Tổ Huệ Năng. Vì
con người có
thói quen là sống với cái tâm
sanh diệt nên mới có khổ đau
phiền não. Càng lún sâu vào
vọng thức thì khổ đau càng nhiều. Nhưng
bản nhiên thanh tịnh thì lúc nào cũng có sẵn trong tất cả
con người có nghĩa là
tự tánh thanh tịnh thì không có khổ đau hay
phiền não chi cả vì thế nếu
chúng sinh quay về để sống với cái
tự tánh thanh tịnh nầy thì làm gì còn
hệ lụy khổ đau.
Thí dụ như khi chân
chúng ta bị đạp bùn nhơ thì sau khi rửa sạch
chúng ta gọi nó là sạch. Nhưng trước khi đạp bùn thì chân của
chúng ta sạch chớ đâu có dơ.
Nếu không dơ thì cần gì phải rửa. Khổ đau thì
cũng thế. Nếu sống với
tự tánh thanh tịnh thì đâu có
phiền não khổ đau. Không
phiền não khổ đau thì cần gì
Niết bàn. Vì thế khổ cũng không,
Niết bàn cũng không và đây mới thật là
vô sanh tứ diệu đế.
39 Vô lượng Tứ diệu đế
Khác với
vô sanh tứ diệu đế là cái
Khổ không thật nên
khổ đế và
tập đế đều
không thật. Còn
sinh diệt tứ diệu đế thì phải
đối diện với
tam khổ và
bát khổ. Ở đây
vô lượng tứ diệu đế thì có
vô lượng khổ đế có nghĩa là cái khổ bây giờ là
vô lượng chớ không
nhất thiết chỉ có
tam khổ hay
bát khổ mà thôi.
Khổ đế thì
vô lượng như thế thì
tập đế bây giờ không còn
giới hạn của
Kiến hoặc,
Tư hoặc và
Vô minh hoặc mà nó là
vô lượng vô cùng không biết bao nhiêu mà đếm. Đây chính là
Trần sa hoặc vậy.
Thông thường thì
Diệt đế có những loại
Niết bàn như tự tánh
thanh tịnh Niết bàn (là
Phật tánh, là
Chơn tâm),
hữu dư y Niết bàn (
Niết bàn chưa
hoàn toàn có nghĩa là chưa đoạn hết
phiền não tức là
chứng quả A Na Hàm),
vô dư y Niết bàn (
Niết bàn hoàn toàn tức là
chứng quả A La Hán) và
vô trụ xứ Niết bàn (
Niết bàn của các vị
Bồ tát). Nhưng
vô lượng diệt đế thì
Niết bàn bao
trùm khắp không gian vô tận và
thời gian vô cùng cho nên ở đâu và bất cứ lúc nào cũng đều có
Niết bàn cả.
Nếu
diệt đế mà
vô lượng như thế thì
đạo đế cũng
vô cùng vô lượng mà thôi.
Đạo đế bây giờ không những chỉ lấy 37 phẩm
trợ đạo làm nền tảng mà nhìn chung quanh
thế gian vũ trụ đâu đâu cũng có thể
học đạo được và ở đâu cũng có thể
hành đạo được.
Vậy
vô lượng tứ diệu đế là
Biệt giáo và là
giáo lý riêng của
Bồ tát hay còn gọi là Độc
Bồ tát tức là một
pháp môn đặc biệt dành riêng cho một bậc
Bồ tát. Khi tu theo
pháp môn nầy thì
Bồ tát cũng
thực hành 37 phẩm
trợ đạo của
Tứ diệu đế nhưng
Tứ diệu đế bây giờ có nhiều
vô lượng hình tướng khác nhau.
40 Vô tác Tứ diệu đế
Vô tác có nghĩa là
vô tác giả hay vô tạo tác.
Tất cả những cái khổ trên
thế gian nầy bắt đầu từ
tam khổ cho đến bát khổ đã làm cho cuộc sống của
con người trở thành thất điên
bát đảo thật ra
hoàn toàn không có ai là
tác giả cả.
Chúng ta biết sinh lão
bệnh khổ, cầu bất đắc khổ…nhưng đố ai
tìm ra được cái gốc của nó. Ngày nay khoa học có thể dùng thiên vọng kính để
tìm thấy những hành tinh cách xa mấy ngàn năm ánh sáng hay dùng những kính siêu hiển vi để
tìm thấy những con siêu
vi khuẩn. Thế mà
con người đành bó tay không cách nào dùng kính siêu hiển vi để
tìm thấy được cái gốc khổ của
con người. Vậy
vô tác tức là
vô ngã, có nghĩa là do
nhân duyên mà thành. Vì do
nhân duyên cho nên tất cả chỉ là
huyễn hóa như hoa đóm trên không.
Vô tác giả cũng có
ý nghĩa là không do ai làm nên cái đó hết. Như thế thì
Khổ đế,
Tập đế,
Diệt đế và
Đạo đế trong
vô tác tứ diệu đế là không có ai làm ra được nó. Đố ai
tìm ra được cái gốc của
bát khổ. Mặc dù không tìm được cái gốc của
khổ đế tức là cái khổ thì vô hình
vô tướng, thế mà
khổ đế vẫn cứ
tác động hoành hành làm
con người điêu đứng bao nhiêu đời, bao nhiêu kiếp.
Khi đã biết nó là huyễn ảnh trong tâm thì
con người phải
vứt bỏ nó đi thì cái gốc khổ sẽ không còn nữa.
Thí dụ như khi
chúng ta gánh rất nặng trên đôi vai.
Nặng nhọc là khổ. Bây giờ muốn hết khổ thì bỏ
gánh nặng xuống. Do đó tất cả đều do
con người chọn lựa. Nếu muốn
thanh nhàn thì quăng cái
gánh nặng xuống còn nếu
giữ khư khư gánh nặng nầy thì phải chịu
đau khổ dài dài. Đã biết nó là hư đóm trong
hư không mà mình làm cho nó có thật thì phải gánh chịu khổ đau.
Nói
tóm lại tam khổ,
bát khổ thật sự không có cho dù có
tìm kiếm cách mấy cũng không thấy nó. Vì thế nó không có
bản chất và cũng không có ai làm ra cho nên
khổ đế là
vô tác. Mà
khổ đế vô tác là quả còn
tập đế là nhân. Quả
vô tác thì nhân cũng
vô tác. Vậy
vô tác tứ diệu đế chính là
vô vi, là
thật tướng, là
vô tướng của
vạn pháp. Còn
sinh diệt tứ diệu đế là
hữu vi, là do
duyên sanh của
vạn pháp mà thành.
Về mặt
tự tánh thanh tịnh Niết bàn tức là
Diệt đế thì cũng không có ai làm ra nó cả. Vì không ai làm ra cái
Niết bàn nầy nên
Diệt đế là
vô tác.
Con người nếu diệt hết
ý niệm sinh diệt thì cái vui
tịch diệt hiện lên và đây chính là
Niết bàn.
Niết bàn nầy là tự nó có chớ không có ai làm ra nên được gọi là
vô tác. Ngược lại nếu chưa hết
phiền não khổ đau thì cho dù có trèo non lội suối cũng không có được
Niết bàn.
Diệt đế là
vô tác thì
Đạo đế cũng là
vô tác. Nói thế thì
đạo đế cũng không có cái gì để sanh ra thì
phương cách tu hành cũng không có. Nói một cách khác thì 37 phẩm
trợ đạo là những liều thuốc dùng để trị
bệnh khổ cho
chúng sinh. Nay
chúng sinh không có khổ thì thuốc đâu còn
cần thiết nữa hay
vô tác dụng.
Tự tánh thanh tịnh bản nhiên vốn
trong sáng thì cần gì phải lau chùi, chỉ cần biết
quay về để sống với cái
tự tánh nầy thì sẽ có
Niết bàn ngay.
Thêm nữa 37 phẩm
trợ đạo là dựa theo
hữu vi pháp còn
diệt đế Niết bàn vốn
thanh tịnh vô vi thì cần gì phải
tu luyện.
Vô tác tứ diệu đế là
Viên giáo tức là
giáo lý viên mãn hoàn toàn của
Bồ tát. Khi tu theo
vô tác tứ diệu đế thì
Bồ tát cũng dựa theo 37 phẩm
trợ đạo mà được gọi là phẩm
trợ đạo của
Viên giáo có nghĩa là
Vô Thượng Phật pháp. Khi
Bồ tát tu theo
pháp môn nầy sẽ thấy
Tứ diệu đế chỉ là huyễn ảnh trong tâm
Bồ đề chớ không phải do ai tạo tác ra nó.
Có người thắc mắc là tại sao
Đức Phật lại
nói nhiều tứ diệu đế như thế?
Nên nhớ rằng tất cả bốn
chân lý Tứ diệu đế ở trên là do
Đức Thế Tôn thuyết giảng trong suốt 49 năm
hoằng pháp của Ngài.
Phật pháp thì cao thâm vì thế
Đức Phật chỉ
thuyết giảng dần dần dựa theo khả năng thấu hiểu và thu nhập của
đệ tử mà thôi. Trong hai mươi năm đầu Phật chỉ nói về
tục đế tức là
pháp hữu vi và
Đức Phật đã dùng 22 năm sau đó để
thuyết giảng về
trí tuệ Bát nhã tức là
tính Không của
nhân sinh vũ trụ.
Trong hai mươi năm đầu kể từ khi
Đức Phật thành đạo thì Ngài chỉ
thuyết giảng về
sinh diệt tứ diệu đế. Đây là
chân lý căn bản dựa theo
pháp hữu vi tức là tất cả
vạn pháp trên
thế gian vũ trụ nầy mà
ngũ quan có thể
nhận biết được. Nhắc lại
Đức Phật không phải là
đấng sáng tạo ra
nhân sinh vũ trụ mà Ngài là bậc
khám phá ra
định luật sinh tồn của
nhân sinh vũ trụ đó là
con đường tùy thuận chân lý.
Tùy thuận theo
chân lý thì
con người sẽ sống rất an vui
tự tại vì tất cả
hiện sinh trong
vũ trụ nầy đều
sinh diệt vô thường vì chúng là
vô ngã. Ngược lại thì
con người sẽ sống trong
phiền não khổ đau cũng như một người lội ngược dòng sông. Vì thế triết lý nầy là sống trong
nhân thế mà không hề rời
nhân thế. Biết
thế gian là
phiền não khổ đau nên
Đức Phật dạy
con đường thoát khổ để
đạt đến cảnh
tịch diệt an vui
tự tại của
Niết bàn. Muốn
đạt đến cứu cánh nầy thì trong phần
tập đế có Tham-Sân-Si mạn, nghi…
chúng sinh chỉ cần cộng chữ Vô tức là Không vào thì
Niết bàn hiện ra.
Thí dụ chúng ta tham nên khổ bây giờ không tham thì sẽ hết khổ tức là
Niết bàn.
Ngày xưa có người chửi thì ta
nổi điên bây giờ nếu có người chửi mà ta không
nổi điên là có
Niết bàn. Lúc trước thấy vật đẹp cao sang là
đam mê thích thú bây giờ thì vật nào cũng vậy thôi nên không
đam mê thì có
Niết bàn.
Trong phần
đạo đế thì
Bát chánh đạo là
con đường mầu nhiệm để giúp
chúng sinh đoạn trừ mọi
phiền não mà
đạt được thánh quả.
Bát chánh đạo thì
gồm có chánh kiến,
chánh tư duy,
chánh ngữ,
chánh nghiệp,
chánh mạng,
chánh tinh tấn,
chánh niệm và
chánh định.
Bát chánh đạo tự nó không giúp
chúng sinh phát triển
trí tuệ mà chỉ
an định cho tâm mà thôi. Muốn phát triển
trí tuệ thì
chúng sinh phải
cố gắng tu theo
Lục độ. Đó là
bố thí,
trì giới,
nhẫn nhục,
tinh tấn,
thiền định và
trí tuệ. Chính cái
trí tuệ sau cùng nầy là ánh sáng của
chân lý và cũng là
con đường đi đến
giải thoát giác ngộ.