KINH TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG
ĐỐI CHIẾU & NHẬN ĐỊNH
THÍCH CHÚC PHÚ
Nhà xuất bản : Hồng Đức 2014
CHƯƠNG 3 ĐIỀU ÁC VÀ ĐIỀU THIỆN
1. CHÁNH VĂN 佛言. 眾生以十事為善. 亦以十事為惡. 身三. 口四. 意 三. 身三者. 殺. 盜. 婬. 口四者. 兩舌. 惡罵. 妄言. 綺語. 意三 者. 嫉. 恚. 癡. 不信三尊. 以邪為真. 優婆塞行五事. 不懈退. 至十事必得道也 . Dịch nghĩa Phật dạy:
Chúng sanh căn cứ vào mười điều để
trở thành thiện và cũng do mười điều để
trở thành ác. Thân có ba, miệng có bốn, ý có ba. Ba điều của thân gồm:
Sát sanh,
trộm cắp,
tà dâm. Bốn điều của miệng gồm: Nói hai chiều, nói thô ác,
nói dối, nói
thêu dệt. Ba điều của ý gồm:
Đố kỵ,
giận dữ và
si mê. Không tin
Tam bảo, lấy tà làm chánh.
Cư sĩ tại gia đối với
năm giới không
biếng nhác, không thối lui,
cho đến giữ được
mười điều lành, tất đạt đạo. Chú thích
Ngũ sự: Tức là
Ngũ giới (Theo Kinh
Phật thuyết Ương Quật Kế, số 119/ĐTKĐCTT). 49 Thập sự: Tức
mười giới (Theo Kinh Trường A-hàm Thập báo pháp, quyển hạ, số 013/ĐTKĐCTT).
2. ĐỐI CHIẾU 2.1. Tư liệu Hán tạng ĐTKĐCTT, tập 01, số 001, Kinh
Phật thuyết Trường A-hàm, quyển thứ 10, kinh
Tam Tụ. Hậu Tần, Hoằng Thỉ, Phật-đà Da-xá và
Trúc Phật Niệm dịch. … Lại có mười pháp dẫn đến
ác thú; mười pháp dẫn đến
thiện thú; mười pháp dẫn đến Niết-bàn. Thế nào là mười pháp dẫn đến ác thú? Mười
bất thiện: thân với giết, trộm,
tà dâm; khẩu với
nói dối, hai lưỡi,
ác khẩu,
thêu dệt; ý với
tham lam, tật đố,
tà kiến. Thế nào là mười pháp dẫn đến thiện thú? Mười
thiện hành: thân với không giết, không trộm, không
tà dâm; khẩu với không
nói dối, không hai lưỡi, không
ác khẩu, không
thêu dệt; ý với không
tham lam, không tật đố, không
tà kiến. Thế nào là mười pháp dẫn đến Niết-bàn? Mười
trực đạo:
chánh kiến,
chánh tư duy,
chánh ngữ,
chánh nghiệp,
chánh mạng,
chánh tinh tấn,
chánh niệm,
chánh định, chánh
giải thoát,
chánh trí. Này các Tỷ-kheo, mười
pháp như vậy đưa đến Niết-bàn. Đó là
Chánh pháp vi diệu gồm ba tụ. Ta, là
Như Lai, đã làm đầy đủ những điều cần làm cho
đệ tử, vì nghĩ đến các ngươi nên chỉ bày lối đi. Các ngươi cũng phải tự lo cho thân mình, hãy ở nơi
thanh vắng,
dưới gốc cây mà
tư duy, chớ lười biếng. Nay không
gắng sức, sau hối không ích gì. 50 Các Tỷ-kheo sau khi nghe những
lời Phật dạy,
hoan hỷ phụng hành. (Trường A-hàm, Tuệ Sỹ dịch và chú, NXB.Phương Đông, 2008, tr.403-404) 大正新脩大藏經第 01 冊 No. 0001, 佛說長阿含經卷第十, 三 聚經 後秦弘始年佛陀耶舍共竺佛念譯. …又有十法向惡趣. 十法向善趣.十法向涅槃. 云何十法向惡趣. 謂十不善. 身殺. 盜. 婬. 口兩舌. 惡罵. 妄言. 綺語. 意貪取. 嫉妬. 邪見. 云何十法向善趣. 謂十善行. 身不殺. 盜. 婬. 口不兩舌. 惡罵.妄言.綺 語. 意不貪取. 嫉妬. 邪見. 云何十法向涅槃. 謂十直道.正見. 正志. 正 語. 正業. 正命. 正方便. 正念. 正定. 正解脫. 正智. 諸比丘. 如是十法. 得至涅槃. 是名三聚微妙正法. 我為如來. 為眾弟子所應作者. 無不周 備. 憂念汝等. 故演經道. 汝等亦宜自憂其身. 當處閑居. 樹下思惟. 勿 為懈怠. 今不勉力. 後悔無益. 諸比丘聞佛所說. 歡喜奉行. ĐTKĐCTT, tập 3, số 0155, Kinh
Phật thuyết Bồ-tát bổn hạnh, quyển hạ. Không rõ người dịch, phụ vào dịch phẩm thời Đông Tấn.
Thực hành đầy đủ
mười điều thiện, thì sẽ được
sanh thiên, trụ xứ là cung điện làm bằng bảy thứ báu, các điều ước muốn
tự nhiên thành tựu. Không giết hại, không
trộm cắp, không (tà) dâm, không
dối trá, dứt hẳn rượu và không say sưa.
Năm giới này đầy đủ thì
trở lại trong
nhân gian, sanh vào nhà
trưởng giả, dòng tộc
quốc vương, được
tôn trọng, vinh danh phú quý và an vui không cùng. Những kẻ không có
lòng từ tàn hại
chúng sanh,
cưỡng bức, cướp đoạt,
trộm cắp tài vật của người trái đạo, dâm phạm vợ người,
buông lung dục tình, không biết
vừa đủ,
dối trá, nói lưỡi 51 hai chiều, nói lời thô ác,
mắng chửi tha nhân,
sân hận ganh ghét, bất hiếu với
cha mẹ, không tin
Tam bảo, bỏ chánh hướng tà. Làm những việc ác này thì khi chết bị đọa nơi
địa ngục. 大正新脩大藏經第 03 冊 No. 0155. 佛說菩薩本行經卷下 . 失譯 人名今附東晉錄. 行此十善具足無缺便得生天. 七寶宮殿所欲自然. 不殺不盜不 婬不欺絕酒不醉. 五事具足生於人中. 國王大姓長者之家. 尊榮豪貴 富樂無極. 無有慈心殘害眾生. 強劫人財盜竊非道. 婬犯他妻愛欲情 態無有厭足. 妄言兩舌. 惡口罵詈. 瞋恚嫉妬. 不孝父母. 不信三尊. 背正向邪.行此諸惡死入地獄.
2.2. Tư liệu Nikaya Kinh Tăng chi bộ, kinh Cunda, Người thợ rèn. Này Cunda, thân không
tịnh hạnh có ba, lời không
tịnh hạnh có bốn, ý không
tịnh hạnh có ba. Và này Cunda, thế nào là thân không
tịnh hạnh có ba? Ở đây, này Cunda, có người
sát sanh, hung bạo, tay lấm máu, tâm chuyên
sát hại, đả thương,
tâm không từ bi đối với
các loại hữu tình. Người ấy lấy của không cho, bất cứ tài vật gì của người khác, hoặc tại thôn làng, hoặc tại rừng núi, không cho người ấy. Người ấy lấy trộm tài vật ấy. Người ấy sống
tà hạnh đối với các dục,
tà hạnh với các hạng
nữ nhân có mẹ
che chở, có cha
che chở, có mẹ cha
che chở, có anh
che chở, có chị
che chở, có
bà con che chở, có pháp
che chở, đã có chồng, được hình phạt gậy gộc
bảo vệ,
cho đến những
nữ nhân được trang sức bằng
vòng hoa (đám cưới). Như vậy, này Cunda,
bất tịnh hạnh về thân có ba. Và này Cunda, thế nào là
bất tịnh hạnh về lời có bốn? 52 Ở đây, này Cunda, có người nói láo, đến chỗ tập hội, hay đến chỗ
chúng hội, hay đến giữa các
thân tộc, hay đến giữa các tổ hợp, hay đến giữa các vương tộc, khi bị dẫn xuất làm chứng và được hỏi: “Này người kia, hãy nói những gì ông biết”. Dầu cho vị ấy không biết, vị ấy nói: “Tôi biết”. Dầu cho vị ấy biết, vị ấy nói: “Tôi không biết”. Hay dầu cho vị ấy không thấy, vị ấy nói: “Tôi thấy”. Hay dầu cho vị ấy thấy, vị ấy nói: “Tôi không thấy”. Như vậy
lời nói của người ấy
trở thành cố ý nói láo, hoặc
nguyên nhân vì mình, hoặc
nguyên nhân vì người, hoặc
nguyên nhân vì một vài
quyền lợi gì. Và người ấy là người nói hai lưỡi, nghe điều gì ở chỗ này, đến chỗ kia nói, để sanh chia rẽ ở những người này; nghe điều gì ở chỗ kia, đi nói với những người này để sanh chia rẽ ở những người kia. Như vậy, vị ấy
ly gián những kẻ
hòa hợp, hay xúi giục những kẻ
ly gián,
ưa thích chia rẽ,
vui thích chia rẽ,
thích thú chia rẽ, nói những lời đưa đến chia rẽ. Và người ấy là người nói lời thô ác, bất cứ lời gì
thô bạo,
thô tục, khiến người
đau khổ, khiến người tức giận,
liên hệ đến
phẫn nộ, không đưa đến
Thiền định. Người ấy nói những lời như vậy. Và người ấy nói những lời
phù phiếm, nói
phi thời, nói những lời phi chơn, nói những lời không
lợi ích, nói những lời
phi pháp, nói những lời phi luật, nói những lời không đáng
gìn giữ. Vì nói
phi thời, nên
lời nói không có thuận lý, không có mạch lạc,
hệ thống, không có
lợi ích. Như vậy, này Cunda, không
tịnh hạnh về lời có bốn. Và này Cunda, thế nào là không
tịnh hạnh về ý có ba? Ở đây, này Cunda, có người có
tham ái,
tham lam tài vật kẻ khác, nghĩ rằng: “Ôi, mong rằng mọi tài vật của người khác
trở thành của mình!”. Có người có
sân tâm, khởi lên hại ý, hại niệm như sau: “Mong rằng những loài
hữu tình này
bị giết, hay 53 bị tàn sát, hay bị
tiêu diệt, hay bị tàn hại, hay mong chúng không còn tồn tại!”. Lại có người có
tà kiến, có
tưởng điên đảo, như: “Không có
bố thí, không có
cúng dường, không có tế lễ, các
hành vi thiện ác không có kết quả
dị thục, không có đời này, không có
đời sau, không có mẹ, không có cha, không có
các loại hóa sanh,
trong đời không có các Sa-môn, Bà-la-môn chân chánh
hành trì, chân chánh
thành tựu, sau khi tự tri,
tự chứng, lại
tuyên bố cho đời này và cho đời sau”. Như vậy, này Cunda, không
tịnh hạnh về ý có ba. Này Cunda, có
mười bất thiện nghiệp đạo này. Này Cunda, với ai
thành tựu mười bất thiện nghiệp đạo này, có thể dậy sớm và từ giường nếu vị ấy chạm đất, vị ấy vẫn
bất tịnh. Dầu cho vị ấy không chạm xuống đất, vị ấy vẫn
bất tịnh. Nếu vị ấy chạm phân bò ướt, vị ấy vẫn
bất tịnh. Nếu vị ấy không chạm phân bò ướt, vị ấy vẫn
bất tịnh. Nếu vị ấy chạm cỏ xanh, vị ấy vẫn
bất tịnh. Nếu vị ấy không chạm cỏ xanh, vị ấy vẫn
bất tịnh. Nếu vị ấy
cúng dường lửa, vị ấy vẫn
bất tịnh. Nếu vị ấy không
cúng dường lửa, vị ấy vẫn
bất tịnh. Nếu vị ấy
chắp tay đảnh lễ mặt trời, vị ấy vẫn
bất tịnh. Nếu vị ấy không
chắp tay đảnh lễ mặt trời, vị ấy vẫn
bất tịnh. Nếu vị ấy vào buổi chiều xuống nước lần thứ ba, vị ấy vẫn
bất tịnh. Vì sao? Này Cunda,
mười bất thiện nghiệp đạo này là
bất tịnh, không tạo ra tịnh. Này Cunda, do nhân
thành tựu mười bất thiện nghiệp đạo này,
địa ngục được trình bày,
bàng sanh được trình bày,
ngạ quỷ được trình bày hay là
ác thú khác được trình bày. Này Cunda,
tịnh hạnh về thân có ba,
tịnh hạnh về lời có bốn,
tịnh hạnh về ý có ba. Này Cunda, thế nào là
tịnh hạnh về thân có ba? Ở đây, này Cunda, có người đoạn tận
sát sanh,
từ bỏ sát 54 sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết
tàm quý, có
lòng từ, sống
thương xót đến
hạnh phúc tất cả
chúng sanh, và loài
hữu tình. Đoạn tận lấy của không cho,
từ bỏ lấy của không cho; bất cứ vật gì của người khác, hoặc tại thôn làng, hoặc tại rừng núi, không có cho người ấy, người ấy không lấy với
ý niệm trộm cắp. Đoạn tận
tà hạnh trong các dục,
từ bỏ tà hạnh trong các dục, không hành
tà hạnh với hạng
nữ nhân có mẹ
che chở, có cha
che chở, có anh
che chở, có chị
che chở, có
bà con che chở, có pháp
che chở, đã có chồng, được hình phạt gậy gộc
bảo vệ,
cho đến những
nữ nhân được trang sức bằng
vòng hoa (đám cưới). Như vậy, này Cunda,
tịnh hạnh về thân có ba. Và này Cunda, thế nào là
tịnh hạnh về lời có bốn? Ở đây, này Cunda có người đoạn tận nói láo,
từ bỏ nói láo, đến chỗ tập hội hay đến chỗ
chúng hội, hay đến giữa các
thân tộc, hay đến giữa các tổ hợp, hay đến giữa các vương tộc, khi bị dẫn xuất làm chứng và được hỏi: “Này người kia, hãy nói những gì người biết”.
Nếu không biết, người ấy nói: “Tôi không biết”. Nếu biết, người ấy nói: “Tôi biết”. Hay
nếu không thấy, người ấy nói: “Tôi không thấy”. Nếu thấy, người ấy nói: “Tôi thấy”. Như vậy
lời nói của người ấy không
trở thành cố ý vọng ngữ, hoặc
nguyên nhân vì mình, hoặc
nguyên nhân vì người, hoặc
nguyên nhân vì một vài
quyền lợi gì. Đoạn tận nói hai lưỡi,
từ bỏ nói hai lưỡi, nghe điều gì ở chỗ này, không đi đến chỗ kia nói, để sanh chia rẽ ở những người này; nghe điều gì ở chỗ kia, không đi nói với những người này, để sanh chia rẽ ở những người kia. Như vậy người ấy sống
hòa hợp những kẻ
ly gián,
tăng trưởng những kẻ hòa hiệp,
thích thú hòa hợp, nói những lời đưa đến
hòa hợp. Đoạn tận
lời nói độc ác,
từ bỏ lời nói độc ác, những
lời nói nhu hòa, êm tai,
dễ thương,
thông cảm đến tâm, tao nhã,
đẹp lòng 55 nhiều người, vui ý nhiều người, người ấy nói những lời như vậy. Đoạn tận
lời nói phù phiếm,
nói đúng thời, nói
chân thật, nói có
ý nghĩa, nói Pháp, nói Luật, nói những lời đáng được
gìn giữ. Vì nói hợp thời, nên
lời nói thuận lý, có mạch lạc,
hệ thống,
lợi ích. Như vậy, này Cunda,
tịnh hạnh về
lời nói có bốn. Và này Cunda, thế nào là
tịnh hạnh về ý có ba? Ở đây, này Cunda, có người không
tham ái, không
tham lam tài vật kẻ khác, không nghĩ rằng: “Ôi! Mong rằng mọi tài vật của người khác
trở thành của mình”. Không có
sân tâm, khởi lên hại ý, hại niệm, nhưng nghĩ rằng: “Mong rằng những loài
hữu tình này sống lo tự ngã, không thù hận, không
sân hận, không nhiễm loạn, được an lạc”. Có
chánh kiến, không có
tư tưởng điên đảo, nghĩ rằng: “Có
bố thí, có cúng thí, có tế lễ, các
hành vi thiện ác, có kết quả
dị thục, có đời này, có
đời sau, có mẹ, có cha, có
các loại hóa sanh,
trong đời có các Sa-môn, Bà-la-môn chân chánh
hành trì, chân chánh
thành tựu, sau khi tự tri,
tự chứng, lại
tuyên bố cho đời này và cho đời sau”. Như vậy, này Cunda,
tịnh hạnh về ý có ba. Này Cunda, có mười
thiện nghiệp đạo này. Này Cunda, ai
thành tựu mười
thiện nghiệp đạo này, nếu có dậy sớm và từ giường chạm đất, vị ấy vẫn
trong sạch. Nếu vị ấy không chạm xuống đất, vị ấy vẫn
trong sạch. Nếu vị ấy chạm phân bò ướt, vị ấy vẫn
trong sạch. Nếu vị ấy không chạm phân bò ướt, vị ấy vẫn
trong sạch. Nếu vị ấy chạm cỏ xanh, vị ấy vẫn
trong sạch. Nếu vị ấy không chạm cỏ xanh, vị ấy vẫn
trong sạch. Nếu vị ấy thờ lửa, vị ấy vẫn
trong sạch. Nếu vị ấy không thờ lửa, vị ấy vẫn
trong sạch. Nếu vị ấy
chắp tay đảnh lễ mặt trời, vị ấy vẫn
trong sạch. Nếu vị ấy không
chắp tay đảnh lễ mặt trời, vị ấy vẫn
trong sạch. 56 Nếu vào buổi chiều, vị ấy xuống nước lần thứ ba, vị ấy vẫn
trong sạch. Vì sao? Này Cunda, mười
thiện nghiệp đạo này là
trong sạch,
tác thành trong sạch. Do nhân
thành tựu mười
thiện nghiệp đạo này,
chư Thiên được
tuyên bố,
loài Người được
tuyên bố, hay bất cứ
thiện thú nào khác được
tuyên bố. Được nói vậy, Cunda,
con người thợ rèn thưa với
Thế Tôn: - Thật
vi diệu thay, bạch
Thế Tôn...! Mong
Thế Tôn nhận con làm
đệ tử cư sĩ, từ nay
cho đến mạng chung, con
trọn đời quy ngưỡng. (Kinh
Tăng chi bộ, tập 4, chương mười pháp, phẩm Janussoni, kinh Cunda, Người thợ rèn, Thích
Minh Châu dịch, Viện NCPHVN, 1996, tr.587-595)
3. NHẬN ĐỊNH Đây là một chương đề cập đến những chuẩn mực
đạo đức căn bản của người
cư sĩ.
Hoàn thiện năm giới,
mười điều thiện cùng những
trách nhiệm và bổn phận
tương ứng của người
cư sĩ trong các mối quan hệ
xã hội, là
phương cách sống có
ý nghĩa thiết thực, có thể tạo ra những kết quả
tối thắng ngay
trong đời sống này. Chương này dễ dàng bắt gặp trong nhiều
bản kinh tương đồng trong cả hai
hệ thống Hán tạng và Nikaya, điều đó cho thấy sự thống nhất về
pháp hành dành cho người
cư sĩ tại gia.