KINH TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG
ĐỐI CHIẾU & NHẬN ĐỊNH
THÍCH CHÚC PHÚ
Nhà xuất bản : Hồng Đức 2014
CHƯƠNG 1 QUẢ VỊ SA-MÔN
1. CHÁNH VĂN 佛言. 辭親出家為道. 名曰沙門. 常行二百五十戒. 為四真道. 行 進志清淨成阿羅漢. 阿羅漢者. 能飛行變化. 住壽命. 動天地. 次為阿 那含. 阿那含者. 壽終魂靈. 上十九天. 於彼得阿羅漢. 次為斯陀含. 斯 陀含者. 一上一還. 即得阿羅漢. 次為須陀洹. 須陀洹者. 七死七生. 便 得阿羅漢. 愛欲斷者. 譬如四支斷. 不復用之 Dịch nghĩa Phật dạy: Từ biệt
song thân xuất gia hành đạo, nên gọi là bậc Sa-môn, thường giữ 250 giới, hành theo
Tứ đế,
thanh tịnh tiến tu,
chứng quả A-la-hán. A-la-hán là bậc có thể
phi hành biến hóa, chủ động trong sinh mạng, có thể làm
chấn động trời đất. Kế đó là bậc A-na-hàm. Một vị A-na-hàm sau khi
mạng chung thì
nghiệp thức sanh lên tầng trời thứ mười chín, nương đó
tu tập sẽ
đắc quả A-la-hán. Kế nữa là bậc Tư-đà-hàm. Với bậc Tư-đà- hàm thì
trải qua một lần sanh tử sẽ
đắc quả A-la-hán. Kế nữa là Tu-đà-hoàn. Bậc Tu-đà-hoàn phải
trải qua bảy lần
sanh tử mới
chứng quả A-la-hán.
Ái dục đã đoạn như cắt rời
tứ chi, thì không còn liên lụy được nữa. 30 2.
2. ĐỐI CHIẾU
2.1. Tư liệu Hán tạng Không tìm thấy nguyên văn chương thứ nhất trong Hán tạng, mặc dù vậy các
ý tưởng liên quan vẫn được phát hiện trong nhiều kinh văn. Chẳng hạn, vấn để
xuất gia học đạo,
kinh Pháp cú thí dụ, quyển 3, ghi: Từ biệt
gia đình, cầu thầy
học đạo. (辭親離家求 師學道). Việc
thọ trì 250 giới của một vị Sa-môn được nhiều
kinh điển Hán tạng như kinh Trường A-hàm, quyển 9, kinh Tăng nhất A-hàm, quyển 44, kinh Tạp A-hàm, quyển 29, kinh Bát Nê-hoàn, quyển hạ,
luật Tứ phần, quyển 58… đề cập. Không những thế, có một
tác phẩm đặc thù gọi là Kinh Hai trăm năm mươi giới (二百五十戒經) được ghi lại trong các bộ
danh mục kinh điển nổi tiếng như:
Xuất Tam Tạng ký tập, quyển 4,
Lịch đại Tam bảo ký, quyển 14,
Chúng kinh mục lục, quyển 5,
Khai nguyên Thích giáo lục, quyển 18. Ở đây, với một vị Sa-môn, việc tuân giữ 250 giới có một
ý nghĩa vô cùng quan trọng. Đó cũng là điều được kinh
Phật Bát Nê-hoàn, quyển thượng, do Sa-môn
Bạch Pháp Tổ dịch vào thời Tây Tấn (265-317) khẳng định:
Giữ gìn đầy đủ 250 giới, sẽ
đắc đạo quả A-la-hán (持二百五十戒具以得阿羅漢道). Đã là một vị A-la-hán, thì sẽ có những
năng lực đặc biệt. Điều này, trong kinh
Phật thuyết A-hàm
chánh hạnh (佛說阿 含正行經)
cho biết: Một vị đã
đắc quả A-la-hán, nếu muốn thì có thể
phi hành biến hóa, trên thân ra nước dưới thân ra lửa, biến thân thật nhỏ hoặc đầy khắp
không gian, lìa khổ nơi
thế gian hay
an trú trong Niết-bàn đều được. (得 阿 羅 漢 者. 欲 飛 31 行 變 化 即 能. 身 中 出 水 火 即 能. 出 無 間 入 無 孔 亦 能. 離 世 間 苦 取 泥 洹 道 亦 能.) . ĐTKĐCTT, tập 2, số 099, Kinh Tạp A-hàm, quyển 29, kinh số 797. Tống,
Thiên Trúc,
Tam tạng Cầu-na Bạt-đà-la dịch. “Tôi nghe
như vầy: Một thời, Phật ở trong vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ
Đức Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo: - Có pháp Sa-môn và quả Sa-môn. Hãy lắng nghe và
suy nghĩ cho kỹ, Ta sẽ vì các ông mà nói: Những gì là pháp Sa-môn? Đó là
tám Thánh đạo, từ chánh kiến…
cho đến chánh định. Những gì là quả Sa-môn? Đó là quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm và quả A-la-hán. Thế nào là quả Tu-đà-hoàn? Đoạn trừ
ba kết. Thế nào là quả Tư-đà-hàm? Đoạn trừ
ba kết: tham, nhuế, si mỏng. Thế nào là quả A-na-hàm? Đoạn sạch hết năm hạ phần kết. Thế nào là quả A-la-hán? Đoạn trừ
vĩnh viễn tham, nhuế, si; đoạn trừ
vĩnh viễn tất cả các thứ phiền não”. Sau khi Phật nói kinh này xong, các Tỷ-kheo nghe những gì Phật đã dạy, đều
hoan hỷ phụng hành. (Tạp A-hàm, tập 2, Thích Đức Thắng dịch, kinh số 765, Sa-môn pháp
Sa-môn quả, NXB.Phương Đông, 2010, tr.492-493) 大正新脩大藏經第 02 冊 No. 0099. 雜阿含經卷第二十九, 七九 七. 宋天竺三藏求那跋陀羅譯. 如是我聞. 一時. 佛住舍衛國祇樹給孤獨園. 爾時. 世尊告諸比 丘.有沙門法及沙門果. 諦聽. 善思. 當為汝說. 何等為沙門法. 謂八 聖道. 正見. 乃至正定. 何等為沙門果. 謂須陀洹果. 斯陀含果. 阿那 32 含果. 阿羅漢果. 何等為須陀洹果. 謂三結斷. 何等為斯陀含果. 謂 三結斷.貪. 恚. 癡薄. 何等為阿那含果. 謂五下分結盡. 何等為阿羅 漢果. 謂貪. 恚. 癡永盡. 一切煩惱永盡. 佛說此經已. 諸比丘聞佛所 說. 歡喜奉行.
2.2. Tư liệu Nikaya Kinh Tăng chi, kinh Upali. Người
gia chủ, hay
con người gia chủ hay một người
tái sanh trong một
gia đình khác
nghe Pháp ấy, sau khi
nghe Pháp, vị ấy sanh
lòng tin vào
Như Lai. Vị ấy
thành tựu với
lòng tin ấy,
suy xét như sau: “Đời sống
gia đình đầy những
triền phược,
con đường đầy những bụi đời,
đời sống xuất gia phóng khoáng như
hư không. Thật rất khó cho một người sống ở
gia đình có thể sống theo
Phạm hạnh hoàn toàn viên mãn,
hoàn toàn thanh tịnh, trắng bạch như vỏ ốc. Vậy ta hãy cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa,
xuất gia,
từ bỏ gia đình,
sống không gia đình. Vị ấy
xuất gia như vậy,
thọ lãnh đầy đủ sự học tập và
nếp sống của các Tỷ-kheo. Sau khi đoạn tận
sát sanh, sống
từ bỏ sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết
tàm quý, có
lòng từ, sống
thương xót đến
hạnh phúc của tất cả
chúng sanh và loài
hữu tình. Sau khi đoạn tận lấy của không cho, vị ấy sống
từ bỏ lấy của không cho, chỉ lấy những vật đã cho, chỉ mong những vật đã cho, tự mình sống
thanh tịnh không có trộm cướp. Sau khi đoạn tận không
Phạm hạnh, vị ấy sống
Phạm hạnh, sống
đời sống viễn ly,
từ bỏ dâm dục hèn hạ. Sau khi đoạn tận nói láo, vị ấy sống
từ bỏ nói láo, nói lời chơn thật, nói lời
liên hệ đến
chân thật,
vững chắc đáng tin cậy, không lường gạt
lời hứa đối với đời. Sau khi đoạn tận nói hai lưỡi, vị ấy sống
từ bỏ nói hai lưỡi, nghe điều gì ở chỗ này, không đi nói đến chỗ kia để sanh chia rẽ ở những người kia; nghe điều gì ở chỗ kia, không đi nói đến chỗ này để sanh chia rẽ ở những người này. Như vậy, vị 33 ấy sống
kết hợp những kẻ bị chia rẽ,
tăng trưởng những kẻ đã
hòa hợp,
ưa thích hòa hợp,
thích thú hòa hợp,
hoan hỷ trong
hòa hợp. Sau khi đoạn tận
lời nói độc ác, vị ấy sống
từ bỏ lời nói độc ác; những
lời nói không
lỗi lầm, đẹp tai,
dễ thương,
thông cảm đến tâm, tao nhã,
đẹp lòng nhiều người,
thích ý nhiều người, vị ấy nói những lời như vậy. Sau khi đoạn tận nói lời
phù phiếm, vị ấy sống
từ bỏ nói lời
phù phiếm, nói lời đúng thời, nói lời
chân thật, nói lời có
ý nghĩa, nói lời về
Chánh pháp, nói lời về Luật, nói những lời đáng được
gìn giữ, những lời hợp thời thuận lý, có mạch lạc
hệ thống, có
ích lợi. Vị ấy sống
từ bỏ làm hại các hột giống và
các loại cây cỏ; dùng mỗi ngày một bữa,
từ bỏ ăn ban đêm,
từ bỏ ăn
phi thời;
từ bỏ đi xem múa, hát, nhạc, diễn kịch,
từ bỏ trang sức bằng
vòng hoa, hương liệu, dầu thoa và các thời trang,
từ bỏ dùng giường cao và giường lớn,
từ bỏ nhận vàng và bạc,
từ bỏ nhận các hạt sống,
từ bỏ nhận thịt sống,
từ bỏ nhận đàn bà, con gái;
từ bỏ nhận nô tỳ gái và trai;
từ bỏ nhận cừu và dê;
từ bỏ nhận
gia cầm và heo;
từ bỏ nhận voi, bò, ngựa và ngựa cái;
từ bỏ nhận ruộng nương đất đai;
từ bỏ việc phái người làm
môi giới, hoặc tự mình làm
môi giới,
từ bỏ buôn bán;
từ bỏ các sự
gian lận bằng cân, tiền bạc và đo lường;
từ bỏ các
tà hạnh, như hối lộ,
gian trá,
lừa đảo;
từ bỏ làm
thương tổn,
sát hại,
câu thúc, bức đoạt,
trộm cắp, cướp phá. Vị ấy, biết đủ, bằng lòng với tấm y để che thân, với đồ ăn
khất thực để nuôi bụng, đi đến chỗ nào cũng
mang theo. Cũng như con chim bay đến chỗ nào cũng
mang theo hai cánh; cũng vậy, vị ấy bằng lòng với tấm y để che thân, với đồ ăn
khất thực để nuôi bụng, đi đến chỗ nào cũng
mang theo. Vị ấy
thành tựu với
thành tựu giới uẩn này,
nội tâm cảm thọ sự
an lạc không có phạm lỗi. 6. Vị ấy, khi mắt thấy sắc, không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những
nguyên nhân gì, vì
nhãn căn không được
chế ngự, khiến
tham ái ưu bi, các ác
bất thiện 34 pháp khởi lên, vị ấy tự
chế ngự nguyên nhân ấy,
hộ trì nhãn căn,
thực hành sự
hộ trì nhãn căn. Khi tai nghe tiếng... mũi ngửi hương... lưỡi nếm vị... thân
cảm xúc... ý
nhận thức các pháp, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những
nguyên nhân gì
ý căn không được
chế ngự, khiến
tham ái,
ưu bi, các ác
bất thiện pháp khởi lên, vị ấy
chế ngự nguyên nhân ấy,
hộ trì ý căn,
thực hành sự
hộ trì ý căn. Vị ấy
thành tựu Thánh
hộ trì các căn này, nên hưởng
lạc thọ nội tâm, không có
xen lẫn. 7. Vị ấy khi đi tới, khi
đi lui đều
tỉnh giác; khi nhìn thẳng, khi nhìn quanh đều
tỉnh giác; khi co tay, khi duỗi tay đều
tỉnh giác; khi mang y kép,
bình bát,
thượng y đều
tỉnh giác; khi ăn, uống, nhai, nuốt đều
tỉnh giác; khi đi đại tiện,
tiểu tiện đều
tỉnh giác; khi đi, đứng, ngồi, nằm, thức, nói, yên lặng đều
tỉnh giác. Vị ấy
thành tựu với
Thánh giới uẩn này,
thành tựu với Thánh
hộ trì các căn này,
thành tựu với Thánh
chánh niệm tỉnh giác này, chọn
một trú xứ thanh vắng như rừng, gốc cây, khe đá, hang đá, bãi tha ma, khu rừng xa vắng,
ngoài trời, đống rơm. Vị ấy đi đến rừng hay đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, ngồi kiết-già, lưng thẳng và
an trú chánh niệm trước mặt. Vị ấy, sau khi đoạn tận
tham ái ở đời, sống với tâm
thoát ly tham ái,
gột rửa tâm khỏi
tham ái. Sau khi đoạn tận sân, vị ấy sống với
tâm không sân hận,
lòng từ mẫn
thương xót tất cả
chúng hữu tình,
gột rửa tâm hết
sân hận. Sau khi đoạn tận
hôn trầm thụy miên, sống với tâm
thoát ly hồn trầm
thụy miên, với
tâm tưởng hướng về ánh sáng,
chánh niệm tỉnh giác, vị ấy
gột rửa tâm hết
hôn trầm thụy miên. Sau khi đoạn tận
trạo hối, sống không
trạo hối, với
nội tâm trầm lặng, vị ấy
gột rửa hết tâm
trạo cử hối tiếc. Sau khi đoạn tận
nghi ngờ, vị ấy sống
thoát ly nghi ngờ, không phân vân lưỡng lự,
gột rửa tâm hết
nghi ngờ đối với
thiện pháp. 35 8. Vị ấy sau khi đoạn tận năm
triền cái này, những pháp làm uế
nhiễm tâm, làm hèn yếu
trí tuệ,
ly dục, ly các pháp
bất thiện, chứng đạt và
an trú Thiền thứ nhất, một
trạng thái hỷ lạc do
ly dục sanh, có tầm, có tứ. Vì sao, này Upàli, có phải sự
an trú này, sánh với các
an trú trước, được thù diệu hơn,
thù thắng hơn? - Thưa có vậy, bạch
Thế Tôn. - Này Upàli, các
đệ tử của Ta, thấy được Pháp này trong tự ngã, sống tại các rừng núi cao nguyên, các trú xứ xa vắng,
cho đến khi
mục đích của mình chưa đạt, thời họ vẫn trú (tại các chỗ ấy), (hay như
mục đích của mình chưa đạt, tức là định chưa đạt; thời không sống trong rừng núi cao nguyên tại các trú xứ xa vắng). 9. Lại nữa, này Upàli, Tỷ-kheo làm cho
tịnh chỉ tầm và tứ... chứng đạt và
an trú Thiền thứ hai. Thầy nghĩ thế nào, này Upàli, có phải sự
an trú này, sánh với những
an trú trước, được thù diệu hơn, được
thù thắng hơn? - Thưa có vậy, bạch
Thế Tôn. - Này Upàli, các
đệ tử của Ta, khi quán thấy Pháp này trên tự ngã, họ mới đến ở các rừng núi cao nguyên, các trú xứ xa vắng. Họ sẽ không trú nếu
mục đích của mình chưa
đạt được. 10. Lại nữa, này Upàli, Tỷ-kheo ly hỷ... chứng và trú Thiền thứ ba. Thầy nghĩ thế nào, này Upàli, có phải sự
an trú này, sánh với những
an trú trước, được thù diệu hơn, được
thù thắng hơn? - Thưa có vậy, bạch
Thế Tôn. - Này Upàli, các
đệ tử của Ta, khi quán thấy Pháp này trên tự ngã, họ mới đến ở các rừng núi, cao nguyên, các trú xứ xa vắng. Họ sẽ không trú nếu
mục đích của mình chưa
đạt được. 11. Lại nữa, này Upàli, Tỷ-kheo đoạn lạc... chứng đạt và
an trú Thiền thứ tư. Thầy nghĩ thế nào, này Upàli... chưa
đạt được...? ... 36 12. Lại nữa, này Upàli, Tỷ-kheo
vượt qua các sắc tưởng một cách
hoàn toàn,
chấm dứt các tưởng
đối ngại, không
tác ý đến các tưởng
sai biệt, nghĩ rằng: “Hư không là vô biên”, chứng đạt và
an trú Không vô biên xứ. Thầy nghĩ thế nào, này Upàli...? ...
mục đích của mình chưa
đạt được. 13. Lại nữa, này Upàli, Tỷ-kheo
vượt qua một cách
hoàn toàn Không vô biên xứ, nghĩ rằng: “Thức là vô biên”, chứng đạt và
an trú Thức vô biên xứ. Thầy nghĩ thế nào, này Upàli...? ...
mục đích của mình chưa
đạt được. Lại nữa, này Upàli, Tỷ-kheo
vượt qua một cách
hoàn toàn Thức vô biên xứ, nghĩ rằng: “Không có sở hữu”, chứng đạt và
an trú Vô sở hữu xứ. Thầy nghĩ thế nào, này Upàli...? ...
mục đích của mình chưa
đạt được. Lại nữa, này Upàli, Tỷ-kheo
vượt qua một cách
hoàn toàn Vô sở hữu xứ, nghĩ rằng: “Đây là
tịch tịnh, đây là thù diệu”, chứng đạt và
an trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Thầy nghĩ thế nào, này Upàli, có phải sự
an trú này, sánh với các
an trú trước, được thù diệu hơn, được
thù thắng hơn? - Thưa có vậy, bạch
Thế Tôn...
mục đích của mình chưa
đạt được. 14. Lại nữa, này Upàli, Tỷ-kheo sau khi
vượt qua một cách
hoàn toàn Phi tưởng phi phi tưởng xứ, chứng đạt và
an trú Diệt thọ tưởng định, vị ấy sau khi thấy với
trí tuệ, các
lậu hoặc được đoạn tận. Thầy nghĩ thế nào, này Upàli, có phải sự
an trú này, sánh với các
an trú trước, được thù diệu hơn, được
thù thắng hơn? - Thưa có vậy, bạch
Thế Tôn. - Này Upàli, các
đệ tử của Ta, sau khi quán thấy Pháp này trên tự ngã đã đến ở trong các rừng núi cao nguyên, tại 37 các trú xứ xa vắng, họ không trú nếu
mục đích của mình chưa
đạt được. Vậy này Upàli, Thầy hãy sống giữa
chúng Tăng. Sống giữa
chúng Tăng, Thầy sẽ được
an ổn. (Kinh
Tăng chi bộ, tập 4, chương 10 pháp, phẩm
Nam cư sĩ, kinh Upali, Thích
Minh Châu dịch, Viện NCPHVN, 1997, tr.518-526)
3. NHẬN ĐỊNH Đây là một chương
giới thiệu về lộ trình
xuất gia,
giữ giới,
học đạo,
tu đạo và
quả vị tu chứng của
đệ tử Phật. Không
tìm thấy nguyên bản của chương này trong
kinh điển Hán tạng và ngay cả hệ Nikaya, mà chỉ phát hiện những đoạn rời rạc trong nhiều
bản kinh. Trong chương này, có hai chữ đặc thù ghi dấu ấn của niên đại, đó là chữ Hồn Linh (魂靈). Chữ này cũng được
tìm thấy trong
Tam quốc chí, quyển hai, Ngụy thư, kỷ Văn Đế thứ hai (nguyên văn: 使魂靈萬載無危 ).
Hòa thượng Trí Quang giải thích Hồn Linh là phần
linh thiêng của hồn, cũng có nghĩa là
nghiệp thức. Đây cũng là chữ được
Chi Khiêm thường dùng trong các kinh như:
Phạm Ma Dụ,
Phật Thuyết Vị Sanh Oán,
Phật Thuyết Bát Sư. Chữ này cũng được
Khương Tăng Hội sử dụng trong Kinh
Lục độ tập, quyển 3; Duy-kỳ-nan trong
Kinh Pháp cú, quyển hạ;
Trúc Đại Lực và
Khang Mạnh Tường sử dụng trong Kinh
Tu hành bản khởi, quyển hạ;
An Thế Cao sử dụng trong Kinh Ấm trì nhập, quyển thượng. Như vậy, từ hai chữ này đã mở ra hướng
tư duy mới về
kinh Tứ thập nhị chương. Đó là, nhóm
tác giả cũng như những
tác phẩm vừa nêu, có sự
liên quan nhất định đến quá trình hình
thành kinh Tứ thập nhị chương.