LƯỢC GIẢI KINH HOA NGHIÊM
Tác giả: HT. Thích Trí Quảng
Nhà xuất bản Thành Phố HCM 2013
Chương IV.
Bồ Tát Đạo
Kinh Hoa Nghiêm được
phiên dịch ra chữ Hán có 3 bản :
Tứ thập Hoa Nghiêm gồm 40 quyển,
lục thập Hoa Nghiêm gồm 60 quyển và
bát thập Hoa Nghiêm gồm 80 quyển. Theo tôi, dù là bộ nào,
trọng tâm của
kinh Hoa Nghiêm vẫn ở 3 phần chính. Phần đầu là tánh khởi hay
Như Lai xuất hiện làm
chúng ta hình dung được
Đức Phật.
Đức Phật của
kinh Hoa Nghiêm không có mô hình cố định, nhưng đó là sức sống của muôn loài, muôn vật trong
vũ trụ, không có gì không phải là Phật.
Nghĩa lý này đã được
triển khai trong phần trước. Phần quan trọng thứ hai của
kinh Hoa Nghiêm nói về
Bồ tát đạo.
Kinh Hoa Nghiêm vẽ ra lộ trình
Bồ tát trải qua 52 chặng đường
tu chứng :
thập tín,
thập trụ,
thập hạnh,
thập hồi hướng, từng bước
tiến tu lên.
I - BỒ TÁT THẬP TÍNChặng đường thứ nhất của
Bồ tát đạo là
phát tâm hay
tín tâm.
Kinh Pháp Hoa gọi là căn lành, vì có căn lành mới tin được, người không có căn lành, dù
chúng ta nói gì, họ cũng không nghe. Từ căn lành khởi lên
tín tâm.
Thực tế cho thấy người tu được đều có một cái gì
man mác trong lòng, đó là căn lành.
Vì vậy, từ thuở nhỏ chưa thấy chùa bao giờ, nhưng sau gặp
giáo lý Phật, họ tự
phát tâm mạnh,
cảm thấy thân thương, gần gũi lạ thường.
Điều này
thể hiện rõ nét trong cuộc sống của người tu vì
phát bồ đề tâm, khác với người
bất hạnh đi tu, hay tu vì miếng ăn, vì
quyền lợi. Vì
bồ đề tâm đi tu, tức đã có trồng căn lành với Phật, họ sanh
tín tâm một cách
dũng mãnh, xả bỏ dễ dàng
tài sản,
thân mạng. Từ xưa
đến nay, người thật lòng
cầu đạo không hề nghĩ đến
ăn mặc, phải traùi hơn thua,
hiện tướng giải thoát thật
dễ thương. Họ luôn luôn nhường
quyền lợi cho người và
gánh vác việc
cực khổ, có thể vào rừng sâu hay lên núi cao
cầu đạo.
Đức Phật đắc đạo cũng vì
phát bồ đề tâm cầu đạo.
Chúng ta không thấy được điều này, nhưng khi Ngài
thành Phật rồi,
chúng ta mới biết.
Bản thân tôi cũng vậy, cái tôi cầu người
xung quanh không biết, nhưng
thành quả của tôi có thì người mới biết nhân lành tôi gieo trồng.
Vì vậy, người thành nên
đạo nghiệp đều phải có quá trình
hành đạo và việc
hành đạo này đều
tùy thuộc vào
bồ đề tâm; tất yếu họ phải có sự
hy sinh đánh đổi. Còn người khác thì là đà dưới mặt đất, kinh
ví như cỏ, chỉ caàu cơm ăn áo mặc,
suốt đời tu cũng ở trong
nhân gian. Cầu
Vô thượng bồ đề tu, mỗi ngày phải kết
thành quả khác.
Tại sao
chúng ta phát bồ đề tâm ?
Chắc chắn tín tâm sanh ra không
đơn giản. Phải gặp Phật, tức gặp được đấng trọn lành nương theo tu dễ lắm. Ta có căn lành rồi và gặp Phật là
phát tâm liền.
Nhưng ta chưa gặp Phật, mà
phát tâm bồ đề và gặp được
Thánh Tăng thì
cuộc đời cũng thay đổi. Gặp
Thánh Tăng, lòng
chúng ta an ổn liền, như
Huệ Khả cầu đạo khắp nơi, nghe nhiều cũng đã chán nản
mệt mỏi. Chỉ gặp Tổ
Bồ Đề Đạt Ma chưa nói gì, lòng Ngài đã an.
Có thể khẳng định muốn
phát bồ đề tâm phải gặp Phật hay
Bồ tát,
Thánh Tăng thì
hình ảnh thánh thiện của các Ngài bắt đầu đập vào tim óc ta, sẽ dẫn
chúng ta đi suốt
cuộc đời và nhiều
đời sau nữa trên đường
Thánh đạo.
Ý này được
kinh Hoa nghiêm diễn tả là
sơ phát tâm thủy
thành chánh giác, nghĩa là bắt đầu tưø đó,
chúng ta thành Phật, tức có một ông Phật trong tâm ta rồi và dùng
đức hạnh nuôi lớn tâm ta.
Mới vào đạo phải ăn chất
đề hồ, không thể ăn thứ khác. Nương được bậc
chân tu cao đức,
niềm tin chúng ta lớn dần. Traùi lại, gặp thầy tà, bạn ác,
bồ đề tâm chúng ta sẽ chết. Thật vậy, nếu thấy
bạn đồng tu đủ
thứ xấu ác, người lớn thì
mệt mỏi, bịnh hoạn,
chúng ta sẽ chán nản, bỏ cuộc.
Riêng tôi, nhìn thấy
xá lợi của
Hòa thượng Thiện Hoa, cảm nhận đó là kết tinh của những tháng ngày
quyết lòng phụng sự đạo mà tôi đã ký thác tình cảm với Ngài. Chính bậc thầy
đức hạnh ấy sẽ nuôi lớn
bồ đề tâm chúng ta. Không có vị
chân tu làm chứng tín, sao tu được, vì
phát tâm dễ, nhưng nuôi được tâm này mới khó.
Sống thọ, làm nhiều việc
lợi ích cho đạo, mãn duyên thì
an nhiên thị tịch.
Con đường tu của vị Thầy làm
biểu tượng cho
chúng ta theo là như vậy.
Phật
tại thế,
phát bồ đề tâm ở Phật,
Thánh Tăng dễ dàng, nên ở thời đó, nhiều người được
an lành,
đắc đạo.
Thời kỳ chúng ta không có Phật hay không có người
tiêu biểu cho
Pháp thân Phật, làm sao
chúng ta phát tâm được ?
Vì vậy, người phaùt tâm được ở đời này phải biết là nhờ căn lành lớn. Các bậc
chân tu đều
cho biết họ sống
bình thường như
mọi người, nhưng
tự nhiên có
ý thức tu hành,
nhàm chán thế gian. Có thể
nói nhiều đời trước
chúng ta đã tu và căn lành đời trước mới
tác động cho
chúng ta phát tâm bồ đề được.
Tìm được
thiện tri thức hay
Linh Sơn cốt nhục, dù họ không cùng quốc tịch với ta, ta vẫn cảm nhận họ là bạn
đồng hành. Ta và họ hiểu nhau, thân thương vơùi nhau,
tin tưởng,
kính trọng nhau một cách
kỳ diệu.
Linh sơn cốt nhục, tức bạn chơn linh, chơn tánh,
đồng ý nguyện cầu
vô thượng bồ đề như ta. Giữa ta và họ
tác động qua lại, giúp đỡ nhau. Điều này rất cần cho việc
hành đạo, thăng hoa
tri thức,
đạo đức; không hiểu nhau, chỉ làm bạn dắt nhau lên quả đường !
Từ chơn tánh
hiện thân đại sĩ,
Giữa
hồng trần chẳng nhiễm
bụi trần.
Từ chơn tánh
hiện lên cuộc đời, họ là
đại sĩ,
Bồ tát lớn, taát
nhiên không quan tâm đến tầm thường của
thế gian. Tuy sống trên
cuộc đời, nhưng họ thường trú ở
chơn tâm,
vượt qua hàng rào
thức uẩn, tức những
nghĩ tưởng lăng xăng mà kinh thường gọi là
tâm viên ý mã.
Kết bạn với những người như vậy,
chúng ta dễ
tiến tu.
Với
tín tâm phát xuất từ chơn tánh, gặp Phật ở chơn tánh và được
Phật gia bị, họ thường nghĩ đến Phật, trí tự sáng ra, tạo thành
thế giới quan, theo đó sống giữa cõi
hồng trần mà không bị
mọi người tác động quấy rầy. Thật vậy,
thâm nhập và
an trú trong
thế giới thanh tịnh tuyệt vời,
buông bỏ tất cả nhẹ nhàng, người có nói gì, làm gì họ cũng không
để tâm đến. Được an vui
hạnh phúc trong pháp maàu, thì
bước ra cuộc đời, gió bụi còn làm gì được họ, đó là
thế giới của
Hoa Nghiêm. Còn sống
bình thường ngày ba bữa, nghe chỗ có
tranh chấp thì vội chạy đến góp ý là
thế giới của
chúng sanh quay cuồng trong
sanh tử.
Tu đến đây,
niềm tin không lay chuyển, dù là
cư sĩ hay
tu sĩ, làm
mọi việc đều vì đạo. Hành
Bồ tát đạo theo
tinh thần Hoa Nghiêm, lấy
niềm tin làm chuẩn.
Đức Phật dạy
niềm tin là mẹ sanh ra tất cả
công đức lành. Đứng về mặt quan hệ giữa
con người với nhau trong đoàn thể, trong
xã hội, người mà không được ai tin,
chắc chắn không làm được gì. Đối với người Nhật, chữ tín rất quan trọng, người thất tín coi như bỏ đi. Tượng Tỳ
Lô Giá Na bằng đồng thật vĩ đại ở
Nhật Bản, do
Thánh Vũ thiên hoàng đề xướng đúc vào thế kỷ thứ 9, là
biểu thị của
niềm tin theo
tinh thần Hoa Nghiêm, lấy
lời Phật dạy làm
lẽ sống. Nhờ
niềm tin,
chúng ta mới
trở thành tốt, thăng hoa cuộc sống từ
địa vị phàm phu tiến đến
Phật quả.
Riêng tôi,
nếu không tin Phật
thì giờ này chẳng thể
tồn tại. Nhờ
niềm tin tuyệt đối mới dám
xả thân hành đạo,
vượt qua mọi gian nguy. Tôi thường nghĩ chỉ cần Phật biết và
chứng minh công đức, nên không sợ, không tiếc gì cả. Những người thiếu
đức tin thì khó có thể đi xa, gặp
cám dỗ,
đe dọa, họ thay đổi liền, tất nhiên luẩn quẩn trong
sanh tử, chỉ lấy khôn dại của
cuộc đời để lừa dối nhau.
Bước đường tu của
chúng ta trong giai đoạn
thập tín nhằm
xây dựng niềm tin mình cho
vững chắc ở
Tam bảo.
Phát tâm bồ đề và trụ
thập tín, làm sao gắn liền
niềm tin tuyệt đối với Phật,
sống chết với đạo và truyền
niềm tin vững mạnh ấy cho người.
Thiết nghĩ nếu
chúng ta chưa tin
trọn vẹn vào
giáo pháp Phật, làm sao
chúng ta có thể dạy người tin Phật. Tôi trầm mình sống trong
giáo nghĩa Đại thừa, tin
tuyệt đối, không gì có thể làm thay đổi; từ đó, từng bước sống với áo
nghĩa kinh.
Chúng ta thọ giới Đại thừa cũng thọ từ
niềm tin vững chắc.
Chúng ta tin chắc chắn
giới thể thanh tịnh. Người
thọ giới tướng, nhưng không tin
kiên định, một lúc họ
phá giới. Trái laïi, với
lòng tin kiên cố, dù ta phải gặp nhiều khó khăn, nhưng
dần dần phiền não cũng rơi rụng,
kết cuộc ta cũng là con Phật,
thủy chung với Phật. Không có
niềm tin vững chắc như vậy, dù có làm gì chăng nữa, chẳng qua chỉ là lừa dối nhau.
Ngoài ra, tôi thường
tâm niệm cuộc đời là quán trọ.
Tranh thủ làm việc tốt rồi về với Phật. Việc càng khó tôi càng
thích thú, tự nghĩ đó là
dịp may để
chứng tỏ tấm lòng của tôi đối với Phật.
Giả sử ta bỏ mạng nửa chừng, tất cả đều
chấm dứt, nhưng ta tin
anh linh trong sáng còn
tồn tại, sẽ đưa ta đến với Phật hoặc làm hành trang
tốt đẹp hơn cho kiếp
lai sanh.
Tin chắc như vậy, ta
nỗ lực hành
Bồ tát đạo để tâm hồn
trong sáng, càng làm tâm càng sáng.
Đi theo lộ trình
Hoa Nghiêm,
chúng ta tin Phật là
đấng giác ngộ hoàn toàn và tin
chúng ta sống theo
lời Phật dạy, cũng sẽ đạt
quả vị Phật như Ngài.
Ngoài ra,
chúng ta tin rằng nếu sống đúng
chánh pháp, thì
Như Lai sẽ khiến người tốt đến làm bạn
đồng học. Theo
Bồ tát đạo,
chúng ta không tu
một mình, phải có
Bồ tát quyến thuộc là những người tốt,
Bồ tát mười phương nhiếp trì, các Ngài cảm đức mà đến với
chúng ta.
Vì vậy,
chúng ta quyết tâm tu, không sợ
đơn độc, có
Bồ tát hộ niệm và
Hộ pháp long thiên che chở.
Đây là điểm khác biệt với chủ trương chỉ tin
tự lực,
kinh Hoa Nghiêm dạy
chúng ta đi tắt, ta chưa phát huệ, không phải là
Bích Chi Phật, chưa
thấu triệt tứ Thánh đế, không phải
A la hán, nhưng muốn
phát bồ đề tâm, tu
Bồ tát đạo, phải lấy
niềm tin làm chính, tin vào
tha lực. Ta không có
trí tuệ,
không quán được
sanh khởi, vận haønh của các pháp, nên
không giải quyết việc được.
Tuy nhiên, vì là việc của Phật, ta làm cho Phật, nên
trở thành dễ dàng. Nếu việc thực sự là của Phật thì
chư Tăng hoan hỷ,
Phật tử nhiệt tình đóng góp, còn việc
của riêng ta thì ta phải tự lo.
Thật vậy, theo
kinh nghiệm hành đạo của riêng tôi, các khóa
đào tạo giảng sư ở cả hai miền Nam, Bắc vừa qua
thành tựu viên mãn. Tôi tự nghĩ việc này
hoàn toàn vượt ngoài khả năng, nhưng tôi tin ở lực
Phật gia bị để tôi có thể
thừa hành công việc cho Ngài.
Cảm nhận như vậy, tôi làm trong niềm
thanh thản.
Mọi việc tổ chức, tiền bạc, giáo sư,
Tăng Ni học hành ... đều do Phật
quyết định,
thời tiết nhân duyên đeán thì
việc phải thành. Vì là việc của Phật, nên Ngài
tác động cho
đàn việt phát tâm hiến cúng, các vị tôn đức, những
nhà trí thức có học vị, cũng
phát tâm tham gia. Tôi không có gì, ngoài
niềm tin vững chắc nơi Phật.
Thiển nghĩ người tu
Đại thừa phải trụ
pháp Không, ta không có gì, ta phải thay Phật giữ
Như Lai tạng. Nói cách khác,
chúng ta làm tôi cho Phật, đừng khởi niệm tham, dù chỉ một đồng xu cũng thọ
quả báo. Tất cả đều của Phaät, ta đóng góp phần mình là hành
Bồ tát đạo.
Theo lộ trình
Hoa Nghiêm, hành
Bồ tát đạo mà không có
trí tuệ, không
đức hạnh và vượt ba
a tăng kỳ kiếp, nhưng làm được việc nhờ
phát tâm bồ đề, tin ở Phật. Phật không
gia bị,
chắc chắn không làm được gì.
Riêng tôi, không bằng ai,
xuất thân từ
tu sĩ nghèo, nhưng
Phật lực gia bị tạo
thắng duyên cho tôi làm đạo. Chưa chứng
Duyên giác quả, mà
thành tựu việc, nhờ
Phật huệ soi sáng, tự nhieân ứng xử đúng trong từng tình huống khác nhau. Qua những
chứng nghiệm tự thân ấy, tôi càng tin vững ở sự
liên hệ chặt chẽ giữa ta và Phật, các Ngài
hộ niệm cho ta và
Bồ tát mười phương giúp đỡ, cũng như
Hộ pháp thiện thần hộ trì cho người
truyền bá chánh pháp sau khi
Phật diệt độ.
Hành đạo với
niềm tin sâu sắc ấy,
trải qua tất cả
thử thách của
cuộc đời,
tiêu biểu bằng con số 10, 10 lần
chúng ta vượt khó, để khẳng định
niềm tin kiên cố của
chúng ta trên đường
tiến tu Bồ tát đạo, gọi là
thập tín.
II - BỒ TÁT THẬP TRỤ
Sau khi
xây dựng được
niềm tin kiên cố của
thập tín, đến giai đoạn hai là
thập trụ gồm có 10 cấp bậc khác nhau, từ thấp lên cao.
1- SƠ PHÁT TÂM TRỤBậc thứ nhất của
Bồ tát thập trụ là
sơ phát tâm trụ, tức
quyết lòng hướng đến
Vô thượng đẳng giác. Đường đi đến
Vô thượng đẳng giác gai góc, nhưng phải hướng tâm mạnh ở đó, trụ vững không thay đổi. Các vị
Tổ sư thường nhắc
chúng ta giữ tâm
ban đầu là tâm này. Dù
hoàn cảnh thế nào,
chúng ta vẫn trụ
vững chắc ở
bồ đề tâm.
Thuở mới tu, tôi vô chùa thấy
thực tế cuộc sống không giống như người ta đồn.
Thần thông biến hóa đâu không thấy, chỉ thấy toàn là
cực khổ, 3 giờ khuya phải thức,
ăn uống đạm bạc, làm việc thật nhiều. Trên bước đường tu,
vượt qua thử thách lớn này,
chúng ta mới được bất tư nghì khác.
2- NHỊ ĐỊA TRỤ
Trước kia, ta chưa
phát tâm bồ đề, ăn miếng
trả miếng. Nay tu theo
Hoa Nghiêm, lập hạnh
Bồ tát, tiến sang bước thứ hai, ta
khởi tâm thương xót chúng sanh, không giận, kể cả người gây khó khăn, hại ta. Không
khởi tâm thương
chúng sanh mà cầu
bồ đề là đọa
địa ngục.
Chúng sanh gây khó khăn, ta coi họ là người ơn, đó là trụ vững ở địa thứ nhì, oán nó thì không tu được. Tôi làm đạo,
bước đầu thấy người gây khó khăn cũng giận, muốn đánh trả. Nhưng
nhận ra ý Phật dạy, tập thay đổi lần, nghĩ rằng nhờ họ không làm, ta có
việc làm. Nhờ họ chống phá, ta
nổi tiếng.
Hòa thượng Thiện Hoa dạy tôi rằng nhờ có người dữ, người lành mới nên. Không có thử thaùch, ta dễ
trở thành tăng thượng mạn, được tâng bốc, ta mau rớt xuống chín tầng
địa ngục.
Ở hiền vị thứ nhất, giai đoạn một,
chúng ta hướng về
Vô thượng bồ đề. Bước sang giai đoạn hai, thương người đánh phá ta, tức hướng
tình thương đến
chúng sanh.
3- TU HÀNH TRỤ
Những gì Phật dạy trong
kinh điển phải gắn liền vào đời ta, rời bỏ pháp Phật,
chắc chắn rớt vào
ma sự. Trên
tinh thần đó,
chúng ta phải luôn an trụ
tam giải thoát môn, nghĩa là làm gì cũng được, nhưng đừng đánh mất áo tu,
bản chất thầy tu,
nhất định ở trong
cửa giải thoát là
Không môn, không phải
phiền não môn.
Hoàn cảnh xã hội thế nào cũng không
tác động cho ta
phiền não.
Đầu tiên học
giáo lý, nhưng không bị
vướng mắc giáo lý. Học
Phật pháp để
chúng ta thâm nhập Không môn hay
Thiền môn, sống với
chơn tâm, không sanh
vọng tâm tham đắm.
Cần phải trụ tâm vì tự biết ở trong
sanh tử,
phiền não đảo điên luôn bao vây làm khổ
chúng ta. Có lúc
niềm tin chúng ta vững vàng,
kiên cố, nhưng cũng có lúc
cảm giác mình
lao đao trong bể khổ.
Ở giai đoạn
thập trụ, dù sóng bủa ba đào thế nào, cũng cố nâng tâm mình lên, trụ
pháp Không; nghĩa là, vượt ngoài
ngũ uẩn : sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Quan trọng là
hành uẩn và
thức uẩn, hai uẩn này thường đua nhau
hành hạ chúng ta.
Thức uẩn cho
chúng ta suy nghĩ,
phân biệt, tính toán, nhưng
hiểu biết ấy thường thúc bách
chúng ta,
phiền não nhân đây nổi dậy
liên tục. Trên bước đường tu tôi hay
cân nhắc điều này, Tống Nhân Tông gọi là ba trù lãng khởi, tức sóng to, gió lớn trên
cuộc đời luôn dồi dập
tâm thức chúng ta.
Hành uẩn là
âm mưu chống đối do thức
chỉ đạo. Biết và hành trong tâm luôn gây nhức nhối cho ta.
Khi nào vượt trên
thức uẩn,
hành uẩn,
chúng ta không
hiểu biết và
đối phó theo kiểu người đời. Thả nổi thì mới đằng Không được. Ba trù lãng khởi như vậy, nhưng
chúng ta nổi
lên mặt nước thì không bao giờ bị vở thuyền.
Chống lại sức nước thì phải vở thuyền, nhưng chịu xuôi theo dòng thì nước cuốn trôi, đưa vào biển khổ. Phải nâng mình trên ngọn soùng
thức uẩn và
hành uẩn.
Chúng ta có
ngũ uẩn, biết tất cả, nhưng không
sử dụng khôn dại của người đời. Khi bị đẩy, kéo, người khác không vững tâm nên vở thuyền,
hoàn tục, trôi mất; trong khi ta nhờ
trụ tâm, tin vững neân trụ vững, mới
tồn tại và thăng hoa được.
Trụ tâm vững trong
Phật pháp, nhưng sống trong
cuộc đời làm
mọi việc là
tùy duyên; đó là
tâm niệm của người
đi theo lộ trình
Hoa Nghiêm :
Tùy thuận thế duyên vô
quái ngạiNiết bàn sanh tử đẳng
không hoa.
Ngược lại,
chúng ta cố chấp một điều gì, sẽ bị
cuộc đời đập chết liền. Thật vậy :
Diệt trừ phiền não trùng Tăng bịnh
Xu hướng chân như tổng thị tà.
nghĩa là lo
diệt trừ phieàn não, nhưng không hết là bệnh của thầy tu. Càng diệt, nó càng nổi dậy.
Tuy nhiên, không diệt nó, mà hướng về
chân như, không
dính líu gì đến
cuộc đời, thì cũng rớt
vô không tưởng.
Vì vậy,
cần phải theo
lập trường "Tùy
thuận thế duyên vô quái ngại", gặp công nhân,
nông dân,
trí thức,
học sinh ..., ta đứng ở
vị trí của họ mà nói chuyện,
cảm thông.
Tinh thần này cũng được
tiêu biểu trong kinh
Duy Ma.
Duy Ma là tâm trống không, nhưng đối với
cuộc đời, không có việc tốt nào mà không có Ngài
tham dự.
Trên đường hành đạo, tôi cảm nhận sâu sắc
ý nghĩa này. Tôi
tồn tại đến ngày nay nhờ
tham gia tất cả
phong trào, từ công tác
từ thiện của quận
cho đến thành phố hoặc
sinh hoạt với Viện khoa học
xã hội, không từ chối việc gì, nhưng tôi vẫn là tôi.
Tất cả
mọi việc đối với tôi đều
tùy duyên, chỉ là
hoa đốm trong
hư không, còn cái thật bên trong, ai biết được tôi là gì, chỉ có Phật biết. Khi trụ được tâm, ta làm việc
cảm thấy thú vị lạ. Người không biết được ta, nghĩa là không biết tâm trụ pháp của ta. Các
Bồ tát trụ tâm, sống với tâm, họ hiểu nhau dễ dàng, ở gần nhau thì
thanh tịnh hoà hợp, cách
xa nhau thì vẫn
cảm thông,
hộ niệm cho nhau.
Thiết nghĩ trụ trong pháp Phật với
niềm tin kiên định sẽ cảm nhận những
điều kỳ diệu, khó
giải thích được cho người ngoài cuộc hiểu. Đó là
pháp giới của
Hoa Nghiêm, bước chân vào rồi, thật
thú vị vô cùng, không gì có thể đánh đổi được.
Ý này được
kinh Hoa nghiêm diễn tả là Phật thăng
Tu Di đảnh sơn, ở cung
trời Đao Lợi, ngồi trong
Diệu Pháp đường nói về sự
phát tâm của
Bồ tát và sự
an lành của các Ngài trên bước đường
hành đạo.
Tôi
quan sát thấy rõ ý của Phật dạy.
Quả thật cuộc đời đầy
sóng gió, nhưng các bậc
cao Tăng lướt
sóng gió, cứu
chúng sanh không chút nhọc nhằn và các Ngài cũng
hoàn toàn an ổn, không bị
cuộc đời quấy rầy.
Còn đối với
chúng ta,
hành đạo thật
vất vả, nhưng
thành quả chẳng được là bao. Thậm chí có người vừa hành
Bồ tát đạo vừa giận, vừa khóc. Nếu làm một cách khổ cực, nhưng chỉ chuốc lấy
quả báo không tốt dồn dập đến, phải tự biết thực sự
chúng ta phá pháp, mà lầm tưởng là mình lo cho đạo.
Thăng
Tu Di đảnh sơn, nghĩa là Phật dạy
chúng ta vượt qua ngũ ấm thân,
vui buồn vinh nhục của
cuộc đời đối với
chúng ta vô nghĩa, mới bước vào nhà
thậm thâm vi diệu,
thiên ma không vô được, thì
chắc chắn người đời còn cách xa.
Đến đây, mở cánh cửa cho
Bồ tát tu hành, theo đó thân
thọ hình có khổ đau, nhưng
tâm không đau khổ.
Sớm muộn gì thì ai cũng phải già, bệnh, chết, nhưng bằng mọi cách
chúng ta không để cho tâm bị
chi phối.
Dùng
tâm thức thăng
Tu Di đảnh sơn và
thâm nhập Diệu Pháp đường nghe
Phật thuyết pháp. Phật là
Phật huệ và pháp là
pháp âm hiện bày trong
tam thế gian, tức bài pháp sống.
Lúc ấy,
chúng ta không lập
y lời Phật, nhưng dùng
trí tuệ quán sát sự sống của người, vật, thấy rõ tình cảm,
phước báo,
nghiệp chướng của
chúng sanh và ta
tùy theo đó mà nói pháp
tương ưng. Đó mới thực sự là
chân thật pháp.
Theo
Đại thừa, hành
Bồ tát đạo, mỗi người làm một việc khác nhau, công việc ở mỗi nơi cũng khác nhau, có bao nhiêu công tác thì có bấy nhiêu
Bồ tát xuất hiện giúp cho
Phật pháp tồn tại. Việc
tu hành của
chúng ta là làm thế nào đúng thời, đúng chỗ, đúng người, đúng việc thì mới
thành công.
Vào
Diệu Pháp đường,
nghe pháp âm do
Phật huệ thuyết, thấy được tương quan, tương duyên
tồn tại của
con người và muôn loài.
Ý thức như vậy,
chúng ta giúp nhau thăng hoa, tạo thành thế
hỗ tương sinh tồn, khác với
cạnh tranh sinh tồn giết hại nhau để sống. Tất cả nương nhau cùng phát triển,
cho đến cỏ cây hoa lá cũng
trang nghiêm làm đẹp
cuộc đời. Tu theo
Hoa Nghiêm, nhìn thấy cái đẹp của muôn loài, cái
đáng kính trọng của
mọi người,
chúng ta dễ sanh tâm
hoan hỷ.
Lên
Tu Di đảnh sơn,
thâm nhập Diệu Pháp đường, Phaät mới dạy pháp
thập trụ.
Chắc chắn Phật không ngồi dạy như
chúng ta, nhưng có thể hiểu sống trong
Diệu pháp đường rồi,
niềm tin chúng ta vững chắc, khác với sự
tin tưởng của người
bình thường.
Vì vậy, dù
hoàn cảnh khó khăn thế nào, tâm ta vẫn an trụ
Phật pháp.
Chúng ta tự kiểm xem có trụ pháp, vui với pháp hay không ? Nếu sống được với pháp Phật,
chúng ta quan sát trần thế thấy tất cả đều mang an vui cho chính ta. Không
trụ tâm trong
Phật pháp mà hành
Bồ tát đạo thì
mọi việc đều
trở thành ma sự, phải thọ
quả báo.
Trên bước đường tu, nhiều người tốt, nhưng vì tâm chưa an trụ pháp
Đại thừa, hành
Bồ tát đạo gặp chống phá, tâm họ cũng thay đổi theo, buồn vui,
sân hận và đọa. Thật vậy, kết quả
tu hành theo kinh ghi thì quá lớn, nhưng vì
chúng ta không trụ pháp
Đại thừa, nên Phật không
hộ niệm,
Bồ tát không
gia bị và
chư Thiên không
bảo vệ, dẫn đến
thực tế không được
lợi lạc gì, khiến cho
niềm tin sụp đổ, rớt xuống cuộc sống tầm thường
vô nghĩa,
cuối cùng chán nản cũng bỏ tu.
Theo
kinh nghiệm hành đạo của riêng tôi, trụ
vững chắc pháp
Đại thừa, hành
Bồ tát đạo thì phải có những điều bất tư nghì đến với
chúng ta.
Trước tiên, gặp
hoàn cảnh khó khăn dùng trí
bình thường không giải quyết được; dùng
trực giác, không theo
suy nghĩ, không theo sách vở, lại dễ dàng
thành công. Đó là
vô sư trí,
tự nhiên trí hay
Phật lực gia bị cho ta có
nhận thức sáng suốt,
quyết định đúng,
hy sinh cao và đạt kết quả
tốt đẹp, có bạn tốt đến
hợp tác, giúp đỡ ta. Ở chỗ hiểm nguy,
chúng ta vẫn
an lành, nhờ có
Hộ pháp che chở trong vô hình vaø trên
thực tế được người có
quyền thế, thậm chí người đối nghịch cũng giúp ta
thoát nạn.
4- SANH QUÝ TRỤ
Vì an trụ
Không môn, huệ bắt đầu sanh, thấy được
sự thật của
cuộc đời, tức thấy được
nhân duyên sở
sanh pháp. Pháp này khi tu
nhị thừa, thuộc về
Duyên giác thừa.Ta trụ được trong pháp Phật, không cần
để ý bên ngoài, sự vật không để trong lòng, nhưng từng bước thấy biết sáng hơn, việc
tốt đẹp tự động tìm đến ta,
thể hiện tinh thần chơn không
diệu hữu.
5- PHƯƠNG TIỆN CỤ TÚC TRỤ
Tất cả
Phật sự tự nhiên thành tựu,
giả sử cần chùa, cần
đệ tử, thì những thứ này có đủ. Không cần thì không có, không gì vướng bận tâm, ta vẫn an trụ
pháp Không.
Mọi việc đều là
phương tiện hành đạo, chúng tự thành, không cần
giữ gìn,
quản lý, vẫn không mất mát, hư hao.
Vua Tống Nhân Tông
ca ngợi việc làm của thầy tu
hoàn toàn thanh thản,
tốt đẹp tự nhiên, không trái ý : Bang bang
như ý,
chủng chủng hiện thành.
6- CHÁNH TÂM TRỤ
Trên bước đường tu, đương nhiên có
ác ma song hành với
chúng ta,
tác động của chúng không bao giờ
chấm dứt.
Tuy nhiên,
vượt qua được
thử thách này, chứng được chánh tâm trụ thì mặc tình cho
ngoại đạo nói đủ điều,
chúng ta càng vững tâm ở
Phật đạo hơn nữa.
Trái lại, không
thành tựu pháp này, nghe người khuyên lơn một lúc, ta sẽ thay đổi theo họ.
Có chánh tâm trụ, ta thấy đó là nhờ
ngoại đạo bày vẽ đủ thứ, từ trong rừng rậm
tà kiến ấy mà ta nhận chân được
chánh đạo.
7- BẤT THỐI TRỤ
Ở các giai đoạn trước,
Bồ tát phát triển được tự thân là nhờ
Phật lực,
Bồ tát lực
gia bị. Nay,
đạt đến vị trí bất thối, có Phật hay không, vẫn tu,
Bồ tát đã chuyển sang phần
tự lực đứng vững. Không thầy cũng tu, không bổn đạo cũng vẫn
trang nghiêm, tuy ở nơi vắng vẻ
một mình, nhưng vẫn đầy đủ
oai nghi.
Đức hạnh thể hiện trong cuoäc sống của
Bồ tát, không phải
giả dối, có người nhìn thấy mới
trang nghiêm.
8- ĐỒNG CHƠN TRỤ
Nhờ đạt
bất thối trụ, có được pháp thứ 8 là sống
thanh thản nhẹ nhàng, nhưng
đức hạnh của
Bồ tát không ai
sánh bằng. Thật vậy, vì đồng chơn trụ,
mọi việc làm phát xuất từ chơn tánh
thanh tịnh, không giữ lời, giữ ý mà
lời nói và
ý tứ vẫn
thanh tịnh,
tác động cho người an vui.
Mọi
sinh hoạt trong cuộc sống của
Bồ tát như
ăn uống, ngủ nghỉ, nói năng, đi đứng đều toát lên sự thanh cao, ai thấy cũng
kính trọng. Nói cho
dễ hiểu, từ trong lòng
Bồ tát hoàn toàn trong sạch, nên
hiện ra bên ngoài việc gì cũng tốt. Khác với người làm bộ,
giữ gìn bề ngoài, nhưng trong
tâm không thanh tịnh, chỉ có thể đè nén xấu dở lúc
bình thường, đến lúc ngủ, thì nó tự động
bung ra, không giữ được.
9- PHÁP VƯƠNG TỬ TRỤ
Pháp vương tử là con của Phật.
Đạt được tư cách này, không thấy họ tu, nhưng được nhiều người
kính trọng, làm được nhiều
Phật sự lớn lao.
Vị trí của họ cao tột, hơn hẳn
mọi người, được kinh
ví như con của vua, thì dù còn nằm nôi cũng là hoàng tử hơn cả các
quan đại thần đầu bạc.
10- QUÁN ĐẢNH TRỤ
Boà tát ở
quả vị này, có
năng lực thay thế Phật, được
Phật thọ ký thay Ngài
tuyên dương chánh pháp.
Đó là 10 thứ bậc của
Bồ tát thập trụ tu chứng Hiền vị.
III - BỒ TÁT THẬP HẠNH
Trên bước đường hành
Bồ tát đạo, ở giai đoạn
thập trụ thì đặt nặng
vấn đề thiền định, tức giữ tâm
đứng yên, an trụ
vững chắc ở
Phật pháp.
Tiếp xúc với đời, nghe thấy đủ thứ việc, nhưng
tâm không được
giao động, không bị
cuộc đời lôi kéo. Giữ tâm toát,
mai kia còn hành
Bồ tát đạo được, nhưng cố làm cho được việc mà mất tâm là đọa.
Riêng tôi, sẵn sàng bỏ tất cả để không bị
hư tâm, còn
cố gắng giữ đủ thứ, chẳng những không giữ được mà còn
mất mạng và tệ hơn nữa, mất luôn
giới thân huệ mạng là vốn
quý báu nhất của người tu, thì
quả thật chua xót.
Khi
Bồ tát thành tựu pháp
thập trụ,
Đức Phật dạy
thập hạnh là
chánh hạnh của
Bồ tát. Từng bước
Bồ tát nâng
tâm thức để
quan sát bề trái của
cuộc đời, biết được
tâm lượng chúng sanh,
tùy theo đó mà hành động, làm
lợi ích cho người.
Bồ tát phải bước chân vào đời, chạm trán với
thực tế, mới kiểm được tâm
chúng ta. Vì
lý thuyết rất đẹp, nhưng thử
áp dụng 10 hạnh như Phật dạy trong cuộc sống đời thường. Đụng chạm với đủ hạng người, đủ loại việc mà
tâm không giao động và chỉ nuôi tâm giúp đỡ người cùng thăng hoa.
Tôi
tâm đắc nhất pháp này, trong cuộc sống dù họ đối xử thế nào, ta cũng tìm được điều tốt của họ, tâm
chúng ta mới
an lành, mới
tiến tu được. Còn buồn giận, không tu được.
Hoàn tất pháp
thập tín,
thập trụ ở cung
trời Đao Lợi, tiến sang giai đoạn ba của Bồ taùt đạo là
thập hạnh.
Đức Phật nói pháp này ở cung Trời
Dạ Ma.
Chúng ta phải hiểu đó là pháp dành cho những người có
phước đức,
trí tuệ.
Đương nhiên, hàng
phàm phu không thể nghe, hiểu, tin và không
thực hành được. Hàng
nhị thừa cũng vậy. Những người
phước đức đầy đủ mới sanh ở cõi Thiên, còn ở
nhân gian là
phước đức không đủ.
Nếu
phước đức đầy đủ,
chúng ta sanh ở
cõi trời và
phát tâm đại bi trở lại nhân gian cứu đời.
Lúc ấy, mang thân người, nhưng trang bị
phước đức của
thiên thượng, làm công việc
cứu nhân độ thế của
Bồ tát được.
1- Bố thí :Trong
thập hạnh của
Bồ tát, hạnh
bố thí đứng đầu. Đây là pháp của
Bồ tát phát xuất
từ tâm định tĩnh (vì đã
thành tựu pháp
thập trụ), có
suy nghĩ,
cân nhắc tại sao
bố thí,
bố thí cho ai và
hậu quả ra sao.
Người đáng được
bố thí thì
Bồ tát sẵn sàng
bố thí cả
thân mạng, không phải chỉ cho
tài sản. Nhưng
bố thí như vậy để laøm gì,
Bồ tát thấy ngay
hậu quả bằng
tâm định tĩnh, nghĩa là
việc làm của
Bồ tát có
mục tiêu rõ ràng.
Chúng ta thường nghe nói
bố thí không
cầu danh lợi, cho mà
không chấp, không nghĩ. Điều này
chúng ta đừng
hiểu lầm. Tại sao
không chấp, không nghĩ ? Theo tôi,
Bồ tát bố thí không cần
suy nghĩ vì có
trực giác, biết quá rõ như biết trái xoài trong lòng bàn tay, còn cần
suy nghĩ gì . Thấy người đáng độ, đáng giúp thì
Bồ tát làm rồi, biết roài,
suy nghĩ chi nữa.
Người đến xin,
Bồ tát biết trước họ đến xin gì, tại sao xin và
Bồ tát chờ họ đến để cho. Không
suy nghĩ, không biết, để bị người lừa gạt, thì không phải là
pháp bố thí của
Bồ tát. Hành
Bồ tát đạo mà không có
trí tuệ là
Bồ tát nhập ám, hành động theo người ngu thì không thể có kết quả tốt. Không phải dốc cả
sự nghiệp để
bố thí rồi trắng tay,
nghèo khổ, sanh
oán hận.
Ngoài ra,
Bồ tát đủ trí khôn để thấy trực tiếp cho có lợi hay qua
trung gian cho có lợi hơn. Có việc
Bồ tát phải tự làm, giao cho người sẽ thất bại.
Theo
Nhật Liên dạy, muốn
giáo hóa độ sanh,
chúng ta phải phân ra 4 điều : nói với ai, lúc nào, ở đâu và nhằm
mục tiêu gì. Giải được 4 việc này xong, mới làm, không phải lúc nào, chỗ nào cũng cho, ai cũng cho thì làm sao có đủ của để cho.
Bồ tát bố thí nhằm
mục tiêu đưa người đến
Vô thượng Bồ đề. Quả
bồ đề này thuộc
chúng sanh, không
cưu mang giúp họ, ta không
thành Phật, không làm cho họ giỏi, ta không thành thầy.
Bồ tát phải
xây dựng, giáo dưỡng người mới
lên ngôi vị
Vô thượng đẳng giác, vì
đồ chúng của Phật phải có đầy đủ
Thanh văn,
Bồ tát.
Bồ tát hành đạo tìm người có duyên để độ, độ một người cũng được, nhưng đã độ ai là người đó phải nên
Hiền thánh.
Mục tiêu thành tựu chúng sanh đối với
Bồ tát là điều
dứt khoát. Thấp nhất là chấp gối, đỡ người
đứng dậy để họ có thể giáp mặt với đời, không phải cho rồi không cần
suy nghĩ.
Tại sao Phật dạy
cho không suy nghĩ ? Vì nếu cho rồi nghĩ họ phải
biết ơn,
trả ơn ta, nhưng họ không như vậy, ta lại sanh tâm
thù nghịch. Đối với người này, Phật dạy họ bỏ đi, đừng nghĩ, vì ngu quá, lỡ dại, nhắc lại chi cho người cười thêm.
Ông bà ta thường nói giúp ngặt, không giúp nghèo, vì ai cũng có khó khăn nhứt định trong một giai đoạn nào đó,
thí dụ như cần giúp người bị
thiên tai. Về
đời sống lâu dài thì họ phải tự vươn lên, không thể biến họ thành người
ăn hại suốt đời chờ
bố thí.
Người Trung Hoa có câu : Khát thời nhứt tích chi
cam lồ, nghĩa là khi khát nước, thì một tách nước lạnh cũng quý giá như là nước
cam lồ.
Chúng ta bố thí đúng lúc, lúc ngặt cứu nhau,
thể hiện ý nghĩa cứu nhân độ thế của Phật dạy. Ta tìm người có
nhân duyên là họ có ngặt và ta có khả năng cho; kẻ cần, người có, hai cái ráp lại ăn khớp. Nhưng người đồng tu cùng chùa mà lười biếng, một đồng cũng không thí. Người không cùng huyết thống, nhưng họ cần thì ta giúp cho họ phát triển.
Tu
bố thí đặt
căn bản trên
trí tuệ chỉ đạo, nhưng ta chưa đủ
sáng suốt, chưa
định tâm, phải nương Phật, nương
kinh điển. Phật
chỉ đạo ta giúp đúng người, đúng chỗ,
đúng lúc thì
xây dựng được bao nhiêu
chúng sanh, họ đều nên người.
Đối với
thực tế xã hội ngày nay,
chúng ta hiểu và
ứng dụng pháp bố thí ra sao ? Tôi ngại nhất việc
Tăng Ni học từ chương, phân tích đủ 12
bộ kinh, nhưng kinh không
dính líu gì đến cuộc sống
của quý vị, không san sẽ gì cho
xã hội, thì cũng đành bị xếp qua moät bên.
Để tránh
tình trạng chúng ta sai lầm, làm cho
giáo lý Phật
trở thành tụt hậu, không
lợi lạc cho sự thăng hoa của
con người, Ngài
Nhật Liên dạy rằng
giáo lý phải
thích hợp với
quốc độ,
thời gian và
căn cơ,
trình độ của người.
Trình độ của người ngày nay
chắc chắn khác với
con người ở 2000 năm trước và mỗi nước đều có
sinh hoạt văn hóa, phong tục khác nhau.
Vì vậy, pháp Phật
du nhập vào nước nào cũng uyển chuyển
thích hợp lợi lạc với nơi đó. Có thể nói phần lý bên trong không thay đổi, nhưng phần giáo bên ngoài thay đổi,
ngôn từ diễn tả Phật pháp cùng
hình thức sinh hoạt tu tập khác nhau, nhưng tinh ba
giáo điển vẫn là một.
Thể hiện tinh thần này, trong
sinh hoạt hiện tại theo người Nhật thì
Bồ tát phải
thực hiện 3 việc khi tu hạnh
bố thí. Trước nhất, hành
Bồ tát đạo phải nâng cuộc sống cho người, vì chẳng những không làm người khổ, mà
chúng ta còn có
trách nhiệm giúp họ được
an lạc.
Theo
kiến giải của
Phật giáo Nhật,
tài thí được hiểu
thực tế nhất là
giải quyết công ăn
việc làm cho người. Người theo ta bị
nghèo khổ thêm,
chắc chắn đó không phải là mô hình của Phật dạy.
Thể hiện việc
nâng cao đời sống kinh tế của người dân theo
yêu cầu của
xã hội đang sống,
xưa kia Phật giáo Nhật phát triển về nông thôn. Các
Thiền sư đến vùng xa cất
am tranh, sống ở nơi đó để giúp đỡ người dân địa phương.
Nhà sư dạy họ trồng cây thuốc và hoa màu, nhờ
phương pháp canh tác tốt, họ thu hoạch được nhiều. Từ việc tạo ra
của cải,
lợi lạc cho người dân mà các
nhà sư được vua chúa và dân chúng thương quý. Chùa chiền được dựng lên theo
cảm tình tốt đẹp ấy và
dần dần Phật giáo đi sâu vào
quần chúng,
trở thành một phần
đời sống của họ.
Đến khi Minh Trị
Thiên hoàng duy tân nước Nhật. Với
tình trạng đô thị hóa,
sinh hoạt Phật giáo đã được thay đổi theo
nếp sống của thành thị. Ở thôn quê đất rộng, chùa lớn. Nhưng ở thành phố, tấc đất tấc vàng và phải làm việc
liên tục thì cất chùa cao lớn mà
không sinh hoạt
thường xuyên,
đóng cửa hoài,
trở thành lãng phí.
Vì vậy,
Phật giáo phải
sinh hoạt thích nghi theo hướng phát triển mới của dân chúng ở
đô thị. Dân thường tập họp sống
ở chung cư, nên các hội đoàn
Phật giáo thành lập ở mỗi chung cư một
niệm Phật đường, chỉ rộng độ một hay hai gian phòng dùng
thờ Phật, để dân nơi đó đến
sinh hoạt tôn giáo. Vì theo họ,
đạo Phật lấy
con người làm chính, không phải lấy chùa làm chính.
Nhà
truyền giáo gần gũi cũng thấy nguyện vọng
chính đáng của người dân
đô thị. Họ có
nếp sống bộn rộn, không có nhiều
thì giờ để
tham thiền,
tụng niệm,
hành hương. Với
hoàn cảnh như vậy, nhà
lãnh đạo Phật giáo tạo
điều kiện thuận tiện cho dân tập trung ngay tại chung cư đang sống, rút tỉa những tinh yếu của
Phật pháp đặt vào thời kinh ngắn gọn cho họ
tụng niệm và nghỉ sớm để mai còn có
sức khỏe đi làm.
Theo
tinh thần Pháp Hoa, Phật dạy hoặc ở
điện đường,
tăng phường hay nhà dân, hoặc ở đồng trống, ngả ba đường, nơi nào có người trì
kinh Pháp Hoa, chỗ có đó Phật. Nhờ vậy, ai cũng tu được;
chúng ta phải thấy rõ và
đáp ứng yêu cầu giúp cho người thăng hoa, đừng bắt buộc họ
lệ thuộc vô bất cứ điều gì, làm khổ
thân tâm họ.
Ngày nay, tổ chức Tân hưng
Phật giáo Nhật
thể hiện tinh thần tài thí bằng cách lập xí nghiệp,
giải quyết đời sống cho
Phật tử. Đó là cách
gắn bó thiết thực nhất giữa
tín đồ và
Phật giáo. Làm như vậy, giới
Phật giáo ít nhất cũng
thực hiện được việc mang lại no cơm ấm áo cho
tín đồ, chưa nghĩ đến việc lớn lao là cứu giúp tất cả
chúng sanh.
Việc thứ hai là
giải quyết vấn đề học hành, vì
đạo Phật là
đạo trí tuệ.
Phật giáo Nhật mở trường
từ mẫu giáo đến
Đại học, để
đào tạo người có
tri thức. Và họ cũng nhắm đến
đào tạo thực dụng, bố trí người tốt nghiệp vào làm việc tại xí nghiệp của
Phật giáo, giúp cho người có cuộc sốngï phát trieån. Theo họ, điều đó
thể hiện tinh thần pháp thí. Tất nhiên, ngày nay
xã hội được
hiện đại hóa,
công nghiệp hóa, việc
đào tạo không thể thiếu phần khoa học kỹ thuật. Người theo ta có công ăn
việc làm, có thu nhập cao, phát triển được
kiến thức, thì ai mà không theo.
Sau cùng,
thể hiện tinh thần vô úy thí, giới
Phật giáo Nhật thường tham chính.
Lịch sử Nhật cho thấy có
Hòa thượng làm
Thủ Tướng, hoặc Bộ trưởng, là việc
bình thường. Vì có
tham gia vào guồng máy chính quyền mới
bảo vệ được
quyền lợi chính đáng của giới
Phật giáo.
Điều này
dễ hiểu, trên
thực tế người nắm được kinh tế,
văn hóa, chính trị thì
quyết định được tất cả. Điển hình như
Phật giáo Lý Trần mạnh,
rõ ràng vì đã chủ động trong
lãnh vực chính trị,
văn hóa.
Nếu
chúng ta từ bỏ sức mạnh này, để cho người ác xấu nắm lấy, thì họ
đàn áp, gây khó khăn và ta cúi đầu nhịn chịu hay sao ? Người có
trí tuệ theo Phaät
chắc chắn không làm như vậy.
Ông Ishibashi là Viện trưởng
Đại học Rissho, Tokyo, nơi tôi theo học. Ông tham chính, làm nghị sĩ Quốc Hội và tiến lên làm
Thủ Tướng Nhật. Nhờ vậy, ông
giải quyết được bao nhiêu việc của
Phật giáo. Có thể nói đó là
hình thức cứu nhân độ thế ở mức độ cao nhất. Trên nền tảng ấy, mới dễ dàng
thực hiện được
tinh thần vô úy thí.
Bồ tát dưới khoác áo thầy tu hay
cư sĩ thành tựu pháp bố thí theo
hình thức trên, đương nhiên giúp cho
Phật giáo tồn tại vững mạnh. Khi
chúng ta còn
nghèo đói, kém cỏi, phải nhờ vã người. Nhưng
đủ tư cách thăng
Tu Di sơn, bằng với
Trời Đế Thích, ra
hành đạo sẵn có
trí tuệ,
của báu,
thế lực mà khoâng có đối tác, làm sao
thi thố tài năng được.
Thật vậy, có chạm trán với việc khó của
cuộc đời mới biết
trí khôn của ta đến đâu, có
đối diện với kẻ
ngang bướng, mới thấy
năng lực của ta, có người xin,
chúng ta mới có dịp cho, để bớt lòng
tham lam bỏn xẻn. Nhưng
thực hành pháp bố thí,
che chở cũng nhằm nâng người lên thành
quyến thuộc, bạn
đồng hành với ta.
Tu
thập hạnh,
Bồ tát mới tập sự làm thử, vừa tự tu, vừa giúp người,
cho đến hàng
thập địa mới
đạt được ba la mật.
Trong khi tu hạnh
bố thí,
Bồ tát phải luyện tâm
hoan hỷ. Làm sao người
hoan hỷ với ta và ta
hoan hỷ với người, với việc.
Tuy nhiên, ta cứu giúp mà người vẫn hại và
nói xấu, ta cũng phải
hoan hỷ. Vì hạnh
Bồ tát là hạnh
lợi tha, nhằm
mục tiêu cứu giúp người, không vì
quyền lợi riêng, nên
vô ngã hoàn toàn.
Phật dạy không có
chúng sanh,
Bồ tát không thành
Vô thượng đẳng giác. Ta không nghĩ
chúng sanh gây khó khăn, phải thấy nhờ họ ta mới có cơ hội hành
Bồ tát đạo được. Trên
tinh thần ấy, dù gặp
hoàn cảnh nào trong cuộc sống,
chúng ta cũng
tha thứ cho người vô tình hay
cố ý gây khó khăn với ta, vì không
hoan hỷ, không thể tu
Bồ tát đạo.
Bồ tát thể hiện hạnh
hoan hỷ đối với
lục thú tứ sanh, lòng không
buồn phiền,
không chấp nhứt việc gì. Sẵn sàng
hoan hỷ đối với người đổ việc xấu cho ta và hơn thế nữa, làm cho
chúng sanh đang khổ đau trong chốn
tam đồ thấy
Bồ tát thì quên khổ và được an vui liền. Đối với
Bồ tát, mô hình kiểu mẫu phải
đạt được là : "Kỳ
hữu kiến ngã tướng,
nãi chí văn ngã danh, giai
phát bồ đề tâm, vĩnh xuất
luân hồi khoå...".
Noi theo gương
Bồ tát,
chúng ta phải tự thấy mình có lỗi lớn khi chưa làm cho người
phát tâm bồ đề và lại còn làm cho người
phiền não.
Ý thức như vậy,
chúng ta cần
thành tâm sám hối cho sạch
nghiệp ác.
Bồ tát sạch nghiệp khi tu
Thanh văn,
Duyên giác và đắc
La hán, mới
phát bồ đề tâm hành
Bồ tát đạo, việc
độ sanh của các Ngài dễ dàng và không gặp
chướng ngại.
Chúng ta chưa đắc
La hán, hành
Bồ tát đạo, mang
ác nghiệp đến với người, tất nhiên phải gặp
tai họa.
2- Trì giới :Pháp tu thứ hai của
Bồ tát là
trì giới.
Kinh Hoa nghiêm lấy
thập thiện giới làm chính để giúp cho
ba nghiệp thanh tịnh. Trong
ba nghiệp, chủ yếu là
ý nghiệp, vì
ý nghiệp thanh tịnh thì hai nghiệp thân và khẩu cũng
thanh tịnh theo.
Theo
Bồ tát đạo, quan trọng ở giới tâm, tự ta
quyết định làm gì
để tâm mình
thanh tịnh. Tu theo
hình thức, chấp giới điều, tưởng tốt, nhưng tâm cứ
bực tức,
buồn phiền,
tham nhiễm, vẫn đọa.
Thân nghiệp thanh tịnh, đối với tôi quan trọng nhất là thân không tật bịnh, vì bịnh thì nghiệp dễ sanh. Làm sao ta có thân khỏe mạnh,
ngoại hình dễ coi thì người dễ nghe theo.Thân khỏe mạnh vì không tạo
sát nghiệp,
ngoại hình dễ coi là nhờ đoạn trừ
dâm dục và không
trộm cắp,
lừa đảo. Được như vậy, người tin ta.
Khẩu nghiệp thanh tịnh thì giọng nói êm tai, mát lòng. Giọng nói
cộc cằn, nói láo, nói đâm thọc thuộc
ác khẩu, không
thanh tịnh.
Ý nghiệp thanh tịnh là người
thiểu dục,
tri túc, nhìn sự vật
chính xác, thấy rõ từ nhân đến quả, không tham, lòng
bực tức,
buồn phiền không có.
Ta có nhiều tướng xấu, tự biết nghiệp của
chúng ta, caàn siêng năng tu để giải nghiệp ngay
trong đời này hay
kiếp sau mới giải được.
Tu pháp bố thí để có thêm bạn, nhưng bạn nhiều mà
giới không thanh tịnh thì giao tiếp nhiều, làm
chúng ta khổ, không tu được.
Ba nghiệp thanh tịnh mới tiếp Tăng độ chúng được, vì người buồn khổ, thấy ta
dễ thương, lòng họ tự hết khổ .
Tiến
xa hơn nữa,
Bồ tát trì giới thanh tịnh, có
đức hạnh, nghĩa là
tâm niệm và
việc làm luôn
lợi ích cho mình, cho người trong
hiện tại cũng như tương lai.
Bồ tát hiện hữu nơi nào phải
nâng cao đời sống vật chất và phát huy
đời sống tinh thần cho người.
Làm cho
đời sống kinh tế
kiệt quệ và bày ra việc
mê tín làm
tinh thần của người lụn bại, không phải
Bồ tát đạo. Trên nền tảng ấy, hành
Bồ tát đạo,
chúng ta chỉ đến chỗ nào cần ta giúp. Khi người không cần,
nhất định ta không đến.
Lịch sử cho thấy
Phật pháp suy đồi vì
chúng Tăng cần
chúng sanh.
Phật pháp hưng thạnh khi
chúng sanh cần
Bồ tát che chở.
Đức hạnh của
Bồ tát thể hiện bằng cách không làm những gì
mọi người không bằng lòng và chỉ làm những việc
lợi ích cho người. Không phải
chấp chặt giới điều 1, 2, 3...
Bồ tát đến với
chúng sanh để
phục vụ họ, không vì
quyền lợi riêng mình.
Tuy nhiên, theo tôi, việc nào cũng có
phản ứng phụ, nghĩa là
chúng ta làm
vui lòng người này,
chắc chắn sẽ
mất lòng người khác.
Ít khi nào ta làm vui được cả hai phía.
Hành đạo,
chúng ta phải
cân nhắc coi việc giúp người này, họ được lợi gì và làm
thiệt hại cho người khác việc gì.
Thí dụ như
Đức Phật trong
tiền kiếp hành
Bồ tát đạo, Ngài đã giết tên cướp để cứu 500 thương buôn.
Chắc chắn Ngài đã
gây oán thù với nó. Nhưng đối với
Đức Phật, Ngài
chấp nhận như vậy để
cứu mạng đến 500 người và về sau, họ
tái sanh lại là
Phú Lâu Na và 500
La hán,
xuất gia theo Phật,
hết lòng với Ngài vì đã
thọ ơn cứu độ này. Còn
linh hồn tên cướp
oán hận Phật, luôn
theo đuổi Ngài, tìm sai quấy của Phật để
trả thù. Nhưng
trải qua nhiều đời
theo dõi Phật, tên cướp chỉ thấy Ngài làm việc
thánh thiện, nên sau cùng cũng giải được oan nghiệp này.
Bồ tát luôn
cân nhắc, không bao giờ làm
tổn hại chúng sanh. Bất đắc dĩ phải
hy sinh một người để làm lợi cho số đông. Và tất nhiên món nợ này,
Bồ tát sẽ trả. Phải có
dũng lực như vậy mới hành
Bồ tát đạo được.
Thể hiện tinh thần lợi lạc cho
mọi người,
Bồ tát có thể làm vua, làm tướng..., tạo
phước đức nhiều nhưng hại ít, không việc nào mà không phải trả giá. Còn kẻ thấp chí bạc tài, việc gì cũng sợ, không dám làm.
Thể hiện rõ nét
tinh thần vì
đại nghĩa là
Phật giáo Lý Trần. Nếu các Ngài không dấn thân
đánh đuổi giặc thì chúng tàn sát hết dân ta còn gì. Các Ngài sẵn sàng chịu
quả báo để cứu
nhân dân an lành. Không có sự
hy sinh cao cả ấy,
chúng ta không có trang sử vàng son của
Phật giáo.
3- Nhẫn nhục :Hành
Bồ tát đạo, phải có đức
kiên nhẫn, vì làm có
mục tiêu, không phải bạ đâu làm đó. Nhắm đến
mục tiêu thành Phật và
cứu nhân độ thế,
chúng ta kiên trì độ người. Tôi hạ
quyết tâm độ người nào, dùng mọi cách theo Phật dạy, nay không được, mai cũng không được thì hẹn đến
kiếp sau hay nhiều kiếp nữa cũng phải độ được.
Thiếu đức tánh
kiên nhẫn, độ đươïc một phần rồi
chúng ta chán nản, bỏ nửa chừng thì
công lao xây dựng coi như mất trắng. Hoặc dại khờ để họ đổ trút
tội lỗi lên ta, không nhịn nổi nữa và
phản ứng xấu thì còn tệ hại hơn.
Thiết nghĩ độ một người không
đơn giản và nhất là đối với
chúng sanh cang cường ở
thế giới ngũ trược này, ta phải có
vô số phương tiện để nhịn chịu. Tôi có
kinh nghiệm độ sanh. Nay chưa hiểu, nên họ chống phá,
mai kia họ hiểu thì thương kính ta. Chống nhiều thì sẽ hiểu nhiều, miễn
chúng ta đừng sai.
Tôi
tâm đắc nhất pháp Phật dạy về
nhẫn lực.
Hoàn cảnh nào, mình cũng
ung dung tự tại,
vui vẻ với người. Người nhiều
sân hận,
ham muốn rồi
thối chí, nhưng ta quyết không như vậy. Người chống tôi mãnh liệt, mà nay họ thương, chỉ vì họ
hiểu lầm, nghe người khác
nói xấu. Qua quá trình
hành đạo, họ thấy được sức
kiên nhẫn của
chúng ta,
suy nghĩ lại thấy ta tốt.
Chúng ta phải
chấp nhận, chờ đến lúc họ hiểu đúng.
Khi
Đại hội thống nhất
Phật giáo cả nước, không ít những
tiếng xấu ác đổ lên người
tu hành có tâm huyết với
đạo pháp. Nhưng với
thực tế trải qua gần 20 năm,
thành quả của việc
Tăng Ni Phật tử tu học tốt đẹp đã là minh chứng
hiển nhiên cho
việc làm đúng đắn của
Giáo hội Phật giáo Việt Nam chúng ta.
Theo tôi, chỉ sợ mình
sai trái, không sợ người hiểu sai. Hiểu sai thì hiểu lại, càng thương mình hơn.
Chúng ta nhịn chịu để sau độ họ, không phải nhịn để họ gõ đầu chơi. Phật dạy
Bồ tát phải
lập chí kiên trì giữ đạo,
nguyện độ chúng sanh, không thay đổi.
4- Tinh tấn :Bồ tát lập hạnh siêng năng, không sợ khó, khổ, chỉ sợ ta không
đủ tài đức. Riêng tôi, gặp việc khó càng vui, chỉ cầu
Phật hộ niệm cho
đủ sức khỏe để làm.
Rèn luyện được đức tính này,
chúng ta càng vững
niềm tin ở Phật hơn nữa. Nhờ có hành, mà phần tín và trụ
vững chắc thêm. Vì càng noã lực làm,
chúng ta càng gần đạo và nhận được lực bất tư nghì của
Phật pháp.
Bồ tát khác
nhị thừa ở điểm
ý chí không khuất phục, dấn thân vào gian khổ. Nêu cao
tinh thần này là
hạnh nguyện của Ngài
A Nan : nguyện là người đi
tiên phong vào đời
ngũ trược ác thế, còn một
chúng sanh nào chưa
thành Phật, thì Ngài sẽ không
bước lên quả vị Vô thượng giác.
Tôi nhắc nhở
Tăng Ni sinh rằng khi ra trường nhận lãnh công việc khó thì có nhiều điều
thú vị lắm. Việc dễ ai cũng dành, tôi buông tay. Việc khó thì ít người làm, mà ta
gánh vác,
chắc chắn sẽ được nhiều người thương và
ủng hộ.
Theo dấu chân Phật,
chúng ta cần luyện đức tánh
kiên nhẫn của
Bồ tát, chỉ nghĩ đến
quyền lợi chung,
quên mình,
làm Phật sự không biết
mệt mỏi như trong Sám
Quy mạng mà
chúng ta thường
công phu buổi khuya :
Thừa sự thập phương chư Phật
vô hữu bì lao...
5 - Thiền định :Đức tánh quan trọng trên lộ trình hành
Bồ tát đạo là tâm yên tĩnh. Làm nhiều việc, nhưng không cho tâm
giao động. Mới khởi tu,
ngồi yên thì tâm yên.
Tuy nhiên, phải tiến
xa hơn, đi
vân thủy, nghĩa là
lặn lội vào đời mà tâm vẫn lắng yên như trong
thiền định. Đó là
pháp hành của
Bồ tát, tìm yên tĩnh trong công việc. Làm không
mệt mỏi, không nghỉ, nhưng tâm yên như
Thiền sư trụ định. Làm nhiều,
bực tức nhiều,
giao động liên tục, không phải
Bồ tát.
Nhị thừa thì phải
ngồi yên, tâm mới lắng yên.
6- Trí tuệ :Bồ tát cứu đời nhưng
tâm không bị
cuộc đời chi phối,
đạt được đức tính thứ sáu là trí
sáng suốt. Bỉnh tĩnh và
sáng suốt là hai đức tính quan trọng nhất của
Bồ tát trên đường hành
Bồ tát đạo.
Sáng suốt cao nhất theo Phật dạy
đạt được từ việc
thực hành văn, tư, tu, tức học tập
giáo pháp, suy tư trong
thiền định và
đi vào đời giúp người.
Hàng
nhị thừa thấy biết do đọc sách, suy niệm, đó là
hiểu biết trên
lý thuyết.
Bồ tát tiến hơn nữa, không chỉ biết theo sách vở, nhưng phát triển
tu huệ bằng
cách đi thẳng vào đời, giáp mặt với đời, lóng nghe
quần chúng để biết
yêu cầu, nguyện vọng,
năng lực và
hành nghiệp của người. Có biết rõ như vậy, mới
tùy theo đó, giúp họ
trưởng thành, phát triển
trí tuệ, được
sáng suốt,
lợi ích ngay trong cuộc sống.
Có thể hiểu theo ngày nay,
chúng ta trang bị
huệ học của
Bồ tát nghĩa là
chúng ta nắm vững tất cả
hiểu biết,
văn minh của
nhân loại gồm có khoa học
tự nhiên và khoa học
xã hội. Như vậy, những gì
chúng ta nói phải được người
trí thức công nhận. Thời nay mà nói
núi Tu Di có
trời Đế Thích thì khó có người nghe.
Núi Tu Di ở đâu, nhà cửa ra sao ? Việc
bình thường hay
văn minh khoa học mà
con người biết, nhưng
chúng ta không biết, thì làm thế nào
thuyết phục được người tin rằng ta biết rõ chuyện
trên trời.
Đức Phật trước khi tu, Ngài nắm vững
văn minh thời đó và
đắc đạo,
hiểu biết của Ngài hơn gấp 10 lần, người phải
tin theo. Từ
thực tế cuộc sống, Phật dạy cách hành xử
đúng đắn và từ
bình thường này, Ngài nâng người lên
trình độ phi thường,
chắc chắn người phải tin.
Thực tế chúng ta nắm vững và
xa hơn, biết những việc mà khoa học không lý giải nổi, thì may ra họ tin. Huệ của
Bồ tát phải
thích hợp đúng với
hoàn cảnh. Điều này
chúng ta thấy rõ
Phật giáo thịnh haønh là khi nhà
truyền giáo nắm bắt được
tình hình xã hội, chủ động được sự
vận hành của nó. Ngày nay làm đạo, khi người không nghe, phải tự biết
chúng ta đã đi
lệch hướng,
cần phải chấn chỉnh lại.
Trong 6
pháp ba la mật,
trí tuệ là chính,
kinh Hoa Nghiêm gọi là
Vô thượng Bồ đề, không có gì mà
Bồ tát không biết. Phật khác người thường là nhờ có
trí tuệ chỉ đạo ba nghiệp thân, khẩu, ý.
Người tu
theo dấu chân Phật, lấy
trí tuệ làm
sự nghiệp. Chưa có huệ mà hành
Bồ tát đạo, phải nương với người có
trí tuệ, vì làm sai, nguy hiểm, thà không làm còn hơn làm sai.
Tôi làm việc gì cũng
suy nghĩ cân nhắc, khi chưa biết rõ, tôi không giúp vì
kết thân với người ác,
tội lỗi, ta dễ bị lây nhiễm. Có bạn xấu thương ta, nhưng cũng hại ta không ít.
Thiền định và
trí tuệ, ngày nay gọi là
bình tĩnh và
sáng suốt, luôn song hành. Tu định, không trí là
tà định. Tu trí, thiếu định là
phiền não trí. Đó là hai đức tánh
căn bản trên đường hành
Bồ tát đạo. Đối với tôi,
nếu không bình tĩnh và thiếu
nhận thức chính xác thì tôi ngưng việc. Vì không
sáng suốt, người xúi bậy, dễ nghe theo. Còn
nóng nảy, dễ bị người khích tiết làm bậy, thọ
quả báo.
Thiết nghĩ làm việc
thành công phải luôn luôn chủ động. Nhưng muốn vậy, phải
sáng suốt, nắm rõ
vấn đề,
nếu không dễ
biến thành bị động, ta
lệ thuộc người.
Trong 6
pháp ba la mật, tôi chuû trương đi ngược, tức phải có
trí tuệ và
bình tĩnh mới
bố thí,
nhẫn nhục,
tinh tấn đạt kết quả tốt.
Bình tĩnh,
sáng suốt,
cộng thêm ba nghiệp thanh tịnh, cùng một số
quyến thuộc giỏi tốt, hành
Bồ tát đạo nhất định thành công.
Ngoài phần
lục độ ba la mật,
kinh Hoa Nghiêm triển khai thêm 4 pháp :
phương tiện, nguyện, lực, trí, thành 10 hạnh.
7- Phương tiện :Trên đường hành
Bồ tát đạo, có tiếp cận với đời, mới thấy mặt yếu của ta.
Tuy nhiên, thất bại hôm nay là
kinh nghiệm giúp
chúng ta thành công mai sau, nên không nản chí, không bỏ cuộc. Nhờ vậy,
chúng ta đã học được
phương tiện hành đạo.
Thật vậy, có lúc
chúng ta tưởng
nhận thức đúng, nhưng khi bắt tay vào việc, mới
nhận ra còn bao nhiêu
vấn đề chưa biết hoặc biết sai. Có chạm trán với
thực tế thấy được nhược điểm của mình và khắc phục mặt yếu này, phát huy cho thành mạnh
toàn diện; đó là tu theo
Bồ tát đạo. Trên bước đường tiến đến
quả vị toàn giác, mỗi
Bồ tát làm được một số việc khác nhau, gọi là
Bồ tát đa hạnh. Chỉ có Phật mới
thành tựu trọn vẹn tất cả việc
thánh thiện.
8 – Nguyện :Vì còn nhiều việc chưa biết, chưa làm được, nhiều
chúng sanh chưa độ được,
Bồ tát phải
rèn luyện đức tánh thứ 8 là
nguyện độ tận
chúng sanh để
hoàn thiện tư cách của người
cứu nhân độ thế.9-10- Lực và Trí : Hành
Bồ tát đạo đòi hỏi
Bồ tát dứt điểm việc trong tầm tay và việc ngoài khả năng cũng thấy rõ, để đến năm sau, nhiều năm sau nữa, thậm
chí phải đến
kiếp sau mới làm được.
Chắc chắn không thể một bước
giải quyết được tất cả. Nhiều khi
chúng ta tham, nghĩ rằng làm được tất cả, đến khi không
thành công thì ta
hối hận,
đau khổ.Riêng tôi, thấy việc cần làm, nhưng thấy
thời cơ chưa đến, tôi cũng sẵn sàng gác lại, chờ có
điều kiện sẽ
thực hiện. Hành
Bồ tát đạo, phải biết tiến thoaùi, không nên sốt ruột, không
nhất định phải làm ngay.Ý này được
Trí Giả đại sư ví như hoa sen trong hồ, có hoa đã nở thơm ngát hương, có hoa còn búp, có hoa vừa lú
lên mặt nước, có cái còn kẹt trong bùn,
cần phải nuôi nó.
Hành đạo thấy người
căn cơ thuần thục, ta độ, chưa thuần, phải chờ dù là nhiều kiếp.
Quan sát Bồ tát mười phương làm việc, tự
so sánh ta với người, thấy việc nào ta chưa
thực hiện thì hạ
quyết tâm theo gót các Ngài vàø
cuối cùng giải quyết tốt đẹp mọi việc, độ được tất cả
chúng sanh.
Ở giai đoạn
thập hạnh,
Bồ tát luyện được tâm vững, đã trụ
đại định, có sức
kiên nhẫn chịu đựng.
Ví như con rùa khi bị tấn công, nó thu mình trong vỏ từ 1 đến 2 ngày, thậm chí cả năm, không ăn vẫn sống được. Chờ rình mãi mà rùa vẫn không ló đầu ra, không bắt được, nên địch thủ phải bỏ đi.
Bồ tát trụ ở
thập hạnh cũng vậy, có đức
kiên trì, chờ cơ hội làm được mới làm.
Nhân duyên chưa đến, vẫn nằm yên,
chịu đựng.
Ác ma đi rồi thì
tiếp tục hành đạo.
Ngoài ra,
đặc điểm của rùa là có khả năng sống ở
dưới nước và trên
đất liền.
Bồ tát cũng vậy, sống trong
thế giới loài người, nhưng cũng ở
thiền định.
Hành đạo đối tác với
chúng sanh ở
trần thế, thấy
Bồ tát giống
mọi người, nhưng tâm họ ở
Niết bàn, không
phiền muộn, khổ đau.
Bồ tát thập hạnh lăn xả vào đời làm việc nhiều, từ đây bắt đầu có
tích lũy phước đức;
tốt hơn là làm ít, hưởng nhiều, thì không thể dài lâu.
Thực tế, người đồng tu với tôi từ thuở nhỏ, đối với công tác của chúng, của chùa hay của
Giáo hội, họ thường lờ đi, trong khi vẫn hưởng quyeàn lợi. Nhưng đến lúc hết phước, họ phải đọa. Người ở lâu trong đạo phần lớn
bước đầu đều
chịu đựng gian khổ, nhờ đó,
tích lũy được
công đức.
Tỳ kheo nỗ lực tu hành, người nhìn thấy
đạo hạnh của ta mà
cung kính cúng dươøng. Ta
tiếp nhận, hưởng hết phước này, nhưng cứ tưởng là còn, buộc họ phải
cung kính, đòi hỏi đủ thứ, mà họ lại
xem thường, không
đáp ứng cho ta nữa, thì
phiền não nổi dậy,
trở thành nghiệp chướng Tăng.
Thời gian hành
Bồ tát đạo trải qua thập trụ,
thập hạnh cho đến thập hồi hướng, lúc nào
Bồ tát cũng phải nương Phật để
hành đạo, không phải tự ý làm. Nhưng Phật trong
kinh Hoa nghiêm khác với Phật theo
nguyên thủy.
Theo
tinh thần nguyên thủy,
Đức Phật là
con người bằng xương thịt, tu
đắc đạo và
thành Phật. Người
may mắn sanh cùng thời với Ngài, được nghe Ngài giảng dạy và theo đó
tu hành, được
an lành hoàn toàn, không bị
quả báo xấu. Ở
đời sau, khi caùc vị
Tổ sư gặp khó khăn,
không giải quyết được, thường tự trách mình gặp một trong
tám nạn. Nói cách khác, không có người
sáng suốt lãnh đạo, dễ phạm
sai trái và phải thọ
quả báo liên tục. Theo Phật, gặp Phật
chắc chắn dễ tu.
Theo quan niệm của
Phật giáo quyền thừa, tuy
Đức Phật nhập diệt, nhưng nương theo
Thánh giáo và
công đức của Ngài để lại,
chúng ta vẫn tin được, tu được. Điều này
thực tế cho thấy có việc lớn lao,
tốn kém mà
bản thân người tu không làm được,
thí dụ như xây chùa
thờ Phật.
Tuy nhiên, việc này
thành tựu dễ dàng nhờ người
hằng tâm,
hằng sản tin tưởng ở việc xây chùa có phước, họ đem
của cải, công sức đầu tư vô.
Hoặc ta là người tầm thường, nhưng mặc áo Phật, ở nhà Phật,
vị trí chúng ta hoàn toàn thay đổi. Đó là nhờ
công đức của Phật quá lớn bao phủ cho người tu
thọ hưởng. Và hơn thế nữa,
trí tuệ chúng ta được phát triển là nhờ
giáo lý Phật hướng dẫn.
Từ đó, quyền thừa tin Phật là tin
công đức và
trí tuệ của Phật không mất. Ta
quy y với Phật là Phật
Báo thân, tức
phước đức,
trí tuệ thân.
Tiến lên
kinh Hoa Nghiêm, nhìn Phật là nhìn thẳng vào
cuộc đời, khẳng định rằng không có gì không phải là Phật mới là Phật. Ngày nay ta thường
diễn tả ý này là học
quần chúng để
lãnh đạo quần chúng.
Vì vậy,
kinh Hoa Nghiêm dạy quả
bồ đề thuộc
chúng sanh. Từ đó,
hành đạo mà khoâng thấy khả năng,
yêu cầu của người, tự áp đặt ý của mình, làm sao người nghe theo.
Theo
Hoa Nghiêm,
mọi người đều là Phật. Nhưng nếu ta thấy Phật trong họ, thì họ là Phật, thấy
ác ma thì họ là
ác ma. Xấu tốt cũng là hoï, dùng tâm xấu thấy họ là ma, phải biết lòng ta là
ác ma. Nhưng lòng
chúng ta là Phật, tức ta thấy đối tác của ta nghĩ gì, muốn gì, để
đáp ứng, giúp đỡ họ, thì họ
quý trọng ta.
Thỏa mãn yêu cầu của một người, người đoù
kính trọng ta, giúp 10 người thì được 10 người
kính trọng.
Khi tu
thập trụ,
thập hạnh thì nương Phật để làm, nghĩa là nương theo 3 điều sau :
1- Khi có Phật
xuất hiện hay có người
thông minh,
đức hạnh thì nương theo.
2- Nhìn về Phật nghĩa là ta theo học với người có
đức hạnh và
trí tuệ. Và
chúng ta ý thức rõ rằng "Nhân vô thập toàn", mỗi người có điểm
đặc sắc riêng, ta học cái hay của họ thôi, tức có
lựa chọn. Còn cái dở, không thích, ta bỏ, không bàn đến. Gom tất cả điều tốt của người để
biến thành cái tốt của mình là
thái độ học Phật. Học được 10 cái tốt, ta có 10 cái tốt, không phê phán.
3- Ta học tâm tư nguyện vọng của
quần chúng,
tùy theo yêu cầu mà
giải quyết. Muốn
độ người bình dân hay giới
trí thức hoặc chánh khách, ta phải làm cách nào
tương ưng với họ.
Mọi người đều có
hiểu biết ở
lãnh vực riêng và đều có
công đức. Nhưng theo
Hoa nghiêm muốn
thành Phật phải có
tri thức toàn diện,
giải quyết được
toàn bộ.Trên bước đường hành
Bồ tát đạo, ở giai đoạn
thập trụ thì đặt nặng
vấn đề thiền định, tức giữ tâm
đứng yên. Và từ đó
quan sát bề trái
cuộc đời,
tâm lượng chúng sanh, rồi
tùy theo đó mà hành động.
Có thể nói tu
thập hạnh nương Phật để làm,
thực tế là nương
uy tín của Thầy, làm đạo với
danh nghĩa của Thầy, không phải
danh nghĩa của riêng ta.
Cần
cân nhắc kỹ ý này trên bươùc đường tu, vì nhiều khi
chúng ta nương Thầy làm được việc, sau đó lại rớt vô
tình trạng xem thường Thầy.
Quán Đảnh đã phạm
sai lầm này, là bài học
chúng ta cần ghi nhớ.
Quán Đảnh viết lời bạt trong
tác phẩm của
Thiên Thai Trí Giả đại sư rằng : Không có
Quán Đảnh thì
Thiên Thai không trọn
công đức.
Nói như vậy,
Quán Đảnh đã
phạm tội ngã mạn rất nặng, nên bị đọa, không còn được ai kính nễ. Dù
sự thật,
công đức của
Quán Đảnh biên soạn tất cả sách vở cho Ngài
Thiên Thai, làm thật
vất vả suốt
cuộc đời, mà chỉ nói một câu thiếu khiêm tốn là trắng tay, bị
thiên hạ khinh ghét, chẳng được gì.
Việc làm của
Bồ tát thập hạnh thuộc phần hành
thâm Bát Nhã ba la mật.
Bồ tát đi trên lộ trình
Hoa Nghiêm ở dạng
tu tâm, nên phần sở hành và
tác động của các pháp
thập tín,
thập trụ và cả
thập hạnh, không thể thấy biết bằng
tri thức bình thường của
ngũ uẩn thân.
Thật vậy, vì là
pháp hành bên trong, không ai thấy và
kiểm soát để biết được. Khi
chúng ta sử dụng được
pháp hành bên trong,
tự nhiên tác động được qua tâm
chúng sanh.
Trên
tinh thần ấy, người tu
thập hạnh theo
Hoa Nghiêm,
ngồi yên một chỗ, không thấy họ làm gì, nhưng tâm đến với mọi loài,
ảnh hưởng không thể lường được. Từ đó,
chúng sanh từ từ tìm đến,
kính trọng quy ngưỡng. Điển hình như
Đức Phật ở
Bồ đề đạo tràng, không cử thân động niệm, nhưng không
chúng sanh nào mà Ngài không độ, đó là
pháp hành của tâm.
Giữa Phật với Phật hay với
Bồ tát hoặc giữa
Bồ tát với
chúng sanh liên hệ với nhau qua tâm, không cần nói. Theo
nghĩa lý ấy, tôi cảm nhận rằng lực
Như Lai tới khiến tôi
xuất gia,
học đạo,
thuyết pháp, không thể làm khác. Nhận được sức
gia bị của
Như Lai, tôi
thuyết pháp không mệt, không chán.
Tác động của tâm rất
kỳ diệu. Các bạn thử dùng tâm
đại bi đến với người thân, người oán, với tất cả
chúng sanh, sẽ thấy người tự động đến với bạn. Khi vận
dụng tâm tốt của ta đối với người thân, họ
quý trọng ta hơn; tâm tốt đến với người thù, họ bớt ghét ta,
cho đến không còn oán nữa và vận
dụng tâm thánh thiện tới tất cả
chúng sanh, kể cả loài vô tình, thì chuùng cũng
thể hiện tình cảm
thân thiện với ta.
Trên nền tảng
hành sử tâm, người tu
Hoa Nghiêm cố tìm cho được mối quan hệ giữa ta và
vũ trụ.
Chúng ta không tu một cái gì
xa lạ,
không chấp chặt vào pháp nào, nhưng theo
Hoa Nghiêm là tu trong sự sống của
chúng ta, trong sự lớn lên của muôn vật chung quanh ta là chính.
Nếu không nhận ra điều này, nghĩ cái gì xa xôi thì hỏng, không bao giờ đạt keát quả.
Kinh Pháp Hoa gọi
sai lầm này là mất
bản tâm, Tổ quở là xả
thực tế, nhận
không hoa.
Kinh Hoa Nghiêm lấy tâm làm chính, phát huy tâm mình ngang qua tâm muôn vật, để
cuối cùng hiểu được và điều động được muôn vật, thì
chúng ta thành Phật.
Tâm thanh tịnh thường hằng của
chúng ta là Phật và dùng tâm này duyên qua sự vật hay
chúng sanh, tạo nên phần thứ ba là Phật.
Vì vậy, theo
Hoa Nghiêm, tâm, Phật,
chúng sanh,
tam vô sai biệt, 3 cái này là 1. Nghĩa là khi tâm
chúng ta ngang qua
chúng sanh, làm họ
phát tâm bồ đề, tạo thành
thế giới, gọi là
pháp giới của
kinh Hoa Nghiêm dưới sự điều động của Tỳ
Lô Giá Na.
Trên nền tảng ấy, người tu
Hoa Nghiêm thaáy
tâm trí từ từ sáng lên, là do Tỳ
Lô Giá Na biến chiếu hội nhập. Nhờ
Phật hội nhập, dưới mắt ta, sự vật bên ngoài
trở thành dễ thương và loài vật, cỏ cây được ta duyên đến đều hướng về ta bằng tình thân.
Thật tu, dễ
nhận ra pháp này. Thử một hôm, trải tâm
thương yêu con vật,
chúng ta thấy nó mừng rỡ,
quyến luyến với
chúng ta ngay. Thể nghiệm pháp này, sẽ hiểu được
tâm từ bi của
Đức Phật tác động sâu xa khiến nai
dâng hoa, khỉ cúng trái. Chẳng những
con người hay loài thú,
mà cả cỏ cây, hoa lá cũng vậy. Nếu các bạn đã từng trồng cây,
săn sóc, ký thác tâm tình cho cây,
nhận ra cây tăng sức sống
rõ ràng. Giữa ta và chúng tất yếu có mối tương quan.
Tôi cũng đã thử pháp này. Tôi có trồng cây mai trước thất
Hoà thượng ở chùa Huê Nghiêm. Làm việc tại Aán Quang, tôi ít về chùa Huê Nghiêm. Có điều lạ là hàng năm, tôi thường về Huê Nghiêm vào 25 Âl trước Teát, thì cây nở hoa vào
đúng lúc đó. Nhưng khi tôi bận không về ngày 25, thì nó chờ mùng 3 Tết tôi về, mới nở hoa. Có lần tôi về mùng 7 Tết, thì nó nở đúng ngày đó.
Kinh Hoa Nghiêm muốn dạy ta
nhận ra mối tương quan
cần thiết ấy và sống với
liên hệ hỗ tương ấy. Đối với người hay
thú vật,
chúng ta tạo tình cảm tương quan dễ, nhưng luôn cả với cỏ cây cũng vậy; dù chưa
đắc đạo, ta và
thiên nhiên cũng hài hoà được. Không tu theo hướng này,
chúng ta ở chùa mà lúc nào cũng
bực bội vì
tham vọng phát khởi.
Tham vọng dâng lên, thì
Phật huệ tự biến mất. Bấy giờ, không có gì trên
cuộc đời này làm cho
chúng ta bằng lòng được. Ở chùa nhỏ thì muốn được chùa lớn, muốn gần người giỏi,
sang giàu,
thế lực để nhờ vả, nhưng cái muốn chẳng bao giờ đến, còn cái đang sống thì không bao giờ bằng lòng.
Vì vậy sanh ra
sân si,
mắng nhiếc người này,
xỉ vả người kia,
địa ngục ở ngay
trước mắt.
Trái lại, tâm
thanh thản, dù sống
đạm bạc, ngồi gốc cây mà ta và vật hoà đồng, tạo thành
cảnh giới an lạc. Đó là
tinh thần Hoa Nghiêm muốn nhắc nhở
chúng ta dẹp
tham vọng, tâm sẽ lắng yên, Phật mới
gia bị được.
IV - BỒ TÁT THẬP HỒI HƯỚNG
Khi
hoàn tất hai đoạn đường
thập tín và
thập trụ,
việc làm của
chúng ta là
pháp hành trong tâm, không phải làm bên ngoài. Thật chứng
thập hạnh của
Hoa Nghiêm,
ngồi yên một chỗ, nhưng taâm
tác động cho muôn loài
phát tâm.
Khi đã tạo được quan hệ với
chúng sanh mười phương bằng
vô tác diệu lực,
chúng ta tiếp tục tiến tu pháp
hồi hướng. Những
thành quả tu tạo được trên đường hành
Bồ tát đạo,
chúng ta đừng đánh mất.
Chúng ta không nghĩ tới, nhưng không phải làm rồi bỏ, tức phải có
gắn bó mật thiết. Phải giữ lại và biết chỗ gởi là tu
thập hồi hướng. Tu
hồi hướng theo
Hoa Nghiêm là
nỗ lực đầu tư vào ba
vấn đề chính : đầu tư về
trí tuệ, đầu tư cho
pháp giới chúng sanh và đầu tư
chơn như thật tướng.
Đây là
việc làm của
Bồ tát trụ Hiền vị ở cấp 3, vẫn nương theo Thầy là bậc Thánh, làm với Thầy để có
kinh nghiệm và tạo được
cảm tình vơùi người. Dùng
thành quả này tu
hồi hướng, chuẩn bị
tư lương để sau này làm thay Thầy.
1 - HỒI HƯỚNG VÔ THƯỢNG BỒ ĐỀ:
Nghĩa là dốc toàn tâm,
toàn lực để phát triển
hiểu biết. Vì muốn thay Thầy, ta phải chuẩn bị để có nhaän thức
chính xác nhất và được
đại chúng chấp nhận. Muốn như vậy, ta phải lo học.
Thực chất của
Bồ tát Hiền vị bước sang hàng Thánh đòi hỏi có sức
hiểu biết cao tột. Còn sống
bình thường, hưởng lặt vặt,
mai kia Thầy qua đời, ta làm được gì, có thể
tiếp tục hưởng thụ không ?
Hiểu biết của Thầy
vượt trội hơn người đương thời, nay ta
kế nghiệp Thầy, phải làm được hơn, không thì
xấu hổ vô cùng. Theo tôi, thế kỷ 21
nhận thức khác,
văn minh mỗi ngày
đi lên. Hôm nay
hiểu biết này là
vô thượng, nhưng giữ nguyên thì ngày mai thành tụt hậu. Tôi giỏi trong
thế hệ tôi, không giỏi trong
thế hệ các anh em, vì những phát minh mới không có trong thời tôi. Tôi mong sao các anh em hơn tôi, làm thế nào cho
mọi người đương thời của anh em phải
công nhận tu sĩ Phật giáo có
trí thông minh đáng nể.
Học
kinh Hoa Nghiêm phải học theo
Bồ tát Văn Thù Sư Lợi để cập nhật hóa
hiểu biết. Chưa có
hiểu biết cao nhất, chưa thể
làm Phật; đối với người bước
theo dấu chân Phật, việc đầu tư cho
trí tuệ quan trọng nhất.
Vì vậy,
mục tiêu của
Bồ tát là nâng
trình độ tri thức đến độ cao nhất. Tất cả pháp
thế gian và
xuất thế gian, không có gì
Bồ tát không biết. Trong khi
Thanh văn tu quán Không, bỏ hết việc
thế gian và tách rời
thế gian, thì
trở thành người không biết gì, thậm chí
trở thành con nợ, là đọa.
Bồ tát Tăng phát huy
trí tuệ caøng cao,
quả chứng càng lớn.
Mọi việc, đất đai, chùa chiền ... có thể bỏ, nhưng phải giữ
trí tuệ,
trí tuệ còn là còn tất cả.
Nâng
kiến thức, biết tất cả
việc đời thường, mới hướng dẫn người sống cao thượng. Còn chỉ dạy người
công quả, nhưng họ cũng không được
lợi ích trong cuộc sống, hoặc thảm hại hơn nữa,
cạo tóc cho họ thành người sống dở chết dở. Dạy và
độ người đông như vậy,
Phật giáo càng mau
suy sụp.
Lịch sử cho thấy ở đời Trần thầy tu rất nhiều, nhưng
tinh thần và
vật chất của dân chúng thời bấy giờ rất mạnh, vì nhờ các
nhà sư làm kinh tế giỏi, có
văn hóa cao, chính trị vững. Đó là
cách sống của người tu theo Phật,
trở thành người tốt nhaát, giỏi nhất,
quả cảm nhất. Nếu
lúc ấy, sư chỉ
ăn hại thì đã mất nước rồi.
Riêng với các anh em
học Tăng, không chịu học, mãi lo xây chùa, về sau
coi chừng hỏng
cuộc đời. Phải lo nâng trí giác vượt hơn người, vì dở hơn,
chắc chắn không thể độ họ.
Rèn luyện Vô thượng Bồ đề theo
Hoa Nghiêm không có nghĩa là lập lại lời Phật, lời của Tổ.
Chúng ta chỉ mượn tạm
ngôn ngữ văn tự để nhằm phát huy trí giác. Thật vậy,
nếu không nương theo vaên, tư, tu bên ngoài thì không có
điều kiện phát triển
Vô thượng Bồ đề, nhưng để kẹt văn, tư, tu, chấp vào đó,
bồ đề cũng không phát.
Những gì
chúng ta học từ bên ngoài được vỏ não
tiếp thu, cho ta tất cả
nhận thức về cuộc sống. Phần lớn,
chúng ta từ
địa vị phàm phu cho đến hàng
nhị thừa đều
đạt được tri thức ở dạng này. Nhưng, theo
tinh thần Hoa Nghiêm,
hiểu biết như vậy không phải là
Vô thượng Bồ đề, không thể xem là sở đắc của Boà tát.
Những gì
Bồ tát tiếp thu từ
văn tư tu không dừng lại ở phần
tác động cho vỏ não, mà còn
tác động sâu vào bên trong là trung não, khiến cho trung não
hoạt động, sản sanh ra trí giác ở mức độ cao, một thấy biết
chính xác, vượt ngoài
hiểu biết thông thường do vỏ não
cung cấp.
Phần
tác động vô trung não khiến trung não
hoạt động thì chỉ có
Thiền sư mới
sử dụng được khi nhập Thiền. Họ sẽ thấy
pháp giới,
nhập pháp giới, tức thế giơùi tâm, khác với
thế giới bên ngoài là
thế giới của
ý thức, không phải
thế giới Phật.
Thế giới của
ý thức là chỗ
sinh hoạt của
phàm phu trong
sanh tử luân hồi. Người tu không sống với
thế giới ấy,
chúng ta chỉ tạm thời mượn nó ở bước
ban đầu để làm thềm thang
bước lên thế giới tâm linh. Theo tôi, điều đó giống như
hoả tiễn dùng để phóng phi thuyền lên, nếu giữ
hoả tiễn lại thì phi thuyền cũng không thể bay lên được. Là
phàm phu,
chúng ta phải chuẩn bị
tư lương để đẩy phi thuyền
trí tuệ lên.
Học ở giai đoạn một,
ví như nhiên liệu đẩy trí lên và lên rồi,
chúng ta cần bấm nút xả
hoả tiễn hay xả thức, bỏ tất cả để đưa phi thuyền vào
không gian hoàn toàn vô thức.
Lúc ấy, vỏ não ngưng
hoạt động,
tâm hồn nhẹ nhàng lạ lùng, đầu
hoàn toàn thảnh thơi, trống không,
ví như không bị trái đất,
mặt trăng hút, đó là người học
Vô thượng Bồ đề.
Thuở nhỏ, tôi học, đầu luôn
nặng trĩu vì tất cả
dữ kiện nhồi nhét
vô quá nhiều, thành đau đầu. Sang Nhật, tôi mới
nhận ra điều này, nếu
tiếp tục, e bị điên. Phải xả thức, tất cả những gì ta học không
cần thiết nữa.
Tổ sư dạy :
Học hành không thiếu cũng không dư, nghĩa là quên hết, để vỏ não ngưng
hoạt động, đầu nhẹ liền. Ngày nay, mỗi khi tôi
cảm thấy hơi mệt vì phải
giải quyết nhiều việc, tôi xả thức, chừng khoảng 15 đến 30 phút, không
nghĩ ngợi gì, tất cả
vui buồn vinh nhục,
hiểu biết của
cuộc đời đều được dẹp sạch. Nhờ ngưng lại như vậy, vỏ não nghỉ ngơi thì phần chính là trung não
hoạt động để phát sanh ra
Vô thượng Bồ đề.
Khi vỏ não và cơ thể được nghỉ ngơi,
chúng ta làm việc không
cảm thấy mệt mỏi, mới nói :
Thừa sự thập phương chư Phật,
vô hữu bì lao. Không mệt vì chỉ làm bằng trung não, tức
Pháp thân Bồ tát, nên làm mà không làm. Không đến, không noùi, không dạy, nhưng làm trên
pháp giới.
Lúc ấy,
hoạt động của trung não có
công năng tác động cho người
phát tâm, người
phát tâm rồi thì
tăng trưởng bồ đề. Đó là
pháp hành của
Bồ tát, đến đâu đều
tác động qua các loài
chúng sanh bằng tâm.
Chúng ta tu ở dạng
Vô thượng Bồ đề, nằm ngoài tầm
nhận biết của thức và trí
thế gian, vượt ngoài lưới ma. Ma không biết được vì họ
hoàn toàn vô niệm. Đối với họ, có hình thì ảnh tự hiện, taát cả
pháp giới chúng sanh hiện đủ, nhưng không có vật thì trong tâm họ cũng chẳng có hình nào. Trong khi thức của
chúng sanh ghi nhận hình ảnh khi có vật, mà lúc vật đi rồi, thức vẫn lưu lại hình bóng của vật.
Trạng thái của
Bồ tát đạt
Vô thượng Bồ đề được
ví như tâm gương; có
chúng sanh thì
Bồ tát hiểu ngay họ muốn gì, nghĩ gì và
thuyết pháp tương ưng với điều họ muốn. Tất cả
tâm thức chúng sanh hiện lên tâm gương
Bồ tát và
Bồ tát tuøy
yêu cầu đó mà
giáo hoá, nên không
lỗi lầm.
Bồ tát nâng trí giác lên thành
trực giác, không cần
suy nghĩ tính toán mà vẫn biết đúng.
Chúng ta thấy các vị
đắc đạo làm việc rất
nhàn hạ, nhưng
hiểu biết của họ
linh hoạt kỳ diệu. Phần
vô lậu huệ này mới thông được
chúng sanh,
vũ trụ,
pháp giới, mới chứng được
thiên nhãn,
thiên nhĩ,
tha tâm thông, không nghe mà biết được người muốn gì.
Chúng ta cần
rèn luyện tri thức ở dạng này càng cao,
truyền đạo càng dễ.
Nếu không được như
vậy thì nhà
truyền giáo cũng chẳng khác gì
mọi người trên
cuộc đời.
Khi đắc được
Vô thượng Bồ đề, việc học
đạt đến đỉnh cao nhất của
tri thức,
kinh Hoa Nghiêm dạy
chúng ta dùng trí
vô thượng để độ
chúng sanh,
phục vụ xã hội, không phải học để chơi, tiến sang bước thứ hai, tu
hồi hướng pháp giới chúng sanh.
2 - HỒI HƯỚNG PHÁP GIỚI CHÚNG SANHỞ giai đoạn này, đối tượng của
Bồ tát là
pháp giới chúng sanh, vì
nếu không được tiếp cận
cuộc đời, chỉ là
hiểu biết thuần lý của hàng
nhị thừa,
Duyên giác.
Chúng ta dễ
nhận ra ý này,
thực tế thường thấy
hiểu biết có được ở nhà trường, nhiều khi đem
ứng dụng trong cuộc
sống lại khác.
Vì vậy, nhờ có học mới
giáo hóa được
chúng sanh và nhờ
giáo hóa chúng sanh,
chúng ta tăng thêm
hiểu biết, có được
chân thật trí, hai phần này
ví như hai chân để
chúng ta đi tới.
Đức Phật dạy raèng quả
bồ đề thuộc
chúng sanh, không có
chúng sanh,
Bồ tát không thành
Vô thượng đẳng giác.
Y cứ theo
tinh thần này, làm cho
chúng sanh thành Phật là làm cho chính ta
thành Phật. Hiểu
đạo lý như vậy, từng bước
chúng ta thăng
hoa đạo hạnh. Không hiểu
cốt lõi này, càng ráng tu càng khổ, nghiệp sanh và đọa.
Lo cho
chúng sanh một phần, nghiệp của ta nhẹ được một phần. Nhưng với
chúng sanh có
thiện duyên với ta, ta lo trước. Vì mới tu,
nghiệp ác ta còn nhiều, mà phải luôn
đối phó với người
ác duyên, họ chống đối ta, thì việc
tu hành của ta sẽ bị trở ngại.
Nhận ra ý này, bước
ban đầu, tôi tìm người hiểu tôi, có
cảm tình tốt
hoặc đồng hành với tôi; kinh goïi là
Bồ tát đồng
hạnh nguyện. Tôi lo
xây dựng gấp
bồ đề quyến thuộc này. Còn làm việc chung chung, ai cũng độ, nhưng ta giúp lầm người ác thì dễ bị chuốc họa. Thật vậy, nghiệp ta còn và
phước đức mỏng mà kết
quyến thuộc xấu ác thường gây
rắc rối cho ta.
Tôi
lưu ý Tăng Ni sinh điều này. Người thương ta, tin ta,
đồng hành đồng sự với ta, phải lo
xây dựng họ trước. Nếu
chúng ta không biết, khai thác họ cạn kiệt để
phục vụ cái không phaûi là
bồ đề quyến thuộc, thì đến khi người
hết lòng với ta cạn túi mà
ác ma quyến thuộc tăng thêm, ta còn nhờ cậy vào đâu để làm đạo.
Tôi học được
tinh thần này của
Phật giáo Nhật. Đối với những người thương và gần gũi, ta
cố gắng tạo công ăn
việc làm hoặc lo cho họ
học hành.
Xây dựng người tốt làm nồng cốt cho lực lượng
Phật giáo là điều tất yếu phải có.
Chúng ta đừng lầm là mình đang
thực hiện tinh thần vị tha vô ngã. Phải biết đến khi nào
chúng ta mới có thể
thực hiện được hạnh này.
Bước đầu, lo bao đồng
thiên hạ, về nhà không có cơm ăn, chùa rách,
đệ tử bỏ trốn,
chúng ta sẽ ra sao ?
Lo cho người có
thiện duyên gần gũi vững rồi, bước thứ hai
chúng ta xây dựng người
ác duyên.
Đức Phật cũng đã từng hoằng
hóa độ sanh theo cách như vậy. Đầu tiên, Ngài
giáo hóa 5 anh em
Kiều Trần Như, họ là những nhà
hiền triết quyết tâm tu. Điều này cho thấy
Đức Phật không thuyết giáo ngay, nhưng lựa người tốt trước; họ cùng hạnh
thanh tịnh, cùng nguyện
thành Phật, Ngài
cấp tốc xây dựng họ
đắc quả vị
La hán,
trở thành mẫu người
thánh thiện đáng kính trọng.
Bước đầu lập giáo khai tông,
đức Phật đã
xây dựng bồ đề quyến thuộc như vậy, còn
đồ chúng ô hợp, tranh cãi, thì khác gì
ngoại đạo.
Ngày nay,
chúng ta không
ý thức điều này, chỉ lo
xây dựng cơ sở, nhưng quên giáo dưỡng
Tăng chúng để họ thất học, ốm yếu,
bệnh hoạn là tự đẩy chính mình vào đường cùng.
Giáo dưỡng cho 5 anh em
Kiều Trần Như thành Thánh rồi,
Đức Phật mới đến độ
Xá Lợi Phất tiêu biểu cho hàng
trí thức và
Mục Kiền Liên tiêu biểu cho người làm ăn giỏi. Nói theo ngày nay, đây là
thành phần thượng tầng kiến trúc của
xã hội. Tuy không đông, nhưng họ đóng
vai trò quan trọng vì chính họ
xây dựng mô hình
xã hội. Vì thế
lãnh đạo được giới
trí thức là nắm được
quần chúng.
Kinh nghiệm lịch sử cho thấy
Phật giáo mạnh khi có
thành phần trí thức ủng hộ.
Có thể nói mô hình
xây dựng pháp giới chúng sanh của
Đức Phật bước đầu kết hợp người
phạm hạnh thanh tịnh là nhóm
Kiều Trần Như và
tiếp theo là nhóm
trí thức vẽ ra
chương trình hành động và nhóm
Mục Kiền Liên thực hiện. Tất cả
gồm có 200 người
cộng thêm 50 thanh niên thuộc nhóm
Da Xá. Đó là những người có
năng lực và
chết sống với Phật, nhiều đời đã laø
quyến thuộc của Ngài, nên Phật tìm đến độ họ.
Xây dựng bồ đề quyến thuộc vững, tập họp thành
thế lực mạnh,
biểu tượng tốt,
Đức Phật mới
mở rộng tầm
giáo hóa,
hàng phục ác tri thức; nghĩa là phải có đạo quân
Hiền Thánh rồi mới đến với
đối thủ. Tuy ác, nhưng họ cũng là người có duyên với Phật. Đó là ba anh em
Ca Diếp gồm 1.000
đồ chúng, tức
một thế lực mạnh được
Đức Phật hướng đến tiếp độ.
Ưu Lầu Tần Loa
Ca Diếp lãnh đạo nhoùm này là
quốc sư của
Bình Sa vương. Ông chuyên dùng bùa chú để
sai khiến rắn hại người và rất được vua
trọng vọng,
cung phụng đầy đủ. Khi
Đức Phật đến thành
Vương Xá để độ ông vua này, khiến cho Ưu Lầu Tần Loa
Ca Diếp caûm thấy bị
thiệt thòi quyền lợi. Đến đây, có đụng chạm thì mới ra lẽ.
Chúng ta thấy
Đức Phật hết sức thanh thản trong việc này. Ngài
thản nhiên xin ở trọ trong
tu viện của Ưu Lầu Tần Loa
Ca Diếp. Ông ta rất mừng và
sử dụng độc
thủ nhất để hại Phật bằng cách
xếp đặt cho Phật ở hang có rắn chúa.
Tin chắc rằng Phật đã bị rắn mổ chết, nhưng khi ông tìm đến xem thì thấy Phật xoa đầu
thọ ký cho rắn và
độc xà này quay ngược lại để giết ông.
Chứng kiến đức độ của Phật quá lớn,
tác động đến cả
thú dữ cũng
quy phục, khiến ông sanh tâm
hổ thẹn và
cảm phục lòng từ bi của Phật,
phát tâm quy y với Ngài. Đó là giai
đoạn Đức Phật giáo hóa người có ác duyeân và chuyển thành
thiện duyên với Ngài.
Đã
xây dựng được người ác thành
quyến thuộc, sang bước thứ ba,
Đức Phật mới
mở rộng tầm
giáo hóa đến
chúng sanh không có duyên. Trên bước đường
độ sanh, Ngài không cần
dụ dỗ, chỉ lo dung hóa được người thiện và ác,
xây dựng được 1.250 vị
thành Thánh rồi thì tiếng lành đồn xa.
Quần chúng thuộc mọi giới bắt đầu theo Phật, đó là chúng
kết duyên.
Khi hàng
trí thức và
quần chúng theo Phật, thì vua chúa cũng phải theo. Tầm
giáo hóa chúng sanh của Phật được
mở rộng, tạo thành
bồ đề quyến thuộc là
pháp giới chúng sanh.
Tôi nhắc nhỏ
Tăng Ni sinh ra trường cần
xây dựng được
bồ đề quyến thuộc, tức người theo ta phải giỏi, tốt, khỏe. Còn toàn người
nghèo đói, ngu dốt theo thì làm được gì.
Đức Phật khuyên hành
Bồ tát đạo phải lo hồi hường
pháp giới chúng sanh vì
tiêu cực thì không làm được, còn làm mà không
hồi hướng, việc cũng thành mây khói.
Hồi hướng là biết gởi
thành quả của ta vào chỗ còn
sử dụng được về sau. Làm rồi bỏ, thì làm để làm gì. Phật bỏ tất cả để
trở thành bậc siêu
xuất thế gian, làm thầy của trời người, không phải bỏ đeå thành
ăn mày.
Việc mà
chúng ta làm, vật của
chúng ta tạo,
hay nói chung tất cả
pháp hữu vi là
mộng huyễn bào ảnh, nhắm mắt xuôi tay là hết; dù ta có để cũng mất, mà bỏ cũng không còn.
Chúng ta ý thức sâu sắc điều này, nhưng không bỏ nó để
trở thành khôi thân
đoạn trí.
Thật vậy, hành
Bồ tát đạo phải biết
lợi dụng mộng huyễn để có
chân thật,
sử dụng nó để tạo
công đức.
Mọi việc làm
cuối cùng chỉ còn thiện hay ác
mang theo, gieo vào lòng người tình cảm
tốt đẹp hay nỗi
oán hận.
Biết rõ như vậy,
chúng ta chỉ gởi vào lòng người điều tốt. Ví dụ hành
bố thí, cúng đường, giúp người là gieo vào lòng người
ý niệm tốt. Đó là cái còn lại của
Bồ tát trên
cuộc đời. Trong hiện đời, gặp một người có
cảm tình, là biết ta đã gieo nhân lành cho họ trong kiếp
quá khứ. Ngược lại, gặp người thù ghét, chống đối cũng tự biết nhân ác ta đã trồng trong tâm họ.
Tu
hồi hướng pháp giới chúng sanh, bao nhiêu
thiện căn công đức chúng ta đều gởi vào tâm
chúng sanh thì không bao giờ mất.
Phật pháp cửu trụ cũng ở dạng này. Và
chúng ta tu được cũng nhờ
Đức Phật hồi hướng pháp giới chúng sanh.
Chúng sanh nào nhận được ký thác đó của Phật mới
phát tâm bồ đề. Không nhận được ký thác ấy, cũng thành
ngoại đạo chống phá
Phật đạo.
Đức Phật khuyên
chúng ta làm bao nhiêu cứ đưa vào lòng người
ý niệm tốt. Vua chúa nắm quyền, nhưng Phật nắm lòng người. Bước
theo dấu chân Phật, hành
Bồ tát đạo, ta
cố tránh không làm
mất lòng người, không đưa
ý niệm ác, chỉ đưa
ý niệm thiện vào lòng người. Các thầy sống chung đừng gieo vào lòng nhau
hận thù, nhưng gieo vào
ý niệm tốt, sau làm đạo
gặp nhau,
chúng ta dễ
thành công. Thà mất tất cả, nhưng còn giữ được lòng người.
Trên
tinh thần xây dựng lòng người, hành
Bồ tát đạo bố thí tiền của, sinh mạng cũng chỉ nhằm
thu phục nhơn tâm. Giúp
tiền của cho người vượt khó khăn, họ khá được thì cũng thương ta. Còn ta dư, trong khi họ
thiếu thốn,
tự nhiên họ cũng ghét ta. Phật khuyên ta
bố thí ngoại tài để tạo
cảm tình với người.
Kế đến
bố thí nội tài, nghĩa là ta
sử dụng sức khỏe,
trí khôn và kỹ thuật
tùy theo yêu cầu mà giúp người phát triển
trí tuệ,
giàu có, khỏe mạnh, đầy đủ bản lĩnh bằng với ta. Tất cả cũng chỉ nhằm gieo vào lòng người ý nieäm tốt.
Thí dụ đem công sức giúp dân địa phương, khiến cho người
quý mến,
kính trọng; điển hình như Hạnh Cơ
Bồ tát của Nhật thường đắp đường, bắt cầu,
xây dựng thành phố Nara hoặc
đúc tượng Tỳ
Lô Giá Na.
Trí khôn,
sức lực,
tài sản đưa vào lòng người
trở thành bất diệt, còn giữ lại thì đến ngày nào đó,
sức khỏe cũng suy kiệt, trí cũng hết,
tài sản cũng mòn.
Hồi hướng Vô thượng Bồ đề và
hồi hướng pháp giới chúng sanh có quan hệ
hỗ tương. Nhờ có học mới
giáo hóa được
chúng sanh và nhờ
giáo hóa chúng sanh,
chúng ta tăng thêm
hiểu biết, có được
chân thật trí. Hai phần này
ví như hai chân để
chúng ta đi tới.
Đối tượng
chúng sanh càng
ngang bướng, khó daïy,
trí khôn của
chúng ta mới nảy sanh và khả năng
điều phục mới phát triển. Nếu chỉ tìm người tốt
kết thân, lâu ngày ta dễ
trở thành ngờ nghệch. Trên bước đường tu
Bồ tát đạo, càng dấn thân đụng chạm
cuộc đời bao nhieâu, trí
chúng ta càng được mài dũa sáng bấy nhiêu.
Trên nền tảng
độ sanh để phát triển trí giác,
kinh Hoa Nghiêm dạy quả
bồ đề thuộc
chúng sanh; không có
chúng sanh,
Bồ tát không thành
Vô thượng đẳng giác.
Bồ tát hành đạo
ví như bồ đề thọ vương mọc giữa sa mạc
sanh tử,
chúng sanh ví như đất,
chúng sanh nghiệp và
chúng sanh phiền não ví như phân và nước. Không có đất, nước, phân,
bồ đề không sống và lớn được.
Cũng vậy,
chúng sanh càng
đau khổ, tâm
bồ đề chúng ta càng dễ phát.
Chúng sanh ở
cõi trời không chịu
nghe pháp, không thích tu. Ở
Ta Bà đau khổ,
chúng sanh gặp nhiều
phiền não không tự
giải quyết được;
Bồ tát cứu họ, giải được nghiệp cho họ,
chắc chắn niềm tin của họ đối với đạo rất lớn và không thể nào quên ơn
tế độ.
Điều quan trọng cần ghi nhờ rằng giúp người, nhưng
trí tuệ của
chúng ta cũng phải theo đó phát triển. Đừng để rơi vào
tình trạng làm nhiều mà quên
tu học,
phiền não bộc phát,
trí tuệ cùng mằn.
Thực tế chúng ta thường thấy có người hành
bố thí một lúc rồi cạn kiệt, người cũng không nhớ đến ta.
Ta làm gì cũng được, nhưng phải luôn chuẩn bị
con đường thành Phật của mình, đầu tư sao cho
đạt được Vô thượng Bồ đề. Trên nền tảng ấy, ta
bố thí,
cúng dường cũng nhằm tăng
hiểu biết,
phước đức, tình cảm của
chúng ta và
đạt đến mục tiêu thành Phật. Còn giúp đỡ người khác mà
bản thân ta lên không được thì người sẽ
thương hại, không
kính trọng ta nữa, ta lại
bất mãn. Người được giúp phải theo gương ta
tu hành.
Theo
tinh thần Đại thừa,
đạo yếu Tăng hoằng, nhờ
chư Tăng mà người biết Phật.
Thực tế chuøa nào có
Tăng Ni đạo đức,
học thức thì người ta thường tập họp đến để học, gần gũi để được
an lành. Có người nhờ cảm đức của bậc
chân tu mà
nghiên cứu Phật giáo.
Đại thừa Tăng làm sáng danh Phật, nên được kính troïng; không phải vì kính Phật nên trọng Tăng.
Bồ tát phục vụ chúng sanh, khiến
chúng sanh quy ngưỡng Phật đạo. Làm được bao nhiêu
công đức,
Bồ tát hồi hướng cho
pháp giới chúng sanh, là
cúng dường tối thượng.Trên tinh thaàn ấy, Phật của
Đại thừa là tất cả người đang sống trong
chánh pháp.
Kinh Pháp Hoa gọi là
thế gian tướng thường trụ, nghĩa là
chúng ta tin Phật, tu theo Phật,
thể hiện lời Phật dạy trong cuộc sống thì
chúng ta là
Pháp thân Phật.
Pháp thân Phật hiện hữu ngay trong
Tăng đoàn, trong
sinh hoạt xã hội; tìm ngoài sự sống này, không thể có
pháp thân của Phật, kinh
ví như tìm lông rùa,
sừng thỏ.
Hồi hướng pháp giới chúng sanh, phải
nuôi dưỡng quyến thuộc của
chúng ta thăng hoa. Nhiều thầy
trụ trì sợ học trò giỏi hơn, sẽ khi dễ mình, nên không cho đi học. Làm như vậy,
rõ ràng là giết đạo. Người có
quyến thuộc đông,
chắc chắn làm được việc lớn. Thử nghĩ không sưùc người, sức của, sao làm được.
Hành
Bồ tát đạo, tất cả
tư lương của
chúng ta đem
hồi hướng cho
pháp giới chúng sanh, hay chia sẽ
công đức để về sau người cùng
hợp tác với ta
gánh vác Phật sự. Nhiều thầy giỏi, nhưng khoâng có ai
cộng tác, cũng đành gác cái giỏi một bên. Có thể nói ta được việc hay không
tùy thuộc ở số người giúp việc. Họ giỏi ta làm được việc lớn, họ tầm thường, ta làm được việc thường.
Nhờ có
Vô thượng Bồ đề, không làm
mất lòng đại chúng và hiểu được tâm tư
đại chúng, làm được những việc mà người
quý mến ta. Hoặc biết
đại chúng chưa
chấp nhận, ta cũng
tùy thuận họ. Như
Di Lặc chưa
làm Phật vì chúng chưa
thuần thục, tức quyeán thuộc chưa giỏi, họ chưa phải
Bồ tát.
Di Lặc còn phải
tiếp tục lo cho
pháp giới chúng sanh.
Khi
thành tựu được hai pháp
hồi hướng Vô thượng Bồ đề và
pháp giới chúng sanh,
Bồ tát phải xả bỏ tất cả để
thực hành pháp hồi hướng chân như thật tướng. Trước kia, với
mục tiêu phấn đấu,
Bồ tát tất yếu phải
tích lũy công đức, tình cảm,
trí tuệ; vì không có vốn này thì không hành
Bồ tát đạo được. Nay cả
pháp giới chúng sanh đều biết
uy đức của
Bồ tát thì cần giữ làm
gì nữa.
Xả tất cả,
trở về chơn như thật tướng,
Bồ tát trở thành biểu tượng cao quý, đến đâu cũng mang
an lạc cho
mọi người,
thể hiện vô trụ xứ Niết bàn.
Tuy nhiên, chưa
đạt đến vị trí này, mà bỏ tất cả thì
trở thành ăn mày.
Xả bỏ, trong lòng không nghĩ đến
thành quả nào mà tất cả việc đều
thành tựu một cách
tự tại như ý, mới thực sự
đạt đến chơn như thật tướng. Còn ôm giữ thì dễ mắc bệnh chấp
thành quả của ta,
hiểu biết của ta và
đệ tử của ta, dẫn đến sanh tâm
tăng thượng mạn.
Kinh Hoa Nghiêm đưa ra pháp tu
hồi hướng chơn như thật tướng để giúp
chúng ta xóa bỏ bệnh
chấp pháp.
3 - HỒI HƯỚNG CHƠN NHƯ THẬT TƯỚNG
Tu
chơn như thật tướng nghĩa là độ tất cả
chúng sanh, nhưng không thấy ta độ và người cũng không
cảm thấy bị độ. Nhờ vậy, tâm
chúng ta luôn
thanh thản,
chúng sanh nhẹ nhàng
phát tâm bồ đề,
mọi vật hiện trên tâm gương của
chúng ta.
Tùy tâm nguyện, tùy
yêu cầu của
chúng sanh mà việc được tự động
giải quyết. Làm được tất cả nhưng
buông bỏ tất cả, không làm nặng lòng ta và người. Đó là hành trang tối
cần thiết để
tiến tu Bồ tát đạo.
Các giai đoạn trước ta hướng về bên ngoài, nhưng nay, ở mức
cuối cùng,
buông bỏ mọi
thành quả để ta hướng nội, tìm về cội nguồn
chơn như tâm. Sống với
chơn như tâm là
chân thật bất hư,
như như bất động; đó là
thực chất maø
Đức Phật muốn dạy.
Và từ
chơn như tâm, tùy
nhân duyên,
Bồ tát hiện thân tướng khác nhau, làm việc khác nhau. Nhưng duyên hết, việc hết, còn tâm
chơn như muôn đời không thay đổi.
Trên bước đường tu, phải tìm cho được
Pháp thân vĩnh hằng của chính mình hay
chơn như tâm.
Chính yếu là sống với tâm
chơn như và làm việc theo
yêu cầu.
Thí dụ thực chất của tôi không thay đổi, nghĩa là tâm
chơn như đa năng, đa dạng, không có
hình tướng cố định, nhưng
tùy theo Giáo hội phân công, tôi làm Trưởng ban
Hoằng pháp, làm Tổng
biên tập, làm việc giảng dạy, v.v... Tùy từng giai đoạn, tùy
yêu cầu mà có những việc khác nhau. Xong việc là hết, ta không bị kẹt với nó, nó khoâng
ngăn cản giải thoát của ta.
Đến đây đã
vượt qua được ba chặng đường của
tam Hiền. Cần
phân biệt tam Hiền của
nhị thừa tu chứng khác với
quả vị tam Hiền của
Bồ tát đã
hoàn tất pháp
thập trụ,
thập hạnh, thập hồi hươùng.
Tam Hiền của
nhị thừa nhắm vô tu tự độ, lấy hạnh
viễn ly làm chính và diệt được
phiền não mới là Hiền.
Vì vậy,
từ hàng Dự lưu, tức
Tu đà hoàn không bị
xã hội chi phối được nhập vào dòng Thánh của
nhị thừa.
Đối với
Đại thừa, tính từ
Bồ tát thập trụ bắt đầu bước vào Hiền vị, nhưng khác với
Dự lưu ở điểm hàng
Dự lưu tu
thoát ly cuộc đời, ở trong cảnh
giải thoát được giải thoát để bước vào dòng Thánh, thì dễ tu hơn
Bồ tát.
Tuy nhiên,
thành quả không cao bằng
Bồ tát.
Thật vậy,
Bồ tát ở Hiền vị phải
nhập thế mà không bị
trần tục quấy rầy mới có thể bước vào dòng Thánh. Kinh
Duy Ma quy định tư cách Bồ tát là : "Cư tài chi sĩ,
cư gia chi sĩ,
tại gia chí
Phật đạo giả". Nghĩa là
Bồ tát ở
thế gian, nhưng
ý nghĩ và
việc làm của họ giống với người
xuất gia. Và
Bồ tát còn hơn
Thanh văn Tăng ở điểm sống trong
thế tục, nhưng
tâm hồn xuất gia, quả thực là cao quý. Đó là
tinh thần Đại thừa rèn luyện tư chất của
Bồ tát vào đời đầy
sóng gió, tâm vẫn trụ vững ở
đạo pháp.
Bậc
Nhứt lai của
Thanh văn bằng với
thập hạnh của
Bồ tát. Nhưng hàng
Nhứt lai đi sâu vào dòng Thánh hay sâu vào
nội tâm và tiến lên dòng Thánh dễ hơn
Bồ tát vì càng tu, càng
thoát ly cuộc đời, tâm dễ thoát tục.
Trong khi
Bồ tát đi sâu vào
cuộc đời, việc nhiều hơn, nhưng
tâm hồn vẫn
thanh thản. Họ tập sự tu
lục độ, không phải chính tu. Họ thân cận Phật.
Vì vậy, hàng
thập trụ,
thập hạnh vẫn
cần phải có Phật hay
Bồ tát thập thánh xuất thế để nương theo tu. Không có điểm nương tựa này,
Bồ tát tam Hiền không
tiến tu được. Tu
tiểu thừa theo
Thanh văn, không có Phật
xuất thế, không có
Bồ tát để nương vẫn tu được.
Có thể khẳng định
Bồ tát Hiền vị bắt buộc phải nương Thánh, mới thành Hiền được. Trong lúc nương bậc Thánh, điều gì xảy ra ?
Nương theo
Thánh Tăng,
chúng ta thành tựu được nhiều
công đức; nhưng cũng dễ bị đọa, nếu
sai lầm.Theo
kinh nghiệm của tôi, ai có thầy
nổi tiếng dễ
nhận ra ý : "Cha làm thầy, con bán sách !".
Nương thầy để làm việc cho thầy, tu bồi cội đức của mình. Nhưng dựa hơi thầy, gây khó khăn cho
bạn đồng tu, làm việc lặt vặt,
cuối cùng cuộc đời cũng không ra chi.
Trong chùa,
thị giả là người có
điều kiện nương thầy,
đời sống vật chất của
thị giả thường cao.
Tuy nhiên, nếu chỉ lo hưởng thụ, không tu,
cuộc đời dễ
tiêu tan nhanh chóng.
Thực tế, nhiều thầy lên được, nhưng bị như vậy lại rớt xuống. Hoặc có
cư sĩ được các vị
Hòa thượng tin cậy, cũng thường bắt nạt người khác, thâm lạm của
Tam Bảo. Vaø các bà nấu ăn cũng vậy, được hầu những vị tôn đức, nên ít ai dám nói động đến. Ỷ thế đó, thường bắt nạt các người nấu ăn khác,
cho đến gây gỗ, làm những việc
tội lỗi. Về sau cũng bị đọa,
đáng sợ.
Tôi thân cận caùc vị
đại Hòa thượng, thấy rõ các Ngài có
công đức lớn. Ba hạng người trên được phước duyên hầu cận các Ngài, nhưng vì tu sai, mới ra nông nổi như vậy. Họ không
ý thức được rằng thực sự là nhờ
đức hạnh của thầy,ï mới làm được việc, còn tự
bản thân họ làm thì không ai
chấp nhận. Cần nhớ là ta có
nhân duyên làm việc và nương theo thầy, phải khiêm tốn, lo phát huy khả năng, mới tu tạo
công đức của ta được.
Bản thân tôi từ
ban đầu không ai biết đến. Nhờ
làm thị giả cho
Hòa thượng Thiện Hoa, giúp việc cho
Hòa thượng Trí Thủ,
Hòa thượng Thiện Hào, người ngoài mới biết tôi. Tôi luôn
tâm niệm nương theo các bậc
thạch trụ tòng lâm,
quyết tâm phát huy taøi năng,
đức hạnh, làm cho được việc. Thầy tin, giao việc thì ta làm
hết lòng. Càng được việc, càng khiêm nhường, từ chối cái Ta,
nhận thức rõ ta làm việc của thầy, không phải của ta.
Tôi
tham gia vào hàng
lãnh đạo từ lúc tuổi còn trẻ, thay thế các
Hòa thượng lãnh đạo, nên khó
vô cùng.
Lúc ấy, tôi chủ trì
buổi họp, nhưng không ngồi ghế
chủ tọa, chỉ đứng một bên và
truyền đạt ý của
Hòa thượng lãnh đạo, thì các
Hòa thượng khác dễ
chấp nhận. Còn mình
lãnh đạo thật thì
chắc chắn bị
phản đối.
Khi tôi giúp việc với
Hòa thượng Thiện Hào cũng vậy, Ngài
cho phép tôi
phát biểu thì tôi nói với
tư cách đại diện Ngài, người mới nghe, họ ít bị
tự ái hơn. Và khi
ý kiến được
đại chúng công nhận, là ta bước sang giai đoạn mới, thay thế thầy để
điều hành mọi việc.
Ở
Nhật Bản có
Bắc Điều Thời Lại xuất thân là
Thiền sư thay triều đình làm chính sự cứu nước, nhưng ông không soán ngôi
thiên hoàng, không xưng tướng quân, cũng không xin tấn phong. Ông chỉ xưng chấp quyền, nghĩa là tạm
điều hành để lo việc nước; khi tìm được người khác có khả năng
lãnh đạo, ông sẵn sàng giao lại.
Thiết nghĩ hành
Bồ tát đạo làm thế nào được việc, còn
danh nghĩa là gì cũng được. Được người thương kính và làm được việc quá tốt,
trở về chùa, ai cũng thương,
thể hiện mẫu
Bồ tát tam Hiền luôn luôn có đức khiêm tốn.
Đó là kinh nghieäm của tôi học về
tam Hiền của
kinh Hoa Nghiêm, nương vào Thánh,
chúng ta thành công được một phần và khi các Ngài không làm nữa, ta
đủ khả năng thay thế.
Quá trình hành
Bồ tát đạo theo
Hoa Nghiêm, từ
sơ phát tâm tu
thập tín đến
hoàn tất thập hồi hướng,
đạt đến thềm thang thứ 40,
chấm dứt giai đoạn Hiền vị và chuẩn bị
bước lên Thánh vị,
tu pháp thập địa của
Bồ tát.
V- BỒ TÁT THẬP ĐỊA hay thập thánhTheo
Thanh văn thừa, những vị đắc
tam quả :
Tu đà hoàn,
Tư đà hàm,
A na hàm được xếp vào Hiền vị và hàng Thánh là
A la hán.
Theo
Đại thừa thì khác hẳn, hàng
tam Hiền gồm có những vị đang ở giai đoạn tu
thập trụ,
thập hạnh,
thập hồi hướng. Hàng
Thánh vị là chư
Bồ tát đang thể nghiệm pháp
thập địa ở 10 cấp bậc khác nhau.
Kinh Hoa Nghiêm quy định tam Hiền vị mới chỉ là
quyến thuộc của
Bồ tát hay
Bồ tát tập sự làm công việc của
Bồ tát, chưa
đủ tư cách Bồ tát thực thụ. Họ chưa
chính thức nhận
trách nhiệm, phải nương theo sự
chỉ đạo của hàng
thập Thánh để phát triển
đạo hạnh của
bản thân.
Muốn hành
Bồ tát đạo,
trở thành Bồ tát chính thức hay
hậu tâm Bồ tát, hàng
tam Hiền phải
viên mãn quá trình tu
thập trụ,
thập hạnh,
thập hồi hướng.
Ở giai đoạn từ
thập tín đến
thập hồi hướng, nhờ nương Phật hay các
đại Bồ tát,
chúng ta thành tựu công đức một cách dễ dàng, đôi khi làm được những việc lớn, khó, vượt hơn cả khả năng của
Thanh văn,
Bích Chi Phật, thậm chí hơn cả
Bồ tát. Nói cho
dễ hiểu, kể từ khởi điểm
cho đến giai đoạn tu
thập hồi hướng,
chúng ta chỉ là người
cộng tác, chưa phải
lãnh đạo.
Lúc ấy, việc quan trọng là chuaån bị cho đầy đủ để khi
bước lên địa vị lãnh đạo, không gặp khó khăn và
chắc chắn thành công.
Tuy nhiên, khi
đăng địa Bồ tát, là bước sang giai đoạn phải tự phát huy bằng
sức lực, khả năng của chính mình, không
nương nhờ với
đạo sư nữa.
Bồ tát thập địa đã có đầy đủ
trí tuệ, có
quần chúng ủng hộ và không còn
vướng mắc các pháp, có
điều kiện tự làm lấy.
1- BỒ TÁT SƠ ĐỊA - HOAN HỶ ĐỊA
Khi bước vào hàng
lãnh đạo hay chuyển qua giai đoạn tu của
Bồ tát thập địa,
vị trí khởi đầu là
Hoan hỷ địa.
Kinh Hoa Nghiêm quy định Bồ tát sơ địa hiện thân làm
tiểu vương, tức lãnh chúa một vùng. Công việc của họ
tương đối nhỏ, chỉ
lãnh đạo một nhóm người,
điều hành tốt một
lãnh vực nào thôi. Ví dụ như tôi chỉ
chu toàn được công việc
hoằng pháp là một ngành của
Giáo hội, không thể
đảm đương toàn bộ công việc.
Bắt đầu nhận một việc nhỏ trong việc chung của hàng
lãnh đạo mới thấy cái khó của người
lãnh đạo.
Đơn giản như trong lớp học, chỉ làm chúng trưởng của một chúng đã có
vấn đề. Ta thường
cảm thấy khó chịu khi bị
lãnh đạo,
tìm cách chống phá; đến phiên ta
lãnh đạo, ta còn tệ hơn họ. Điều hòa moät chúng nhỏ còn không xong, nói chi làm được thật tốt công tác của lớp
đề ra.
Bản thân không kiếm nổi cơm ăn cho
cá nhân mình, nhưng ôm chí lo cho
xã hội no cơm ấm áo thì chỉ là kẻ
mộng du, nói chuyện của
thiên hạ thì chỉ là hạng thực khách.
Khi tôi
trưởng thành, bắt tay vào công việc
lãnh đạo mới nhận chân được nhiều điều khó khăn, mới thấy được các bậc cha anh mình thật
tài đức. Bắt đầu viết sách,
dịch kinh, mới thấy
Hòa thượng Trí Tịnh quá giỏi. Đến khi làm Trưởng ban
Hoằng pháp, mới phục cố
Hòa thượng Thiện Hoa.
Bắt đầu làm việc,
va chạm với nhiều khó khăn, nhưng lòng vẫn
hoan hỷ, không nhăn nhó, không
cằn nhằn, không la rầy. Bình tỉnh,
sáng suốt,
vui vẻ là ba đức tính mà
Bồ tát Hoan hỷ địa an trụ.
Tụng kinh Hoa Nghiêm, tôi luôn
suy nghĩ về hạnh đức này của
Bồ tát sơ địa để
ứng dụng trong
cuộc đời hành đạo. Dù
hoàn cảnh nào cũng
cố gắng đem hết khả năng
hoàn tất nhiệm vụ mà
Giáo hội giao phó. Gặp việc khó, tôi luôn nhớ đức tính
bình tĩnh của
Hoà thượng Trí Tịnh. Đừng để người khích động, bị người
chọc tức,
đe dọa, mua chuộc, vẫn
thản nhiên. Vì
chúng ta biết rõ thiếu
bình tĩnh sẽ hư việc liền.
Thực tế cho thấy có người giỏi nhưng nông nổi, phạm
sai lầm, tiêu cả
cuộc đời. Hoặc khi
cáu kỉnh,
mắng nhiếc người, họ không
hoan hỷ và bỏ ta; không còn ai
hợp tác, ta chỉ còn nước từ chức. Nếu biết
bình tĩnh,
chúng ta sẽ tìm được cách tốt nhất để
thuyết phục họ.
Ngoài ra, tôi học được với cố
Hòa thượng Thiện Hoa đức tính
hoan hỷ. Gặp người kỳ dị mấy, Ngài cũng cười. Ta không làm thì Ngài vẫn
vui vẻ nói : "Thầy mệt thì cứ nghỉ, tôi làm". Nhưng để
Hòa thượng làm,
chúng ta chịu không nổi.
Hòa thượng có
niềm tin sâu xa ở
đức Như Lai và đức tánh
hoan hỷ của Ngài là chất keo
gắn bó mọi người ngồi lại
với nhau, giúp
Hòa thượng lãnh đạo đươïc
Phật giáo ở giai đoạn có nhiều
biến động. Tuy
Hòa thượng vắng bóng trên
cuộc đời, những người
cộng tác với Ngài vẫn nhớ thương,
quý trọng.
Trên đường hành đạo, khi
chúng ta đề xuất việc, người không làm, còn chống đối.
Chúng ta làm sao
vô hiệu hóa sự chống đối, không
cho phép họ chống. Nhớ
lời Phật dạy không ai có thể đổ xấu cho người tốt,
chúng ta không trả đủa bằng cách đánh
hay nói nặng họ.
Trái lại, dùng đức tánh tốt,
tài năng đức độ để xấu ác ấy không
tác hại được. Ta phớt lờ,
mỉm cười hoan hỷ như
đức Di Lặc và chỉ
nỗ lực phát huy đức tánh tốt.
Tu
Bồ tát đạo,
bình tĩnh kiểm lại xem số người
ủng hộ hay số chống đối mạnh. Nếu người chống đông và
quyến thuộc theo ta còn quá yếu là biết
thời cơ chưa đến. Nếu một nửa
ủng hộ, một nửa chống, mà thuộc hạng cái gì cũng chống, thì cũng chẳng
đáng sợ.
Chúng ta dùng
tài đức thuyết phục được những người thaân
cùng chung sức
hợp tác, thì người chống không
giúp một tay cũng chẳng sao. Ta vẫn
thản nhiên,
vui vẻ với kẻ chống đối, nhiều khi lại có lợi vì làm cho người tốt thương ta hơn. Tôi từng
kinh nghiệm điều này, có người chống thì
tự nhiên có người tốt
bảo vệ. Quan trọng làm sao
tranh thủ được
Như Lai,
Bồ tát ủng hộ thì
tà ma ngoại đạo không chống phá được, hay càng bị chống phá,
chúng ta càng được các Ngài
hộ niệm nhiều.
Ngoài ra, đối với hạng không chống không theo, ta nên
tranh thủ.
Như vậy, ra làm việc có đụng chạm, mới có cơ hội
sửa đổi thái độ,
lời nói,
dần dần chúng ta mới tốt. Phải bắt đầu tập
thực hành việc nhỏ và
hoàn thành được, sau lần bước
đi lên; nếu chê hay
cãi nhau, rồi giận, bỏ không làm thì
sự nghiệp đến đây cũng
chấm dứt. Gặp những người như vậy,
chúng ta cứ để họ đứng bên lề, một lúc
cảm thấy buồn, họ cũng nhập cuộc với ta.
Tu hành trong
cuộc đời này,
chúng ta luôn gặp ba
thế lực nói trên. Làm thế nào điều hòa, phát triển được người
ủng hộ,
chúng ta sẽ
thành công.
Bồ tát sơ địa tu chính yếu là phát triển công việc ấy. Với
tư cách lãnh đạo một nhóm nhỏ,
ý thức được rằng
tồn tại của ta là tương quan tương duyên với người, cố
mở rộng tương quan đó cho
tốt đẹp.
Bước vào dòng Thánh,
Bồ tát sơ địa có tên là
Hoan hỷ địa. Ở
vị trí này, làm Thánh đầu tiên, tuy chưa tu tạo được nhiều
công đức, nhưng
tối thiểu phải giữ được tâm
hoan hỷ trong mọi tình huống.
Thiết nghĩ tâm
hoan hỷ là sợi dây
thân ái liên kết chặt chẽ
mọi người. Theo
kinh nghiệm bản thân, tôi thấy nhiều Thầy học giỏi, nhưng kiêu ngaïo, không ai dám gần,
trở thành cô độc. Có thầy không giỏi nhưng luôn
hoan hỷ cũng
kết hợp được người và làm được việc.
Bắt đầu dấn thân, phải luyện cho được tâm
hoan hỷ;
nếu không sẽ khó
thành công. Đó cũng là lời nhắc nhở của
Bồ tát Phổ Hiền với
chúng ta : " Đối với tôi lòng luôn hoan hỷ".
Hoan hỷ đối với bạn
đồng học, đồng tu và tất cả
chúng sanh.
Nói thì dễ, nhưng
thành tựu được tâm này khó
vô cùng. 38 tuổi, giữ chức vụ Tổng vụ trưởng Thanh niên vào giai đoạn nhiều
bất an, khó khăn, tôi đăm chiêu đến độ ai cũng sợ, không dám gần. Nhưng trì
kinh Hoa Nghiêm, tôi
nhận ra ý
sâu xa của
Phổ Hiền dạy, lập hạnh này, đổi tâm một chút thì hoàn caûnh khác liền. Đổi
từ tâm cố chấp, người không dám gần, thành
mở rộng lòng, dung người, khiến người
thương mến, thích thân cận. Tôi
quan sát bề trong từng người, phát hiện được đức tánh tốt của họ, nên dễ sanh tâm
hoan hỷ. Nhà thơ Trụ Vũ sau 30 năm gặp lại thấy tôi
hoàn toàn thay đổi, anh đã cảm tác bài thơ :
Vào tâm
hoan hỷ địaThể hiện nụ cười thơTrí Quảng
Thiền sư độBa ngàn giọt lệ khô.
Ở
bước đầu của
thập địa,
Bồ tát sơ địa tu
thập ba la mật và
tứ nhiếp pháp.
Thập ba la mật gồm có :
Bố thí,
trì giới,
nhẫn nhục,
tinh tấn,
thiền định,
trí tuệ,
phương tiện, nguyện, lực và trí. Trong pháp
thập độ,
Bồ tát lấy
bố thí làm
pháp hành chính yếu, 9 pháp còn lại thì
tùy duyên mà làm. Trong
tứ nhiếp pháp :
Bố thí,
ái ngữ, lợi hành,
đồng sự,
sơ địa Bồ tát cũng
hành sử bố thí là
pháp chính; vì giai đoạn này cần
tranh thủ nhân tâm, hành
bố thí rất có lợi cho
Bồ tát đạt muïc tiêu này.
Ý thức được
lợi ích của bố thí theo
Bồ tát sơ địa, tôi rất
cân nhắc trong việc thể nghiệm pháp tu này. Khi
bố thí, tôi thường nhắm đến tìm
pháp lữ đồng hành, tìm người đồng hạnh, đồng nguyện, vì thiếu
quyến thuộc,
chúng ta không làm được. Tìm xem ai có
căn tánh Đại thừa để ta kết làm bạn tu, bất luận giàu nghèo, lớn nhỏ, họ cần ta và ta cần họ, ta giúp họ và họ
hợp tác với ta, cả hai bên đều
chung sức với nhau hết tình. Không được như vậy, khó làm nên
đạo nghiệp.
Hành
bố thí để phát triển, càng
bố thí,
quyến thuộc của
chúng ta càng đông, càng giàu mạnh,
đạo lực của
chúng ta càng
tăng trưởng.
Trên đường hành đạo, tôi luôn
theo dõi thaønh quả của việc
bố thí, nếu thấy
quyến thuộc tôi giàu thêm, tốt thêm, khoẻ thêm, thì
biết mình tu đúng pháp của
Bồ tát. Vì
chúng ta đang tập đóng vai
tương tự như
tiểu vương lãnh đạo một nhóm nhỏ, phải làm thế nào phát triển được nhóm
quyến thuộc này và lấy đó làm nền tảng.
Trong 10
pháp ba la mật, song song với việc
hành pháp bố thí,
Bồ tát tu 9 pháp còn lại làm trợ hạnh. Ví dụ vừa
bố thí vừa
trì giới để
trở thành người
đức hạnh. Theo
Hoa Nghiêm,
Bồ tát trì giới lấy
thập thiện làm chuẩn, giữ cho
ba nghiệp thân khẩu ý thanh tịnh, không phải thu hẹp trong giới điều của
Tỳ kheo.
Tôi thấy nhiều người tốt lo
bố thí, nhưng không
tu trì giới,
ba nghiệp không
thanh tịnh.
Lúc ấy người theo ta, tin ta, nhưng vì
lời nói sai lầm,
mất giá trị, người sẽ bỏ ta. Cần nhớ rằng khi phát triển hạnh
bố thí,
quyến thuộc chúng ta nhiều và họ càng gần gũi thì càng
để ý đến ta; nếu phạm lỗi laàm, người không còn
mến phục nữa. Hành
bố thí đi kèm với
trì giới, ráng giữ
thân khẩu ý trong sạch, nhất là ý rất quan trọng.
Hành đạo ở nơi nào,
quan sát khả năng người để giúp đỡ họ
đi lên, họ sẽ gần gũi
chúng ta; như vậy đã
thực hiện được
ý niệm trong sạch trong việc hành
bố thí.
Hạnh
nhẫn nhục đi kèm với hạnh
bố thí, luôn
bình tĩnh chấp nhận việc không hay đổ lên cho ta. Chẳng hạn giúp người, lại bị họ chống ta. Ta
nhẫn nhục đến khi họ hiểu được thì sẽ
trở thành người hỗ trợ
đắc lực nhất. Tu
Đại thừa,
nhẫn nhục của
Bồ tát phải mang lại kết quả
lợi ích trong tương lai.
Trợ hạnh
tinh tấn giúp ta thấy việc đáng làm thì làm, không
do dự. Trợ hạnh
thiền định giúp ta luôn giữ tâm
sáng suốt, v.v... Nói chung, 9 pháp khác trong
thập độ thì tùy lúc, tùy người mà làm khác nhau, nhưng cũng chỉ nhằm hỗ trợ cho ta
tiến tu hoàn mãn
pháp bố thí, gọi là
đàn ba la mật gồm : taøi thí,
pháp thí và
vô úy thí.
Muốn
bố thí tất nhiên phải có
của cải, làm sao cho người
hợp tác với ta có cơm ăn áo mặc. Ta
xây dựng họ và cả
gia đình họ cùng được hưởng
sung túc,
dứt khoát từng bước
đi lên, không để họ thụt lùi.
Vì vậy,
Bồ tát càng
bố thí càng có nhiều
quyến thuộc và
thế lực.
Nếu không bố thí đúng pháp, không
kết hợp với
trì giới,
nhẫn nhục,
thiền định,
trí tuệ...., giúp người mà lòng
chúng ta như thế nào đó và taâm của người nhận thế nào mà
kết cuộc họ
trở thành kẻ
ăn hại suốt đời, thậm chí tệ hơn nữa là ta không còn của để cho và họ sẽ thù ghét ta.
Pháp thí không có nghĩa là
giảng kinh, vì giảng mà người không
sử dụng được, cũng không
ích lợi. Pháp là
chân lý, tức nguyên tắc sống đẹp nhất trên
cuộc đời,
thí pháp rất quan trọng.
Người đến với tôi, tôi thường
suy nghĩ nên giúp họ
lời khuyên nào để có thể
chuyển hoá cuộc sống họ
tốt đẹp.
Thực tế thường thấy người
nghe pháp, sống được với pháp, họ rất an vui, sanh được
công đức. Những người ở Mỹ đọc sách của tôi, họ đồng cảm. Đến thăm tôi, họ
cho biết nhờ an trụ những lời chỉ dạy trong sách, họ nhaän được nhiều điều
mầu nhiệm trong cuộc sống.
Thiết nghĩ, trước nhất
chúng ta chỉ họ
cách sống ở
thế gian có
ý nghĩa và cao hơn mới dạy pháp
xuất thế, ra khỏi
sanh tử luân hồi,
thành Phật. Sống an vui, chết
giải thoát; được như vậy
chắc chắn họ phải
gắn bó cuộc đời với ta, theo ta mà không
an lành thì ai theo làm gì.
Tôi
tâm niệm rằng không làm cho người tốt được thì thôi, không thể làm cho họ xấu đi. Tôi thường thấy các thầy lãnh đaïo chỉ nghĩ được việc mình, những người tin mình, thương mình, thì xúi họ làm kẻ lót đường,
thành thân tàn ma dại.
Cổ nhân cũng nói : "Nhứt tướng
công thành vạn cốt khô".
Đức Phật của
chúng ta không bao giờ như vậy, Ngài
hiện hữu trên
cuộc đời vì lợi ích cho
chư thiên và
loài người. Ngài sẵn sàng
hy sinh để cứu người, không để người chết vì mình.
Ngoài ra,
Bồ tát sơ địa thể hiện hạnh
vô úy thí, ai gần
Bồ tát phải cảm nhận được
an lành. Tôi tu
suy nghĩ pháp này nhiều. Muốn làm cho người yên, phải tự mình yên trước. Luyện cho được sức bình tỉnh vì không bình tỉnh,
cuộc đời còn
bi đát hơn. Ta
che chở được người, có khả năng làm cho người
an ổn, hay chỉ cần có ta là họ yên tâm.
Sức mạnh vật chất,
sức mạnh tinh thần để
bảo vệ ta và người rất quan trọng. Vì người đông, nhưng thiếu lãnh tụ, chẳng khác gì bầy cừu khờ dại, họ
tha hồ giết. Nhưng nếu ta
sử dụng được
sức lực tổng hơïp của nhiều người, có thể chống trả được.
Giúp người được như vậy rồi,
Bồ tát cho họ biết rằng họ phải tự phấn đấu để
mai kia không còn thầy, họ vẫn sống
tốt đẹp. Và đúng như vậy, nhờ
Bồ tát giúp đỡ,
xây dựng, trong tương lai họ cũng có khả năng tự sốngï
an lành.
Thành tựu ba
pháp tài thí,
pháp thí và
vô úy thí, người theo học với
Bồ tát được no cơm ấm áo, sống
cuộc đời có
ý nghĩa,
lợi lạc, bình ổn. Làm được việc khó ấy mà lòng
Bồ tát lúc nào cũng
hoan hỷ, không dám
xem thường người, không
hãnh diện, tâm vẫn
thanh thản,
tự tại, mới được gọi là
Bồ tát Hoan hỷ địa.
Phàm phu thì không giống như vậy, lòng họ tràn đầy
phiền não, càng
bố thí càng ngạo mạn khinh đời. Hoặc cho rồi đòi hỏi người
biết ơn,
đền ơn, không làm theo ý họ thì buồn giận, phiền trách.
Để tránh những
sai lầm trên, trong lúc hành
Bồ tát đạo,
kinh Hoa Nghiêm dạy phải
kiểm tra xem
chúng ta thực hành có đúng với pháp
thập nhị nhân duyên hay không, có lạc ra ngoài
tứ niệm xứ và
bát chánh đạo hay không. Nếu lạc ra ngoài các pháp này là rớt vào
tà đạo. Đừng quên
niệm Phật,
niệm pháp,
niệm Tăng, đừng quên 37
trợ đạo phẩm, đừng quên pháp
quán nhân duyên. Quên những pháp này,
chúng ta sẽ bị
vui buồn vinh nhục tác động dẫn
chúng ta đi mất hút vào
sanh tử.
Hành
bố thí mà quán được pháp
nhân duyên sanh diệt mới có thể trụ được
pháp Không, mới giải toả được
phiền não của
nhân gian và trụ ở ngôi vị
sơ địa.
Chúng ta nhận thấy một số người hành
Bồ tát đạo,
bố thí một ít lâu thì bị
thế tục hoá.
Bước đầu họ
phát tâm bồ đề rất tốt, khoảng
thời gian sau, thường nổi
sân si, chỉ vì đã rời
niệm Phật, pháp, Tăng và các pháp nói trên.
Viên mãn được
công hạnh của
Hoan hỷ địa,
Bồ tát sơ địa từ
vị trí tiểu vương bước sang
việc làm khó hơn của
Chuyển luân Thánh vương ở nhị địa là
Ly cấu địa.
2- BỒ TÁT NHỊ ĐỊA -LY CẤU ĐỊA
Theo
kinh Hoa Nghiêm,
Đức Phật dạy tu 10
pháp ba la mật tương ưng với
thập địa Bồ tát. Từ
sơ địa tức
Hoan hỷ địa,
Bồ tát thành tựu chánh hạnh là
bố thí, được
mọi người quý mến và
Bồ tát hoan hỷ với người. Ở
vị trí này,
Bồ tát thường làm
Hộ quốc nhân vương,
giữ gìn bờ cõi
thái bình, được dân chúng yêu quý. Các vua đời Trần ở nước ta
thể hiện được
tư cách của
sơ địa Bồ tát. Thật vậy, họ được dân quý và họ thương dân,
đặc biệt là thường hướng về việc
tu hành,
dìu dắt người tu.
Thành tựu được
công đức của
sơ địa,
Bồ tát và người nhìn nhau trong niềm
hoan hỷ.
Tuy nhiên, phải làm thế nào để
tình thương này mỗi ngày
gắn bó hơn, rộng lớn hơn từ kiếp này sang kiếp khác, mới đi đúng lộ trình
Bồ tát đạo. Vì
hành đạo theo
Hoa Nghiêm, sự tương quan
mật thiết,
lâu dài giữa ta và người
hay nói chung, giữa ta và các loài rất
cần thiết.
Nếu không theo đúng
đạo lý Phật dạy, không phải là
Bồ tát, vì sống
chung lâu ngày,
chúng ta thấy rõ khuyết tật của nhau,
tình thương sẽ giảm dần theo
thời gian cho đến chẳng còn thương nhau được, thậm chí thù ghét nhau.
Muốn giữ được
tình thương bền lâu, không có cách nào hơn là
chúng ta phải tự tốt, phải
hạn chế tối đa các khuyết điểm. Cũng vậy, muốn lên đệ nhị địa, phải tịnh
hoá thân tâm, tức
trì giới thanh tịnh.
Trì giới của
Bồ tát khác với
Thanh văn theo
chủ nghĩa giới điều. Giới của
Bồ tát tu nhằm diệt sạch
ba nghiệp thân, khẩu, ý, không phải chỉ tính trên giới điều.
Làm thế nào để
ba nghiệp được
thanh tịnh, vì Phật dạy người có nghiệp không thể nào độ
chúng sanh được. Trước nhất, không có
hảo tướng, khó có thể hành
Bồ tát đạo.
Tu hành,
hiện ra thân tướng được người thương,
quý mến và muốn gần gũi, đó là
thân giới của
Bồ tát.
Muốn có thân mạnh khoẻ,
xinh đẹp,
dễ thương, điều
căn bản đầu tiên là phải
hạn chế tối đa việc
sát sanh, dù cho loài vật nhỏ nhất cũng không
sát hại; vì biết rằng nghiệp sát sẽ tạo cho
chúng ta thân thể yếu đuối, bệnh tật hay
chết yểu.
Kế đến, cần
hạn chế dâm dục cho đến đoạn
dục để giữ cho
con người trong sạch. Càng
đam mê tửu sắc, người càng xấu và hôi dơ. Điều thứ ba là
tuyệt đối không
trộm cắp.
Vi phạm ba điều này, sẽ rơi vào
ba đường ác. Nếu
đạt đến vị trí Hộ quốc nhân vương mà còn muốn tóm thu của người hay còn muốn bắt phái nữ làm
của riêng, thì không thể giữ được
tư cách thánh thiện của vua
hộ quốc và phải bị đoạ. Từ
Hộ quốc nhân vương muốn tiến lên
vị trí cao hơn phải tịnh
hoá thân, nhất là tịnh hoá từ bên trong, tự mình
hạn chế ba nghiệp, đó là
trì giới theo
tinh thần Hoa Nghiêm.
Ngoài ra,
tiến tu khẩu nghiệp, đối với người hành
Bồ tát đạo, điều gì nằm trong tầm tay, có khả năng làm được mới hứa. Và
xa hơn nữa, Phật dạy
chúng ta nên
nói tốt cho nhau hơn là
nói xấu. Người đời thường
tìm lỗi người khác để nói và
che dấu lỗi mình. Theo
kinh nghiệm tôi, không nói lỗi của người thì được hưởng
quả báo khi ta lỡ phạm
sai lầm, cũng có người
che chở ta, vì không ai
hoàn toàn không lỗi.
Chúng ta hạn chế lời ác, ý ác, không nói đòn sóc, nói lời
hoà hợp, khiến người thích gần gũi, theo ta;
chuyển đổi từ
thế giới bươi móc sang
thế giới bảo vệ,
xây dựng nhau. Và sau cùng, tu sao cho giọng nói nghe êm tai mát lòng, việc
chúng ta dễ
thành công.
Thực tế, có người mở lời
cầu thỉnh điều gì mà
chúng ta không thể nào từ chối họ được; nhưng
trái lại có người vừa mở giọng là bị từ chối liền. Đó là điều cần
suy nghĩ trên bước đường tu để
rèn luyện khẩu nghiệp theo Phật dạy.
Thanh tịnh hoá thân, khẩu, ý, nhưng
chúng ta biết rõ thân và khẩu
lệ thuộc vào ý. Trên
căn bản ấy, tu
Bồ tát đạo nhắm vô
điều chỉnh động cơ thúc đẩy bên trong, tức
nội tâm là chính. Từ
nội tâm phát triển ra ngoài
hình dáng,
lời nói,
việc làm đều tốt.
Tuy nhiên, khi trong lòng họ
thánh thiện, thì duø bên ngoài không tốt
chúng ta cũng
cảm thấy họ
trong sạch. Ví dụ, tôi thấy người có giọng nói không hay, nhưng đời này nhờ trì kinh, tâm họ tốt,
chúng ta cũng có
cảm tình với họ được.
Trái lại, người có
giọng ngọt ngào dễ thương, nhưng đời này khởi nhiều niệm ác hàm chứa trong tâm, khiến
chúng ta phải sợ,
e dè.
Trong phần
ý nghiệp : Tham, sân, si, tham đóng
vai trò chủ yếu. Tổ
Quy Sơn dạy rằng
chúng ta bị
lệ thuộc vật chất,
quyền lợi, bị nó
sai khiến vì
chúng ta tham ưa nó. Tu
Bồ tát đạo, đoạn lòng tham,
chúng ta không
bực tức, không
mê muội. Giai đoạn đầu, tập bỏ, không ham những gì không thể vói tới, chỉ ham những gì nắm bắt được. Nhưng tiến lên, luyện lần đến mức không
quan tâm những gì ta
sở hữu,
cho đến mạng sống cũng không ham,
đạt đến vô tham hoàn toàn mới thực
sự giải thoát. Được vậy,
quỷ thần còn không
chi phối được
chúng ta, huống chi là
nhân gian.
Bồ tát nhị địa còn có tên
Ly Cấu địa vì làm nhiều việc
công đức mà lòng không bợn nhơ, bỏ lại phía sau
quyền lợi thế gian, bỏ những
vọng tình mê chấp, hơn thua tầm thường, mới trụ ở
Thánh vị.
Phàm phu lặn hụp trong
sanh tử hưởng oâ uế,
Thánh nhân thì
thoát ly xấu ác đến mức
hoàn toàn trong sạch, được
Phật ấn chứng thành quả
tu hành ấy, không phải Phật cho.
Bồ tát Ly Cấu địa chuyên tu trì giới. Bắt đầu giữ
ngũ giới tiến tu lần lên đoạn dứt
ba nghiệp tham, sân, si trong cuộc sống
cho đến tâm
hoàn toàn thanh tịnh. Kế đến
Bồ tát tu
tam tụ tịnh giới. Đối với
Bồ tát,
tam tụ tịnh giới :
nhiếp luật nghi giới,
nhiếp thiện pháp giới và
nhiêu ích hữu tình giới, nghĩa là soáng trên
cuộc đời, luôn luôn làm việc tốt, là
mô phạm cho người.
Bồ tát hành đạo
hoàn toàn vì lợi ích cho
chúng sanh, không có
quyền lợi riêng nào cho
bản thân.
Bồ tát tu
nhiếp luật nghi giới không rời
niệm Phật,
niệm Pháp,
niệm Tăng. Đối tượng của
Bồ tát là Phật, Pháp, Tăng.
Đức Phật sống và
suy nghĩ về
chúng sanh như thế nào,
Bồ tát cũng làm giống vậy.
Chánh pháp luôn
thể hiện trong cuộc sống của
Bồ tát, nên tâm lúc nào cũng
thanh tịnh,
hoà hợp, an vui, không bao giờ tranh cãi, hơn thua.
Đời sống của
Bồ tát được hình thành đầy đủ Phật,
chánh pháp và nét
giải thoát của
Thánh Tăng, đưa
Bồ tát lên bậc Thánh,
tức từ tiểu vương lên
Chuyển luân Thánh vương.
Thánh nhân luôn luôn làm
gương sáng cho đời, người đời thấy
Tam Bảo trong cuộc sống của
Thánh vương nên quý trọngï và tự nguyện làm theo, không cần bắt buộc.
Bồ tát làm
Thánh vương thì người nghe tên, nhìn hình tươùng,
phát tâm quy ngưỡng. Họ không làm gì, nhưng dưới trướng đầy đủ bốn binh chủng, người tài giỏi đều
đầu phục khiến cho
thiên hạ phải sợ, nên không cần đánh.
Ngoài ra,
Bồ tát Ly Cấu địa nhiếp luật nghi giới an
trụ quả vị
A la hán,
Bích Chi Phật. Dù đóng vai nào trên
cuộc đời, họ cũng giữ vững
tư cách của bậc
xuất trần thượng sĩ "Cư tài chi sĩ,
cư gia chi sĩ,
tại gia chí
Phật đạo giả". Đó là
hình ảnh Bồ tát đóng vai
Chuyển luân Thánh vương không
xuất gia, nhưng tâm
thanh thản như bậc
chân tu, làm tất cả
việc đời mà không nhiễm
bụi trần. Trong đạo,
vị trí của họ hơn người
xuất gia vì đóng góp nhiều
lợi ích cho đời vẫn không rời
giải thoát và họ hơn người đời vì không
vướng mắc lợi danh
phiền não.
Chỉ có
Bồ tát đệ nhị địa mới làm được
Chuyển luân Thánh vương. Sanh trên
cuộc đời, sống trong tình huống nào, họ cũng là
Chuyển luân Thánh vương. Trên bước đường tu,
chúng ta thấy rõ người thật giỏi, tốt thì làm việc nhỏ, họ vẫn được
kính trọng.
Bồ tát có khả năng làm
Chuyển luân Thánh vương nhưng đóng vai nhỏ hơn, thì càng dễ cho họ.
Chúng ta nên biết không phải sanh ra họ làm
Chuyển luân Thánh vương ngay. Dù sanh vào
gia đình nghèo ở nơi
biên địa hạ tiện, từng bước khắc phục
hoàn cảnh khó, một
thời gian sau họ cũng thành lãnh tụ. Vì họ
thông minh nhất, tài giỏi nhất, giàu nhất, khoẻ nhất, nên ở
hoàn cảnh nào,
nhất định cũng là
Chuyển luân Thánh vương.
Riêng tôi,
ý thức sâu sắc điểm này, thường
an phận với
vị trí của mình, không
tham vọng, nhưng có khả năng thì từ từ người phát hiện và đưa lên. Mới ra trường,
Hoà thượng Thiện Hoa
chỉ định tôi đến
giảng kinh ở Bà Rá, Xuân Lộc hay những vùng xa xôi,
nghèo khổ.
Bước đầu tất yếu phải như vậy, nhưng khi giảng được thì
trở về thuyết pháp ở các
giảng đường lớn của thành phố,
dần dần thăng
hoa đạo nghiệp.
Vị trí chúng ta ở đâu thì
nhất định sẽ tới đó.
Bồ tát nhị địa tu
tam tụ tịnh giới, lấy việc
lợi ích cho người làm chính và trong
Tứ nhiếp pháp,
thường dùng ái ngữ, vì có
ngôn ngữ khó nghe thì không thể giữ lâu
vị trí Chuyển luân Thánh vương.
Bồ tát Ly Cấu địa đã sạch
phiền não,
ái ngữ phát xuất từ
chân tình, từ lòng thương muốn làm
lợi ích chúng sanh.
3- BỒ TÁT ĐỆ TAM ĐỊA : PHÁT QUANG ĐỊA
Từ
vị trí Chuyển luân Thánh vương ở đệ nhị địa có khả năng
lãnh đạo tất cả nước, nhưng
Bồ tát không
thỏa mãn với
địa vị cao tột này của
nhân gian. Dùng
thành quả ấy để
Bồ tát tiến tu lên
quả vị cao hơn,
tức từ đệ nhị địa là
Ly Cấu địa thâm nhập vào địa thứ ba,
Phát quang địa. Vì không màng đến
quyền lợi thế gian, hướng tâm đi
xa hơn, nên
dập tắt tất cả
ý niệm trần gian, từ cuối đường hầm
sanh tử loé lên
tia sáng mở đường cho
Bồ tát đi ra.
Nhờ đã
hoàn tất thập thiện nghiệp đạo ở giai đoạn
Ly Cấu địa,
rèn luyện được
thân khẩu ý nghiệp
thanh tịnh,
thân tâm hoàn toàn bình yên. Bấy giờ, xả
báo thân,
Bồ tát hướng lên
thiên thượng,
thế giới gần
chúng ta nhất là
cõi Trời Đao Lợi.
Đế Thích Thiên vương
đạt đến địa vị làm
vua Trời Đao Lợi, nhưng hưởng hết phước rồi cũng đoạ. Riêng
Bồ tát đệ
tam địa vào
cõi Trời Đao Lợi không phải bằng
tham vọng, vì đã
thanh tịnh ba nghiệp thân khẩu ý, thường sống trong
Diệu Pháp đường,
suy nghĩ về pháp, nên thăng hoa, không bị
đọa lạc.
Bồ tát Phát Quang địa tu pháp nhẫn nhục,
thành tựu được
chúng sanh nhẫn,
pháp nhẫn và đại nhẫn. Nghĩa là người trên
cuộc đời muốn gì,
Bồ tát sẵn sàng nhường cho họ. Các loài
chúng sanh không có khả năng
tác hại Bồ tát. Tuy vượt hơn mọi loài về
trí tuệ,
đạo đức, nhưng
Bồ tát nhẫn nhịn để làm
lợi ích cho
chúng sanh.
Bồ tát không bị
chúng sanh và
hoàn cảnh chi phối, đứng ngoài mọi tranh chaáp,
đồng thời dùng
pháp lợi hành trong
tứ nhiếp pháp để
giáo hóa.
Ở giai đoạn tu nhị địa, làm
Chuyển luân Thánh vương chỉ
điều hành được
loài người. Nhưng nay, làm
Trời Đế Thích,
Bồ tát Phát Quang địa phải
chi phối được tất cả
chúng sanh :
noãn sanh,
thai sanh,
thấp sanh,
hoá sanh.
Vì
chi phối được
toàn bộ các loài, trên
căn bản ấy,
Bồ tát nhẫn khác hẵn
nhẫn nhục của
Thanh văn.
Thanh văn nhẫn bằng cách
chịu đựng, rụt cổ lại trước những gì
chúng sanh đổ lên.
Trái lại,
Bồ tát có
trí tuệ, thấy rõ để cho họ đổ ô uế có lợi hay giết họ có lợi.
Bồ tát suy nghĩ ứng xử cách nào
lợi lạc cho người trong
hiện tại và tương lai. Nếu nhịn để ta
đau khổ và họ
tham lam hơn thì
lợi ích gì.
4- BỒ TÁTĐỆ TỨ ĐỊA : DIỆM HUỆ ĐỊA
Đạt được nhẫn nhục ba la mật, từ đó tiến lên đệ tứ địa,
Diệm Huệ địa ở cõi
Dạ Ma Thiên.
Bồ tát lấy hạnh
tinh tấn và
đồng sự làm chính. Muốn
dìu dắt người, vào đơøi
độ sanh,
Bồ tát phải sống chung với họ. Vì có
kiến thức cao tột ở
cõi Trời Dạ Ma mà
sinh hoạt với người thường,
Bồ tát thành công dễ dàng. Đối với việc
bình thường,
Bồ tát không cần nhọc công, với việc khó mà ngươøi không kham nổi,
Bồ tát cũng
hoàn tất.
Bồ tát lập hạnh mang
lợi lạc cho người, không biết
mệt mỏi :
Thừa sự thập phương chư Phật
vô hữu bì lao.
5- BỒ TÁT ĐỆ NGŨ ĐỊA : NAN THẮNG ĐỊA
Với
trí tuệ đã phát sanh ở
Diệm Huệ địa,
Bồ tát tiến tu thiền định ở đệ ngũ địa là
Nan Thắng địa, nên không rớt vô
tà định.
Bồ tát đã
từ bỏ quyền uy cao nhất của vua
cõi Trời Dạ Ma để
thâm nhập giáo nghĩa Phật dạy và đi sâu vào
thiền định, thấy
cuộc đời sáng lên, không phải
thiền định để thành than nguội cũi mục, không biết gì.
Từ
Diệm Huệ địa,
Bồ tát thâm nhập Phật pháp, vào
thiền định,
tức từ cảnh giới bên ngoài vào
cảnh giới bên trong là
Đâu Suất Đà Thiên của
Di Lặc. Nếu
chúng ta không có
trí tuệ vào
tà định thì gặp
thiên ma. Phải ngang qua
cung Trời Đâu Suất, gặp
Di Lặc, học tình cảm của tất cả loài, biết chúng nghĩ gì và vào
thiền định;
tùy theo điều gì
hiện ra,
Bồ tát hóa giải điều đó.
Hoà thượng Trí Tịnh nhắc nhở tôi, khi sống trong
thiền định sẽ có
trực giác; rời định,
chúng ta sống với
vọng thức, tính toán thường
gặp rắc rối. Sống trong
thiền định, có
trực giác, thấy việc biết ngay tốt xaáu, vì lòng
chúng ta yên tỉnh như gương, cái gì
hiện lên,
chúng ta biết rõ, đúng được 80%, không cần
suy nghĩ; còn
suy nghĩ kỹ cũng chỉ biết đúng 50%. Tôi thử
áp dụng điều
Hoà thượng dạy trong cuộc sống. Thấy rõ những gì tôi
suy nghĩ cân nhắc rồi làm thì ít đạt kết quả. Việc không
suy nghĩ mà làm lại
chính xác.
Bồ tát Nan Thắng địa hơn người ở điểm người moi óc tính toán vẫn
không giải được bài toán đời,
Bồ tát không cần
suy nghĩ mà biết roõ.
Bồ tát đạt được định thứ nhất
kiểm tra được thân, định thứ hai,
kiểm tra phiền não và định thứ ba để có
trực giác.
Bồ tát thâm nhập thiền định,
việc làm trở thành phi thường; vì
pháp hành của
Bồ tát diễn ra trong tâm, người thường không thể hiểu được, nên gọi là
Nan Thắng địa. Điển hình như các Tổ đắc định,
ngồi yên mà
thú dữ kéo đến để thọ nhận
sự giáo hoá.
6- BỒ TÁT ĐỆ LỤC ĐỊA : HIỆN TIỀN ĐỊA
Trải qua năm chặng đường hành
Bồ tát đạo,
hoàn tất được 5
pháp ba la mật :
Bố thí,
trì giới,
nhẫn nhục,
tinh tấn,
thiền định, giúp
Bồ tát bước qua địa thứ sáu, chứng
Bát Nhã ba la mật, tức
trí tuệ của
Bồ tát Hiện Tiền địa. Ở
vị trí này,
Bồ tát thường làm vua
cõi Trời Tha Hóa Tự Tại và có
trí tuệ siêu tuyệt, thấy biết
chính xác tam thiên đại thiên thế giới như thấy vật để trên bàn tay.
Kinh
Bát Nhã chấm dứt ở đỉnh cao là
trí tuệ ba la mật. Nhưng theo
tinh thần Hoa Nghiêm, không
kết thúc ở điểm này, vì từ chơn không của
Bát Nhã phát sinh
diệu hữu.
Vì vậy,
kinh Hoa Nghiêm triển khai thêm 4
pháp ba la mật :
phương tiện, nguyện, lực, trí, là 4
pháp hành sau cùng của
Bồ tát để
hoàn tất Bồ tát đạo.
7- BỒ TÁT ĐỆ THẤT ĐỊA : VIỄN HÀNH ĐỊATừ các giai đoạn tu trước kia
cho đến bước sang đệ
thất địa, tuy làm nhiều, nhưng kết quả ít vì
hiểu biết chưa
rốt ráo,
nhận định còn
sai lầm, còn ở trong
sanh tử.
Thật vậy, maëc dù tu đến đệ lục địa, chứng được
Bát nhã ba la mật, thấy đúng, nhưng vẫn thiếu hậu
đẳng trí, nghĩa là mới có
hiểu biết về
lý thuyết, chưa có
kinh nghiệm, mà
kinh nghiệm hay
thực tế cuộc sống thì không giống như
lý thuyết.
Lúc đó,
Bồ tát mới biết
phước đức còn kém, tức thiếu
phương tiện. Ví dụ,
nếu không có
sức khỏe thì tu
đắc đạo rồi, xác thân theo đó cũng bị hư hoại. Hoặc người giỏi, có trí, nhưng không được
mọi người chấp nhận, vì
phước tướng không có. Hành
Bồ tát đạo đòi hỏi phải có
hảo tướng,
bề ngoài xấu xí, khó
thuyết phục được người. Trên bước đường tu, tuy lấy
trí tuệ làm chính, nhưng đừng hủy hoại
thân thể.
Sức khỏe và
ngoại hình có thể coi là
phương tiện làm đạo của
Bồ tát.
Đức Phật cũng mang thân
ngũ uẩn như
chúng ta.
Tuy nhiên, người nhìn thấy 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp của Ngài là họ
phát tâm bồ đề. Còn ta cũng nói giống Phật, nhưng người không nghe, vì không có tướng phước.
Ở đệ
thất địa,
Bồ tát tu
phương tiện. Nay được
phương tiện này, ngày mai thấy việc người
thành tựu, nhưng
Bồ tát chưa làm được, thì phải tu nữa để có
phương tiện đó. Khi nào đầy đủ
phương tiện, làm gì cũng xuất sắc là đã đạt
phương tiện ba la mật.
Phương tiện có thể hiểu theo
thực tế,
trước tiên là
sức khỏe. Tu
phương tiện này, tức
điều chỉnh thân thành khỏe mạnh,
oai nghi, đổi
thân nghiệp ác
thành thân phước đức. Vì không có
sức khỏe, không làm được gì;
sức khỏe là
phương tiện căn bản cần có của
Bồ tát.
Phương tiện thứ hai theo
Kim Cang Tạng Bồ tát là những gì
chúng sanh cần,
Bồ tát đều biết rõ và
đáp ứng được. Kinh thường
diễn tả là
Bồ tát hành đạo
tùy phương tùy tiện, hay tùy
không gian và
thời gian mà
thỏa mãn yêu cầu của
mọi người.
Cho đến khắp
pháp giới, chỗ nào, người nào, lúc nào,
Bồ tát cũng làm được,
thỏa mãn trọn vẹn sự
cần thiết của
mọi người, là
thành tựu phương tiện ba la mật.
Kế đến,
Bồ tát sử dụng ngũ minh làm
phương tiện để dẫn dắt
chúng sanh vào đạo. Đến đâu
truyền đạo, điều tất yếu là phải
thông suốt văn tự,
ngôn ngữ nơi đó mới có thể
truyền đạt tư tưởng, chỉ dạy người.
Ngoài ra, để
giáo hóa chúng sanh được
phổ cập,
Bồ tát phải
hiểu biết về kỹ thuật, thuốc men,
lý luận học và
Phật học.
Thực tế cho thấy rõ các
nhà sư Tây Tạng rèn luyeän được
sức khỏe vượt hơn người thường và có
trình độ khoa học, ngoại ngữ, nên đã hướng dẫn được người
Tây phương,
đáp ứng được
yêu cầu về
tâm linh của họ trong thời
hiện đại. Thật vậy, người
Tây phương rất thích
Thiền học của
Phật giáo và
Lạt Ma giáo mà người thường không thể
đáp ứng được. Còn
phương tiện của
chúng ta chỉ
giới hạn, không
thông thạo ngôn ngữ cũng
như không giải đáp được bế tắc của người, tất
nhiên không thể
giáo hóa.
Ngoài việc
thông thạo ngôn ngữ của
Tây phương, các sư còn có sức
thuyết phục của
nhà tôn giáo. Đó là điều
cốt lõi của người tu.
Chúng ta thấy các
giảng sư bình thường, nhưng họ hơn người ở sức
thuyết phục và
năng lực giáo hóa.
Kinh Hoa Nghiêm gọi đó là
phương tiện.
Theo
Hoa Nghiêm,
Bồ tát đệ
thất địa đạt
phương tiện ba la mật,
giải quyết trọn vẹn yêu cầu của
chúng sanh,
trở thành Tha Hóa Tự Tại Thiên vương, đến đâu, gặp ai cũng
giáo hóa được.
Chúng ta chưa đến
vị trí này, nay người nghe ta, nhưng mai họ lại không nghe, vì điều ta nói đã thành
lỗi thời.
Tuy nhiên, ở
địa vị Tha Hóa Tự Tại Thiên vương vẫn còn trong
tứ sanh lục đạo. Nếu đến đây mà thiếu
niệm Phật,
niệm pháp,
niệm Tăng và tự mãn là vẫn rớt xuống, tức còn
thối chuyển. Trên bước đường tu,
chúng ta gặp những việc tầm thường,
xấu xa, nếu được
Phật lực gia bị,
chúng ta nghĩ phải còn cái gì cao thượng hơn. Có cảm nhận như vậy,
chúng ta mới tu được, bằng không khó ở lâu trong đạo.
Riêng
bản thân tôi, không bằng lòng
chúng hội, nhưng thường nghĩ còn gì đó cao hơn chưa thấy, minh sư chưa gặp, nên vẫn nuôi
ý chí cầu tiến.
Coù thể nói,
đạt đến đệ
thất địa có
phương tiện ba la mật, nhưng
nếu không được
Phật lực gia bị, không thể lên tiếp.
Tiếp nhận được
Phật lực,
Bồ tát tiến tu đệ
bát địa, được Phật
ví như giữa hành tinh này và hành tinh khác, ở khoảng giữa có chơn không.
Thiết nghĩ ở
thời kỳ còn
lạc hậu, mà
đức Phật đã nghĩ ra điều này
quả thật là quá
siêu đẳng.Ngày nay,
chúng ta dễ
hình dung ý Phật dạy.
Chúng ta đều biết giữa trái đất và
mặt trăng có khoảng trống là chơn không. Vượt được khoảng không này mới qua được
mặt trăng.
Người tu đến đệ
thất địa tưởng đến đây là
chấm dứt, nhưng Phật dạy, bên kia chơn không còn có cái thật
mầu nhiệm của Phật,
Bồ tát. Chưa qua được khoảng chơn không này, dù đứng trên
thiên hạ, có đủ
phương tiện,
Bồ tát đệ
thất địa vẫn còn bị sự
chi phối của người, vẫn
rớt lại dễ dàng.
Muốn qua chơn không này, phải dùng phi thuyền thứ hai bắn đi, nghĩa là yù
chí phải thật mạnh, vươn lên đẩy qua
thế giới kia. Ý này được Tổ
Huệ Năng diễn tả rằng
bản lai vô nhất vật, nghĩa là
tu chứng đến đây, không có gì để làm. Nhưng nếu được
Phật hộ niệm thì
thế giới Phật hiện ra và mươøi phương Phật
phóng quang tiếp độ thì
chúng ta mới thấy "hữu hoa, hữu nguyệt, hữu lầu đài".
Ai
tu hành cũng phải
trải qua biết bao
thử thách gian nan,
cám dỗ,
đe dọa không ít.
Tuy nhiên, vượt được chặng đường
gai góc, thấy được
thế giới huy hoàng bên kia, mới đi tới được. Còn thấp chí, bạc tài, tất nhiên phải ở lại
thế giới này để hưởng thụ áo cơm.
Bồ tát rớt vô chơn không, nhưng phải được
diệu hữu, tức "vô nhất vật trung
vô tận tạng". Hay điều đó nhằm
diễn tả Đức Phật không
sở hữu vật gì trong tay, nhưng Ngài có kho
vô tận chứa nhóm toàn
công đức đã tu tạo được từ quá trình hành
Bồ tát đạo trải qua vô lượng kiếp, không có
chúng sanh nào không
thọ ơn giáo dưỡng của Ngài.
Đức Phật xả bỏ tất cả, để được tất cả, không phải bỏ để không có gì.
Tu đệ lục địa, xả tất cả, không được gì; nhưng nay được tất cả vì nhờ
Tha Hóa Tự Tại, tức
giáo hóa chúng sanh tự tại, tạo thành kho
công đức vô tận thì
thế giới Phật mới
hiện lên. Thấy được
thế giới Cực lạc ở phương Tây, thấy
giáo hóa của Phật
Hương Tích bằng mùi hương, vì được
Phật lực gia bị tạo cho
Bồ tát tương giao đó và có
ý chí phaán đấu
đi lên.
Bồ tát Hiện Tiền địa có
trí tuệ thấy biết đúng
như thật.
Tuy nhiên,
hành đạo giáo hóa chúng sanh, làm cho họ hiểu và
ứng dụng được pháp trong cuộc sống không phải là điều
đơn giản.
Bồ tát phải khai ra
vô số phương tiện để dẫn dắt người tiến gần đến
chân thật pháp, đó là
pháp hành của
Bồ tát ở địa thứ 7,
Viễn Hành địa.
8- BỒ TÁT ĐỆ BÁT ĐỊA : BẤT ĐỘNG ĐỊA
Thành tựu được việc
sử dụng phương tiện độ sanh,
Bồ tát bước sang đệ
bát địa,
Bất Động địa. Bấy giờ
chuyên hành pháp nguyện ba la mật, dùng
nguyện lực tác động chúng sanh phát tâm bồ đề.
Bồ tát không cần đi, chỉ
khởi tâm nghĩ đến người hay ngược lại, người nghĩ đến
Bồ tát, thì được
cứu độ. Đó là
ý nghĩa Bồ tát không giáo hóa mà mọi loài đều nhờ ơn
giáo hóa. Vì
tàng thức của
Bồ tát Bất Động địa đã xoá sạch
phiền não nhiễm ô,
chuyển đổi thành
bạch tịnh thức, nên
tiếp nhận Phật lực,
trang nghiêm thân tâm bằng
công đức của Phật
mười phương. Và
công đức này tự động
giáo hóa chúng sanh, họ nghĩ đến Ngài, liền nhận được sự
thanh tịnh giải thoát khiến họ
phát tâm tu.
Vì làm bằng
công đức Phật, tuy không thấy cứu
chúng sanh ở
địa ngục, nhưng bước đi của
Bồ tát trong trần gian làm vơi khổ
chúng sanh địa ngục. Ý này được kinh
diễn tả là từ bàn chân của
Bồ tát phóng quang cứu
chúng sanh địa ngục.
Và đầu gối
Bồ tát phóng muôn đạo
hào quang cứu
chúng sanh ở loài
súc sanh. Từ bụng
Bồ tát cũng
phóng quang cứu
chúng sanh ngạ quỷ. Tùy
nghiệp thức chúng sanh mà
hào quang tác động, khiến
ngạ quỷ thấy no đủ, các loài trong
địa ngục không thấy bị hành hình và
súc sanh không khổ.
Chúng sanh có 84000
phiền não, Phật có 84000
pháp môn tu, tùy
yêu cầu của
chúng sanh,
Bồ tát hiện thân giáo hóa họ hết khổ, trong khi
Bồ tát vẫn an tọa trên
hoa sen lớn.
Trở lại kinh Pháp Hoa,
đức Phật nhập
Vô lượng nghĩa xứ định, thì
chúng sanh thấy
địa ngục A Tỳ đến
Trời Sắc Cứu cánh và cũng thấy
Thanh văn,
Bồ tát hành đạo. Đó là
vị trí Bồ tát đệ
bát địa,
Bất động địa mới vào
thế giới Phật.
Có thể nói, sau khi
nỗ lực tu tập từ
sơ địa đến đệ
thất địa,
đạt được phương tiện ba la mật rồi mới mở cho
Bồ tát cánh cửa khác để bước vào
thế giới không
sanh tử. Còn ở giai đoạn trước từ
sơ địa đến đệ
thất địa, tuy giỏi nhưng bất cứ lúc nào
nghiệp duyên khởi,
công phu tu tập cũng
bị tiêu tan, tức còn bị
sanh tử chi phối.
9- BỒ TÁT ĐỆ CỬU ĐỊA :THIỆN HUỆ ĐỊA
Ở địa thứ 8 , với
trạng thái tâm
hoàn toàn thanh tịnh,
Bồ tát ngồi một chỗ mà
thành tựu mọi việc giáo hóa chúng sanh và
thọ pháp với
mười phương Phật. Đối với
Bồ tát,
mọi việc tự động sáng ra, dễ dàng
tiếp nhận pháp âm Phật,
đạt được Phật huệ,
hiểu biết đồng với Phật,
bước lên địa vị thứ 9 gọi là
Thiện Huệ địa Bồ tát.
Thiện huệ nghĩa là huệ tròn đủ,
sử dụng được
tứ vô ngại biện tài để
giáo hóa chúng sanh.
* Pháp vô ngại :Không có gì
Bồ tát không thấy rõ từ nhân đến quả. Còn
chúng ta một pháp cũng không thấy
rốt ráo, huống gì tất cả pháp. Hoặc thấy nhân mà không thấy duyên nên cái thấy luôn
sai lầm.
Thấy
trọn vẹn từ nhân đến quả không
sai lầm, trong
kinh Pháp Hoa gọi là
thập như thị. Mười
như thị tác động vào
thập giới bieán thành một trăm và 100 pháp này hỗ cụ
với nhau thành một ngàn pháp. Tất cả pháp này
Bồ tát đệ
cửu địa thấy
chính xác.
*
Nghĩa vô ngại:
Bồ tát Thiện Huệ hoàn toàn thông suốt nghĩa lý tất cả pháp.
* Từ
vô ngại : Thông thường,
chúng ta biết, nhưng không có từ
sử dụng, hoặc thiếu
ngôn ngữ để
diễn tả cho người hiểu. Đó là trở ngại lớn trong việc hoằng hóa.
Bồ tát Thiện Huệ địa không bị
vấn đề này
cản trở vì ở nơi nào, đối với
chúng sanh nào,
Bồ tát cũng có đủ
ngôn ngữ để dẫn dắt tất cả
thâm nhập Phật đạo.
* Nhạo thuyết
vô ngại : Một chữ, một câu, một ý được
Bồ tát Thiện Huệ triển khai vô hạn mà người nghe không biết chán, không thấy meät.
Kinh Pháp Hoa có nói
Đức Phật Nhựt Nguyệt
Đăng Minh thuyết pháp trải 60
tiểu kiếp mà
chúng hội tưởng như nửa ngày.
Ngoài ra,
Bồ tát Thiện Huệ địa tu chứng được
lực ba la mật, tức 10 lực của
Như Lai.
Bồ tát sử dụng Như Lai lực để
giáo hoá chúng sanh.
Như Lai không từ đâu đến và không đi về đâu, Ngài ở
trạng thái như như bất động mà vẫn
cứu độ chúng sanh.
10- BỒ TÁT ĐỆ THẬP ĐỊA : PHÁP VÂN ĐỊA
Trên bước đường tu,
Bồ tát phát triển
Như Lai lực đến độ cao, bước sang đệ
thập địa,
Pháp Vân địa,
ví như mây bao trùm
pháp giới, không còn
giới hạn nào,
thành tựu viên mãn đạo
Bồ đề.
Bồ tát Pháp Vân địa hoàn tất trí ba la mật,
đạt đến đỉnh cao của
Hoa Nghiêm khác với trí
thuần lý của
Bồ tát chứng
Bát Nhã ba la mật ở địa thứ sáu.
Trí ba la mật theo
Hoa Nghiêm là lý và trí
bất nhị giúp
Bồ tát thâm nhập pháp giới. Nghĩa là
Bồ tát sử dụng Trí thân quán sát các pháp. Các phaùp
biến thành thân của
Bồ tát, nên
Pháp thân và
Trí thân kết hợp thành một, đưa đến
nhất nguyên viên mãn.
Bồ tát Pháp Vân địa là
Bồ tát quán đảnh vị, kể từ đây, được
mười phương Phật
công nhận hiểu biết và
việc làm của
Bồ tát đồng đẳng với Phật. Ở trong biển trần khổ,
Bồ tát Pháp Vân địa phát hiện được
vô số châu báu và dùng
châu báu đó
cứu độ chúng sanh. Còn các giai đoạn trước,
hiểu biết và việc hành
Bồ tát đạo thành coâng là nhờ
Phật lực gia bị.
Tóm lại,
kinh Hoa Nghiêm quy định Bồ tát hoàn tất lộ trình
Bồ tát đạo, phải
trải qua 10 cấp bậc
tu chứng trong
Thánh vị và chờ
thành Phật, là
nhứt sanh bổ xứ Bồ tát.
Thiết nghĩ, đó là quá trình thiết thân kiểm nghiệm không
đơn giản mà
Bồ tát phải
xả thân hành đạo đến 3000
đại kiếp theo như kinh đã ghi. Như vậy,
pháp hành của
Bồ tát chắc chắn không phải là việc bàn suông của
phàm phu.
Mong rằng những
kiến giải sơ lược về
Bồ tát đạo theo
thiển nghĩ của
chúng tôi, chỉ là
phương tiện gợi ý cho các
pháp lữ nhận được phần nào
thế giới Tỳ
Lô Giá Na bất tư nghì, dù chỉ trong một ít phút giây ngắn ngủi cũng đáng quý.
Thế giới này là một, nhưng tùy nhân cách của từng người mà hiện loại hình
thế giới khác nhau.
Thí dụ cùng nghe giảng trong một lớp học, nhưng có người buồn khổ, thì đó là
địa ngục đối với họ.
Vì vậy,
kinh Hoa nghiêm dạy nhứt thieát
duy tâm tạo, hay
chính yếu là
vấn đề nhân cách. Không thể phê phán một người tốt hay xấu.
Tùy theo thái độ của ta mà họ tốt hay xấu. Trên bước đường tu, khi người đối xử tệ ác với ta, phải tự biết ta xấu.
Ở đây
tiêu biểu bằng
hình ảnh Thiện Tài đi vào pháp giới,
học hỏi được với mọi
thành phần xã hội, biến tất cả mặt xấu thành tốt. Theo
tinh thần này, cải tạo được
xã hội với
điều kiện tự cải tạo được tâm ta trước.
Trước khi
đi vào pháp giới,
Bồ tát phải
trải qua 52 chặng đường
tu chứng từ
thập tín,
thập trụ,
thập hạnh,
thập hồi hướng, đến
Đẳng giác Bồ tát là
hoàn tất giai đoạn 1, được coi như tương đương với Phật, nhưng thực sự không laøm Phật được vì
phước đức chưa có.
Ví như tốt nghiệp, có học vị chỉ mới
đủ tư cách thôi, còn cần quá trình làm việc sau đó mới quan trọng hơn.
Thuở nhỏ,
Hòa thượng Thiện Hoa dạy tôi rằng
trong đời người có 3 việc. Giai đoaïn 1,
xuất gia học đạo, lấy việc học làm chính.
Chúng ta vẫn tu và
truyền bá đạo nếu có duyên, nhưng đó là việc phụ. Vì thế, làm gì mà trở ngại cho việc học thì không làm.
Hòa thượng Thiện Hoa chỉ cho tôi giảng mùa
Phật đản, Vu lan, còn lại
thì giờ phải lo học. Thời khóa tu cũng vậy, Ngài không bắt tôi
hành trì nhiều. Một ngày chỉ
tụng niệm một thời, vì chỉ học mà không tu, nội lực
chúng ta bị mất.
Giai đoạn 2, tu là chính, nhưng học và làm việc là phụ, vì học tốt nghiệp xong, chưa làm việc được do
công đức chưa có. Các
Hòa thượng không làm gì vẫn được
kính trọng vì đã có
đức hạnh.
Chúng ta phải nghĩ đến trau giồi
đức hạnh, trên bước đường tu, không coù nội lực không làm được gì.
Các vị
chân tu khi học xong đều
kiết thất 5, 10 năm như
Hòa thượng Huê Nghiêm sau khi
thọ Cụ túc giới, Ngài trì
kinh Pháp Hoa 5 năm.
Hòa thượng không
quan tâm đến việc
ăn uống, trong khi chùa đã hết gạo. Ngài
tụng kinh nhất tâm đến độ dân làng nằm mơ thấy
long thần Hộ pháp đến gọi họ đem gạo lên chùa
cúng dường.
Thành tựu được pháp này,
Hòa thượng chữa bịnh rất tài.Dù bị ung thư bao tử,
bác sĩ cho biết khoâng thể sống quá 5 năm, nhưng
Hòa thượng vẫn kéo dài được tuổi thọ đến 91 tuổi.
Hoặc nhìn
gương sáng của
Hòa thượng Bửu Huệ, Ngài
kiết thất tu chưa đạt kết quả, nên
nhập thất suốt 12 năm. Sau đó,
Hòa thượng Thiện Hoa mơøi Ngài
trông coi Phật học viện Huệ Nghiêm. Nhờ
công đức tu hành, Ngài
thành công trong việc
lãnh đạo Tăng chúng, được quý Thầy kính mến như là người cha.
Nếu không có quá trình tu thành đức, ra làm việc một lúc sẽ bị mất Tăng thể.
Ý thức như vậy, khi người chưa
kính trọng,
tin tưởng, phải
nỗ lực tu, vì ta mới học
giáo lý, chưa
ứng dụng được pháp Phật vào cuộc sống, nên càng nói
Phật pháp, người càng thấy ta cách xa Phật.
Tu hành có kết quả, được
quần chúng kính ngưỡng,
chúng ta bắt đầu sang giai đoạn 3 là
truyền đạo.Theo
tinh thần ấy, tôi thấy
Hòa thượng Huê nghiêm không nói, nhưng ta nhìn Ngài sanh
tâm kính trọng và tự sửa mình, đó là cách
giáo hóa của bậc
chân tu. Còn nhiều vị rày la
liên tục, chẳng ai nghe theo và họ bỏ đi.
Rút
kinh nghiệm Hòa thượng Thiện Hoa dạy, tôi trì
kinh Hoa nghiêm và thay đổi
sinh hoạt tu hành theo
hoàn cảnh của chính mình. Đối với tôi, khi mới lớn lên, còn nhiều nhiệt tình và
sức khỏe, không nên lười biếng, cần dồn tất cả
nỗ lực cho việc học, tu và làm việc.
Giai đoạn 1, tôi tìm các bậc cao đức nương tựa, vì
biết mình thuộc loại sắn bìm, không tự lên được, phải tìm thầy để học, nương với thầy để làm.
Bản thân tôi nương với các
Hòa thượng Huê Nghiêm,
Vạn Đức,
Ấn Quang,
Xá Lợi,
Già Lam để
học hỏi và
phục vụ. Nói chung, tôi tôn thờ tất cả các vị tôn đức Trung, Nam, Bắc, gặp lúc cần học thì học, đáng tu thì tu, đáng làm thì làm.
Vì vậy, lúc mới 18 tuổi, nhưng gặp việc, tôi vẫn
xả thân, vì nghĩ rằng gặp việc không làm, về sau không có cơ hội, muốn làm cũng không được. Ở giai đoạn 1, không nương được thầy hiền, bạn tốt, thì không
xây dựng được nền tảng này, các giai đoạn sau coi như
vứt bỏ.
Tôi khuyên các anh em còn ngồi ghế nhà trường phát hiện được người tốt hay xấu. Từ đó, ta cố
tranh thủ được tình cảm thân thương với người bạn tốt, với các giáo sư. Ở trường mà không được thầy thương, bạn quý, sau này ra trường cũng bỏ đi.
Vì vậy, không biết nương tựa thầy hiền bạn tốt, đến lúc rời trường, xa bạn, xa thầy có muốn tạo tình cảm
thân thiện cũng không được.
Nhờ giai đoạn 1,
gắn bó với các bậc
danh đức, các Ngài thấy rõ tấm lòng của ta đối với đạo, biết rõ ta có
năng lực, có nhiều điểm tốt và sẵn sàng dấn thân
chịu đựng mọi gian khổ, các Ngài mới giao việc cho ta.
Bản thân tôi được
Hòa thượng Thiện Hoa chọn vì nhờ quá trình trước, Ngài giao việc gì, tôi đều hết tình làm trọn. Được vậy, sau này Ngài mới yên tâm
giao phó, tôi mới có cơ hội
tiếp tục làm đạo.
Giai đoạn 1 ta
dùng sức để làm, nhưng
trách nhiệm là thầy chịu. Tiến lên giai đoạn 2, ta
trở thành lãnh đạo, làm việc bằng trí giác, làm sao cho tầm nhìn phổ quát, càng
chính xác càng tốt. Nhờ
lãnh đạo sáng suốt,
chúng ta thành công. Bước qua giai đoạn 3 của
cuộc đời là tuổi từ 60 trở đi. Lúc đó, sức đã hết, trí đã mòn, nhưng còn
thành tích là
đức hạnh.
Trải qua quá trình tu 30 năm, từ 30 đến 60 tuổi, tất cả gì làm được đeàu trở nên
thành quả của
chúng ta. Có thể nói, người lớn
lãnh đạo được là nhờ
thành tích,
cảm hóa được người là nhờ
đức hạnh, thực sự không còn nhạy bén nữa. Giai đoạn 1 không phát huy
năng lực, giai đoạn 2 không đuû
tư cách lãnh đạo thì giai đoạn 3 không thể
thành công.
Trở lại kinh Hoa Nghiêm, giai đoạn 1,
Bồ tát hành trì từ
thập tín đến
thập địa. Giai đoạn 2 tu
thập định, thập thông,
thập nhẫn và giai đoạn 3 mới
thâm nhập pháp giới,
diện kiến đức Tỳ
lô giá na.
Căn cứ vào thứ bậc
tu hành nêu trên của
kinh Hoa Nghiêm, khi
chúng ta hành
Bồ tát đạo, tu
thập ba la mật mà thấy không có kết quả, phải
biết mình chưa
đủ tư cách. Cần
điều chỉnh đến khi ngươøi thấy ta thực sự là
hành giả Đại thừa mới bước qua giai đoạn 2 được.
Chúng ta chỉ bước vào
pháp giới với
điều kiện người nhìn thấy ta phải
phát tâm bồ đề.
VI- BỒ TÁT THẬP ĐỊNH
Sau khi
hoàn tất việc hành
Bồ tát đaïo của
Thập địa,
kinh Hoa Nghiêm quy định Bồ tát cần
tiếp tục thể nghiệm 30 chặng đường sau cùng của các vị
Bồ tát lớn là
thập định, thập thông và
thập nhẫn.
Thập định, thập thông,
thập nhẫn là
pháp hành của
đại Bồ tát, vượt ngoài
hiểu biết và lạm bàn của
chúng ta.
Vì vậy,
chúng tôi trình bày một ít
kiến giải thô thiển để chia sẽ cùng
pháp lữ đồng hành như là
phương tiện tiến tu trên đường
giải thoát.
Theo
Hoa Nghiêm,
thế giới vật chất là một, nhưng
thế giới tâm thức thì muôn ngàn
sai biệt, vì
nghiệp thức khác nhau, nên thấy có 10 loại hình
thế giới.
Tuy nhiên, không phải là 10
thế giới riêng biệt, nó
xen lẫn với nhau, tạo thành một loại
thế giới của
tâm thức thay đổi
tùy theo nghiệp, gọi là
thế giới quan.
Thí dụ xã hội Việt Nam là một, nhưng mỗi người có
phước đức,
nghiệp quả và
tội chướng khác nhau, nên
hoàn cảnh sống của mỗi người cũng khác nhau.
Đi vào pháp giới là
đi vào thể tánh của sự vật, tạo thành
thế giới an lành của chư Phật ở ngay trong cái không
an lành. Quá trình tu
Thanh văn,
Duyên giác,
Bồ tát là bắt đầu
xây dựng thế giới an lành ngay trong
thế giới chúng ta đang sống.
Đi đúng
con đường Phật dạy,
tâm hồn chúng ta trong sáng hơn,
điều kiện sinh hoạt của
chúng ta đi lên, tức đã cải tạo cuộc sống
từ tâm thức trước.
Người
đau khổ vì
tham sân si, tạo thành
thế giới khổ. Muốn caûi tạo
thế giới này, phải dứt bỏ
tham sân si,
thế giới an lành của hàng
nhị thừa hiện ra ngay lập tức.
Và từ đó,
chúng ta khởi tâm đại bi,
xây dựng trên 4 tâm của
Bồ tát là
từ bi,
hỷ xả. Bấy giờ vào đời thấy người đối xử với
chúng ta khác hẳn. Thật vậy, vì không tham, sân, si, nên
chúng ta dửng dưng với mọi lợi danh,
cám dỗ và vì người, nên
chúng ta mang
tâm niệm giúp đỡ người,
chắc chắn được
tiếp đón vui vẻ.
Không nhận được ý này, tu
suốt đời trên
căn bản tham, sân, si,
cuối cùng vào
địa ngục.
Vì vậy, tu lâu, nhưng dễ giận, dễ buồn là biết họ
tu ác nghiệp. Mặc áo tu mà còn buồn giận phải
xấu hổ, lo
sửa đổi.
Thế giới chúng ta tạo được
tùy theo quá trình tu. Riêng tôi,
xây dựng thế giới tâm linh, bắt đầu
đi vào pháp giới, nghĩa là tạo
thế giới quan có Phật,
Bồ tát,
Thánh hiền để
an trú tâm hồn.
Không có
thế giới riêng để sống, không
hành đạo được. Dù
thế giới vật chất không có, hay không cần có, nhưng
chúng ta cần có
thế giới tinh thần để sống gọi là
nhập pháp giới.
Kinh Pháp Hoa gọi là nhập
tri kiến Như Lai, dùng
tri kiến Như Lai làm
tri kiến mình, không dùng
tri kiến chúng sanh tham, sân, si.
Đức Phật dạy vào
pháp giới nên theo gương của
Phổ Hiền Bồ tát;
vì vậy phẩm
Bồ tát thập định, thập thông,
thập nhẫn,
Đức Phật không thuyết, nhưng bảo
Phổ Hiền thuyết. Hoặc có thể hiểu
Phật thuyết dưới dạng
Phổ Hiền hạnh, không nói bằng lời, nhưng nói bằng hành động.
Theo
tinh thần Hoa Nghiêm,
từ trí tuệ Văn Thù thấy được
chân thật nghĩa và
đi vào pháp giới bằng 10 hạnh
Phổ Hiền, tức có quá trình
hành đạo mới hiểu được, nói
đơn giản là có làm mới có biết.
Phổ Hiền dạy muốn vào
pháp giới phải đắc 10 định.
1- PHỔ QUANG TRÍ ĐỊNH :Đắc được định này thì thấy ánh sáng tràn ngập trong phòng tối. Tôi cũng nghe các
thiền sư kể đieàu này. Không biết có phải
phổ quang trí định là như vậy hay không.
Nhưng tôi nghĩ có lẽ đắc định, huệ sanh, đốt các
nghiệp ác,
nghiệp ác trong
tứ sanh lục đạo không
hiện ra.
Phiền não bị đốt sạch,
tâm hồn hoàn toàn trống không, nhà tối của
vọng thức tự tan mất, biến nó thành ánh
quang minh. Đó là pháp đầu tiên vào
pháp giới nhận được.
2- DIỆU QUANG ĐỊNH :
Từ định thứ nhứt, chỉ thấy ánh sáng, bước sang định thứ hai, thấy trong ánh sáng có Phật,
Bồ tát.
Chưa đắc định,
chúng ta thấy
chúng sanh nghiệp,
chúng sanh phiền não, nó bao vây ta. Bước thứ hai thấy Phật và
Bồ tát, nghĩa là thấy đạo cũng ở ngay trên
cuộc đời tốt đẹp này, còn trước kia,
chúng ta thaáy
cuộc đời là ác.
Dưới nhãn quan của
Hoa nghiêm, tất cả đều là Phật vì ánh
quang minh đã đốt sạch
phiền não, nên Phật
xuất hiện, thấy không có gì thực sự đáng bận tâm,
chúng ta không khổ. Lợi và danh không dính vô ta, nên không có
tranh chấp nữa. Nhờ vậy, họ đối với ta thành
pháp lữ đồng hành, cùng sống trong
Bồ tát học xứ.
Tâm niệm chúng ta khác, vật cũng đổi khác theo. Khi tâm
chúng ta tranh chấp với họ, họ là
ác ma quyết tử với ta, nhưng lòng
chúng ta không
tranh chấp thì họ cũng không
tranh chấp với ta. Và lòng
chúng ta khởi
đại bi, mang vui
cứu khổ, họ sẽ thành hiền như Phật và tốt với ta như
Bồ tát. Ý này được kinh
diễn tả là thấy Phật và
Bồ tát phóng ánh quang là
diệu quang định.
3- THỨ ĐỆ BIẾN VÁNG HÀNH CHƯ PHẬT QUỐC ĐỘ :Đắc được định thứ hai,
Bồ tát sẽ có định thứ ba, nhìn thấy tất cả Phật,
Bồ tát đều có
thế giới riêng và các Ngài ra vào tự taïi các
thế giới này.
Có thể hiểu rằng trước kia, tâm
ác độc, nên người là đối tượng ác. Nay tâm
Bồ tát rộng mở, vào ra tâm người một cách nhẹ nhàng và
trở thành pháp lữ của họ. Do đó, đắc được định thứ ba,
Bồ tát đi thẳng vào tâm của người và
hợp tác với phần tốt của người là hành
Bồ tát đạo theo
Phổ Hiền.
Lúc ấy,
điều kỳ diệu hiện ra, có bao nhiêu
pháp lữ đồng hành với
Bồ tát, thì có bấy nhiêu
hiện thân Bồ tát đến với họ.
Phổ Hiền Bồ tát diễn tả năng lực của
tam muội này rằng : "Nhứt thân phục hiện
sát trần thân, nhứt nhứt biến lễ
sát trần Phật...". Nghĩa là có bao nhiêu Phật, bao nhiêu
Phật tâm thức,
Bồ tát đều có đủ thân
hiện ra trước các Ngài cùng một lúc. Tuy ngồi một chỗ, tâm
Bồ tát thông khắp
pháp giới, đến với
chúng sanh hữu duyên, khiến họ
phát tâm bồ đề, tạo thành
thế giới có
vô số Phật và
Bồ tát.
Đạt đến định này, có những đieàu
kỳ diệu như nhiều người cùng một lúc, trong giấc mơ thấy
Bồ tát giáo hóa họ. Nhưng kỳ thực,
Bồ tát cũng không biết là đang
giáo hóa. Có thể nói đó là cách
giáo hóa mà
không giáo hóa, vì
giáo hóa người dưới dạng
tâm định, làm cho họ
phát tâm bồ đề; trong khi
thực tế không thấy
giáo hóa, chỉ thấy họ tự
phát tâm mà thôi.
Cách
giáo hóa theo
Hoa Nghiêm đặc biệt như vậy, không đến, nhưng vào ra các cõi nước
tự tại, là cõi nước
tâm hồn và khai thác
bồ đề tâm của họ;
không giáo hóa theo
hình thức, nhưng thực sự đạt kết quả
vô cùng.
Tuy nhiên, đắc định vào ra các
thế giới bằng
tâm thức, không phải
thế giới thật.
Vì vậy,
xả định,
trở lại thực tế, vẫn là ông thầy tu nghèo, vì chưa
tu phước. Thật vậy,
đắc pháp và đắc định, nhưng
phước đức chưa tạo, nên
trở lại đời thường phải
chấp nhận thực tế vậy.
Tóm lại, ở giai đoạn này, vào ra các cõi nước Phật và
đảnh lễ Phật cũng trong định. Tu theo
Hoa Nghiêm,
ngồi yên, nhưng hoạt dụng của
tâm thức khắp
pháp giới.
Vì vậy, không thấy
Bồ tát làm
cực khổ, nhưng
tu chứng được
tam muội này,
quần chúng tự tìm đến.
4- THANH TỊNH THÂN TÂM HÀNH LÀ ĐỊNH THỨ TƯ:Tâm thanh tịnh rồi, tự động có hoạt dụng của nó. Ở trong
định không làm, nhưng thiên biến vạn hóa,
chúng hữu tình đều
tiếp nhận được tâm
Bồ tát và họ tự
phát tâm. Thật vậy,
bản tâm thanh tịnh của
Bồ tát đến với
bản tâm thanh tịnh của
chúng sanh và họ tự
phát tâm từ
bản tâm của chính họ.
Hàng
Thanh văn nghe
Phật thuyết pháp,
thâm nhập vào tâm,
tức từ bên ngoài
đi thẳng vào.
Phổ Hiền không dạy như vậy, Ngài dạy
Phật thừa, là
tâm thanh tịnh của
hành giả ngang qua
tâm thanh tịnh chúng sanh. Và tâm thể của
hành giả cũng như tâm thể
chúng sanh đồng thể đại bi, nên tâm họ tự phát.
Từ
thể tánh thanh tịnh hữu duyên tác động cho
thể tánh thanh tịnh của người, nên họ dễ
đắc đạo.Dù không
thuyết pháp, nhưng ở trong
đại định, cùng tột
đáy lòng thanh tịnh,
đồng thể đại bi, nên
ảnh hưởng cho người. Tuy không khuyên bảo, người tự động tốt.
Tu theo
Hoa Nghiêm,
tâm thanh tịnh có hoạt dụng
tác động cho tâm
chúng sanh thanh tịnh theo,
tức tâm thanh tịnh tự
hoạt động, không phải có
ý thức muốn độ, mà tâm thể tự nó làm.
5- TRI QUÁ KHỨ TRANG NGHIÊM TẠNG LÀ ĐỊNH THỨ NĂM:
Bồ tát đắc định này, có hoạt dụng của tâm, đến với tâm thể từng người, biết được tất cả
nghiệp duyên quá khứ của họ. Từ đó không làm, nhưng biết và
tháo gỡ được
nghiệp nhân thì
nghiệp quả cũng không còn.
Tu
tiểu thừa,
bằng kinh nghiệm, chỉ
sửa đổi được một phần nào thôi. Nhưng theo
Hoa Nghiêm, biết rõ ta đã làm gì và phải
giải quyết bằng cách nào là
giải quyết tận gốc. Dưới nhãn quan của
Hoa Nghiêm,
phiền não trùng trùng duyên khởi, càng cắt, noù càng mạnh. Không cắt, không cần phân trần, nhưng cắt gốc, mọi thứ tự tốt.
6- TRÍ QUANG MINH TẠNG ĐỊNH :Thấy được
quá khứ,
Bồ tát đắc định này. Vì thấy được tánh của từng người,
kinh Pháp Hoa gọi là các thứ tánh, các thứ
ham muốn rất nhiều, thấy rõ nghiệp của
chúng sanh, tức thấy
thực chất tốt xấu của người,
giáo hóa của
Bồ tát trở thành đơn giản.
Chúng ta không có định này, không thấy
thực chất, đụng vào nghiệp của họ,
chắc chắn họ
không vui và
chúng ta cũng khổ.
Bồ tát có
Trí quang minh tạng định, biết rõ
căn tánh hành nghiệp chúng sanh.
Bồ tát chỉ khai thác căn lành của họ, còn phần
nghiệp ác của họ thì để nguyên. Và khi căn lành sanh thì
nghiệp ác tự diệt,
đời sống của họ
đi lên,
nghèo khó tự mất.
7-
LIỄU TRI NHỨT THIẾT
THẾ GIỚI PHẬT
TRANG NGHIÊM:
Bồ tát thấy nghiệp của
chúng sanh và thấy mỗi
chúng sanh là
một thế giới.
Vì vậy, gọi một
con người là moät
tiểu thế giới, tức
thế giới tâm thức. Có bao nhiêu người,
Bồ tát thấy hết bấy nhiêu loại hình
thế giới của họ, thấy được
nội tâm hay nghiệp,
phiền não của họ, là
thâm nhập thế giới tâm thức con người, không phải
thế giới vật chất.
Bồ tát thấu biết
các loại hình của
chúng sanh,
chúng sanh có hai chân, nhiều chân, hay không chân,
lăn lóc đi bằng bụng, v. v...
Thế giới quan của
chúng sanh như thế nào, tạo
thành hình hài của chúng như vậy. Vì
tâm thức khác nhau, tạo nên
vô số hình hài mập ốm, đẹp xấu, khác nhau và cuộc sống
nghèo khổ,
giàu có,
hạnh phúc, khổ đau, v.v... cũng khác nhau.
8-
Bồ tát từ định trong
pháp giới thấu suốt cuộc sống
sai biệt bên ngoài
rõ ràng như vậy, định này gọi là
LIỄU TRI CHÚNG SANH SAI BIỆT THÂN.
9-10 : PHÁP GIỚI TỰ TẠI ĐỊNH và VÔ NGẠI LUÂN ĐỊNH :Đắc hai định này,
Bồ tát vào ra tất cả
tâm thức của
chúng sanh một cách
tự tại,
tùy theo đó
giáo hóa, nhưng cũng
hoàn toàn trong định. Khi thì mang thân người, khi làm thân trời hay thân quỹ,
Bồ tát nhập xuất
tự do, vào loại hình nào
hành đạo cũng không bị kẹt trong
thế giới đó. Vì
Bồ tát tâm là một, nhưng giaùo
hóa hiện thiên sai ngàn biệt.Theo
Phổ Hiền, muốn hành
Bồ tát đạo, phải tu đắc 10 định này và
sử dụng cùng một lúc 10 định. Tuy nói 10, nhưng chỉ một
niệm tâm,
sử dụng được 10 định
tương ứng với tất cả nghiệp của
chúng sanh.
Bồ tát ngồi một chỗ, đồng một lúc
giáo hóa toàn diện khắp
pháp giới và
chúng sanh hữu duyên tiếp nhận được 10
định lực này, tự
phát tâm tu hành.
Có thể nói,
thập định là pháp tu định của
Bồ tát Đẳng giác, không phải sở đắc của
chúng ta, nằm ngoài lạm bàn của
ngôn ngữ phàm phu; lý giải này chỉ là cảm nhận được phần nào pháp
Bồ tát trên bước đường tu.
Thiết nghĩ đối với
chúng ta, tập tu định nghĩa là giữ cho
tâm không giao động trước bất cứ tình huống nào.
Trụ tâm được thì vào đời mới không
vấp ngã. Trong nhà Thiền,
Thiền sư thường thử
Thiền sinh bằng cách tạo
điều kiện cám dỗ, xem tâm của học trò mình có bị
tham nhiễm hay không.
Quán sát tất cả
mọi việc trên
cuộc đời đều là
ảo hóa, không thực, tâm ta vẫn
an nhiên là định. Như vậy, định theo
Đại thừa đi kèm với huệ, không phải nhắm mắt, không biết gì.
VII - BỒ TÁT THẬP THÔNG
Từ
thập định bước qua thập thông,
Bồ tát lý giải tất cả
vấn đề dễ dàng, vì đã từng
trải qua trong
sanh tử nhiều đời.
Phổ Hiền dạy ý này là thấy đúng
sự thật của
tam thế gian. Sự vật thế nào thấy như vậy,
kinh Pháp Hoa gọi là
thập như thị. Nhìn mọi diễn biến của
cuộc đời tất yếu phải như vậy, không thắc mắc
buồn phiền, sự vật không thể
chi phối Bồ tát.
Bồ tát vượt qua mọi chướng duyên, biết rõ tất cả các loài nghĩ gì, làm gì, theo đó
đáp ứng,
độ thoát chúng sanh.
Nếu không thông thì vào đời, đụng vô đâu là
mắc kẹt đó.
Bồ tát nhập minh khác với
nhị thừa nhập ám,
tái sanh bị
ngũ ấm ngăn che.
Bồ tát thập thông vào đời, không bị
ngũ ấm ngăn che, không bị thân
ngũ ấm hành hạ, lý giải được
mọi việc, không bị bất cứ thứ gì
ràng buộc, gây khó khăn cho việc
hành đạo.
VIII - BỒ TÁT THẬP NHẪN
Thập nhẫn chắc chắn không phải là nhẫn nhịn của
phàm phu, cũng không phải nhẫn của hàng
nhị thừa. Nhẫn của
phàm phu cắn răng
chịu đựng đau khổ hoặc ráng chịu việc gì để
đạt được việc khác cao hơn. Hàng
nhị thừa đạt
nhẫn lực thoát ly sanh thân, trụ ngoài
nhận thức phân biệt, ai làm gì mặc họ, thậm chí bị gieát chết cũng không hay.
Nhẫn của
phàm phu dễ biết và nhẫn của
nhị thừa cũng
bình thường vì người gây sự nhưng ta không
quan tâm cũng không khó.
Tiến lên
pháp nhẫn của
Bồ tát thuần thục, người gây khó khăn là
thắng nhân để
Bồ tát độ họ. Không phải
Bồ tát không
để tâm, nhưng
để tâm kỹ hơn, xem ai gây khó và tùy
hoàn cảnh giải quyết tốt đẹp. Có người chống đối,
Bồ tát vui, vì có cơ hội để thể nghiệm pháp.
Bồ tát nhẫn được vì biết rõ
mọi việc,
hoàn toàn thanh thản. Người đời thấy
Bồ tát chịu đựng, bị đổ lên những việc xấu ác, nhưng
Bồ tát thấy đó là huy hoàng, vì trên bước đường tu, không khó thì không khôn và cũng không được ai thương.
Thật vậy, càng vượt được
gian nan mới
đáng kính trọng và giỏi thật.
Xưa kia,
Thái tử Tất Đạt Đa bỏ ngai vàng
đi tìm chân lý. Ngài đi trên
gai góc, ai cũng
thương xót. Nhưng đối với Ngài,
con đường tìm đạo trải đầy gian khổ lại tràn ngập
vinh quang, sáng lạn và
mọi người mới nhìn thấy được
tâm chí cao cả của Ngài.
Nhẫn lực của
Đức Phật thể nghiệm để
chứng minh tinh thần của
kinh Hoa Nghiêm mà Ngài
tuyên thuyết, đó là nhẫn mà
không nhẫn, vì thực sự
mang đến cơ hội tốt cho
Bồ tát hành đạo,
thành tựu công đức.
Hoàn thành chặng đường
cuối cùng này thì niệm
Ma ha Bát Nhã ba la mật đa, tức
trí tuệ đạt được trong việc
hoàn tất Bồ tát đạo.
Sau đó,
Bồ tát đi vào pháp giới cứu độ chúng sanh mà
kinh Hoa Nghiêm gọi là
nhập pháp giới. Nếu
chúng ta may mắn gặp những vị
Bồ tát này, thân cận
tu hành,
nghiệp trần lao của
chúng ta tiêu dần, từng bước được an vui
giải thoát. Phải biết đó là
Bồ tát thị hiện đi vào pháp giới mới giúp cuộc sống của
chúng ta thay đổi
tốt đẹp như vậy, khác với gần gũi người trần gian làm
chúng ta đau khổ.