PHÁP BẢO ĐÀN KINH
Tác gỉa Đòan Trung Còn
Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải - Nguyễn Minh Hiển hiệu đính Hán văn
Nhà xuất bản Tôn Giáo, Hà Nội 2009
PHẨM THỨ IX: ỦNG HỘ PHẬT PHÁP
Ngày tiết
thượng nguyên Rằm tháng giêng. trong năm đầu niên hiệu Thần Long, Tức là năm 684, đời vua ĐườngTrung Tông. Tắc Thiên
Thái hậu và
Trung Tông Hoàng đế ban chiếu rằng:
“Trẫm thỉnh hai vị sư
Huệ An Tức
Quốc sư Huệ An. và
Thần Tú vào cung
cúng dường, để khi việc nước
rảnh rang có
thể tham học
giáo pháp Nhất thừa. Hai sư từ chối, nói rằng: ‘Phương Nam có
Huệ Năng Thiền sư được
Hoằng Nhẫn Đại sư mật
truyền y pháp, hiện
truyền tâm ấn Phật, nên thỉnh vị ấy mà hỏi.’ Nay sai nội thị là Tiết Giản mang chiếu chỉ đến thỉnh rước. Mong sư mở niệm từ, mau đến kinh thành.”
Sư dâng biểu cáo là có bịnh, xin được
trọn đời ở nơi rừng núi. Tiết Giản thưa rằng:
“Các vị thiền đức tại kinh thành đều nói rằng: ‘Muốn được hiểu đạo, phải
ngồi thiền tập định. Như chẳng nhờ
thiền định mà
được giải thoát, thật là chưa có.’ Chẳng hay ý
thuyết pháp của Ngài như thế nào?”
Sư đáp: “Đạo do tâm ngộ, có phải ở chỗ tập ngồi đó sao? Kinh nói: ‘Nếu bảo
Như Lai ngồi hoặc nằm, ấy là
hành đạo tà.’ Ở đây dẫn
Kinh Kim Cang. Cớ sao vậy? Vì không do chỗ nào mà lại, cũng không đi đến chỗ nào, không
sanh không diệt, ấy là phép thiền
thanh tịnh của
Như Lai. Các pháp đều như
hư không tịch tĩnh, ấy là phép ngồi
thanh tịnh của
Như Lai.
Rốt cuộc còn không có chỗ
chứng đắc, huống lại phải ngồi sao?”
Tiết Giản thưa rằng: “Đệ tử về kinh, Chúa thượng ắt phải hỏi. Nguyện sư
từ bi,
chỉ bảo cho chỗ
tâm yếu để tâu lên hai cung Tức là Vua và
Thái hậu. và truyền lại với những người
học đạo nơi kinh thành.
Ví như một
ngọn đèn nối qua trăm ngàn
ngọn đèn, các
chỗ tối đều sáng, sáng hoài không dứt.”
Sư nói: “Đạo không có sáng tối. Sáng tối là nghĩa thay đổi nối tiếp nhau. Sáng hoài không hết, cũng nghĩa là có hết.
Đối đãi nhau mà thành tên, Do có sáng, mới gọi chỗ không sáng là tối, và ngược lại. Tất cả các pháp
đối đãi đều như vậy. Xem phẩm
Phó Chúc. cho nên
Kinh Tịnh Danh nói:
Pháp không có
so sánh, không có
đối đãi.”
Tiết Giản nói: “Sáng ví cho
trí tuệ, tối ví cho
phiền não. Người
tu hành nếu chẳng đem
trí tuệ chiếu phá
phiền não thì
vòng sanh tử từ
vô thủy đến nay nhờ đâu mà ra khỏi?”
Sư nói: “Phiền não tức Bồ-đề, không hai, không khác. Nếu đem
trí tuệ chiếu phá
phiền não, đó là
kiến giải của hàng
nhị thừa, Thừa
Thanh văn và thừa
Duyên giác. là
căn cơ của hạng xe dê, xe hươu. Các ví dụ dùng trong
Kinh Pháp Hoa, chỉ
hai thừa Thanh văn và
Duyên giác. Xem phẩm
Cơ Duyên. Hàng đại căn, thượng trí chẳng phải như vậy.”
Tiết Giản hỏi: “Thế nào là
kiến giải của đại thừa?”
Sư đáp: “Sáng với không sáng, kẻ
phàm phu thấy là hai. Người
trí giả liễu đạt thấy tánh của sáng tối vốn chẳng có hai.
Tánh không hai đó là tánh thật. Tánh thật ở người
phàm phu chẳng bớt; chỗ bậc
hiền thánh cũng chẳng thêm; trụ nơi
phiền não mà chẳng
tán loạn; ở nơi
thiền định cũng chẳng
vắng lặng, chẳng dứt mất, chẳng thường còn, chẳng lại, chẳng qua; chẳng ở khoảng giữa cùng là trong ngoài, chẳng sanh ra, chẳng diệt mất,
tánh tướng đều
như như,
thường trụ chẳng chuyển dời, đó gọi là Đạo.”
Tiết Giản hỏi: “Sư nói chẳng sanh chẳng diệt, có khác gì ngoại đạo?”
Sư đáp: “Ngoại đạo nói chẳng sanh chẳng diệt, đó là lấy chỗ diệt mà dừng chỗ sanh; lấy chỗ sanh mà bày rõ chỗ diệt. Chỗ này rơi vào pháp
đối đãi. Chỗ diệt, họ nói thành chẳng diệt; chỗ sanh, họ nói là chẳng sanh. Ta nói chẳng sanh chẳng diệt đây là vốn xưa không sanh, nay cũng chẳng diệt, cho nên chẳng đồng với
ngoại đạo. Ngươi nếu muốn biết chỗ
tâm yếu, chỉ cần đối với hết thảy
việc thiện ác đều không suy lường,
Tổ Sư khai ngộ cho
Huệ Minh cũng nói: “Không nghĩ thiện, không nghĩ ác...” Xem phẩm
Hành Do.
tự nhiên sẽ được tâm thể
thanh tịnh,
sáng tỏ thường tịch, chỗ
diệu dụng nhiều như cát
sông Hằng.”
Tiết Giản nhờ ơn chỉ dạy, hoát nhiên
đại ngộ.
Lễ bái từ biệt về triều, dâng biểu tâu lên
lời nói của Sư. Ngày mùng ba tháng chín năm ấy, Tức cùng trong năm 684. có chiếu dụ
ban khen Sư rằng:
“Sư lấy cớ già yếu, vì trẫm mà lo
tu đạo, ấy là
ruộng phước Tức là nơi
mọi người có thể gieo
hạt giống phước đức vào để được hưởng quả
tốt đẹp về sau. của cả nước. Sư cũng như ngài
Tịnh Danh Tức là ngài Duy-ma-cật, vị Bồ-tát
hiện thân cư sĩ thuyết pháp trong
kinh Tịnh Danh, cũng gọi là kinh Duy-ma-cật sở thuyết. cáo bịnh ở thành Tỳ-da Tức là thành Tỳ-da-ly, hay Tỳ-xá-ly, chữ Phạn, dịch nghĩa là
Quảng Nghiêm, là nơi ngài Duy-ma-cật
thuyết pháp., xiển dương
đại thừa,
truyền tâm của chư Phật, luận pháp
bất nhị. Tiết Giản có truyền lại lời Sư chỉ rõ
tri kiến Như Lai, Trẫm nhờ
chất chứa nhân lành, trồng sẵn
thiện căn, nên mới gặp lúc Sư ra đời,
đốn ngộ pháp thượng thừa, cảm
đội ơn Sư
mãi mãi không hết! Nay xin dâng tấm áo cà-sa Ma-nạp và
bình bát thủy tinh. Lệnh cho quan Thứ sử Thiều Châu sửa sang lại cảnh chùa, và ban hiệu cho chỗ ở cũ của Sư là Chùa
Quốc Ân.”