KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA
Hán dịch: Pháp Sư Huyền Trang
Việt dịch: Hòa Thượng Trí Nghiêm
TẬP 4 (Quyển 90 – 100)
XXVII. PHẨM CẦU BÁT-NHÃ
03
Kiều Thi Ca! Chẳng phải lìa
tám giải thoát có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa
tám thắng xứ, chín định
thứ đệ,
mười biến xứ có thể đắc
Như Lai; chẳng phải lìa
chơn như của
tám giải thoát có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa
chơn như của
tám thắng xứ, chín định
thứ đệ,
mười biến xứ có thể đắc
Như Lai; chẳng phải lìa
pháp tánh của
tám giải thoát có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa
pháp tánh của
tám thắng xứ, chín định
thứ đệ,
mười biến xứ có thể đắc
Như Lai; chẳng phải lìa
tám giải thoát có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải lìa
tám thắng xứ, chín định
thứ đệ,
mười biến xứ có thể đắc
chơn như của
Như Lai; chẳng phải lìa
tám giải thoát có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải lìa
tám thắng xứ, chín định
thứ đệ,
mười biến xứ có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai; chẳng phải lìa
chơn như của
tám giải thoát có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải lìa
chơn như của
tám thắng xứ, chín định
thứ đệ,
mười biến xứ có thể đắc
chơn như của
Như Lai; chẳng phải lìa
pháp tánh của
tám giải thoát có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải lìa
pháp tánh của
tám thắng xứ, chín định
thứ đệ,
mười biến xứ có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai.
Kiều Thi Ca! Chẳng phải trong
tám giải thoát có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể đắc
tám giải thoát; chẳng phải trong
tám thắng xứ, chín định
thứ đệ,
mười biến xứ có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể đắc
tám thắng xứ, chín định
thứ đệ,
mười biến xứ; chẳng phải trong
chơn như của
tám giải thoát có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể đắc
chơn như của
tám giải thoát; chẳng phải trong
chơn như của
tám thắng xứ, chín định
thứ đệ,
mười biến xứ có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể đắc
chơn như của
tám thắng xứ, chín định
thứ đệ,
mười biến xứ; chẳng phải trong
pháp tánh của
tám giải thoát có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể
đắc pháp tánh của
tám giải thoát; chẳng phải trong
pháp tánh của
tám thắng xứ, chín định
thứ đệ,
mười biến xứ có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể
đắc pháp tánh của
tám thắng xứ, chín định
thứ đệ,
mười biến xứ; chẳng phải trong
tám giải thoát có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải trong
chơn như của
Như Lai có thể đắc
tám giải thoát; chẳng phải trong
tám thắng xứ, chín định
thứ đệ,
mười biến xứ có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải trong
chơn như của
Như Lai có thể đắc
tám thắng xứ, chín định
thứ đệ,
mười biến xứ; chẳng phải trong
tám giải thoát có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải trong
pháp tánh của
Như Lai có thể đắc
tám giải thoát; chẳng phải trong
tám thắng xứ, chín định
thứ đệ,
mười biến xứ có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải trong
pháp tánh của
Như Lai có thể đắc
tám thắng xứ, chín định
thứ đệ,
mười biến xứ; chẳng phải trong
chơn như của
tám giải thoát có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải trong
chơn như của
Như Lai có thể đắc
chơn như của
tám giải thoát; chẳng phải trong
chơn như của
tám thắng xứ, chín định
thứ đệ,
mười biến xứ có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải trong
chơn như của
Như Lai có thể đắc
chơn như của
tám thắng xứ, chín định
thứ đệ,
mười biến xứ; chẳng phải trong
pháp tánh của
tám giải thoát có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải trong
pháp tánh của
Như Lai có thể
đắc pháp tánh của
tám giải thoát; chẳng phải trong
pháp tánh của
tám thắng xứ, chín định
thứ đệ,
mười biến xứ có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải trong
pháp tánh của
Như Lai có thể
đắc pháp tánh của
tám thắng xứ, chín định
thứ đệ,
mười biến xứ.
Kiều Thi Ca! Chẳng phải lìa bốn niệm trụ có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa bốn chánh đoạn, bốn
thần túc, năm căn,
năm lực, bảy chi
đẳng giác, tám chi
thánh đạo có thể đắc
Như Lai; chẳng phải lìa
chơn như của bốn niệm trụ có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa
chơn như của bốn chánh đoạn
cho đến tám chi
thánh đạo có thể đắc
Như Lai; chẳng phải lìa
pháp tánh của bốn niệm trụ có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa
pháp tánh của bốn chánh đoạn
cho đến tám chi
thánh đạo có thể đắc
Như Lai; chẳng phải lìa bốn niệm trụ có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải lìa bốn chánh đoạn
cho đến tám chi
thánh đạo có thể đắc
chơn như của
Như Lai; chẳng phải lìa bốn niệm trụ có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải lìa bốn chánh đoạn
cho đến tám chi
thánh đạo có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai; chẳng phải lìa
chơn như của bốn niệm trụ có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải lìa
chơn như của bốn chánh đoạn
cho đến tám chi
thánh đạo có thể đắc
chơn như của
Như Lai; chẳng phải lìa
pháp tánh của bốn niệm trụ có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải lìa
pháp tánh của bốn chánh đoạn
cho đến tám chi
thánh đạo có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai.
Kiều Thi Ca! Chẳng phải trong bốn niệm trụ có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể đắc bốn niệm trụ; chẳng phải trong bốn chánh đoạn, bốn
thần túc, năm căn,
năm lực, bảy chi
đẳng giác, tám chi
thánh đạo có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể đắc bốn chánh đoạn
cho đến tám chi
thánh đạo; chẳng phải trong
chơn như của bốn niệm trụ có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể đắc
chơn như của bốn niệm trụ; chẳng phải trong
chơn như của bốn chánh đoạn
cho đến tám chi
thánh đạo có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể đắc
chơn như của bốn chánh đoạn
cho đến tám chi
thánh đạo; chẳng phải trong
pháp tánh của bốn niệm trụ có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể
đắc pháp tánh của bốn niệm trụ; chẳng phải trong
pháp tánh của bốn chánh đoạn
cho đến tám chi
thánh đạo có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể
đắc pháp tánh của bốn chánh đoạn
cho đến tám chi
thánh đạo; chẳng phải trong bốn niệm trụ có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải trong
chơn như của
Như Lai có thể đắc bốn niệm trụ; chẳng phải trong bốn chánh đoạn
cho đến tám chi
thánh đạo có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải trong
chơn như của
Như Lai có thể đắc bốn chánh đoạn
cho đến tám chi
thánh đạo; chẳng phải trong bốn niệm trụ có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải trong
pháp tánh của
Như Lai có thể đắc bốn niệm trụ; chẳng phải trong bốn chánh đoạn
cho đến tám chi
thánh đạo có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải trong
pháp tánh của
Như Lai có thể đắc bốn chánh đoạn
cho đến tám chi
thánh đạo; chẳng phải trong
chơn như của bốn niệm trụ có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải trong
chơn như của
Như Lai có thể đắc
chơn như của bốn niệm trụ; chẳng phải trong
chơn như của bốn chánh đoạn
cho đến tám chi
thánh đạo có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải trong
chơn như của
Như Lai có thể đắc
chơn như của bốn chánh đoạn
cho đến tám chi
thánh đạo; chẳng phải trong
pháp tánh của bốn niệm trụ có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải trong
pháp tánh của
Như Lai có thể
đắc pháp tánh của bốn niệm trụ; chẳng phải trong
pháp tánh của bốn chánh đoạn
cho đến tám chi
thánh đạo có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải trong
pháp tánh của
Như Lai có thể
đắc pháp tánh của bốn chánh đoạn
cho đến tám chi
thánh đạo.
Kiều Thi Ca! Chẳng phải lìa
pháp môn giải thoát không có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa
pháp môn giải thoát vô tướng,
vô nguyện có thể đắc
Như Lai; chẳng phải lìa
chơn như của
pháp môn giải thoát không có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa
chơn như của
pháp môn giải thoát vô tướng,
vô nguyện có thể đắc
Như Lai; chẳng phải lìa
pháp tánh của
pháp môn giải thoát không có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa
pháp tánh của
pháp môn giải thoát vô tướng,
vô nguyện có thể đắc
Như Lai; chẳng phải lìa
pháp môn giải thoát không có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải lìa
pháp môn giải thoát vô tướng,
vô nguyện có thể đắc
chơn như của
Như Lai; chẳng phải lìa
pháp môn giải thoát không có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải lìa
pháp môn giải thoát vô tướng,
vô nguyện có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai; chẳng phải lìa
chơn như của
pháp môn giải thoát không có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải lìa
chơn như của
pháp môn giải thoát vô tướng,
vô nguyện có thể đắc
chơn như của
Như Lai; chẳng phải lìa
pháp tánh của
pháp môn giải thoát không có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải lìa
pháp tánh của
pháp môn giải thoát vô tướng,
vô nguyện có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai.
Kiều Thi Ca! Chẳng phải trong
pháp môn giải thoát không có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể
đắc pháp môn
giải thoát không; chẳng phải trong
pháp môn giải thoát vô tướng,
vô nguyện có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể
đắc pháp môn
giải thoát vô tướng,
vô nguyện; chẳng phải trong
chơn như của
pháp môn giải thoát không có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể đắc
chơn như của
pháp môn giải thoát không; chẳng phải trong
chơn như của
pháp môn giải thoát vô tướng,
vô nguyện có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể đắc
chơn như của
pháp môn giải thoát vô tướng,
vô nguyện; chẳng phải trong
pháp tánh của
pháp môn giải thoát không có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể
đắc pháp tánh của
pháp môn giải thoát không; chẳng phải trong
pháp tánh của
pháp môn giải thoát vô tướng,
vô nguyện có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể
đắc pháp tánh của
pháp môn giải thoát vô tướng,
vô nguyện; chẳng phải trong
pháp môn giải thoát không có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải trong
chơn như của
Như Lai có thể
đắc pháp môn
giải thoát không; chẳng phải trong
pháp môn giải thoát vô tướng,
vô nguyện có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải trong
chơn như của
Như Lai có thể
đắc pháp môn
giải thoát vô tướng,
vô nguyện; chẳng phải trong
pháp môn giải thoát không có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải trong
pháp tánh của
Như Lai có thể
đắc pháp môn
giải thoát không; chẳng phải trong
pháp môn giải thoát vô tướng,
vô nguyện có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải trong
pháp tánh của
Như Lai có thể
đắc pháp môn
giải thoát vô tướng,
vô nguyện; chẳng phải trong
chơn như của
pháp môn giải thoát không có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải trong
chơn như của
Như Lai có thể đắc
chơn như của
pháp môn giải thoát không; chẳng phải trong
chơn như của
pháp môn giải thoát vô tướng,
vô nguyện có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải trong
chơn như của
Như Lai có thể đắc
chơn như của
pháp môn giải thoát vô tướng,
vô nguyện; chẳng phải trong
pháp tánh của
pháp môn giải thoát không có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải trong
pháp tánh của
Như Lai có thể
đắc pháp tánh của
pháp môn giải thoát không; chẳng phải trong
pháp tánh của
pháp môn giải thoát vô tướng,
vô nguyện có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải trong
pháp tánh của
Như Lai có thể
đắc pháp tánh của
pháp môn giải thoát vô tướng,
vô nguyện.
Kiều Thi Ca! Chẳng phải lìa
năm loại mắt có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa sáu phép
thần thông có thể đắc
Như Lai; chẳng phải lìa
chơn như của
năm loại mắt có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa
chơn như của sáu phép
thần thông có thể đắc
Như Lai; chẳng phải lìa
pháp tánh của
năm loại mắt có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa
pháp tánh của sáu phép
thần thông có thể đắc
Như Lai; chẳng phải lìa
năm loại mắt có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải lìa sáu phép
thần thông có thể đắc
chơn như của
Như Lai; chẳng phải lìa
năm loại mắt có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải lìa sáu phép
thần thông có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai; chẳng phải lìa
chơn như của
năm loại mắt có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải lìa
chơn như của sáu phép
thần thông có thể đắc
chơn như của
Như Lai; chẳng phải lìa
pháp tánh của
năm loại mắt có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải lìa
pháp tánh của sáu phép
thần thông có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai.
Kiều Thi Ca! Chẳng phải trong
năm loại mắt có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể đắc
năm loại mắt; chẳng phải trong sáu phép
thần thông có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể đắc sáu phép
thần thông; chẳng phải trong
chơn như của
năm loại mắt có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể đắc
chơn như của
năm loại mắt; chẳng phải trong
chơn như của sáu phép
thần thông có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể đắc
chơn như của sáu phép
thần thông; chẳng phải trong
pháp tánh của
năm loại mắt có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể
đắc pháp tánh của
năm loại mắt; chẳng phải trong
pháp tánh của sáu phép
thần thông có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể
đắc pháp tánh của sáu phép
thần thông; chẳng phải trong
năm loại mắt có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải trong
chơn như của
Như Lai có thể đắc
năm loại mắt; chẳng phải trong sáu phép
thần thông có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải trong
chơn như của
Như Lai có thể đắc sáu phép
thần thông; chẳng phải trong
năm loại mắt có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải trong
pháp tánh của
Như Lai có thể đắc
năm loại mắt; chẳng phải trong sáu phép
thần thông có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải trong
pháp tánh của
Như Lai có thể đắc sáu phép
thần thông; chẳng phải trong
chơn như của
năm loại mắt có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải trong
chơn như của
Như Lai có thể đắc
chơn như của
năm loại mắt; chẳng phải trong
chơn như của sáu phép
thần thông có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải trong
chơn như của
Như Lai có thể đắc
chơn như của sáu phép
thần thông; chẳng phải trong
pháp tánh của
năm loại mắt có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải trong
pháp tánh của
Như Lai có thể
đắc pháp tánh của
năm loại mắt; chẳng phải trong
pháp tánh của sáu phép
thần thông có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải trong
pháp tánh của
Như Lai có thể
đắc pháp tánh của sáu phép
thần thông.
Kiều Thi Ca! Chẳng phải lìa
mười lực của Phật có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa bốn điều không sợ, bốn sự
hiểu biết thông suốt,
đại từ,
đại bi,
đại hỷ,
đại xả, mười
tám pháp Phật
bất cộng có thể đắc
Như Lai; chẳng phải lìa
chơn như của
mười lực của Phật có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa
chơn như của bốn điều không sợ
cho đến mười
tám pháp Phật
bất cộng có thể đắc
Như Lai; chẳng phải lìa
pháp tánh của
mười lực của Phật có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa
pháp tánh của bốn điều không sợ
cho đến mười
tám pháp Phật
bất cộng có thể đắc
Như Lai; chẳng phải lìa
mười lực của Phật có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải lìa bốn điều không sợ
cho đến mười
tám pháp Phật
bất cộng có thể đắc
chơn như của
Như Lai; chẳng phải lìa
mười lực của Phật có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải lìa bốn điều không sợ
cho đến mười
tám pháp Phật
bất cộng có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai; chẳng phải lìa
chơn như của
mười lực của Phật có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải lìa
chơn như của bốn điều không sợ
cho đến mười
tám pháp Phật
bất cộng có thể đắc
chơn như của
Như Lai; chẳng phải lìa
pháp tánh của
mười lực của Phật có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải lìa
pháp tánh của bốn điều không sợ
cho đến mười
tám pháp Phật
bất cộng có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai.
Kiều Thi Ca! Chẳng phải trong
mười lực của Phật có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể đắc
mười lực của Phật; chẳng phải trong bốn điều không sợ, bốn sự
hiểu biết thông suốt,
đại từ,
đại bi,
đại hỷ,
đại xả, mười
tám pháp Phật
bất cộng có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể đắc bốn điều không sợ
cho đến mười
tám pháp Phật
bất cộng; chẳng phải trong
chơn như của
mười lực của Phật có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể đắc
chơn như của
mười lực của Phật; chẳng phải trong
chơn như của bốn điều không sợ
cho đến mười
tám pháp Phật
bất cộng có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể đắc
chơn như của bốn điều không sợ
cho đến mười
tám pháp Phật
bất cộng; chẳng phải trong
pháp tánh của
mười lực của Phật có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể
đắc pháp tánh của
mười lực của Phật; chẳng phải trong
pháp tánh của bốn điều không sợ
cho đến mười
tám pháp Phật
bất cộng có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể
đắc pháp tánh của bốn điều không sợ
cho đến mười
tám pháp Phật
bất cộng; chẳng phải trong
mười lực của Phật có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải trong
chơn như của
Như Lai có thể đắc
mười lực của Phật; chẳng phải trong bốn điều không sợ
cho đến mười
tám pháp Phật
bất cộng có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải trong
chơn như của
Như Lai có thể đắc bốn điều không sợ
cho đến mười
tám pháp Phật
bất cộng; chẳng phải trong
mười lực của Phật có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải trong
pháp tánh của
Như Lai có thể đắc
mười lực của Phật; chẳng phải trong bốn điều không sợ
cho đến mười
tám pháp Phật
bất cộng có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải trong
pháp tánh của
Như Lai có thể đắc bốn điều không sợ
cho đến mười
tám pháp Phật
bất cộng; chẳng phải trong
chơn như của
mười lực của Phật có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải trong
chơn như của
Như Lai có thể đắc
chơn như của
mười lực của Phật; chẳng phải trong
chơn như của bốn điều không sợ
cho đến mười
tám pháp Phật
bất cộng có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải trong
chơn như của
Như Lai có thể đắc
chơn như của bốn điều không sợ
cho đến mười
tám pháp Phật
bất cộng; chẳng phải trong
pháp tánh của
mười lực của Phật có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải trong
pháp tánh của
Như Lai có thể
đắc pháp tánh của
mười lực của Phật; chẳng phải trong
pháp tánh của bốn điều không sợ
cho đến mười
tám pháp Phật
bất cộng có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải trong
pháp tánh của
Như Lai có thể
đắc pháp tánh của bốn điều không sợ
cho đến mười
tám pháp Phật
bất cộng.
Kiều Thi Ca! Chẳng phải lìa
pháp không quên mất có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa tánh luôn luôn xả có thể đắc
Như Lai; chẳng phải lìa
chơn như của
pháp không quên mất có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa
chơn như của tánh luôn luôn xả có thể đắc
Như Lai; chẳng phải lìa
pháp tánh của
pháp không quên mất có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa
pháp tánh của tánh luôn luôn xả có thể đắc
Như Lai; chẳng phải lìa
pháp không quên mất có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải lìa tánh luôn luôn xả có thể đắc
chơn như của
Như Lai; chẳng phải lìa
pháp không quên mất có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải lìa tánh luôn luôn xả có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai; chẳng phải lìa
chơn như của
pháp không quên mất có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải lìa
chơn như của tánh luôn luôn xả có thể đắc
chơn như của
Như Lai; chẳng phải lìa
pháp tánh của
pháp không quên mất có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải lìa
pháp tánh của tánh luôn luôn xả có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai.
Kiều Thi Ca! Chẳng phải trong
pháp không quên mất có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể
đắc pháp không quên mất; chẳng phải trong tánh luôn luôn xả có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể đắc tánh luôn luôn xả; chẳng phải trong
chơn như của
pháp không quên mất có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể đắc
chơn như của
pháp không quên mất; chẳng phải trong
chơn như của tánh luôn luôn xả có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể đắc
chơn như của tánh luôn luôn xả; chẳng phải trong
pháp tánh của
pháp không quên mất có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể
đắc pháp tánh của
pháp không quên mất; chẳng phải trong
pháp tánh của tánh luôn luôn xả có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể
đắc pháp tánh của tánh luôn luôn xả; chẳng phải trong
pháp không quên mất có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải trong
chơn như của
Như Lai có thể
đắc pháp không quên mất; chẳng phải trong tánh luôn luôn xả có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải trong
chơn như của
Như Lai có thể đắc tánh luôn luôn xả; chẳng phải trong
pháp không quên mất có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải trong
pháp tánh của
Như Lai có thể
đắc pháp không quên mất; chẳng phải trong tánh luôn luôn xả có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải trong
pháp tánh của
Như Lai có thể đắc tánh luôn luôn xả; chẳng phải trong
chơn như của
pháp không quên mất có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải trong
chơn như của
Như Lai có thể đắc
chơn như của
pháp không quên mất; chẳng phải trong
chơn như của tánh luôn luôn xả có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải trong
chơn như của
Như Lai có thể đắc
chơn như của tánh luôn luôn xả; chẳng phải trong
pháp tánh của
pháp không quên mất có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải trong
pháp tánh của
Như Lai có thể
đắc pháp tánh của
pháp không quên mất; chẳng phải trong
pháp tánh của tánh luôn luôn xả có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải trong
pháp tánh của
Như Lai có thể
đắc pháp tánh của tánh luôn luôn xả.
Kiều Thi Ca! Chẳng phải lìa trí
nhất thiết có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa trí đạo tướng, trí
nhất thiết tướng có thể đắc
Như Lai; chẳng phải lìa
chơn như của trí
nhất thiết có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa
chơn như của trí đạo tướng, trí
nhất thiết tướng có thể đắc
Như Lai; chẳng phải lìa
pháp tánh của trí
nhất thiết có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa
pháp tánh của trí đạo tướng, trí
nhất thiết tướng có thể đắc
Như Lai; chẳng phải lìa trí
nhất thiết có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải lìa trí đạo tướng, trí
nhất thiết tướng có thể đắc
chơn như của
Như Lai; chẳng phải lìa trí
nhất thiết có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải lìa trí đạo tướng, trí
nhất thiết tướng có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai; chẳng phải lìa
chơn như của trí
nhất thiết có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải lìa
chơn như của trí đạo tướng, trí
nhất thiết tướng có thể đắc
chơn như của
Như Lai; chẳng phải lìa
pháp tánh của trí
nhất thiết có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải lìa
pháp tánh của trí đạo tướng, trí
nhất thiết tướng có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai.
Kiều Thi Ca! Chẳng phải trong trí
nhất thiết có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể đắc trí
nhất thiết; chẳng phải trong trí đạo tướng, trí
nhất thiết tướng có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể đắc trí đạo tướng, trí
nhất thiết tướng; chẳng phải trong
chơn như của trí
nhất thiết có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể đắc
chơn như của trí
nhất thiết; chẳng phải trong
chơn như của trí đạo tướng, trí
nhất thiết tướng có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể đắc
chơn như của trí đạo tướng, trí
nhất thiết tướng; chẳng phải trong
pháp tánh của trí
nhất thiết có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể
đắc pháp tánh của trí
nhất thiết; chẳng phải trong
pháp tánh của trí đạo tướng, trí
nhất thiết tướng có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể
đắc pháp tánh của trí đạo tướng, trí
nhất thiết tướng; chẳng phải trong trí
nhất thiết có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải trong
chơn như của
Như Lai có thể đắc trí
nhất thiết; chẳng phải trong trí đạo tướng, trí
nhất thiết tướng có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải trong
chơn như của
Như Lai có thể đắc trí đạo tướng, trí
nhất thiết tướng; chẳng phải trong trí
nhất thiết có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải trong
pháp tánh của
Như Lai có thể đắc trí
nhất thiết; chẳng phải trong trí đạo tướng, trí
nhất thiết tướng có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải trong
pháp tánh của
Như Lai có thể đắc trí đạo tướng, trí
nhất thiết tướng; chẳng phải trong
chơn như của trí
nhất thiết có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải trong
chơn như của
Như Lai có thể đắc
chơn như của trí
nhất thiết; chẳng phải trong
chơn như của trí đạo tướng, trí
nhất thiết tướng có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải trong
chơn như của
Như Lai có thể đắc
chơn như của trí đạo tướng, trí
nhất thiết tướng; chẳng phải trong
pháp tánh của trí
nhất thiết có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải trong
pháp tánh của
Như Lai có thể
đắc pháp tánh của trí
nhất thiết; chẳng phải trong
pháp tánh của trí đạo tướng, trí
nhất thiết tướng có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải trong
pháp tánh của
Như Lai có thể
đắc pháp tánh của trí đạo tướng, trí
nhất thiết tướng.
Kiều Thi Ca! Chẳng phải lìa tất cả
pháp môn Đà-la-ni có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa tất cả
pháp môn Tam-ma-địa có thể đắc
Như Lai; chẳng phải lìa
chơn như của tất cả
pháp môn Đà-la-ni có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa
chơn như của tất cả
pháp môn Tam-ma-địa có thể đắc
Như Lai; chẳng phải lìa
pháp tánh của tất cả
pháp môn Đà-la-ni có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa
pháp tánh của tất cả
pháp môn Tam-ma-địa có thể đắc
Như Lai; chẳng phải lìa tất cả
pháp môn Đà-la-ni có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải lìa tất cả
pháp môn Tam-ma-địa có thể đắc
chơn như của
Như Lai; chẳng phải lìa tất cả
pháp môn Đà-la-ni có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải lìa tất cả
pháp môn Tam-ma-địa có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai; chẳng phải lìa
chơn như của tất cả
pháp môn Đà-la-ni có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải lìa
chơn như của tất cả
pháp môn Tam-ma-địa có thể đắc
chơn như của
Như Lai; chẳng phải lìa
pháp tánh của tất cả
pháp môn Đà-la-ni có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải lìa
pháp tánh của tất cả
pháp môn Tam-ma-địa có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai.
Kiều Thi Ca! Chẳng phải trong tất cả
pháp môn Đà-la-ni có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể đắc tất cả
pháp môn Đà-la-ni; chẳng phải trong tất cả
pháp môn Tam-ma-địa có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể đắc tất cả
pháp môn Tam-ma-địa; chẳng phải trong
chơn như của tất cả
pháp môn Đà-la-ni có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể đắc
chơn như của tất cả
pháp môn Đà-la-ni; chẳng phải trong
chơn như của tất cả
pháp môn Tam-ma-địa có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể đắc
chơn như của tất cả
pháp môn Tam-ma-địa; chẳng phải trong
pháp tánh của tất cả
pháp môn Đà-la-ni có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể
đắc pháp tánh của tất cả
pháp môn Đà-la-ni; chẳng phải trong
pháp tánh của tất cả
pháp môn Tam-ma-địa có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể
đắc pháp tánh của tất cả
pháp môn Tam-ma-địa; chẳng phải trong tất cả
pháp môn Đà-la-ni có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải trong
chơn như của
Như Lai có thể đắc tất cả
pháp môn Đà-la-ni; chẳng phải trong tất cả
pháp môn Tam-ma-địa có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải trong
chơn như của
Như Lai có thể đắc tất cả
pháp môn Tam-ma-địa; chẳng phải trong tất cả
pháp môn Đà-la-ni có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải trong
pháp tánh của
Như Lai có thể đắc tất cả
pháp môn Đà-la-ni; chẳng phải trong tất cả
pháp môn Tam-ma-địa có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải trong
pháp tánh của
Như Lai có thể đắc tất cả
pháp môn Tam-ma-địa; chẳng phải trong
chơn như của tất cả
pháp môn Đà-la-ni có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải trong
chơn như của
Như Lai có thể đắc
chơn như của tất cả
pháp môn Đà-la-ni; chẳng phải trong
chơn như của tất cả
pháp môn Tam-ma-địa có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải trong
chơn như của
Như Lai có thể đắc
chơn như của tất cả
pháp môn Tam-ma-địa; chẳng phải trong
pháp tánh của tất cả
pháp môn Đà-la-ni có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải trong
pháp tánh của
Như Lai có thể
đắc pháp tánh của tất cả
pháp môn Đà-la-ni; chẳng phải trong
pháp tánh của tất cả
pháp môn Tam-ma-địa có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải trong
pháp tánh của
Như Lai có thể
đắc pháp tánh của tất cả
pháp môn Tam-ma-địa.
Kiều Thi Ca! Chẳng phải lìa Dự-lưu có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán có thể đắc
Như Lai; chẳng phải lìa
chơn như của Dự-lưu có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa
chơn như của Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán có thể đắc
Như Lai; chẳng phải lìa
pháp tánh của Dự-lưu có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa
pháp tánh của Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán có thể đắc
Như Lai; chẳng phải lìa Dự-lưu có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải lìa Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán có thể đắc
chơn như của
Như Lai; chẳng phải lìa Dự-lưu có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải lìa Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai; chẳng phải lìa
chơn như của Dự-lưu có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải lìa
chơn như của Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán có thể đắc
chơn như của
Như Lai; chẳng phải lìa
pháp tánh của Dự-lưu có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải lìa
pháp tánh của Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai.
Kiều Thi Ca! Chẳng phải trong Dự-lưu có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể đắc Dự-lưu; chẳng phải trong Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể đắc Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán; chẳng phải trong
chơn như của Dự-lưu có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể đắc
chơn như của Dự-lưu; chẳng phải trong
chơn như của Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể đắc
chơn như của Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán; chẳng phải trong
pháp tánh của Dự-lưu có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể
đắc pháp tánh của Dự-lưu; chẳng phải trong
pháp tánh của Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể
đắc pháp tánh của Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán; chẳng phải trong Dự-lưu có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải trong
chơn như của
Như Lai có thể đắc Dự-lưu; chẳng phải trong Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải trong
chơn như của
Như Lai có thể đắc Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán; chẳng phải trong Dự-lưu có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải trong
pháp tánh của
Như Lai có thể đắc Dự-lưu; chẳng phải trong Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải trong
pháp tánh của
Như Lai có thể đắc Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán; chẳng phải trong
chơn như của Dự-lưu có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải trong
chơn như của
Như Lai có thể đắc
chơn như của Dự-lưu; chẳng phải trong
chơn như của Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải trong
chơn như của
Như Lai có thể đắc
chơn như của Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán; chẳng phải trong
pháp tánh của Dự-lưu có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải trong
pháp tánh của
Như Lai có thể
đắc pháp tánh của Dự-lưu; chẳng phải trong
pháp tánh của Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải trong
pháp tánh của
Như Lai có thể
đắc pháp tánh của Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán.
Kiều Thi Ca! Chẳng phải lìa Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả có thể đắc
Như Lai; chẳng phải lìa
chơn như của Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa
chơn như của Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả có thể đắc
Như Lai; chẳng phải lìa
pháp tánh của Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa
pháp tánh của Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả có thể đắc
Như Lai; chẳng phải lìa Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải lìa Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả có thể đắc
chơn như của
Như Lai; chẳng phải lìa Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải lìa Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai; chẳng phải lìa
chơn như của Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải lìa
chơn như của Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả có thể đắc
chơn như của
Như Lai; chẳng phải lìa
pháp tánh của Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải lìa
pháp tánh của Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai.
Kiều Thi Ca! Chẳng phải trong Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể đắc Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả; chẳng phải trong Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể đắc Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả; chẳng phải trong
chơn như của Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể đắc
chơn như của Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả; chẳng phải trong
chơn như của Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể đắc
chơn như của Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả; chẳng phải trong
pháp tánh của Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể
đắc pháp tánh của Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả; chẳng phải trong
pháp tánh của Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể
đắc pháp tánh của Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả; chẳng phải trong Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải trong
chơn như của
Như Lai có thể đắc Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả; chẳng phải trong Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải trong
chơn như của
Như Lai có thể đắc Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả; chẳng phải trong Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải trong
pháp tánh của
Như Lai có thể đắc Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả; chẳng phải trong Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải trong
pháp tánh của
Như Lai có thể đắc Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả; chẳng phải trong
chơn như của Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải trong
chơn như của
Như Lai có thể đắc
chơn như của Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả; chẳng phải trong
chơn như của Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải trong
chơn như của
Như Lai có thể đắc
chơn như của Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả; chẳng phải trong
pháp tánh của Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải trong
pháp tánh của
Như Lai có thể
đắc pháp tánh của Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả; chẳng phải trong
pháp tánh của Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải trong
pháp tánh của
Như Lai có thể
đắc pháp tánh của Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả.
Kiều Thi Ca! Chẳng phải lìa Độc-giác có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa Độc-giác hướng, Độc-giác quả có thể đắc
Như Lai; chẳng phải lìa
chơn như của Độc-giác có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa
chơn như của Độc-giác hướng, Độc-giác quả có thể đắc
Như Lai; chẳng phải lìa
pháp tánh của Độc-giác có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa
pháp tánh của Độc-giác hướng, Độc-giác quả có thể đắc
Như Lai; chẳng phải lìa Độc-giác có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải lìa Độc-giác hướng, Độc-giác quả có thể đắc
chơn như của
Như Lai; chẳng phải lìa Độc-giác có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải lìa Độc-giác hướng, Độc-giác quả có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai; chẳng phải lìa
chơn như của Độc-giác có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải lìa
chơn như của Độc-giác hướng, Độc-giác quả có thể đắc
chơn như của
Như Lai; chẳng phải lìa
pháp tánh của Độc-giác có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải lìa
pháp tánh của Độc-giác hướng, Độc-giác quả có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai.
Kiều Thi Ca! Chẳng phải trong Độc-giác có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể đắc Độc-giác; chẳng phải trong Độc-giác hướng, Độc-giác quả có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể đắc Độc-giác hướng, Độc-giác quả; chẳng phải trong
chơn như của Độc-giác có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể đắc
chơn như của Độc-giác; chẳng phải trong
chơn như của Độc-giác hướng, Độc-giác quả có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể đắc
chơn như của Độc-giác hướng, Độc-giác quả; chẳng phải trong
pháp tánh của Độc-giác có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể
đắc pháp tánh của Độc-giác; chẳng phải trong
pháp tánh của Độc-giác hướng, Độc-giác quả có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể
đắc pháp tánh của Độc-giác hướng, Độc-giác quả; chẳng phải trong Độc-giác có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải trong
chơn như của
Như Lai có thể đắc Độc-giác; chẳng phải trong Độc-giác hướng, Độc-giác quả có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải trong
chơn như của
Như Lai có thể đắc Độc-giác hướng, Độc-giác quả; chẳng phải trong Độc-giác có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải trong
pháp tánh của
Như Lai có thể đắc Độc-giác; chẳng phải trong Độc-giác hướng, Độc-giác quả có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải trong
pháp tánh của
Như Lai có thể đắc Độc-giác hướng, Độc-giác quả; chẳng phải trong
chơn như của Độc-giác có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải trong
chơn như của
Như Lai có thể đắc
chơn như của Độc-giác; chẳng phải trong
chơn như của Độc-giác hướng, Độc-giác quả có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải trong
chơn như của
Như Lai có thể đắc
chơn như của Độc-giác hướng, Độc-giác quả; chẳng phải trong
pháp tánh của Độc-giác có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải trong
pháp tánh của
Như Lai có thể
đắc pháp tánh của Độc-giác; chẳng phải trong
pháp tánh của Độc-giác hướng, Độc-giác quả có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải trong
pháp tánh của
Như Lai có thể
đắc pháp tánh của Độc-giác hướng, Độc-giác quả.
Kiều Thi Ca! Chẳng phải lìa đại Bồ-tát có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa Tam-miệu-tam Phật-đà có thể đắc
Như Lai; chẳng phải lìa
chơn như của đại Bồ-tát có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa
chơn như của Tam-miệu-tam Phật-đà có thể đắc
Như Lai; chẳng phải lìa
pháp tánh của đại Bồ-tát có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa
pháp tánh của Tam-miệu-tam Phật-đà có thể đắc
Như Lai; chẳng phải lìa đại Bồ-tát có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải lìa Tam-miệu-tam Phật-đà có thể đắc
chơn như của
Như Lai; chẳng phải lìa đại Bồ-tát có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải lìa Tam-miệu-tam Phật-đà có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai; chẳng phải lìa
chơn như của đại Bồ-tát có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải lìa
chơn như của Tam-miệu-tam Phật-đà có thể đắc
chơn như của
Như Lai; chẳng phải lìa
pháp tánh của đại Bồ-tát có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải lìa
pháp tánh của Tam-miệu-tam Phật-đà có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai.
Kiều Thi Ca! Chẳng phải trong đại Bồ-tát có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể đắc đại Bồ-tát; chẳng phải trong Tam-miệu-tam Phật-đà có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể đắc Tam-miệu-tam Phật-đà; chẳng phải trong
chơn như của đại Bồ-tát có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể đắc
chơn như của đại Bồ-tát; chẳng phải trong
chơn như của Tam-miệu-tam Phật-đà có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể đắc
chơn như của Tam-miệu-tam Phật-đà; chẳng phải trong
pháp tánh của đại Bồ-tát có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể
đắc pháp tánh của đại Bồ-tát; chẳng phải trong
pháp tánh của Tam-miệu-tam Phật-đà có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể
đắc pháp tánh của Tam-miệu-tam Phật-đà; chẳng phải trong đại Bồ-tát có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải trong
chơn như của
Như Lai có thể đắc đại Bồ-tát; chẳng phải trong Tam-miệu-tam Phật-đà có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải trong
chơn như của
Như Lai có thể đắc Tam-miệu-tam Phật-đà; chẳng phải trong đại Bồ-tát có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải trong
pháp tánh của
Như Lai có thể đắc đại Bồ-tát; chẳng phải trong Tam-miệu-tam Phật-đà có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải trong
pháp tánh của
Như Lai có thể đắc Tam-miệu-tam Phật-đà; chẳng phải trong
chơn như của đại Bồ-tát có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải trong
chơn như của
Như Lai có thể đắc
chơn như của đại Bồ-tát; chẳng phải trong
chơn như của Tam-miệu-tam Phật-đà có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải trong
chơn như của
Như Lai có thể đắc
chơn như của Tam-miệu-tam Phật-đà; chẳng phải trong
pháp tánh của đại Bồ-tát có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải trong
pháp tánh của
Như Lai có thể
đắc pháp tánh của đại Bồ-tát; chẳng phải trong
pháp tánh của Tam-miệu-tam Phật-đà có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải trong
pháp tánh của
Như Lai có thể
đắc pháp tánh của Tam-miệu-tam Phật-đà.
Kiều Thi Ca! Chẳng phải lìa pháp của đại Bồ-tát có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa
quả vị giác ngộ cao tột có thể đắc
Như Lai; chẳng phải lìa
chơn như của pháp của đại Bồ-tát có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa
chơn như của
quả vị giác ngộ cao tột có thể đắc
Như Lai; chẳng phải lìa
pháp tánh của pháp của đại Bồ-tát có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa
pháp tánh của
quả vị giác ngộ cao tột có thể đắc
Như Lai; chẳng phải lìa pháp của đại Bồ-tát có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải lìa
quả vị giác ngộ cao tột có thể đắc
chơn như của
Như Lai; chẳng phải lìa pháp của đại Bồ-tát có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải lìa
quả vị giác ngộ cao tột có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai; chẳng phải lìa
chơn như của pháp của đại Bồ-tát có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải lìa
chơn như của
quả vị giác ngộ cao tột có thể đắc
chơn như của
Như Lai; chẳng phải lìa
pháp tánh của pháp của đại Bồ-tát có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải lìa
pháp tánh của
quả vị giác ngộ cao tột có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai.
Kiều Thi Ca! Chẳng phải trong pháp của đại Bồ-tát có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể
đắc pháp của đại Bồ-tát; chẳng phải trong
quả vị giác ngộ cao tột có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể
đắc quả vị giác ngộ cao tột; chẳng phải trong
chơn như của pháp của đại Bồ-tát có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể đắc
chơn như của pháp của đại Bồ-tát; chẳng phải trong
chơn như của
quả vị giác ngộ cao tột có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể đắc
chơn như của
quả vị giác ngộ cao tột; chẳng phải trong
pháp tánh của pháp của đại Bồ-tát có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể
đắc pháp tánh của pháp của đại Bồ-tát; chẳng phải trong
pháp tánh của
quả vị giác ngộ cao tột có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể
đắc pháp tánh của
quả vị giác ngộ cao tột; chẳng phải trong pháp của đại Bồ-tát có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải trong
chơn như của
Như Lai có thể
đắc pháp của đại Bồ-tát; chẳng phải trong
quả vị giác ngộ cao tột có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải trong
chơn như của
Như Lai có thể
đắc quả vị giác ngộ cao tột; chẳng phải trong pháp của đại Bồ-tát có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải trong
pháp tánh của
Như Lai có thể
đắc pháp của đại Bồ-tát; chẳng phải trong
quả vị giác ngộ cao tột có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải trong
pháp tánh của
Như Lai có thể
đắc quả vị giác ngộ cao tột; chẳng phải trong
chơn như của pháp của đại Bồ-tát có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải trong
chơn như của
Như Lai có thể đắc
chơn như của pháp của đại Bồ-tát; chẳng phải trong
chơn như của
quả vị giác ngộ cao tột có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải trong
chơn như của
Như Lai có thể đắc
chơn như của
quả vị giác ngộ cao tột; chẳng phải trong
pháp tánh của pháp của đại Bồ-tát có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải trong
pháp tánh của
Như Lai có thể
đắc pháp tánh của pháp của đại Bồ-tát; chẳng phải trong
pháp tánh của
quả vị giác ngộ cao tột có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải trong
pháp tánh của
Như Lai có thể
đắc pháp tánh của
quả vị giác ngộ cao tột.
Kiều Thi Ca! Chẳng phải lìa Thanh-văn thừa có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa có thể đắc
Như Lai; chẳng phải lìa
chơn như của Thanh-văn thừa có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa
chơn như của Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa có thể đắc
Như Lai; chẳng phải lìa
pháp tánh của Thanh-văn thừa có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa
pháp tánh của Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa có thể đắc
Như Lai; chẳng phải lìa Thanh-văn thừa có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải lìa Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa có thể đắc
chơn như của
Như Lai; chẳng phải lìa Thanh-văn thừa có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải lìa Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai; chẳng phải lìa
chơn như của Thanh-văn thừa có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải lìa
chơn như của Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa có thể đắc
chơn như của
Như Lai; chẳng phải lìa
pháp tánh của Thanh-văn thừa có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải lìa
pháp tánh của Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai.
Kiều Thi Ca! Chẳng phải trong Thanh-văn thừa có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể đắc Thanh-văn thừa; chẳng phải trong Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể đắc Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa; chẳng phải trong
chơn như của Thanh-văn thừa có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể đắc
chơn như của Thanh-văn thừa; chẳng phải trong
chơn như của Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể đắc
chơn như của Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa; chẳng phải trong
pháp tánh của Thanh-văn thừa có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể
đắc pháp tánh của Thanh-văn thừa; chẳng phải trong
pháp tánh của Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa có thể đắc
Như Lai, chẳng phải trong
Như Lai có thể
đắc pháp tánh của Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa; chẳng phải trong Thanh-văn thừa có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải trong
chơn như của
Như Lai có thể đắc Thanh-văn thừa; chẳng phải trong Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải trong
chơn như của
Như Lai có thể đắc Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa; chẳng phải trong Thanh-văn thừa có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải trong
pháp tánh của
Như Lai có thể đắc Thanh-văn thừa; chẳng phải trong Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải trong
pháp tánh của
Như Lai có thể đắc Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa; chẳng phải trong
chơn như của Thanh-văn thừa có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải trong
chơn như của
Như Lai có thể đắc
chơn như của Thanh-văn thừa; chẳng phải trong
chơn như của Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa có thể đắc
chơn như của
Như Lai, chẳng phải trong
chơn như của
Như Lai có thể đắc
chơn như của Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa; chẳng phải trong
pháp tánh của Thanh-văn thừa có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải trong
pháp tánh của
Như Lai có thể
đắc pháp tánh của Thanh-văn thừa; chẳng phải trong
pháp tánh của Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa có thể
đắc pháp tánh của
Như Lai, chẳng phải trong
pháp tánh của
Như Lai có thể
đắc pháp tánh của Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa.
Quyển Thứ 91
HẾT
04
Kiều Thi Ca!
Như Lai đối với sắc chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với
chơn như của sắc chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
chơn như của thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với
pháp tánh của sắc chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
pháp tánh của thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với sắc chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với
chơn như của sắc chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
chơn như của thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với sắc chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với
pháp tánh của sắc chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
pháp tánh của thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Kiều Thi Ca!
Như Lai đối với sự lìa sắc chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với sự lìa
chơn như của sắc chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
chơn như của thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với sự lìa
pháp tánh của sắc chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
pháp tánh của thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với sự lìa sắc chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với sự lìa
chơn như của sắc chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
chơn như của thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với sự lìa sắc chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với sự lìa
pháp tánh của sắc chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
pháp tánh của thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Kiều Thi Ca!
Như Lai đối với nhãn xứ chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân,
ý xứ cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với
chơn như của nhãn xứ chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân,
ý xứ cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với
pháp tánh của nhãn xứ chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
pháp tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân,
ý xứ cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với nhãn xứ chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân,
ý xứ cũng chẳng
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với
chơn như của nhãn xứ chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân,
ý xứ cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với nhãn xứ chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân,
ý xứ cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với
pháp tánh của nhãn xứ chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
pháp tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân,
ý xứ cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Kiều Thi Ca!
Như Lai đối với sự lìa nhãn xứ chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa nhĩ, tỷ, thiệt, thân,
ý xứ cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với sự lìa
chơn như của nhãn xứ chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân,
ý xứ cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với sự lìa
pháp tánh của nhãn xứ chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
pháp tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân,
ý xứ cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với sự lìa nhãn xứ chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa nhĩ, tỷ, thiệt, thân,
ý xứ cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với sự lìa
chơn như của nhãn xứ chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân,
ý xứ cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với sự lìa nhãn xứ chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa nhĩ, tỷ, thiệt, thân,
ý xứ cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với sự lìa
pháp tánh của nhãn xứ chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
pháp tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân,
ý xứ cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Kiều Thi Ca!
Như Lai đối với
sắc xứ chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với thanh, hương, vị, xúc,
pháp xứ cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với
chơn như của
sắc xứ chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
chơn như của thanh, hương, vị, xúc,
pháp xứ cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với
pháp tánh của
sắc xứ chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
pháp tánh của thanh, hương, vị, xúc,
pháp xứ cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với
sắc xứ chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với thanh, hương, vị, xúc,
pháp xứ cũng chẳng
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với
chơn như của
sắc xứ chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
chơn như của thanh, hương, vị, xúc,
pháp xứ cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với
sắc xứ chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với thanh, hương, vị, xúc,
pháp xứ cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với
pháp tánh của
sắc xứ chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
pháp tánh của thanh, hương, vị, xúc,
pháp xứ cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Kiều Thi Ca!
Như Lai đối với sự lìa
sắc xứ chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa thanh, hương, vị, xúc,
pháp xứ cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với sự lìa
chơn như của
sắc xứ chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
chơn như của thanh, hương, vị, xúc,
pháp xứ cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với sự lìa
pháp tánh của
sắc xứ chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
pháp tánh của thanh, hương, vị, xúc,
pháp xứ cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với sự lìa
sắc xứ chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa thanh, hương, vị, xúc,
pháp xứ cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với sự lìa
chơn như của
sắc xứ chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
chơn như của thanh, hương, vị, xúc,
pháp xứ cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với sự lìa
sắc xứ chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa thanh, hương, vị, xúc,
pháp xứ cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với sự lìa
pháp tánh của
sắc xứ chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
pháp tánh của thanh, hương, vị, xúc,
pháp xứ cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Kiều Thi Ca!
Như Lai đối với
nhãn giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
sắc giới,
nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với
chơn như của
nhãn giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
chơn như của
sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với
pháp tánh của
nhãn giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
pháp tánh của
sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với
nhãn giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với
chơn như của
nhãn giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
chơn như của
sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với
nhãn giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với
pháp tánh của
nhãn giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
pháp tánh của
sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Kiều Thi Ca!
Như Lai đối với sự lìa
nhãn giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
sắc giới,
nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với sự lìa
chơn như của
nhãn giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
chơn như của
sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với sự lìa
pháp tánh của
nhãn giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
pháp tánh của
sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với sự lìa
nhãn giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với sự lìa
chơn như của
nhãn giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
chơn như của
sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với sự lìa
nhãn giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với sự lìa
pháp tánh của
nhãn giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
pháp tánh của
sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Kiều Thi Ca!
Như Lai đối với
nhĩ giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với thanh giới,
nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với
chơn như của
nhĩ giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
chơn như của thanh giới
cho đến các thọ do nhĩ xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với
pháp tánh của
nhĩ giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
pháp tánh của thanh giới
cho đến các thọ do nhĩ xúc làm
duyên sanh ra chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với
nhĩ giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với thanh giới
cho đến các thọ do nhĩ xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với
chơn như của
nhĩ giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
chơn như của thanh giới
cho đến các thọ do nhĩ xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với
nhĩ giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với thanh giới
cho đến các thọ do nhĩ xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với
pháp tánh của
nhĩ giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
pháp tánh của thanh giới
cho đến các thọ do nhĩ xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Kiều Thi Ca!
Như Lai đối với sự lìa
nhĩ giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa thanh giới,
nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với sự lìa
chơn như của
nhĩ giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
chơn như của thanh giới
cho đến các thọ do nhĩ xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với sự lìa
pháp tánh của
nhĩ giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
pháp tánh của thanh giới
cho đến các thọ do nhĩ xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với sự lìa
nhĩ giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa thanh giới
cho đến các thọ do nhĩ xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với sự lìa
chơn như của
nhĩ giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
chơn như của thanh giới
cho đến các thọ do nhĩ xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với sự lìa
nhĩ giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa thanh giới
cho đến các thọ do nhĩ xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với sự lìa
pháp tánh của
nhĩ giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
pháp tánh của thanh giới
cho đến các thọ do nhĩ xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Kiều Thi Ca!
Như Lai đối với tỷ giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
hương giới,
tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với
chơn như của tỷ giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
chơn như của
hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với
pháp tánh của tỷ giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
pháp tánh của
hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với tỷ giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với
chơn như của tỷ giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
chơn như của
hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với tỷ giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với
pháp tánh của tỷ giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
pháp tánh của
hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Kiều Thi Ca!
Như Lai đối với sự lìa tỷ giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
hương giới,
tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với sự lìa
chơn như của tỷ giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
chơn như của
hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với sự lìa
pháp tánh của tỷ giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
pháp tánh của
hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với sự lìa tỷ giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với sự lìa
chơn như của tỷ giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
chơn như của
hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với sự lìa tỷ giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với sự lìa
pháp tánh của tỷ giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
pháp tánh của
hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Kiều Thi Ca!
Như Lai đối với thiệt giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với vị giới,
thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với
chơn như của thiệt giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
chơn như của vị giới
cho đến các thọ do thiệt xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với
pháp tánh của thiệt giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
pháp tánh của vị giới
cho đến các thọ do thiệt xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với thiệt giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với vị giới
cho đến các thọ do thiệt xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với
chơn như của thiệt giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
chơn như của vị giới
cho đến các thọ do thiệt xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với thiệt giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với vị giới
cho đến các thọ do thiệt xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với
pháp tánh của thiệt giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
pháp tánh của vị giới
cho đến các thọ do thiệt xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Kiều Thi Ca!
Như Lai đối với sự lìa thiệt giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa vị giới,
thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với sự lìa
chơn như của thiệt giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
chơn như của vị giới
cho đến các thọ do thiệt xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với sự lìa
pháp tánh của thiệt giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
pháp tánh của vị giới
cho đến các thọ do thiệt xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với sự lìa thiệt giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa vị giới
cho đến các thọ do thiệt xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với sự lìa
chơn như của thiệt giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
chơn như của vị giới
cho đến các thọ do thiệt xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với sự lìa thiệt giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa vị giới
cho đến các thọ do thiệt xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với sự lìa
pháp tánh của thiệt giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
pháp tánh của vị giới
cho đến các thọ do thiệt xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Kiều Thi Ca!
Như Lai đối với
thân giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với xúc giới,
thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với
chơn như của
thân giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
chơn như của xúc giới
cho đến các thọ do thân xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với
pháp tánh của
thân giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
pháp tánh của xúc giới
cho đến các thọ do thân xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với
thân giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với xúc giới
cho đến các thọ do thân xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với
chơn như của
thân giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
chơn như của xúc giới
cho đến các thọ do thân xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với
thân giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với xúc giới
cho đến các thọ do thân xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với
pháp tánh của
thân giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
pháp tánh của xúc giới
cho đến các thọ do thân xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Kiều Thi Ca!
Như Lai đối với sự lìa
thân giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa xúc giới,
thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với sự lìa
chơn như của
thân giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
chơn như của xúc giới
cho đến các thọ do thân xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với sự lìa
pháp tánh của
thân giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
pháp tánh của xúc giới
cho đến các thọ do thân xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với sự lìa
thân giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa xúc giới
cho đến các thọ do thân xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với sự lìa
chơn như của
thân giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
chơn như của xúc giới
cho đến các thọ do thân xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với sự lìa
thân giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa xúc giới
cho đến các thọ do thân xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với sự lìa
pháp tánh của
thân giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
pháp tánh của xúc giới
cho đến các thọ do thân xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Kiều Thi Ca!
Như Lai đối với
ý giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
pháp giới,
ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với
chơn như của
ý giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
chơn như của
pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với
pháp tánh của
ý giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
pháp tánh của
pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với
ý giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với
chơn như của
ý giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
chơn như của
pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với
ý giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với
pháp tánh của
ý giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
pháp tánh của
pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Kiều Thi Ca!
Như Lai đối với sự lìa
ý giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
pháp giới,
ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với sự lìa
chơn như của
ý giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
chơn như của
pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với sự lìa
pháp tánh của
ý giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
pháp tánh của
pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với sự lìa
ý giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với sự lìa
chơn như của
ý giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
chơn như của
pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với sự lìa
ý giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với sự lìa
pháp tánh của
ý giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
pháp tánh của
pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm
duyên sanh ra cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Kiều Thi Ca!
Như Lai đối với
địa giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với thủy, hỏa, phong, không,
thức giới cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với
chơn như của
địa giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
chơn như của thủy, hỏa, phong, không,
thức giới cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với
pháp tánh của
địa giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
pháp tánh của thủy, hỏa, phong, không,
thức giới cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với
địa giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với thủy, hỏa, phong, không,
thức giới cũng chẳng
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với
chơn như của
địa giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
chơn như của thủy, hỏa, phong, không,
thức giới cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với
địa giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với thủy, hỏa, phong, không,
thức giới cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với
pháp tánh của
địa giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
pháp tánh của thủy, hỏa, phong, không,
thức giới cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Kiều Thi Ca!
Như Lai đối với sự lìa
địa giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa thủy, hỏa, phong, không,
thức giới cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với sự lìa
chơn như của
địa giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
chơn như của thủy, hỏa, phong, không,
thức giới cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với sự lìa
pháp tánh của
địa giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
pháp tánh của thủy, hỏa, phong, không,
thức giới cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với sự lìa
địa giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa thủy, hỏa, phong, không,
thức giới cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với sự lìa
chơn như của
địa giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
chơn như của thủy, hỏa, phong, không,
thức giới cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với sự lìa
địa giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa thủy, hỏa, phong, không,
thức giới cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với sự lìa
pháp tánh của
địa giới chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
pháp tánh của thủy, hỏa, phong, không,
thức giới cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Kiều Thi Ca!
Như Lai đối với
Thánh đế khổ chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
Thánh đế tập, diệt, đạo cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với
chơn như của
Thánh đế khổ cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
chơn như của
Thánh đế tập, diệt, đạo cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với
pháp tánh của
Thánh đế khổ chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
pháp tánh của
Thánh đế tập, diệt, đạo cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với
Thánh đế khổ chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
Thánh đế tập, diệt, đạo cũng chẳng
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với
chơn như của
Thánh đế khổ chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
chơn như của
Thánh đế tập, diệt, đạo cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với
Thánh đế khổ chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
Thánh đế tập, diệt, đạo cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với
pháp tánh của
Thánh đế khổ chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
pháp tánh của
Thánh đế tập, diệt, đạo cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Kiều Thi Ca!
Như Lai đối với sự lìa
Thánh đế khổ chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
Thánh đế tập, diệt, đạo cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với sự lìa
chơn như của
Thánh đế khổ chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
chơn như của
Thánh đế tập, diệt, đạo cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với sự lìa
pháp tánh của
Thánh đế khổ chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
pháp tánh của
Thánh đế tập, diệt, đạo cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với sự lìa
Thánh đế khổ chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
Thánh đế tập, diệt, đạo cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với sự lìa
chơn như của
Thánh đế khổ chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
chơn như của
Thánh đế tập, diệt, đạo cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với sự lìa
Thánh đế khổ chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
Thánh đế tập, diệt, đạo cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với sự lìa
pháp tánh của
Thánh đế khổ chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
pháp tánh của
Thánh đế tập, diệt, đạo cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Kiều Thi Ca!
Như Lai đối với
vô minh chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với hành, thức,
danh sắc,
lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh,
lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với
chơn như của
vô minh chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
chơn như của hành
cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với
pháp tánh của
vô minh chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
pháp tánh của hành
cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với
vô minh chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với hành
cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não cũng chẳng
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với
chơn như của
vô minh chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
chơn như của hành
cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với
vô minh chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với hành
cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với
pháp tánh của
vô minh chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
pháp tánh của hành
cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Kiều Thi Ca!
Như Lai đối với sự lìa
vô minh chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa hành, thức,
danh sắc,
lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh,
lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với sự lìa
chơn như của
vô minh chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
chơn như của hành
cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với sự lìa
pháp tánh của
vô minh chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
pháp tánh của hành
cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với sự lìa
vô minh chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa hành
cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với sự lìa
chơn như của
vô minh chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
chơn như của hành
cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với sự lìa
vô minh chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa hành
cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với sự lìa
pháp tánh của
vô minh chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
pháp tánh của hành
cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Kiều Thi Ca!
Như Lai đối với cái không nội chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với cái không ngoại, cái không
nội ngoại, cái
không không, cái không lớn, cái không
thắng nghĩa, cái
không hữu vi, cái
không vô vi, cái không
rốt ráo, cái
không không biên giới, cái không tản mạn, cái
không không đổi khác, cái không
bản tánh, cái không
tự tướng, cái không
cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái
không không tánh, cái không
tự tánh, cái
không không tánh tự tánh cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với
chơn như của cái không nội chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
chơn như của cái không ngoại
cho đến cái
không không tánh tự tánh cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với
pháp tánh của cái không nội chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
pháp tánh của cái không ngoại
cho đến cái
không không tánh tự tánh cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với cái không nội chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với cái không ngoại
cho đến cái
không không tánh tự tánh cũng chẳng
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với
chơn như của cái không nội chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
chơn như của cái không ngoại
cho đến cái
không không tánh tự tánh cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với cái không nội chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với cái không ngoại
cho đến cái
không không tánh tự tánh cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với
pháp tánh của cái không nội chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
pháp tánh của cái không ngoại
cho đến cái
không không tánh tự tánh cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Kiều Thi Ca!
Như Lai đối với sự lìa cái không nội chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa cái không ngoại, cái không
nội ngoại, cái
không không, cái không lớn, cái không
thắng nghĩa, cái
không hữu vi, cái
không vô vi, cái không
rốt ráo, cái
không không biên giới, cái không tản mạn, cái
không không đổi khác, cái không
bản tánh, cái không
tự tướng, cái không
cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái
không không tánh, cái không
tự tánh, cái
không không tánh tự tánh cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với sự lìa
chơn như của cái không nội chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
chơn như của cái không ngoại
cho đến cái
không không tánh tự tánh cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với sự lìa
pháp tánh của cái không nội chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
pháp tánh của cái không ngoại
cho đến cái
không không tánh tự tánh cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với sự lìa cái không nội chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa cái không ngoại
cho đến cái
không không tánh tự tánh cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với sự lìa
chơn như của cái không nội chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
chơn như của cái không ngoại
cho đến cái
không không tánh tự tánh cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với sự lìa cái không nội chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa cái không ngoại
cho đến cái
không không tánh tự tánh cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với sự lìa
pháp tánh của cái không nội chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
pháp tánh của cái không ngoại
cho đến cái
không không tánh tự tánh cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Kiều Thi Ca!
Như Lai đối với
chơn như chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
pháp giới,
pháp tánh, tánh chẳng
hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh
bình đẳng, tánh
ly sanh, định pháp, trụ pháp,
thật tế,
cảnh giới hư không,
cảnh giới bất tư nghì cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với
chơn như của
chơn như chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
chơn như của
pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với
pháp tánh của
chơn như chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
pháp tánh của
pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với
chơn như chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với
chơn như của
chơn như chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
chơn như của
pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với
chơn như chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với
pháp tánh của
chơn như chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
pháp tánh của
pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Kiều Thi Ca!
Như Lai đối với sự lìa
chơn như chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
pháp giới,
pháp tánh, tánh chẳng
hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh
bình đẳng, tánh
ly sanh, định pháp, trụ pháp,
thật tế,
cảnh giới hư không,
cảnh giới bất tư nghì cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với sự lìa
chơn như của
chơn như chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
chơn như của
pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với sự lìa
pháp tánh của
chơn như chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
pháp tánh của
pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với sự lìa
chơn như chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với sự lìa
chơn như của
chơn như chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
chơn như của
pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với sự lìa
chơn như chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với sự lìa
pháp tánh của
chơn như chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
pháp tánh của
pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Kiều Thi Ca!
Như Lai đối với
bố thí Ba-la-mật-đa chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
tịnh giới,
an nhẫn,
tinh tấn,
tịnh lự,
Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với
chơn như của bố thí Ba-la-mật-đa chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
chơn như của
tịnh giới,
an nhẫn,
tinh tấn,
tịnh lự,
Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với
pháp tánh của bố thí Ba-la-mật-đa chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
pháp tánh của
tịnh giới,
an nhẫn,
tinh tấn,
tịnh lự,
Bát-nhã Ba-la-mật-đa chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với
bố thí Ba-la-mật-đa chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
tịnh giới,
an nhẫn,
tinh tấn,
tịnh lự,
Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng chẳng
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với
chơn như của bố thí Ba-la-mật-đa chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
chơn như của
tịnh giới,
an nhẫn,
tinh tấn,
tịnh lự,
Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với
bố thí Ba-la-mật-đa chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
tịnh giới,
an nhẫn,
tinh tấn,
tịnh lự,
Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với
pháp tánh của bố thí Ba-la-mật-đa chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
pháp tánh của
tịnh giới,
an nhẫn,
tinh tấn,
tịnh lự,
Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Kiều Thi Ca!
Như Lai đối với sự lìa
bố thí Ba-la-mật-đa chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
tịnh giới,
an nhẫn,
tinh tấn,
tịnh lự,
Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với sự lìa
chơn như của bố thí Ba-la-mật-đa chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
chơn như của
tịnh giới,
an nhẫn,
tinh tấn,
tịnh lự,
Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với sự lìa
pháp tánh của bố thí Ba-la-mật-đa chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
pháp tánh của
tịnh giới,
an nhẫn,
tinh tấn,
tịnh lự,
Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với sự lìa
bố thí Ba-la-mật-đa chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
tịnh giới,
an nhẫn,
tinh tấn,
tịnh lự,
Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với sự lìa
chơn như của bố thí Ba-la-mật-đa chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
chơn như của
tịnh giới,
an nhẫn,
tinh tấn,
tịnh lự,
Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với sự lìa
bố thí Ba-la-mật-đa chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
tịnh giới,
an nhẫn,
tinh tấn,
tịnh lự,
Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với sự lìa
pháp tánh của bố thí Ba-la-mật-đa chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
pháp tánh của
tịnh giới,
an nhẫn,
tinh tấn,
tịnh lự,
Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Quyển Thứ 92
HẾT
05
Kiều Thi Ca!
Như Lai đối với bốn
tịnh lự chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với bốn
vô lượng, bốn
định vô sắc cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với
chơn như của bốn
tịnh lự chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
chơn như của bốn
vô lượng, bốn
định vô sắc cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với
pháp tánh của bốn
tịnh lự chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
pháp tánh của bốn
vô lượng, bốn
định vô sắc cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với bốn
tịnh lự chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với bốn
vô lượng, bốn
định vô sắc cũng chẳng
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với
chơn như của bốn
tịnh lự chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
chơn như của bốn
vô lượng, bốn
định vô sắc cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với bốn
tịnh lự chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với bốn
vô lượng, bốn
định vô sắc cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với
pháp tánh của bốn
tịnh lự chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
pháp tánh của bốn
vô lượng, bốn
định vô sắc cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Kiều Thi Ca!
Như Lai đối với sự lìa bốn
tịnh lự chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa bốn
vô lượng, bốn
định vô sắc cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với sự lìa
chơn như của bốn
tịnh lự chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
chơn như của bốn
vô lượng, bốn
định vô sắc cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với sự lìa
pháp tánh của bốn
tịnh lự chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
pháp tánh của bốn
vô lượng, bốn
định vô sắc cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với sự lìa bốn
tịnh lự chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa bốn
vô lượng, bốn
định vô sắc cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với sự lìa
chơn như của bốn
tịnh lự chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
chơn như của bốn
vô lượng, bốn
định vô sắc cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với sự lìa bốn
tịnh lự chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa bốn
vô lượng, bốn
định vô sắc cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với sự lìa
pháp tánh của bốn
tịnh lự chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
pháp tánh của bốn
vô lượng, bốn
định vô sắc cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Kiều Thi Ca!
Như Lai đối với
tám giải thoát chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
tám thắng xứ, chín định
thứ đệ,
mười biến xứ cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với
chơn như của
tám giải thoát chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
chơn như của
tám thắng xứ, chín định
thứ đệ,
mười biến xứ cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với
pháp tánh của
tám giải thoát chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
pháp tánh của
tám thắng xứ, chín định
thứ đệ,
mười biến xứ cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với
tám giải thoát chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
tám thắng xứ, chín định
thứ đệ,
mười biến xứ cũng chẳng
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với
chơn như của
tám giải thoát chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
chơn như của
tám thắng xứ, chín định
thứ đệ,
mười biến xứ cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với
tám giải thoát chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
tám thắng xứ, chín định
thứ đệ,
mười biến xứ cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với
pháp tánh của
tám giải thoát chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
pháp tánh của
tám thắng xứ, chín định
thứ đệ,
mười biến xứ cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Kiều Thi Ca!
Như Lai đối với sự lìa
tám giải thoát chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
tám thắng xứ, chín định
thứ đệ,
mười biến xứ cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với sự lìa
chơn như của
tám giải thoát chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
chơn như của
tám thắng xứ, chín định
thứ đệ,
mười biến xứ cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với sự lìa
pháp tánh của
tám giải thoát chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
pháp tánh của
tám thắng xứ, chín định
thứ đệ,
mười biến xứ cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với sự lìa
tám giải thoát chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
tám thắng xứ, chín định
thứ đệ,
mười biến xứ cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với sự lìa
chơn như của
tám giải thoát cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
chơn như của
tám thắng xứ, chín định
thứ đệ,
mười biến xứ cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với sự lìa
tám giải thoát chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
tám thắng xứ, chín định
thứ đệ,
mười biến xứ cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với sự lìa
pháp tánh của
tám giải thoát chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
pháp tánh của
tám thắng xứ, chín định
thứ đệ,
mười biến xứ cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Kiều Thi Ca!
Như Lai đối với bốn niệm trụ chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với bốn chánh đoạn, bốn
thần túc, năm căn,
năm lực, bảy chi
đẳng giác, tám chi
thánh đạo cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với
chơn như của bốn niệm trụ chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
chơn như của bốn chánh đoạn
cho đến tám chi
thánh đạo cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với
pháp tánh của bốn niệm trụ chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
pháp tánh của bốn chánh đoạn
cho đến tám chi
thánh đạo cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với bốn niệm trụ chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với bốn chánh đoạn
cho đến tám chi
thánh đạo cũng chẳng
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với
chơn như của bốn niệm trụ chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
chơn như của bốn chánh đoạn
cho đến tám chi
thánh đạo cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với bốn niệm trụ chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với bốn chánh đoạn
cho đến tám chi
thánh đạo cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với
pháp tánh của bốn niệm trụ chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
pháp tánh của bốn chánh đoạn
cho đến tám chi
thánh đạo cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Kiều Thi Ca!
Như Lai đối với sự lìa bốn niệm trụ chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa bốn chánh đoạn, bốn
thần túc, năm căn,
năm lực, bảy chi
đẳng giác, tám chi
thánh đạo cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với sự lìa
chơn như của bốn niệm trụ chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
chơn như của bốn chánh đoạn
cho đến tám chi
thánh đạo cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với sự lìa
pháp tánh của bốn niệm trụ chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
pháp tánh của bốn chánh đoạn
cho đến tám chi
thánh đạo cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với sự lìa bốn niệm trụ chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa bốn chánh đoạn
cho đến tám chi
thánh đạo cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với sự lìa
chơn như của bốn niệm trụ chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
chơn như của bốn chánh đoạn
cho đến tám chi
thánh đạo cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với sự lìa bốn niệm trụ chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa bốn chánh đoạn
cho đến tám chi
thánh đạo cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với sự lìa
pháp tánh của bốn niệm trụ chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
pháp tánh của bốn chánh đoạn
cho đến tám chi
thánh đạo cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Kiều Thi Ca!
Như Lai đối với
pháp môn giải thoát không chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
pháp môn giải thoát vô tướng,
vô nguyện cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với
chơn như của
pháp môn giải thoát không chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
chơn như của
pháp môn giải thoát vô tướng,
vô nguyện cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với
pháp tánh của
pháp môn giải thoát không chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
pháp tánh của
pháp môn giải thoát vô tướng,
vô nguyện cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với
pháp môn giải thoát không chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
pháp môn giải thoát vô tướng,
vô nguyện cũng chẳng
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với
chơn như của
pháp môn giải thoát không chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
chơn như của
pháp môn giải thoát vô tướng,
vô nguyện cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với
pháp môn giải thoát không chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
pháp môn giải thoát vô tướng,
vô nguyện cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với
pháp tánh của
pháp môn giải thoát không chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
pháp tánh của
pháp môn giải thoát vô tướng,
vô nguyện cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Kiều Thi Ca!
Như Lai đối với sự lìa
pháp môn giải thoát không chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
pháp môn giải thoát vô tướng,
vô nguyện cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với sự lìa
chơn như của
pháp môn giải thoát không chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
chơn như của
pháp môn giải thoát vô tướng,
vô nguyện cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với sự lìa
pháp tánh của
pháp môn giải thoát không chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
pháp tánh của
pháp môn giải thoát vô tướng,
vô nguyện cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với sự lìa
pháp môn giải thoát không chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
pháp môn giải thoát vô tướng,
vô nguyện cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với sự lìa
chơn như của
pháp môn giải thoát không chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
chơn như của
pháp môn giải thoát vô tướng,
vô nguyện cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với sự lìa
pháp môn giải thoát không chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
pháp môn giải thoát vô tướng,
vô nguyện cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với sự lìa
pháp tánh của
pháp môn giải thoát không chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
pháp tánh của
pháp môn giải thoát vô tướng,
vô nguyện cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Kiều Thi Ca!
Như Lai đối với
năm loại mắt chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sáu phép
thần thông cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với
chơn như của
năm loại mắt chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
chơn như của sáu phép
thần thông cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với
pháp tánh của
năm loại mắt chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
pháp tánh của sáu phép
thần thông chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với
năm loại mắt chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sáu phép
thần thông cũng chẳng
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với
chơn như của
năm loại mắt chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
chơn như của sáu phép
thần thông cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với
năm loại mắt chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sáu phép
thần thông cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với
pháp tánh của
năm loại mắt chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
pháp tánh của sáu phép
thần thông cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Kiều Thi Ca!
Như Lai đối với sự lìa
năm loại mắt chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa sáu phép
thần thông cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với sự lìa
chơn như của
năm loại mắt chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
chơn như của sáu phép
thần thông cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với sự lìa
pháp tánh của
năm loại mắt chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
pháp tánh của sáu phép
thần thông cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với sự lìa
năm loại mắt chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa sáu phép
thần thông cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với sự lìa
chơn như của
năm loại mắt chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
chơn như của sáu phép
thần thông cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với sự lìa
năm loại mắt chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa sáu phép
thần thông cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với sự lìa
pháp tánh của
năm loại mắt chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
pháp tánh của sáu phép
thần thông cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Kiều Thi Ca!
Như Lai đối với
mười lực của Phật chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với bốn điều không sợ, bốn sự
hiểu biết thông suốt,
đại từ,
đại bi,
đại hỷ,
đại xả, mười
tám pháp Phật
bất cộng cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với
chơn như của
mười lực Phật chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
chơn như của bốn điều không sợ
cho đến mười
tám pháp Phật
bất cộng cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với
pháp tánh của
mười lực Phật chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
pháp tánh của bốn điều không sợ
cho đến mười
tám pháp Phật
bất cộng cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với
mười lực của Phật chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với bốn điều không sợ
cho đến mười
tám pháp Phật
bất cộng cũng chẳng
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với
chơn như của
mười lực Phật chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
chơn như của bốn điều không sợ
cho đến mười
tám pháp Phật
bất cộng cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với
mười lực của Phật chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với bốn điều không sợ
cho đến mười
tám pháp Phật
bất cộng cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với
pháp tánh của
mười lực Phật chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
pháp tánh của bốn điều không sợ
cho đến mười
tám pháp Phật
bất cộng cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Kiều Thi Ca!
Như Lai đối với sự lìa
mười lực của Phật chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa bốn điều không sợ, bốn sự
hiểu biết thông suốt,
đại từ,
đại bi,
đại hỷ,
đại xả, mười
tám pháp Phật
bất cộng cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với sự lìa
chơn như của
mười lực Phật chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
chơn như của bốn điều không sợ
cho đến mười
tám pháp Phật
bất cộng cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với sự lìa
pháp tánh của
mười lực Phật chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
pháp tánh của bốn điều không sợ
cho đến mười
tám pháp Phật
bất cộng cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với sự lìa
mười lực của Phật chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa bốn điều không sợ
cho đến mười
tám pháp Phật
bất cộng cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với sự lìa
chơn như của
mười lực Phật chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
chơn như của bốn điều không sợ
cho đến mười
tám pháp Phật
bất cộng cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với sự lìa
mười lực của Phật chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa bốn điều không sợ
cho đến mười
tám pháp Phật
bất cộng cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với sự lìa
pháp tánh của
mười lực Phật chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
pháp tánh của bốn điều không sợ
cho đến mười
tám pháp Phật
bất cộng cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Kiều Thi Ca!
Như Lai đối với
pháp không quên mất chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với tánh luôn luôn xả cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với
chơn như của
pháp không quên mất chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
chơn như của tánh luôn luôn xả cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với
pháp tánh của
pháp không quên mất chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
pháp tánh của tánh luôn luôn xả cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với
pháp không quên mất chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với tánh luôn luôn xả cũng chẳng
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với
chơn như của
pháp không quên mất chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
chơn như của tánh luôn luôn xả cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với
pháp không quên mất chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với tánh luôn luôn xả cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với
pháp tánh của
pháp không quên mất chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
pháp tánh của tánh luôn luôn xả cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Kiều Thi Ca!
Như Lai đối với sự lìa
pháp không quên mất chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa tánh luôn luôn xả cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với sự lìa
chơn như của
pháp không quên mất chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
chơn như của tánh luôn luôn xả cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với sự lìa
pháp tánh của
pháp không quên mất chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
pháp tánh của tánh luôn luôn xả cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với sự lìa
pháp không quên mất chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa tánh luôn luôn xả cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với sự lìa
chơn như của
pháp không quên mất chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
chơn như của tánh luôn luôn xả cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với sự lìa
pháp không quên mất chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa tánh luôn luôn xả cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với sự lìa
pháp tánh của
pháp không quên mất chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
pháp tánh của tánh luôn luôn xả cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Kiều Thi Ca!
Như Lai đối với trí
nhất thiết chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với trí đạo tướng, trí
nhất thiết tướng cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với
chơn như của trí
nhất thiết chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
chơn như của trí đạo tướng, trí
nhất thiết tướng cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với
pháp tánh của trí
nhất thiết chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
pháp tánh của trí đạo tướng, trí
nhất thiết tướng cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với trí
nhất thiết chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với trí đạo tướng, trí
nhất thiết tướng cũng chẳng
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với
chơn như của trí
nhất thiết chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
chơn như của trí đạo tướng, trí
nhất thiết tướng cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với trí
nhất thiết chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với trí đạo tướng, trí
nhất thiết tướng cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với
pháp tánh của trí
nhất thiết chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
pháp tánh của trí đạo tướng, trí
nhất thiết tướng cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Kiều Thi Ca!
Như Lai đối với sự lìa trí
nhất thiết chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa trí đạo tướng, trí
nhất thiết tướng cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với sự lìa
chơn như của trí
nhất thiết chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
chơn như của trí đạo tướng, trí
nhất thiết tướng cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với sự lìa
pháp tánh của trí
nhất thiết chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
pháp tánh của trí đạo tướng, trí
nhất thiết tướng cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với sự lìa trí
nhất thiết chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa trí đạo tướng, trí
nhất thiết tướng cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với sự lìa
chơn như của trí
nhất thiết chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
chơn như của trí đạo tướng, trí
nhất thiết tướng cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với sự lìa trí
nhất thiết chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa trí đạo tướng, trí
nhất thiết tướng cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với sự lìa
pháp tánh của trí
nhất thiết chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
pháp tánh của trí đạo tướng, trí
nhất thiết tướng cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Kiều Thi Ca!
Như Lai đối với tất cả
pháp môn Đà-la-ni chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với tất cả
pháp môn Tam-ma-địa cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với
chơn như của tất cả
pháp môn Đà-la-ni chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
chơn như của tất cả
pháp môn Tam-ma-địa cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với
pháp tánh của tất cả
pháp môn Đà-la-ni chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
pháp tánh của tất cả
pháp môn Tam-ma-địa cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với tất cả
pháp môn Đà-la-ni chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với tất cả
pháp môn Tam-ma-địa cũng chẳng
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với
chơn như của tất cả
pháp môn Đà-la-ni chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
chơn như của tất cả
pháp môn Tam-ma-địa cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với tất cả
pháp môn Đà-la-ni chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với tất cả
pháp môn Tam-ma-địa cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với
pháp tánh của tất cả
pháp môn Đà-la-ni chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
pháp tánh của tất cả
pháp môn Tam-ma-địa cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Kiều Thi Ca!
Như Lai đối với sự lìa tất cả
pháp môn Đà-la-ni chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa tất cả
pháp môn Tam-ma-địa cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với sự lìa
chơn như của tất cả
pháp môn Đà-la-ni chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
chơn như của tất cả
pháp môn Tam-ma-địa cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với sự lìa
pháp tánh của tất cả
pháp môn Đà-la-ni chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
pháp tánh của tất cả
pháp môn Tam-ma-địa cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với sự lìa tất cả
pháp môn Đà-la-ni chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa tất cả
pháp môn Tam-ma-địa cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với sự lìa
chơn như của tất cả
pháp môn Đà-la-ni chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
chơn như của tất cả
pháp môn Tam-ma-địa cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với sự lìa tất cả
pháp môn Đà-la-ni chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa tất cả
pháp môn Tam-ma-địa cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với sự lìa
pháp tánh của tất cả
pháp môn Đà-la-ni chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
pháp tánh của tất cả
pháp môn Tam-ma-địa cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Kiều Thi Ca!
Như Lai đối với Dự-lưu chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với
chơn như của Dự-lưu chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
chơn như của Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với
pháp tánh của Dự-lưu chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
pháp tánh của Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với Dự-lưu chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán cũng chẳng
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với
chơn như của Dự-lưu chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
chơn như của Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với Dự-lưu chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với
pháp tánh của Dự-lưu chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
pháp tánh của Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Kiều Thi Ca!
Như Lai đối với sự lìa Dự-lưu chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với sự lìa
chơn như của Dự-lưu chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
chơn như của Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với sự lìa
pháp tánh của Dự-lưu chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
pháp tánh của Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với sự lìa Dự-lưu chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với sự lìa
chơn như của Dự-lưu chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
chơn như của Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với sự lìa Dự-lưu chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với sự lìa
pháp tánh của Dự-lưu chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
pháp tánh của Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Kiều Thi Ca!
Như Lai đối với Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với
chơn như của Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
chơn như của Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với
pháp tánh của Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
pháp tánh của Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả cũng chẳng
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với
chơn như của Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
chơn như của Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với
pháp tánh của Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
pháp tánh của Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Kiều Thi Ca!
Như Lai đối với sự lìa Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với sự lìa
chơn như của Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
chơn như của Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với sự lìa
pháp tánh của Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
pháp tánh của Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với sự lìa Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với sự lìa
chơn như của Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
chơn như của Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với sự lìa Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với sự lìa
pháp tánh của Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
pháp tánh của Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Kiều Thi Ca!
Như Lai đối với Độc-giác chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với Độc-giác hướng, Độc-giác quả cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với
chơn như của Độc-giác chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
chơn như của Độc-giác hướng, Độc-giác quả cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với
pháp tánh của Độc-giác chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
pháp tánh của Độc-giác hướng, Độc-giác quả cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với Độc-giác chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với Độc-giác hướng, Độc-giác quả cũng chẳng
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với
chơn như của Độc-giác chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
chơn như của Độc-giác hướng, Độc-giác quả cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với Độc-giác chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với Độc-giác hướng, Độc-giác quả cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với
pháp tánh của Độc-giác chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
pháp tánh của Độc-giác hướng, Độc-giác quả cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Kiều Thi Ca!
Như Lai đối với sự lìa Độc-giác chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa Độc-giác hướng, Độc-giác quả cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với sự lìa
chơn như của Độc-giác chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
chơn như của Độc-giác hướng, Độc-giác quả cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với sự lìa
pháp tánh của Độc-giác chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
pháp tánh của Độc-giác hướng, Độc-giác quả cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với sự lìa Độc-giác chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa Độc-giác hướng, Độc-giác quả cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với sự lìa
chơn như của Độc-giác chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
chơn như của Độc-giác hướng, Độc-giác quả cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với sự lìa Độc-giác chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa Độc-giác hướng, Độc-giác quả cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với sự lìa
pháp tánh của Độc-giác chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
pháp tánh của Độc-giác hướng, Độc-giác quả cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Kiều Thi Ca!
Như Lai đối với đại Bồ-tát chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với Tam-miệu-tam Phật-đà cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với
chơn như của đại Bồ-tát chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
chơn như của Tam-miệu-tam Phật-đà cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với
pháp tánh của đại Bồ-tát chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
pháp tánh của Tam-miệu-tam Phật-đà cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với đại Bồ-tát chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với Tam-miệu-tam Phật-đà cũng chẳng
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với
chơn như của đại Bồ-tát chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
chơn như của Tam-miệu-tam Phật-đà cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với đại Bồ-tát chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với Tam-miệu-tam Phật-đà cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với
pháp tánh của đại Bồ-tát chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
pháp tánh của Tam-miệu-tam Phật-đà cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Kiều Thi Ca!
Như Lai đối với sự lìa đại Bồ-tát chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa Tam-miệu-tam Phật-đà cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với sự lìa
chơn như của đại Bồ-tát chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
chơn như của Tam-miệu-tam Phật-đà cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với sự lìa
pháp tánh của đại Bồ-tát chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
pháp tánh của Tam-miệu-tam Phật-đà cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với sự lìa đại Bồ-tát chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa Tam-miệu-tam Phật-đà cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với sự lìa
chơn như của đại Bồ-tát chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
chơn như của Tam-miệu-tam Phật-đà cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với sự lìa đại Bồ-tát chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa Tam-miệu-tam Phật-đà cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với sự lìa
pháp tánh của đại Bồ-tát chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
pháp tánh của Tam-miệu-tam Phật-đà cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Kiều Thi Ca!
Như Lai đối với pháp của đại Bồ-tát chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
quả vị giác ngộ cao tột cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với
chơn như của pháp đại Bồ-tát chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
chơn như của
quả vị giác ngộ cao tột cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với
pháp tánh của pháp đại Bồ-tát chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
pháp tánh của
quả vị giác ngộ cao tột cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với pháp của đại Bồ-tát chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
quả vị giác ngộ cao tột cũng chẳng
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với
chơn như của pháp đại Bồ-tát chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
chơn như của
quả vị giác ngộ cao tột cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với pháp của đại Bồ-tát chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
quả vị giác ngộ cao tột cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với
pháp tánh của pháp đại Bồ-tát chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
pháp tánh của
quả vị giác ngộ cao tột cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Kiều Thi Ca!
Như Lai đối với sự lìa pháp của đại Bồ-tát chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
quả vị giác ngộ cao tột cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với sự lìa
chơn như của pháp đại Bồ-tát chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
chơn như của
quả vị giác ngộ cao tột cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với sự lìa
pháp tánh của pháp đại Bồ-tát chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
pháp tánh của
quả vị giác ngộ cao tột cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với sự lìa pháp của đại Bồ-tát chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
quả vị giác ngộ cao tột cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với sự lìa
chơn như của pháp đại Bồ-tát chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
chơn như của
quả vị giác ngộ cao tột cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với sự lìa pháp của đại Bồ-tát chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
quả vị giác ngộ cao tột cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với sự lìa
pháp tánh của pháp đại Bồ-tát chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
pháp tánh của
quả vị giác ngộ cao tột cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Kiều Thi Ca!
Như Lai đối với Thanh-văn thừa chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với
chơn như của Thanh-văn thừa chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
chơn như của Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với
pháp tánh của Thanh-văn thừa chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
pháp tánh của Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với Thanh-văn thừa chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa cũng chẳng
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với
chơn như của Thanh-văn thừa chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
chơn như của Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với Thanh-văn thừa chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với
pháp tánh của Thanh-văn thừa chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với
pháp tánh của Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Kiều Thi Ca!
Như Lai đối với sự lìa Thanh-văn thừa chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với sự lìa
chơn như của Thanh-văn thừa chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
chơn như của Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Như Lai đối với sự lìa
pháp tánh của Thanh-văn thừa chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
pháp tánh của Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với sự lìa Thanh-văn thừa chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Chơn như của
Như Lai đối với sự lìa
chơn như của Thanh-văn thừa chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
chơn như của Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với sự lìa Thanh-văn thừa chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Pháp tánh của
Như Lai đối với sự lìa
pháp tánh của Thanh-văn thừa chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng; đối với sự lìa
pháp tánh của Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa cũng chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng.
Kiều Thi Ca! Những điều mà
Tôn giả Xá Lợi Tử đã nói là đối với tất cả pháp, chẳng phải ly, chẳng phải tức, chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, đó là
thần lực của
Như Lai,
Như Lai là chỗ nương, vì lấy cái không chỗ nương làm chỗ nương.
Quyển Thứ 93
HẾT
06
Lúc bấy giờ,
cụ thọ Thiện Hiện lại bảo
trời Đế Thích: Kiều Thi Ca! Trước, ngươi đã hỏi về Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành, nên cầu ở chỗ nào?
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi sắc, chẳng nên cầu nơi thọ, tưởng, hành, thức; chẳng nên lìa sắc mà cầu, chẳng nên lìa thọ, tưởng, hành, thức mà cầu. Vì sao? Vì hoặc sắc, hoặc thọ, tưởng, hành, thức; hoặc lìa sắc, hoặc lìa thọ, tưởng, hành, thức; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải sắc, chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức; chẳng phải là lìa sắc, chẳng phải lìa thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải sắc, chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức; chẳng phải là lìa sắc, chẳng phải lìa thọ, tưởng, hành, thức.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi sắc, chẳng nên cầu nơi thọ, tưởng, hành, thức; chẳng nên lìa sắc mà cầu, chẳng nên lìa thọ, tưởng, hành, thức mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi nhãn xứ, chẳng nên cầu nơi nhĩ, tỷ, thiệt, thân,
ý xứ; chẳng nên lìa nhãn xứ mà cầu, chẳng nên lìa nhĩ, tỷ, thiệt, thân,
ý xứ mà cầu. Vì sao? Vì hoặc nhãn xứ, hoặc nhĩ, tỷ, thiệt, thân,
ý xứ; hoặc lìa nhãn xứ, hoặc lìa nhĩ, tỷ, thiệt, thân,
ý xứ; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải nhãn xứ, chẳng phải nhĩ, tỷ, thiệt, thân,
ý xứ; chẳng phải lìa nhãn xứ, chẳng phải lìa nhĩ, tỷ, thiệt, thân,
ý xứ. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải nhãn xứ, chẳng phải nhĩ, tỷ, thiệt, thân,
ý xứ; chẳng phải là lìa nhãn xứ, chẳng phải lìa nhĩ, tỷ, thiệt, thân,
ý xứ.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi nhãn xứ, chẳng nên cầu nơi nhĩ, tỷ, thiệt, thân,
ý xứ; chẳng nên lìa nhãn xứ mà cầu, chẳng nên lìa nhĩ, tỷ, thiệt, thân,
ý xứ mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
sắc xứ, chẳng nên cầu nơi thanh, hương, vị, xúc,
pháp xứ; chẳng nên lìa
sắc xứ mà cầu, chẳng nên lìa thanh, hương, vị, xúc,
pháp xứ mà cầu. Vì sao? Vì hoặc
sắc xứ, hoặc thanh, hương, vị, xúc,
pháp xứ; hoặc lìa
sắc xứ, hoặc lìa thanh, hương, vị, xúc,
pháp xứ; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
sắc xứ, chẳng phải thanh, hương, vị, xúc,
pháp xứ; chẳng phải lìa
sắc xứ, chẳng phải lìa thanh, hương, vị, xúc,
pháp xứ. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
sắc xứ, chẳng phải thanh, hương, vị, xúc,
pháp xứ; chẳng phải là lìa
sắc xứ, chẳng phải lìa thanh, hương, vị, xúc,
pháp xứ.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
sắc xứ, chẳng nên cầu nơi thanh, hương, vị, xúc,
pháp xứ; chẳng nên lìa
sắc xứ mà cầu, chẳng nên lìa thanh, hương, vị, xúc,
pháp xứ mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
nhãn giới, chẳng nên cầu nơi
sắc giới,
nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm
duyên sanh ra; chẳng nên lìa
nhãn giới mà cầu, chẳng nên lìa
sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm
duyên sanh ra mà cầu. Vì sao? Vì hoặc
nhãn giới, hoặc
sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm
duyên sanh ra; hoặc lìa
nhãn giới, hoặc lìa
sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm
duyên sanh ra; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
nhãn giới, chẳng phải
sắc giới,
nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm
duyên sanh ra; chẳng phải lìa
nhãn giới, chẳng phải lìa
sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm
duyên sanh ra. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
nhãn giới, chẳng phải
sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm
duyên sanh ra; chẳng phải là lìa
nhãn giới, chẳng phải lìa
sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm
duyên sanh ra.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
nhãn giới, chẳng nên cầu nơi
sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm
duyên sanh ra; chẳng nên lìa
nhãn giới mà cầu, chẳng nên lìa
sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm
duyên sanh ra mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
nhĩ giới, chẳng nên cầu nơi thanh giới,
nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm
duyên sanh ra; chẳng nên lìa
nhĩ giới mà cầu, chẳng nên lìa thanh giới
cho đến các thọ do nhĩ xúc làm
duyên sanh ra mà cầu. Vì sao? Vì hoặc
nhĩ giới, hoặc thanh giới
cho đến các thọ do nhĩ xúc làm
duyên sanh ra; hoặc lìa
nhĩ giới, hoặc lìa thanh giới
cho đến các thọ do nhĩ xúc làm
duyên sanh ra; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
nhĩ giới, chẳng phải thanh giới,
nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm
duyên sanh ra; chẳng phải lìa
nhĩ giới, chẳng phải lìa thanh giới
cho đến các thọ do nhĩ xúc làm
duyên sanh ra. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
nhĩ giới, chẳng phải thanh giới
cho đến các thọ do nhĩ xúc làm
duyên sanh ra; chẳng phải là lìa
nhĩ giới, chẳng phải lìa thanh giới
cho đến các thọ do nhĩ xúc làm
duyên sanh ra.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
nhĩ giới, chẳng nên cầu nơi thanh giới
cho đến các thọ do nhĩ xúc làm
duyên sanh ra; chẳng nên lìa
nhĩ giới mà cầu, chẳng nên lìa thanh giới
cho đến các thọ do nhĩ xúc làm
duyên sanh ra mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi tỷ giới, chẳng nên cầu nơi
hương giới,
tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm
duyên sanh ra; chẳng nên lìa tỷ giới mà cầu, chẳng nên lìa
hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm
duyên sanh ra mà cầu. Vì sao? Vì hoặc tỷ giới, hoặc
hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm
duyên sanh ra; hoặc lìa tỷ giới, hoặc lìa
hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm
duyên sanh ra; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải tỷ giới, chẳng phải
hương giới,
tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm
duyên sanh ra; chẳng phải lìa tỷ giới, chẳng phải lìa
hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm
duyên sanh ra. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải tỷ giới, chẳng phải
hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm
duyên sanh ra; chẳng phải là lìa tỷ giới, chẳng phải lìa
hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm
duyên sanh ra.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi tỷ giới, chẳng nên cầu nơi
hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm
duyên sanh ra; chẳng nên lìa tỷ giới mà cầu, chẳng nên lìa
hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm
duyên sanh ra mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi thiệt giới, chẳng nên cầu nơi vị giới,
thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm
duyên sanh ra; chẳng nên lìa thiệt giới mà cầu, chẳng nên lìa vị giới
cho đến các thọ do thiệt xúc làm
duyên sanh ra mà cầu. Vì sao? Vì hoặc thiệt giới, hoặc vị giới
cho đến các thọ do thiệt xúc làm
duyên sanh ra; hoặc lìa thiệt giới, hoặc lìa vị giới
cho đến các thọ do thiệt xúc làm
duyên sanh ra; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải thiệt giới, chẳng phải vị giới,
thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm
duyên sanh ra; chẳng phải lìa thiệt giới, chẳng phải lìa vị giới
cho đến các thọ do thiệt xúc làm
duyên sanh ra. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải thiệt giới, chẳng phải vị giới
cho đến các thọ do thiệt xúc làm
duyên sanh ra; chẳng phải là lìa thiệt giới, chẳng phải lìa vị giới
cho đến các thọ do thiệt xúc làm
duyên sanh ra.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi thiệt giới, chẳng nên cầu nơi vị giới
cho đến các thọ do thiệt xúc làm
duyên sanh ra; chẳng nên lìa thiệt giới mà cầu, chẳng nên lìa vị giới
cho đến các thọ do thiệt xúc làm
duyên sanh ra mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
thân giới, chẳng nên cầu nơi xúc giới,
thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm
duyên sanh ra; chẳng nên lìa
thân giới mà cầu, chẳng nên lìa xúc giới
cho đến các thọ do thân xúc làm
duyên sanh ra mà cầu. Vì sao? Vì hoặc
thân giới, hoặc xúc giới
cho đến các thọ do thân xúc làm
duyên sanh ra; hoặc lìa
thân giới, hoặc lìa xúc giới
cho đến các thọ do thân xúc làm
duyên sanh ra; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
thân giới, chẳng phải xúc giới,
thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm
duyên sanh ra; chẳng phải lìa
thân giới, chẳng phải lìa xúc giới
cho đến các thọ do thân xúc làm
duyên sanh ra. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
thân giới, chẳng phải xúc giới
cho đến các thọ do thân xúc làm
duyên sanh ra; chẳng phải là lìa
thân giới, chẳng phải lìa xúc giới
cho đến các thọ do thân xúc làm
duyên sanh ra.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
thân giới, chẳng nên cầu nơi xúc giới
cho đến các thọ do thân xúc làm
duyên sanh ra; chẳng nên lìa
thân giới mà cầu, chẳng nên lìa xúc giới
cho đến các thọ do thân xúc làm
duyên sanh ra mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
ý giới, chẳng nên cầu nơi
pháp giới,
ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm
duyên sanh ra; chẳng nên lìa
ý giới mà cầu, chẳng nên lìa
pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm
duyên sanh ra mà cầu. Vì sao? Vì hoặc
ý giới, hoặc
pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm
duyên sanh ra; hoặc lìa
ý giới, hoặc lìa
pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm
duyên sanh ra; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
ý giới, chẳng phải
pháp giới,
ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm
duyên sanh ra; chẳng phải lìa
ý giới, chẳng phải lìa
pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm
duyên sanh ra. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
ý giới, chẳng phải
pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm
duyên sanh ra; chẳng phải là lìa
ý giới, chẳng phải lìa
pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm
duyên sanh ra.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
ý giới, chẳng nên cầu nơi
pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm
duyên sanh ra; chẳng nên lìa
ý giới mà cầu, chẳng nên lìa
pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm
duyên sanh ra mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
địa giới, chẳng nên cầu nơi thủy, hỏa, phong, không,
thức giới; chẳng nên lìa
địa giới mà cầu, chẳng nên lìa thủy, hỏa, phong, không,
thức giới mà cầu. Vì sao? Vì hoặc
địa giới, hoặc thủy, hỏa, phong, không,
thức giới; hoặc lìa
địa giới, hoặc lìa thủy, hỏa, phong, không,
thức giới; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
địa giới, chẳng phải thủy, hỏa, phong, không,
thức giới; chẳng phải lìa
địa giới, chẳng phải lìa thủy, hỏa, phong, không,
thức giới. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
địa giới, chẳng phải thủy, hỏa, phong, không,
thức giới; chẳng phải là lìa
địa giới, chẳng phải lìa thủy, hỏa, phong, không,
thức giới.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
địa giới, chẳng nên cầu nơi thủy, hỏa, phong, không,
thức giới; chẳng nên lìa
địa giới mà cầu, chẳng nên lìa thủy, hỏa, phong, không,
thức giới mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
Thánh đế khổ, chẳng nên cầu nơi
Thánh đế tập, diệt, đạo; chẳng nên lìa
Thánh đế khổ mà cầu, chẳng nên lìa
Thánh đế tập, diệt, đạo mà cầu. Vì sao? Vì hoặc
Thánh đế khổ, hoặc
Thánh đế tập, diệt, đạo; hoặc lìa
Thánh đế khổ, hoặc lìa
Thánh đế tập, diệt, đạo; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
Thánh đế khổ, chẳng phải
Thánh đế tập, diệt, đạo; chẳng phải lìa
Thánh đế khổ, chẳng phải lìa
Thánh đế tập, diệt, đạo. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
Thánh đế khổ, chẳng phải
Thánh đế tập, diệt, đạo; chẳng phải là lìa
Thánh đế khổ, chẳng phải lìa
Thánh đế tập, diệt, đạo.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
Thánh đế khổ, chẳng nên cầu nơi
Thánh đế tập, diệt, đạo; chẳng nên lìa
Thánh đế khổ mà cầu, chẳng nên lìa
Thánh đế tập, diệt, đạo mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
vô minh, chẳng nên cầu nơi hành, thức,
danh sắc,
lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh,
lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não; chẳng nên lìa
vô minh mà cầu, chẳng nên lìa hành
cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não mà cầu. Vì sao? Vì hoặc
vô minh, hoặc hành
cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não; hoặc lìa
vô minh, hoặc lìa hành
cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
vô minh, chẳng phải hành, thức,
danh sắc,
lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh,
lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não; chẳng phải lìa
vô minh, chẳng phải lìa hành
cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
vô minh, chẳng phải hành
cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não; chẳng phải là lìa
vô minh, chẳng phải lìa hành
cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
vô minh, chẳng nên cầu nơi hành
cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não; chẳng nên lìa
vô minh mà cầu, chẳng nên lìa hành
cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi cái không nội, chẳng nên cầu nơi cái không ngoại, cái không
nội ngoại, cái
không không, cái không lớn, cái không
thắng nghĩa, cái
không hữu vi, cái
không vô vi, cái không
rốt ráo, cái
không không biên giới, cái không tản mạn, cái
không không đổi khác, cái không
bản tánh, cái không
tự tướng, cái không
cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái
không không tánh, cái không
tự tánh, cái
không không tánh tự tánh; chẳng nên lìa cái không nội mà cầu, chẳng nên lìa cái không ngoại
cho đến cái
không không tánh tự tánh mà cầu. Vì sao? Vì hoặc cái không nội, hoặc cái không ngoại
cho đến cái
không không tánh tự tánh; hoặc lìa cái không nội, hoặc lìa cái không ngoại
cho đến cái
không không tánh tự tánh; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải cái không nội, chẳng phải cái không ngoại, cái không
nội ngoại, cái
không không, cái không lớn, cái không
thắng nghĩa, cái
không hữu vi, cái
không vô vi, cái không
rốt ráo, cái
không không biên giới, cái không tản mạn, cái
không không đổi khác, cái không
bản tánh, cái không
tự tướng, cái không
cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái
không không tánh, cái không
tự tánh, cái
không không tánh tự tánh; chẳng phải lìa cái không nội, chẳng phải lìa cái không ngoại
cho đến cái
không không tánh tự tánh. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải cái không nội, chẳng phải cái không ngoại
cho đến cái
không không tánh tự tánh; chẳng phải là lìa cái không nội, chẳng phải lìa cái không ngoại
cho đến cái
không không tánh tự tánh.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi cái không nội, chẳng nên cầu nơi cái không ngoại
cho đến cái
không không tánh tự tánh; chẳng nên lìa cái không nội mà cầu, chẳng nên lìa cái không ngoại
cho đến cái
không không tánh tự tánh mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
chơn như, chẳng nên cầu nơi
pháp giới,
pháp tánh, tánh chẳng
hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh
bình đẳng, tánh
ly sanh, định pháp, trụ pháp,
thật tế,
cảnh giới hư không,
cảnh giới bất tư nghì; chẳng nên lìa
chơn như mà cầu, chẳng nên lìa
pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì mà cầu. Vì sao? Vì hoặc
chơn như, hoặc
pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì; hoặc lìa
chơn như, hoặc lìa
pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
chơn như, chẳng phải
pháp giới,
pháp tánh, tánh chẳng
hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh
bình đẳng, tánh
ly sanh, định pháp, trụ pháp,
thật tế,
cảnh giới hư không,
cảnh giới bất tư nghì; chẳng phải lìa
chơn như, chẳng phải lìa
pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
chơn như, chẳng phải
pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì; chẳng phải là lìa
chơn như, chẳng phải lìa
pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
chơn như, chẳng nên cầu nơi
pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì; chẳng nên lìa
chơn như mà cầu, chẳng nên lìa
pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
bố thí Ba-la-mật-đa, chẳng nên cầu nơi
tịnh giới,
an nhẫn,
tinh tấn,
tịnh lự,
Bát-nhã Ba-la-mật-đa; chẳng nên lìa
bố thí Ba-la-mật-đa mà cầu, chẳng nên lìa
tịnh giới,
an nhẫn,
tinh tấn,
tịnh lự,
Bát-nhã Ba-la-mật-đa mà cầu. Vì sao? Vì hoặc
bố thí Ba-la-mật-đa, hoặc
tịnh giới,
an nhẫn,
tinh tấn,
tịnh lự,
Bát-nhã Ba-la-mật-đa; hoặc lìa
bố thí Ba-la-mật-đa, hoặc lìa
tịnh giới,
an nhẫn,
tinh tấn,
tịnh lự,
Bát-nhã Ba-la-mật-đa; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
bố thí Ba-la-mật-đa, chẳng phải
tịnh giới,
an nhẫn,
tinh tấn,
tịnh lự,
Bát-nhã Ba-la-mật-đa; chẳng phải lìa
bố thí Ba-la-mật-đa, chẳng phải lìa
tịnh giới,
an nhẫn,
tinh tấn,
tịnh lự,
Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
bố thí Ba-la-mật-đa, chẳng phải
tịnh giới,
an nhẫn,
tinh tấn,
tịnh lự,
Bát-nhã Ba-la-mật-đa; chẳng phải là lìa
bố thí Ba-la-mật-đa, chẳng phải lìa
tịnh giới,
an nhẫn,
tinh tấn,
tịnh lự,
Bát-nhã Ba-la-mật-đa.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
bố thí Ba-la-mật-đa, chẳng nên cầu nơi
tịnh giới,
an nhẫn,
tinh tấn,
tịnh lự,
Bát-nhã Ba-la-mật-đa; chẳng nên lìa
bố thí Ba-la-mật-đa mà cầu, chẳng nên lìa
tịnh giới,
an nhẫn,
tinh tấn,
tịnh lự,
Bát-nhã Ba-la-mật-đa mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi bốn
tịnh lự, chẳng nên cầu nơi bốn
vô lượng, bốn
định vô sắc; chẳng nên lìa bốn
tịnh lự mà cầu, chẳng nên lìa bốn
vô lượng, bốn
định vô sắc mà cầu. Vì sao? Vì hoặc bốn
tịnh lự, hoặc bốn
vô lượng, bốn
định vô sắc; hoặc lìa bốn
tịnh lự, hoặc lìa bốn
vô lượng, bốn
định vô sắc; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải bốn
tịnh lự, chẳng phải bốn
vô lượng, bốn
định vô sắc; chẳng phải lìa bốn
tịnh lự, chẳng phải lìa bốn
vô lượng, bốn
định vô sắc. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải bốn
tịnh lự, chẳng phải bốn
vô lượng, bốn
định vô sắc; chẳng phải là lìa bốn
tịnh lự, chẳng phải lìa bốn
vô lượng, bốn
định vô sắc.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi bốn
tịnh lự, chẳng nên cầu nơi bốn
vô lượng, bốn
định vô sắc; chẳng nên lìa bốn
tịnh lự mà cầu, chẳng nên lìa bốn
vô lượng, bốn
định vô sắc mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
tám giải thoát, chẳng nên cầu nơi
tám thắng xứ, chín định
thứ đệ,
mười biến xứ; chẳng nên lìa
tám giải thoát mà cầu, chẳng nên lìa
tám thắng xứ, chín định
thứ đệ,
mười biến xứ mà cầu. Vì sao? Vì hoặc
tám giải thoát, hoặc
tám thắng xứ, chín định
thứ đệ,
mười biến xứ; hoặc lìa
tám giải thoát, hoặc lìa
tám thắng xứ, chín định
thứ đệ,
mười biến xứ; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
tám giải thoát, chẳng phải
tám thắng xứ, chín định
thứ đệ,
mười biến xứ; chẳng phải lìa
tám giải thoát, chẳng phải lìa
tám thắng xứ, chín định
thứ đệ,
mười biến xứ. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
tám giải thoát, chẳng phải
tám thắng xứ, chín định
thứ đệ,
mười biến xứ; chẳng phải là lìa
tám giải thoát, chẳng phải lìa
tám thắng xứ, chín định
thứ đệ,
mười biến xứ.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
tám giải thoát, chẳng nên cầu nơi
tám thắng xứ, chín định
thứ đệ,
mười biến xứ; chẳng nên lìa
tám giải thoát mà cầu, chẳng nên lìa
tám thắng xứ, chín định
thứ đệ,
mười biến xứ mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi bốn niệm trụ, chẳng nên cầu nơi bốn chánh đoạn, bốn
thần túc, năm căn,
năm lực, bảy chi
đẳng giác, tám chi
thánh đạo; chẳng nên lìa bốn niệm trụ mà cầu, chẳng nên lìa bốn chánh đoạn
cho đến tám chi
thánh đạo mà cầu. Vì sao? Vì hoặc bốn niệm trụ, hoặc bốn chánh đoạn
cho đến tám chi
thánh đạo; hoặc lìa bốn niệm trụ, hoặc lìa bốn chánh đoạn
cho đến tám chi
thánh đạo; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải bốn niệm trụ, chẳng phải bốn chánh đoạn, bốn
thần túc, năm căn,
năm lực, bảy chi
đẳng giác, tám chi
thánh đạo; chẳng phải lìa bốn niệm trụ, chẳng phải lìa bốn chánh đoạn
cho đến tám chi
thánh đạo. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải bốn niệm trụ, chẳng phải bốn chánh đoạn
cho đến tám chi
thánh đạo; chẳng phải là lìa bốn niệm trụ, chẳng phải lìa bốn chánh đoạn
cho đến tám chi
thánh đạo.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi bốn niệm trụ, chẳng nên cầu nơi bốn chánh đoạn
cho đến tám chi
thánh đạo; chẳng nên lìa bốn niệm trụ mà cầu, chẳng nên lìa bốn chánh đoạn
cho đến tám chi
thánh đạo mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
pháp môn giải thoát không, chẳng nên cầu nơi
pháp môn giải thoát vô tướng,
vô nguyện; chẳng nên lìa
pháp môn giải thoát không mà cầu, chẳng nên lìa
pháp môn giải thoát vô tướng,
vô nguyện mà cầu. Vì sao? Vì hoặc
pháp môn giải thoát không, hoặc
pháp môn giải thoát vô tướng,
vô nguyện; hoặc lìa
pháp môn giải thoát không, hoặc lìa
pháp môn giải thoát vô tướng,
vô nguyện; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
pháp môn giải thoát không, chẳng phải
pháp môn giải thoát vô tướng,
vô nguyện; chẳng phải lìa
pháp môn giải thoát không, chẳng phải lìa
pháp môn giải thoát vô tướng,
vô nguyện. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
pháp môn giải thoát không, chẳng phải
pháp môn giải thoát vô tướng,
vô nguyện; chẳng phải là lìa
pháp môn giải thoát không, chẳng phải lìa
pháp môn giải thoát vô tướng,
vô nguyện.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
pháp môn giải thoát không, chẳng nên cầu nơi
pháp môn giải thoát vô tướng,
vô nguyện; chẳng nên lìa
pháp môn giải thoát không mà cầu, chẳng nên lìa
pháp môn giải thoát vô tướng,
vô nguyện mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
năm loại mắt, chẳng nên cầu nơi sáu phép
thần thông; chẳng nên lìa
năm loại mắt mà cầu, chẳng nên lìa sáu phép
thần thông mà cầu. Vì sao? Vì hoặc
năm loại mắt, hoặc sáu phép
thần thông; hoặc lìa
năm loại mắt, hoặc lìa sáu phép
thần thông; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
năm loại mắt, chẳng phải sáu phép
thần thông; chẳng phải lìa
năm loại mắt, chẳng phải lìa sáu phép
thần thông. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
năm loại mắt, chẳng phải sáu phép
thần thông; chẳng phải là lìa
năm loại mắt, chẳng phải lìa sáu phép
thần thông.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
năm loại mắt, chẳng nên cầu nơi sáu phép
thần thông; chẳng nên lìa
năm loại mắt mà cầu, chẳng nên lìa sáu phép
thần thông mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
mười lực của Phật, chẳng nên cầu nơi bốn điều không sợ, bốn sự
hiểu biết thông suốt,
đại từ,
đại bi,
đại hỷ,
đại xả, mười
tám pháp Phật
bất cộng; chẳng nên lìa
mười lực của Phật mà cầu, chẳng nên lìa bốn điều không sợ
cho đến mười
tám pháp Phật
bất cộng mà cầu. Vì sao? Vì hoặc
mười lực của Phật, hoặc bốn điều không sợ
cho đến mười
tám pháp Phật
bất cộng; hoặc lìa
mười lực của Phật, hoặc lìa bốn điều không sợ
cho đến mười
tám pháp Phật
bất cộng; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
mười lực của Phật, chẳng phải bốn điều không sợ, bốn sự
hiểu biết thông suốt,
đại từ,
đại bi,
đại hỷ,
đại xả, mười
tám pháp Phật
bất cộng; chẳng phải lìa
mười lực của Phật, chẳng phải lìa bốn điều không sợ
cho đến mười
tám pháp Phật
bất cộng. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
mười lực của Phật, chẳng phải bốn điều không sợ
cho đến mười
tám pháp Phật
bất cộng; chẳng phải là lìa
mười lực của Phật, chẳng phải lìa bốn điều không sợ
cho đến mười
tám pháp Phật
bất cộng.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
mười lực của Phật, chẳng nên cầu nơi bốn điều không sợ
cho đến mười
tám pháp Phật
bất cộng; chẳng nên lìa
mười lực của Phật mà cầu, chẳng nên lìa bốn điều không sợ
cho đến mười
tám pháp Phật
bất cộng mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
pháp không quên mất, chẳng nên cầu nơi tánh luôn luôn xả; chẳng nên lìa
pháp không quên mất mà cầu, chẳng nên lìa tánh luôn luôn xả mà cầu. Vì sao? Vì hoặc
pháp không quên mất, hoặc tánh luôn luôn xả; hoặc lìa
pháp không quên mất, hoặc lìa tánh luôn luôn xả; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
pháp không quên mất, chẳng phải tánh luôn luôn xả; chẳng phải lìa
pháp không quên mất, chẳng phải lìa tánh luôn luôn xả. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
pháp không quên mất, chẳng phải tánh luôn luôn xả; chẳng phải là lìa
pháp không quên mất, chẳng phải lìa tánh luôn luôn xả.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
pháp không quên mất, chẳng nên cầu nơi tánh luôn luôn xả; chẳng nên lìa
pháp không quên mất mà cầu, chẳng nên lìa tánh luôn luôn xả mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi trí
nhất thiết, chẳng nên cầu nơi trí đạo tướng, trí
nhất thiết tướng; chẳng nên lìa trí
nhất thiết mà cầu, chẳng nên lìa trí đạo tướng, trí
nhất thiết tướng mà cầu. Vì sao? Vì hoặc trí
nhất thiết, hoặc trí đạo tướng, trí
nhất thiết tướng; hoặc lìa trí
nhất thiết, hoặc lìa trí đạo tướng, trí
nhất thiết tướng; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải trí
nhất thiết, chẳng phải trí đạo tướng, trí
nhất thiết tướng; chẳng phải lìa trí
nhất thiết, chẳng phải lìa trí đạo tướng, trí
nhất thiết tướng. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải trí
nhất thiết, chẳng phải trí đạo tướng, trí
nhất thiết tướng; chẳng phải là lìa trí
nhất thiết, chẳng phải lìa trí đạo tướng, trí
nhất thiết tướng.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi trí
nhất thiết, chẳng nên cầu nơi trí đạo tướng, trí
nhất thiết tướng; chẳng nên lìa trí
nhất thiết mà cầu, chẳng nên lìa trí đạo tướng, trí
nhất thiết tướng mà cầu.
Quyển Thứ 94
HẾT
07
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi tất cả
pháp môn Đà-la-ni, chẳng nên cầu nơi tất cả
pháp môn Tam-ma-địa; chẳng nên lìa tất cả
pháp môn Đà-la-ni mà cầu, chẳng nên lìa tất cả
pháp môn Tam-ma-địa mà cầu. Vì sao? Vì hoặc tất cả
pháp môn Đà-la-ni, hoặc tất cả
pháp môn Tam-ma-địa; hoặc lìa tất cả
pháp môn Đà-la-ni, hoặc lìa tất cả
pháp môn Tam-ma-địa; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải tất cả
pháp môn Đà-la-ni, chẳng phải tất cả
pháp môn Tam-ma-địa; chẳng phải lìa tất cả
pháp môn Đà-la-ni, chẳng phải lìa tất cả
pháp môn Tam-ma-địa. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải tất cả
pháp môn Đà-la-ni, chẳng phải tất cả
pháp môn Tam-ma-địa; chẳng phải là lìa tất cả
pháp môn Đà-la-ni, chẳng phải lìa tất cả
pháp môn Tam-ma-địa.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi tất cả
pháp môn Đà-la-ni, chẳng nên cầu nơi tất cả
pháp môn Tam-ma-địa; chẳng nên lìa tất cả
pháp môn Đà-la-ni mà cầu, chẳng nên lìa tất cả
pháp môn Tam-ma-địa mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi Dự-lưu, chẳng nên cầu nơi Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán; chẳng nên lìa Dự-lưu mà cầu, chẳng nên lìa Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán mà cầu. Vì sao? Vì hoặc Dự-lưu, hoặc Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán; hoặc lìa Dự-lưu, hoặc lìa Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải Dự-lưu, chẳng phải Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán; chẳng phải lìa Dự-lưu, chẳng phải lìa Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải Dự-lưu, chẳng phải Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán; chẳng phải là lìa Dự-lưu, chẳng phải lìa Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi Dự-lưu, chẳng nên cầu nơi Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán; chẳng nên lìa Dự-lưu mà cầu, chẳng nên lìa Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả, chẳng nên cầu nơi Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả; chẳng nên lìa Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả mà cầu, chẳng nên lìa Nhất-lai hướng
cho đến A-la-hán quả mà cầu. Vì sao? Vì hoặc Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả, hoặc Nhất-lai hướng
cho đến A-la-hán quả; hoặc lìa Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả, hoặc lìa Nhất-lai hướng
cho đến A-la-hán quả; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả, chẳng phải Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả; chẳng phải lìa Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả, chẳng phải lìa Nhất-lai hướng
cho đến A-la-hán quả. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả, chẳng phải Nhất-lai hướng
cho đến A-la-hán quả; chẳng phải là lìa Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả, chẳng phải lìa Nhất-lai hướng
cho đến A-la-hán quả.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả, chẳng nên cầu nơi Nhất-lai hướng
cho đến A-la-hán quả; chẳng nên lìa Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả mà cầu, chẳng nên lìa Nhất-lai hướng
cho đến A-la-hán quả mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi Độc-giác, chẳng nên cầu nơi Độc-giác hướng, Độc-giác quả; chẳng nên lìa Độc-giác mà cầu, chẳng nên lìa Độc-giác hướng, Độc-giác quả mà cầu. Vì sao? Vì hoặc Độc-giác, hoặc Độc-giác hướng, Độc-giác quả; hoặc lìa Độc-giác, hoặc lìa Độc-giác hướng, Độc-giác quả; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải Độc-giác, chẳng phải Độc-giác hướng, Độc-giác quả; chẳng phải lìa Độc-giác, chẳng phải lìa Độc-giác hướng, Độc-giác quả. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải Độc-giác, chẳng phải Độc-giác hướng, Độc-giác quả; chẳng phải là lìa Độc-giác, chẳng phải lìa Độc-giác hướng, Độc-giác quả.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi Độc-giác, chẳng nên cầu nơi Độc-giác hướng, Độc-giác quả; chẳng nên lìa Độc-giác mà cầu, chẳng nên lìa Độc-giác hướng, Độc-giác quả mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi đại Bồ-tát, chẳng nên cầu nơi Tam-miệu-tam Phật-đà; chẳng nên lìa đại Bồ-tát mà cầu, chẳng nên lìa Tam-miệu-tam Phật-đà mà cầu. Vì sao? Vì hoặc đại Bồ-tát, hoặc Tam-miệu-tam Phật-đà; hoặc lìa đại Bồ-tát, hoặc lìa Tam-miệu-tam Phật-đà; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải đại Bồ-tát, chẳng phải Tam-miệu-tam Phật-đà; chẳng phải lìa đại Bồ-tát, chẳng phải lìa Tam-miệu-tam Phật-đà. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải đại Bồ-tát, chẳng phải Tam-miệu-tam Phật-đà; chẳng phải là lìa đại Bồ-tát, chẳng phải lìa Tam-miệu-tam Phật-đà.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi đại Bồ-tát, chẳng nên cầu nơi Tam-miệu-tam Phật-đà; chẳng nên lìa đại Bồ-tát mà cầu, chẳng nên lìa Tam-miệu-tam Phật-đà mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi pháp của đại Bồ-tát, chẳng nên cầu nơi
quả vị giác ngộ cao tột; chẳng nên lìa pháp của đại Bồ-tát mà cầu, chẳng nên lìa
quả vị giác ngộ cao tột mà cầu. Vì sao? Vì hoặc pháp của đại Bồ-tát, hoặc
quả vị giác ngộ cao tột; hoặc lìa pháp của đại Bồ-tát, hoặc lìa
quả vị giác ngộ cao tột; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải pháp của đại Bồ-tát, chẳng phải
quả vị giác ngộ cao tột; chẳng phải lìa pháp của đại Bồ-tát, chẳng phải lìa
quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải pháp của đại Bồ-tát, chẳng phải
quả vị giác ngộ cao tột; chẳng phải là lìa pháp của đại Bồ-tát, chẳng phải lìa
quả vị giác ngộ cao tột.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi pháp của đại Bồ-tát, chẳng nên cầu nơi
quả vị giác ngộ cao tột; chẳng nên lìa pháp của đại Bồ-tát mà cầu, chẳng nên lìa
quả vị giác ngộ cao tột mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi Thanh-văn thừa, chẳng nên cầu nơi Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa; chẳng nên lìa Thanh-văn thừa mà cầu, chẳng nên lìa Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa mà cầu. Vì sao? Vì hoặc Thanh-văn thừa, hoặc Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa; hoặc lìa Thanh-văn thừa, hoặc lìa Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải Thanh-văn thừa, chẳng phải Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa; chẳng phải lìa Thanh-văn thừa, chẳng phải lìa Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải Thanh-văn thừa, chẳng phải Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa; chẳng phải là lìa Thanh-văn thừa, chẳng phải lìa Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi Thanh-văn thừa, chẳng nên cầu nơi Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa; chẳng nên lìa Thanh-văn thừa mà cầu, chẳng nên lìa Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa mà cầu.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
chơn như của sắc, chẳng nên cầu nơi
chơn như của thọ, tưởng, hành, thức; chẳng nên lìa
chơn như của sắc mà cầu, chẳng nên lìa
chơn như của thọ, tưởng, hành, thức mà cầu. Vì sao? Vì hoặc
chơn như của sắc, hoặc
chơn như của thọ, tưởng, hành, thức; hoặc lìa
chơn như của sắc, hoặc lìa
chơn như của thọ, tưởng, hành, thức; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
chơn như của sắc, chẳng phải
chơn như của thọ, tưởng, hành, thức; chẳng phải lìa
chơn như của sắc, chẳng phải lìa
chơn như của thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
chơn như của sắc, chẳng phải
chơn như của thọ, tưởng, hành, thức; chẳng phải lìa
chơn như của sắc, chẳng phải lìa
chơn như của thọ, tưởng, hành, thức.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
chơn như của sắc, chẳng nên cầu nơi
chơn như của thọ, tưởng, hành, thức; chẳng nên lìa
chơn như của sắc mà cầu, chẳng nên lìa
chơn như của thọ, tưởng, hành, thức mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
chơn như của nhãn xứ, chẳng nên cầu nơi
chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân,
ý xứ; chẳng nên lìa
chơn như của nhãn xứ mà cầu, chẳng nên lìa
chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân,
ý xứ mà cầu. Vì sao? Vì hoặc
chơn như của nhãn xứ, hoặc
chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân,
ý xứ; hoặc lìa
chơn như của nhãn xứ, hoặc lìa
chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân,
ý xứ; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
chơn như của nhãn xứ, chẳng phải
chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân,
ý xứ; chẳng phải lìa
chơn như của nhãn xứ, chẳng phải lìa
chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân,
ý xứ. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
chơn như của nhãn xứ, chẳng phải
chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân,
ý xứ; chẳng phải lìa
chơn như của nhãn xứ, chẳng phải lìa
chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân,
ý xứ.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
chơn như của nhãn xứ, chẳng nên cầu nơi
chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân,
ý xứ; chẳng nên lìa
chơn như của nhãn xứ mà cầu, chẳng nên lìa
chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân,
ý xứ mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
chơn như của
sắc xứ, chẳng nên cầu nơi
chơn như của thanh, hương, vị, xúc,
pháp xứ; chẳng nên lìa
chơn như của
sắc xứ mà cầu, chẳng nên lìa
chơn như của thanh, hương, vị, xúc,
pháp xứ mà cầu. Vì sao? Vì hoặc
chơn như của
sắc xứ, hoặc
chơn như của thanh, hương, vị, xúc,
pháp xứ; hoặc lìa
chơn như của
sắc xứ, hoặc lìa
chơn như của thanh, hương, vị, xúc,
pháp xứ; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
chơn như của
sắc xứ, chẳng phải
chơn như của thanh, hương, vị, xúc,
pháp xứ; chẳng phải lìa
chơn như của
sắc xứ, chẳng phải lìa
chơn như của thanh, hương, vị, xúc,
pháp xứ. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
chơn như của
sắc xứ, chẳng phải
chơn như của thanh, hương, vị, xúc,
pháp xứ; chẳng phải lìa
chơn như của
sắc xứ, chẳng phải lìa
chơn như của thanh, hương, vị, xúc,
pháp xứ.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
chơn như của
sắc xứ, chẳng nên cầu nơi
chơn như của thanh, hương, vị, xúc,
pháp xứ; chẳng nên lìa
chơn như của
sắc xứ mà cầu, chẳng nên lìa
chơn như của thanh, hương, vị, xúc,
pháp xứ mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
chơn như của
nhãn giới, chẳng nên cầu nơi
chơn như của
sắc giới,
nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm
duyên sanh ra; chẳng nên lìa
chơn như của
nhãn giới mà cầu, chẳng nên lìa
chơn như của
sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm
duyên sanh ra mà cầu. Vì sao? Vì hoặc
chơn như của
nhãn giới, hoặc
chơn như của
sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm
duyên sanh ra; hoặc lìa
chơn như của
nhãn giới, hoặc lìa
chơn như của
sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm
duyên sanh ra; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
chơn như của
nhãn giới, chẳng phải
chơn như của
sắc giới,
nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm
duyên sanh ra; chẳng phải lìa
chơn như của
nhãn giới, chẳng phải lìa
chơn như của
sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm
duyên sanh ra. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
chơn như của
nhãn giới, chẳng phải
chơn như của
sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm
duyên sanh ra; chẳng phải lìa
chơn như của
nhãn giới, chẳng phải lìa
chơn như của
sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm
duyên sanh ra.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
chơn như của
nhãn giới, chẳng nên cầu nơi
chơn như của
sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm
duyên sanh ra; chẳng nên lìa
chơn như của
nhãn giới mà cầu, chẳng nên lìa
chơn như của
sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm
duyên sanh ra mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
chơn như của
nhĩ giới, chẳng nên cầu nơi
chơn như của thanh giới,
nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm
duyên sanh ra; chẳng nên lìa
chơn như của
nhĩ giới mà cầu, chẳng nên lìa
chơn như của thanh giới
cho đến các thọ do nhĩ xúc làm
duyên sanh ra mà cầu. Vì sao? Vì hoặc
chơn như của
nhĩ giới, hoặc
chơn như của thanh giới
cho đến các thọ do nhĩ xúc làm
duyên sanh ra; hoặc lìa
chơn như của
nhĩ giới, hoặc lìa
chơn như của thanh giới
cho đến các thọ do nhĩ xúc làm
duyên sanh ra; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
chơn như của
nhĩ giới, chẳng phải
chơn như của thanh giới,
nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm
duyên sanh ra; chẳng phải lìa
chơn như của
nhĩ giới, chẳng phải lìa
chơn như của thanh giới
cho đến các thọ do nhĩ xúc làm
duyên sanh ra. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
chơn như của
nhĩ giới, chẳng phải
chơn như của thanh giới
cho đến các thọ do nhĩ xúc làm
duyên sanh ra; chẳng phải lìa
chơn như của
nhĩ giới, chẳng phải lìa
chơn như của thanh giới
cho đến các thọ do nhĩ xúc làm
duyên sanh ra.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
chơn như của
nhĩ giới, chẳng nên cầu nơi
chơn như của thanh giới
cho đến các thọ do nhĩ xúc làm
duyên sanh ra; chẳng nên lìa
chơn như của
nhĩ giới mà cầu, chẳng nên lìa
chơn như của thanh giới
cho đến các thọ do nhĩ xúc làm
duyên sanh ra mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
chơn như của tỷ giới, chẳng nên cầu nơi
chơn như của
hương giới,
tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm
duyên sanh ra; chẳng nên lìa
chơn như của tỷ giới mà cầu, chẳng nên lìa
chơn như của
hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm
duyên sanh ra mà cầu. Vì sao? Vì hoặc
chơn như của tỷ giới, hoặc
chơn như của
hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm
duyên sanh ra; hoặc lìa
chơn như của tỷ giới, hoặc lìa
chơn như của
hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm
duyên sanh ra; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
chơn như của tỷ giới, chẳng phải
chơn như của
hương giới,
tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm
duyên sanh ra; chẳng phải lìa
chơn như của tỷ giới, chẳng phải lìa
chơn như của
hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm
duyên sanh ra. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
chơn như của tỷ giới, chẳng phải
chơn như của
hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm
duyên sanh ra; chẳng phải lìa
chơn như của tỷ giới, chẳng phải lìa
chơn như của
hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm
duyên sanh ra.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
chơn như của tỷ giới, chẳng nên cầu nơi
chơn như của
hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm
duyên sanh ra; chẳng nên lìa
chơn như của tỷ giới mà cầu, chẳng nên lìa
chơn như của
hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm
duyên sanh ra mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
chơn như của thiệt giới, chẳng nên cầu nơi
chơn như của vị giới,
thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm
duyên sanh ra; chẳng nên lìa
chơn như của thiệt giới mà cầu, chẳng nên lìa
chơn như của vị giới
cho đến các thọ do thiệt xúc làm
duyên sanh ra mà cầu. Vì sao? Vì hoặc
chơn như của thiệt giới, hoặc
chơn như của vị giới
cho đến các thọ do thiệt xúc làm
duyên sanh ra; hoặc lìa
chơn như của thiệt giới, hoặc lìa
chơn như của vị giới
cho đến các thọ do thiệt xúc làm
duyên sanh ra; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
chơn như của thiệt giới, chẳng phải
chơn như của vị giới,
thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm
duyên sanh ra; chẳng phải lìa
chơn như của thiệt giới, chẳng phải lìa
chơn như của vị giới
cho đến các thọ do thiệt xúc làm
duyên sanh ra. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
chơn như của thiệt giới, chẳng phải
chơn như của vị giới
cho đến các thọ do thiệt xúc làm
duyên sanh ra; chẳng phải lìa
chơn như của thiệt giới, chẳng phải lìa
chơn như của vị giới
cho đến các thọ do thiệt xúc làm
duyên sanh ra.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
chơn như của thiệt giới, chẳng nên cầu nơi
chơn như của vị giới
cho đến các thọ do thiệt xúc làm
duyên sanh ra; chẳng nên lìa
chơn như của thiệt giới mà cầu, chẳng nên lìa
chơn như của vị giới
cho đến các thọ do thiệt xúc làm
duyên sanh ra mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
chơn như của
thân giới, chẳng nên cầu nơi
chơn như của xúc giới,
thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm
duyên sanh ra; chẳng nên lìa
chơn như của
thân giới mà cầu, chẳng nên lìa
chơn như của xúc giới
cho đến các thọ do thân xúc làm
duyên sanh ra mà cầu. Vì sao? Vì hoặc
chơn như của
thân giới, hoặc
chơn như của xúc giới
cho đến các thọ do thân xúc làm
duyên sanh ra; hoặc lìa
chơn như của
thân giới, hoặc lìa
chơn như của xúc giới
cho đến các thọ do thân xúc làm
duyên sanh ra; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
chơn như của
thân giới, chẳng phải
chơn như của xúc giới,
thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm
duyên sanh ra; chẳng phải lìa
chơn như của
thân giới, chẳng phải lìa
chơn như của xúc giới
cho đến các thọ do thân xúc làm
duyên sanh ra. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
chơn như của
thân giới, chẳng phải
chơn như của xúc giới
cho đến các thọ do thân xúc làm
duyên sanh ra; chẳng phải lìa
chơn như của
thân giới, chẳng phải lìa
chơn như của xúc giới
cho đến các thọ do thân xúc làm
duyên sanh ra.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
chơn như của
thân giới, chẳng nên cầu nơi
chơn như của xúc giới
cho đến các thọ do thân xúc làm
duyên sanh ra; chẳng nên lìa
chơn như của
thân giới mà cầu, chẳng nên lìa
chơn như của xúc giới
cho đến các thọ do thân xúc làm
duyên sanh ra mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
chơn như của
ý giới, chẳng nên cầu nơi
chơn như của
pháp giới,
ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm
duyên sanh ra; chẳng nên lìa
chơn như của
ý giới mà cầu, chẳng nên lìa
chơn như của
pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm
duyên sanh ra mà cầu. Vì sao? Vì hoặc
chơn như của
ý giới, hoặc
chơn như của
pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm
duyên sanh ra; hoặc lìa
chơn như của
ý giới, hoặc lìa
chơn như của
pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm
duyên sanh ra; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
chơn như của
ý giới, chẳng phải
chơn như của
pháp giới,
ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm
duyên sanh ra; chẳng phải lìa
chơn như của
ý giới, chẳng phải lìa
chơn như của
pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm
duyên sanh ra. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
chơn như của
ý giới, chẳng phải
chơn như của
pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm
duyên sanh ra; chẳng phải lìa
chơn như của
ý giới, chẳng phải lìa
chơn như của
pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm
duyên sanh ra.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
chơn như của
ý giới, chẳng nên cầu nơi
chơn như của
pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm
duyên sanh ra; chẳng nên lìa
chơn như của
ý giới mà cầu, chẳng nên lìa
chơn như của
pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm
duyên sanh ra mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
chơn như của
địa giới, chẳng nên cầu nơi
chơn như của thủy, hỏa, phong, không,
thức giới; chẳng nên lìa
chơn như của
địa giới mà cầu, chẳng nên lìa
chơn như của thủy, hỏa, phong, không,
thức giới mà cầu. Vì sao? Vì hoặc
chơn như của
địa giới, hoặc
chơn như của thủy, hỏa, phong, không,
thức giới; hoặc lìa
chơn như của
địa giới, hoặc lìa
chơn như của thủy, hỏa, phong, không,
thức giới; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
chơn như của
địa giới, chẳng phải
chơn như của thủy, hỏa, phong, không,
thức giới; chẳng phải lìa
chơn như của
địa giới, chẳng phải lìa
chơn như của thủy, hỏa, phong, không,
thức giới. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
chơn như của
địa giới, chẳng phải
chơn như của thủy, hỏa, phong, không,
thức giới; chẳng phải lìa
chơn như của
địa giới, chẳng phải lìa
chơn như của thủy, hỏa, phong, không,
thức giới.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
chơn như của
địa giới, chẳng nên cầu nơi
chơn như của thủy, hỏa, phong, không,
thức giới; chẳng nên lìa
chơn như của
địa giới mà cầu, chẳng nên lìa
chơn như của thủy, hỏa, phong, không,
thức giới mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
chơn như của
Thánh đế khổ, chẳng nên cầu nơi
chơn như của
Thánh đế tập, diệt, đạo; chẳng nên lìa
chơn như của
Thánh đế khổ mà cầu, chẳng nên lìa
chơn như của
Thánh đế tập, diệt, đạo mà cầu. Vì sao? Vì hoặc
chơn như của
Thánh đế khổ, hoặc
chơn như của
Thánh đế tập, diệt, đạo; hoặc lìa
chơn như của
Thánh đế khổ, hoặc lìa
chơn như của
Thánh đế tập, diệt, đạo; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
chơn như của
Thánh đế khổ, chẳng phải
chơn như của
Thánh đế tập, diệt, đạo; chẳng phải lìa
chơn như của
Thánh đế khổ, chẳng phải lìa
chơn như của
Thánh đế tập, diệt, đạo. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
chơn như của
Thánh đế khổ, chẳng phải
chơn như của
Thánh đế tập, diệt, đạo; chẳng phải lìa
chơn như của
Thánh đế khổ, chẳng phải lìa
chơn như của
Thánh đế tập, diệt, đạo.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
chơn như của
Thánh đế khổ, chẳng nên cầu nơi
chơn như của
Thánh đế tập, diệt, đạo; chẳng nên lìa
chơn như của
Thánh đế khổ mà cầu, chẳng nên lìa
chơn như của
Thánh đế tập, diệt, đạo mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
chơn như của
vô minh, chẳng nên cầu nơi
chơn như của hành, thức,
danh sắc,
lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh,
lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não; chẳng nên lìa
chơn như của
vô minh mà cầu, chẳng nên lìa
chơn như của hành
cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não mà cầu. Vì sao? Vì hoặc
chơn như của
vô minh, hoặc
chơn như của hành
cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não; hoặc lìa
chơn như của
vô minh, hoặc lìa
chơn như của hành
cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
chơn như của
vô minh, chẳng phải
chơn như của hành, thức,
danh sắc,
lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh,
lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não; chẳng phải lìa
chơn như của
vô minh, chẳng phải lìa
chơn như của hành
cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
chơn như của
vô minh, chẳng phải
chơn như của hành
cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não; chẳng phải lìa
chơn như của
vô minh, chẳng phải lìa
chơn như của hành
cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
chơn như của
vô minh, chẳng nên cầu nơi
chơn như của hành
cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não; chẳng nên lìa
chơn như của
vô minh mà cầu, chẳng nên lìa
chơn như của hành
cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
chơn như của cái không nội, chẳng nên cầu nơi
chơn như của cái không ngoại, cái không
nội ngoại, cái
không không, cái không lớn, cái không
thắng nghĩa, cái
không hữu vi, cái
không vô vi, cái không
rốt ráo, cái
không không biên giới, cái không tản mạn, cái
không không đổi khác, cái không
bản tánh, cái không
tự tướng, cái không
cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái
không không tánh, cái không
tự tánh, cái
không không tánh tự tánh; chẳng nên lìa
chơn như của cái không nội mà cầu, chẳng nên lìa
chơn như của cái không ngoại
cho đến cái
không không tánh tự tánh mà cầu. Vì sao? Vì hoặc
chơn như của cái không nội, hoặc
chơn như của cái không ngoại
cho đến cái
không không tánh tự tánh; hoặc lìa
chơn như của cái không nội, hoặc lìa
chơn như của cái không ngoại
cho đến cái
không không tánh tự tánh; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
chơn như của cái không nội, chẳng phải
chơn như của cái không ngoại, cái không
nội ngoại, cái
không không, cái không lớn, cái không
thắng nghĩa, cái
không hữu vi, cái
không vô vi, cái không
rốt ráo, cái
không không biên giới, cái không tản mạn, cái
không không đổi khác, cái không
bản tánh, cái không
tự tướng, cái không
cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái
không không tánh, cái không
tự tánh, cái
không không tánh tự tánh; chẳng phải lìa
chơn như của cái không nội, chẳng phải lìa
chơn như của cái không ngoại
cho đến cái
không không tánh tự tánh. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
chơn như của cái không nội, chẳng phải
chơn như của cái không ngoại
cho đến cái
không không tánh tự tánh; chẳng phải lìa
chơn như của cái không nội, chẳng phải lìa
chơn như của cái không ngoại
cho đến cái
không không tánh tự tánh.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
chơn như của cái không nội, chẳng nên cầu nơi
chơn như của cái không ngoại
cho đến cái
không không tánh tự tánh; chẳng nên lìa
chơn như của cái không nội mà cầu, chẳng nên lìa
chơn như của cái không ngoại
cho đến cái
không không tánh tự tánh mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
chơn như của
chơn như, chẳng nên cầu nơi
chơn như của
pháp giới,
pháp tánh, tánh chẳng
hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh
bình đẳng, tánh
ly sanh, định pháp, trụ pháp,
thật tế,
cảnh giới hư không,
cảnh giới bất tư nghì; chẳng nên lìa
chơn như của
chơn như mà cầu, chẳng nên lìa
chơn như của
pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì mà cầu. Vì sao? Vì hoặc
chơn như của
chơn như, hoặc
chơn như của
pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì; hoặc lìa
chơn như của
chơn như, hoặc lìa
chơn như của
pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
chơn như của
chơn như, chẳng phải
chơn như của
pháp giới,
pháp tánh, tánh chẳng
hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh
bình đẳng, tánh
ly sanh, định pháp, trụ pháp,
thật tế,
cảnh giới hư không,
cảnh giới bất tư nghì; chẳng phải lìa
chơn như của
chơn như, chẳng phải lìa
chơn như của
pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
chơn như của
chơn như, chẳng phải
chơn như của
pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì; chẳng phải lìa
chơn như của
chơn như, chẳng phải lìa
chơn như của
pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
chơn như của
chơn như, chẳng nên cầu nơi
chơn như của
pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì; chẳng nên lìa
chơn như của
chơn như mà cầu, chẳng nên lìa
chơn như của
pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì mà cầu.
Quyển Thứ 95
HẾT
08
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
chơn như của bố thí Ba-la-mật-đa, chẳng nên cầu nơi
chơn như của
tịnh giới,
an nhẫn,
tinh tấn,
tịnh lự,
Bát-nhã Ba-la-mật-đa; chẳng nên lìa
chơn như của bố thí Ba-la-mật-đa mà cầu, chẳng nên lìa
chơn như của
tịnh giới,
an nhẫn,
tinh tấn,
tịnh lự,
Bát-nhã Ba-la-mật-đa mà cầu. Vì sao? Vì hoặc
chơn như của bố thí Ba-la-mật-đa, hoặc
chơn như của
tịnh giới,
an nhẫn,
tinh tấn,
tịnh lự,
Bát-nhã Ba-la-mật-đa; hoặc lìa
chơn như của bố thí Ba-la-mật-đa, hoặc lìa
chơn như của
tịnh giới,
an nhẫn,
tinh tấn,
tịnh lự,
Bát-nhã Ba-la-mật-đa; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
chơn như của bố thí Ba-la-mật-đa, chẳng phải
chơn như của
tịnh giới,
an nhẫn,
tinh tấn,
tịnh lự,
Bát-nhã Ba-la-mật-đa; chẳng phải lìa
chơn như của bố thí Ba-la-mật-đa, chẳng phải lìa
chơn như của
tịnh giới,
an nhẫn,
tinh tấn,
tịnh lự,
Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
chơn như của bố thí Ba-la-mật-đa, chẳng phải
chơn như của
tịnh giới,
an nhẫn,
tinh tấn,
tịnh lự,
Bát-nhã Ba-la-mật-đa; chẳng phải lìa
chơn như của bố thí Ba-la-mật-đa, chẳng phải lìa
chơn như của
tịnh giới,
an nhẫn,
tinh tấn,
tịnh lự,
Bát-nhã Ba-la-mật-đa.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
chơn như của bố thí Ba-la-mật-đa, chẳng nên cầu nơi
chơn như của
tịnh giới,
an nhẫn,
tinh tấn,
tịnh lự,
Bát-nhã Ba-la-mật-đa; chẳng nên lìa
chơn như của bố thí Ba-la-mật-đa mà cầu, chẳng nên lìa
chơn như của
tịnh giới,
an nhẫn,
tinh tấn,
tịnh lự,
Bát-nhã Ba-la-mật-đa mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
chơn như của bốn
tịnh lự, chẳng nên cầu nơi
chơn như của bốn
vô lượng, bốn
định vô sắc; chẳng nên lìa
chơn như của bốn
tịnh lự mà cầu, chẳng nên lìa
chơn như của bốn
vô lượng, bốn
định vô sắc mà cầu. Vì sao? Vì hoặc
chơn như của bốn
tịnh lự, hoặc
chơn như của bốn
vô lượng, bốn
định vô sắc; hoặc lìa
chơn như của bốn
tịnh lự, hoặc lìa
chơn như của bốn
vô lượng, bốn
định vô sắc; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
chơn như của bốn
tịnh lự, chẳng phải
chơn như của bốn
vô lượng, bốn
định vô sắc; chẳng phải lìa
chơn như của bốn
tịnh lự, chẳng phải lìa
chơn như của bốn
vô lượng, bốn
định vô sắc. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
chơn như của bốn
tịnh lự, chẳng phải
chơn như của bốn
vô lượng, bốn
định vô sắc; chẳng phải lìa
chơn như của bốn
tịnh lự, chẳng phải lìa
chơn như của bốn
vô lượng, bốn
định vô sắc.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
chơn như của bốn
tịnh lự, chẳng nên cầu nơi
chơn như của bốn
vô lượng, bốn
định vô sắc; chẳng nên lìa
chơn như của bốn
tịnh lự mà cầu, chẳng nên lìa
chơn như của bốn
vô lượng, bốn
định vô sắc mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
chơn như của
tám giải thoát, chẳng nên cầu nơi
chơn như của
tám thắng xứ, chín định
thứ đệ,
mười biến xứ; chẳng nên lìa
chơn như của
tám giải thoát mà cầu, chẳng nên lìa
chơn như của
tám thắng xứ, chín định
thứ đệ,
mười biến xứ mà cầu. Vì sao? Vì hoặc
chơn như của
tám giải thoát, hoặc
chơn như của
tám thắng xứ, chín định
thứ đệ,
mười biến xứ; hoặc lìa
chơn như của
tám giải thoát, hoặc lìa
chơn như của
tám thắng xứ, chín định
thứ đệ,
mười biến xứ; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
chơn như của
tám giải thoát, chẳng phải
chơn như của
tám thắng xứ, chín định
thứ đệ,
mười biến xứ; chẳng phải lìa
chơn như của
tám giải thoát, chẳng phải lìa
chơn như của
tám thắng xứ, chín định
thứ đệ,
mười biến xứ. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
chơn như của
tám giải thoát, chẳng phải
chơn như của
tám thắng xứ, chín định
thứ đệ,
mười biến xứ; chẳng phải lìa
chơn như của
tám giải thoát, chẳng phải lìa
chơn như của
tám thắng xứ, chín định
thứ đệ,
mười biến xứ.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
chơn như của
tám giải thoát, chẳng nên cầu nơi
chơn như của
tám thắng xứ, chín định
thứ đệ,
mười biến xứ; chẳng nên lìa
chơn như của
tám giải thoát mà cầu, chẳng nên lìa
chơn như của
tám thắng xứ, chín định
thứ đệ,
mười biến xứ mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
chơn như của bốn niệm trụ, chẳng nên cầu nơi
chơn như của bốn chánh đoạn, bốn
thần túc, năm căn,
năm lực, bảy chi
đẳng giác, tám chi
thánh đạo; chẳng nên lìa
chơn như của bốn niệm trụ mà cầu, chẳng nên lìa
chơn như của bốn chánh đoạn
cho đến tám chi
thánh đạo mà cầu. Vì sao? Vì hoặc
chơn như của bốn niệm trụ, hoặc
chơn như của bốn chánh đoạn
cho đến tám chi
thánh đạo; hoặc lìa
chơn như của bốn niệm trụ, hoặc lìa
chơn như của bốn chánh đoạn
cho đến tám chi
thánh đạo; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
chơn như của bốn niệm trụ, chẳng phải
chơn như của bốn chánh đoạn, bốn
thần túc, năm căn,
năm lực, bảy chi
đẳng giác, tám chi
thánh đạo; chẳng phải lìa
chơn như của bốn niệm trụ, chẳng phải lìa
chơn như của bốn chánh đoạn
cho đến tám chi
thánh đạo. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
chơn như của bốn niệm trụ, chẳng phải
chơn như của bốn chánh đoạn
cho đến tám chi
thánh đạo; chẳng phải lìa
chơn như của bốn niệm trụ, chẳng phải lìa
chơn như của bốn chánh đoạn
cho đến tám chi
thánh đạo.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
chơn như của bốn niệm trụ, chẳng nên cầu nơi
chơn như của bốn chánh đoạn
cho đến tám chi
thánh đạo; chẳng nên lìa
chơn như của bốn niệm trụ mà cầu, chẳng nên lìa
chơn như của bốn chánh đoạn
cho đến tám chi
thánh đạo mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
chơn như của
pháp môn giải thoát không, chẳng nên cầu nơi
chơn như của
pháp môn giải thoát vô tướng,
vô nguyện; chẳng nên lìa
chơn như của
pháp môn giải thoát không mà cầu, chẳng nên lìa
chơn như của
pháp môn giải thoát vô tướng,
vô nguyện mà cầu. Vì sao? Vì hoặc
chơn như của
pháp môn giải thoát không, hoặc
chơn như của
pháp môn giải thoát vô tướng,
vô nguyện; hoặc lìa
chơn như của
pháp môn giải thoát không, hoặc lìa
chơn như của
pháp môn giải thoát vô tướng,
vô nguyện; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
chơn như của
pháp môn giải thoát không, chẳng phải
chơn như của
pháp môn giải thoát vô tướng,
vô nguyện; chẳng phải lìa
chơn như của
pháp môn giải thoát không, chẳng phải lìa
chơn như của
pháp môn giải thoát vô tướng,
vô nguyện. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
chơn như của
pháp môn giải thoát không, chẳng phải
chơn như của
pháp môn giải thoát vô tướng,
vô nguyện; chẳng phải lìa
chơn như của
pháp môn giải thoát không, chẳng phải lìa
chơn như của
pháp môn giải thoát vô tướng,
vô nguyện.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
chơn như của
pháp môn giải thoát không, chẳng nên cầu nơi
chơn như của
pháp môn giải thoát vô tướng,
vô nguyện; chẳng nên lìa
chơn như của
pháp môn giải thoát không mà cầu, chẳng nên lìa
chơn như của
pháp môn giải thoát vô tướng,
vô nguyện mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
chơn như của
năm loại mắt, chẳng nên cầu nơi
chơn như của sáu phép
thần thông; chẳng nên lìa
chơn như của
năm loại mắt mà cầu, chẳng nên lìa
chơn như của sáu phép
thần thông mà cầu. Vì sao? Vì hoặc
chơn như của
năm loại mắt, hoặc
chơn như của sáu phép
thần thông; hoặc lìa
chơn như của
năm loại mắt, hoặc lìa
chơn như của sáu phép
thần thông; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
chơn như của
năm loại mắt, chẳng phải
chơn như của sáu phép
thần thông; chẳng phải lìa
chơn như của
năm loại mắt, chẳng phải lìa
chơn như của sáu phép
thần thông. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
chơn như của
năm loại mắt, chẳng phải
chơn như của sáu phép
thần thông; chẳng phải lìa
chơn như của
năm loại mắt, chẳng phải lìa
chơn như của sáu phép
thần thông.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
chơn như của
năm loại mắt, chẳng nên cầu nơi
chơn như của sáu phép
thần thông; chẳng nên lìa
chơn như của
năm loại mắt mà cầu, chẳng nên lìa
chơn như của sáu phép
thần thông mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
chơn như của
mười lực Phật, chẳng nên cầu nơi
chơn như của bốn điều không sợ, bốn sự
hiểu biết thông suốt,
đại từ,
đại bi,
đại hỷ,
đại xả, mười
tám pháp Phật
bất cộng; chẳng nên lìa
chơn như của
mười lực Phật mà cầu, chẳng nên lìa
chơn như của bốn điều không sợ
cho đến mười
tám pháp Phật
bất cộng mà cầu. Vì sao? Vì hoặc
chơn như của
mười lực Phật, hoặc
chơn như của bốn điều không sợ
cho đến mười
tám pháp Phật
bất cộng; hoặc lìa
chơn như của
mười lực Phật, hoặc lìa
chơn như của bốn điều không sợ
cho đến mười
tám pháp Phật
bất cộng; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
chơn như của
mười lực Phật, chẳng phải
chơn như của bốn điều không sợ, bốn sự
hiểu biết thông suốt,
đại từ,
đại bi,
đại hỷ,
đại xả, mười
tám pháp Phật
bất cộng; chẳng phải lìa
chơn như của
mười lực Phật, chẳng phải lìa
chơn như của bốn điều không sợ
cho đến mười
tám pháp Phật
bất cộng. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
chơn như của
mười lực Phật, chẳng phải
chơn như của bốn điều không sợ
cho đến mười
tám pháp Phật
bất cộng; chẳng phải lìa
chơn như của
mười lực Phật, chẳng phải lìa
chơn như của bốn điều không sợ
cho đến mười
tám pháp Phật
bất cộng.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
chơn như của
mười lực Phật, chẳng nên cầu nơi
chơn như của bốn điều không sợ
cho đến mười
tám pháp Phật
bất cộng; chẳng nên lìa
chơn như của
mười lực Phật mà cầu, chẳng nên lìa
chơn như của bốn điều không sợ
cho đến mười
tám pháp Phật
bất cộng mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
chơn như của
pháp không quên mất, chẳng nên cầu nơi
chơn như của tánh luôn luôn xả; chẳng nên lìa
chơn như của
pháp không quên mất mà cầu, chẳng nên lìa
chơn như của tánh luôn luôn xả mà cầu. Vì sao? Vì hoặc
chơn như của
pháp không quên mất, hoặc
chơn như của tánh luôn luôn xả; hoặc lìa
chơn như của
pháp không quên mất, hoặc lìa
chơn như của tánh luôn luôn xả; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
chơn như của
pháp không quên mất, chẳng phải
chơn như của tánh luôn luôn xả; chẳng phải lìa
chơn như của
pháp không quên mất, chẳng phải lìa
chơn như của tánh luôn luôn xả. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
chơn như của
pháp không quên mất, chẳng phải
chơn như của tánh luôn luôn xả; chẳng phải lìa
chơn như của
pháp không quên mất, chẳng phải lìa
chơn như của tánh luôn luôn xả.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
chơn như của
pháp không quên mất, chẳng nên cầu nơi
chơn như của tánh luôn luôn xả; chẳng nên lìa
chơn như của
pháp không quên mất mà cầu, chẳng nên lìa
chơn như của tánh luôn luôn xả mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
chơn như của trí
nhất thiết, chẳng nên cầu nơi
chơn như của trí đạo tướng, trí
nhất thiết tướng; chẳng nên lìa
chơn như của trí
nhất thiết mà cầu, chẳng nên lìa
chơn như của trí đạo tướng, trí
nhất thiết tướng mà cầu. Vì sao? Vì hoặc
chơn như của trí
nhất thiết, hoặc
chơn như của trí đạo tướng, trí
nhất thiết tướng; hoặc lìa
chơn như của trí
nhất thiết, hoặc lìa
chơn như của trí đạo tướng, trí
nhất thiết tướng; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
chơn như của trí
nhất thiết, chẳng phải
chơn như của trí đạo tướng, trí
nhất thiết tướng; chẳng phải lìa
chơn như của trí
nhất thiết, chẳng phải lìa
chơn như của trí đạo tướng, trí
nhất thiết tướng. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
chơn như của trí
nhất thiết, chẳng phải
chơn như của trí đạo tướng, trí
nhất thiết tướng; chẳng phải lìa
chơn như của trí
nhất thiết, chẳng phải lìa
chơn như của trí đạo tướng, trí
nhất thiết tướng.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
chơn như của trí
nhất thiết, chẳng nên cầu nơi
chơn như của trí đạo tướng, trí
nhất thiết tướng; chẳng nên lìa
chơn như của trí
nhất thiết mà cầu, chẳng nên lìa
chơn như của trí đạo tướng, trí
nhất thiết tướng mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
chơn như của tất cả
pháp môn Đà-la-ni, chẳng nên cầu nơi
chơn như của tất cả
pháp môn Tam-ma-địa; chẳng nên lìa
chơn như của tất cả
pháp môn Đà-la-ni mà cầu, chẳng nên lìa
chơn như của tất cả
pháp môn Tam-ma-địa mà cầu. Vì sao? Vì hoặc
chơn như của tất cả
pháp môn Đà-la-ni, hoặc
chơn như của tất cả
pháp môn Tam-ma-địa; hoặc lìa
chơn như của tất cả
pháp môn Đà-la-ni, hoặc lìa
chơn như của tất cả
pháp môn Tam-ma-địa; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
chơn như của tất cả
pháp môn Đà-la-ni, chẳng phải
chơn như của tất cả
pháp môn Tam-ma-địa; chẳng phải lìa
chơn như của tất cả
pháp môn Đà-la-ni, chẳng phải lìa
chơn như của tất cả
pháp môn Tam-ma-địa. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
chơn như của tất cả
pháp môn Đà-la-ni, chẳng phải
chơn như của tất cả
pháp môn Tam-ma-địa; chẳng phải lìa
chơn như của tất cả
pháp môn Đà-la-ni, chẳng phải lìa
chơn như của tất cả
pháp môn Tam-ma-địa.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
chơn như của tất cả
pháp môn Đà-la-ni, chẳng nên cầu nơi
chơn như của tất cả
pháp môn Tam-ma-địa; chẳng nên lìa
chơn như của tất cả
pháp môn Đà-la-ni mà cầu, chẳng nên lìa
chơn như của tất cả
pháp môn Tam-ma-địa mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
chơn như của Dự-lưu, chẳng nên cầu nơi
chơn như của Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán; chẳng nên lìa
chơn như của Dự-lưu mà cầu, chẳng nên lìa
chơn như của Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán mà cầu. Vì sao? Vì hoặc
chơn như của Dự-lưu, hoặc
chơn như của Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán; hoặc lìa
chơn như của Dự-lưu, hoặc lìa
chơn như của Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
chơn như của Dự-lưu, chẳng phải
chơn như của Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán; chẳng phải lìa
chơn như của Dự-lưu, chẳng phải lìa
chơn như của Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
chơn như của Dự-lưu, chẳng phải
chơn như của Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán; chẳng phải lìa
chơn như của Dự-lưu, chẳng phải lìa
chơn như của Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
chơn như của Dự-lưu, chẳng nên cầu nơi
chơn như của Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán; chẳng nên lìa
chơn như của Dự-lưu mà cầu, chẳng nên lìa
chơn như của Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
chơn như của Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả, chẳng nên cầu nơi
chơn như của Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả; chẳng nên lìa
chơn như của Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả mà cầu, chẳng nên lìa
chơn như của Nhất-lai hướng
cho đến A-la-hán quả mà cầu. Vì sao? Vì hoặc
chơn như của Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả, hoặc
chơn như của Nhất-lai hướng
cho đến A-la-hán quả; hoặc lìa
chơn như của Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả, hoặc lìa
chơn như của Nhất-lai hướng
cho đến A-la-hán quả; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
chơn như của Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả, chẳng phải
chơn như của Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả; chẳng phải lìa
chơn như của Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả, chẳng phải lìa
chơn như của Nhất-lai hướng
cho đến A-la-hán quả. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
chơn như của Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả, chẳng phải
chơn như của Nhất-lai hướng
cho đến A-la-hán quả; chẳng phải lìa
chơn như của Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả, chẳng phải lìa
chơn như của Nhất-lai hướng
cho đến A-la-hán quả.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
chơn như của Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả, chẳng nên cầu nơi
chơn như của Nhất-lai hướng
cho đến A-la-hán quả; chẳng nên lìa
chơn như của Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả mà cầu, chẳng nên lìa
chơn như của Nhất-lai hướng
cho đến A-la-hán quả mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
chơn như của Độc-giác, chẳng nên cầu nơi
chơn như của Độc-giác hướng, Độc-giác quả; chẳng nên lìa
chơn như của Độc-giác mà cầu, chẳng nên lìa
chơn như của Độc-giác hướng, Độc-giác quả mà cầu. Vì sao? Vì hoặc
chơn như của Độc-giác, hoặc
chơn như của Độc-giác hướng, Độc-giác quả; hoặc lìa
chơn như của Độc-giác, hoặc lìa
chơn như của Độc-giác hướng, Độc-giác quả; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
chơn như của Độc-giác, chẳng phải
chơn như của Độc-giác hướng, Độc-giác quả; chẳng phải lìa
chơn như của Độc-giác, chẳng phải lìa
chơn như của Độc-giác hướng, Độc-giác quả. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
chơn như của Độc-giác, chẳng phải
chơn như của Độc-giác hướng, Độc-giác quả; chẳng phải lìa
chơn như của Độc-giác, chẳng phải lìa
chơn như của Độc-giác hướng, Độc-giác quả.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
chơn như của Độc-giác, chẳng nên cầu nơi
chơn như của Độc-giác hướng, Độc-giác quả; chẳng nên lìa
chơn như của Độc-giác mà cầu, chẳng nên lìa
chơn như của Độc-giác hướng, Độc-giác quả mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
chơn như của đại Bồ-tát, chẳng nên cầu nơi
chơn như của Tam-miệu-tam Phật-đà; chẳng nên lìa
chơn như của đại Bồ-tát mà cầu, chẳng nên lìa
chơn như của Tam-miệu-tam Phật-đà mà cầu. Vì sao? Vì hoặc
chơn như của đại Bồ-tát, hoặc
chơn như của Tam-miệu-tam Phật-đà; hoặc lìa
chơn như của đại Bồ-tát, hoặc lìa
chơn như của Tam-miệu-tam Phật-đà; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
chơn như của đại Bồ-tát, chẳng phải
chơn như của Tam-miệu-tam Phật-đà; chẳng phải lìa
chơn như của đại Bồ-tát, chẳng phải lìa
chơn như của Tam-miệu-tam Phật-đà. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
chơn như của đại Bồ-tát, chẳng phải
chơn như của Tam-miệu-tam Phật-đà; chẳng phải lìa
chơn như của đại Bồ-tát, chẳng phải lìa
chơn như của Tam-miệu-tam Phật-đà.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
chơn như của đại Bồ-tát, chẳng nên cầu nơi
chơn như của Tam-miệu-tam Phật-đà; chẳng nên lìa
chơn như của đại Bồ-tát mà cầu, chẳng nên lìa
chơn như của Tam-miệu-tam Phật-đà mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
chơn như của pháp đại Bồ-tát, chẳng nên cầu nơi
chơn như của
quả vị giác ngộ cao tột; chẳng nên lìa
chơn như của pháp đại Bồ-tát mà cầu, chẳng nên lìa
chơn như của
quả vị giác ngộ cao tột mà cầu. Vì sao? Vì hoặc
chơn như của pháp đại Bồ-tát, hoặc
chơn như của
quả vị giác ngộ cao tột; hoặc lìa
chơn như của pháp đại Bồ-tát, hoặc lìa
chơn như của
quả vị giác ngộ cao tột; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
chơn như của pháp đại Bồ-tát, chẳng phải
chơn như của
quả vị giác ngộ cao tột; chẳng phải lìa
chơn như của pháp đại Bồ-tát, chẳng phải lìa
chơn như của
quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
chơn như của pháp đại Bồ-tát, chẳng phải
chơn như của
quả vị giác ngộ cao tột; chẳng phải lìa
chơn như của pháp đại Bồ-tát, chẳng phải lìa
chơn như của
quả vị giác ngộ cao tột.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
chơn như của pháp đại Bồ-tát, chẳng nên cầu nơi
chơn như của
quả vị giác ngộ cao tột; chẳng nên lìa
chơn như của pháp đại Bồ-tát mà cầu, chẳng nên lìa
chơn như của
quả vị giác ngộ cao tột mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
chơn như của Thanh-văn thừa, chẳng nên cầu nơi
chơn như của Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa; chẳng nên lìa
chơn như của Thanh-văn thừa mà cầu, chẳng nên lìa
chơn như của Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa mà cầu. Vì sao? Vì hoặc
chơn như của Thanh-văn thừa, hoặc
chơn như của Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa; hoặc lìa
chơn như của Thanh-văn thừa, hoặc lìa
chơn như của Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
chơn như của Thanh-văn thừa, chẳng phải
chơn như của Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa; chẳng phải lìa
chơn như của Thanh-văn thừa, chẳng phải lìa
chơn như của Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
chơn như của Thanh-văn thừa, chẳng phải
chơn như của Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa; chẳng phải lìa
chơn như của Thanh-văn thừa, chẳng phải lìa
chơn như của Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
chơn như của Thanh-văn thừa, chẳng nên cầu nơi
chơn như của Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa; chẳng nên lìa
chơn như của Thanh-văn thừa mà cầu, chẳng nên lìa
chơn như của Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa mà cầu.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của sắc, chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của thọ, tưởng, hành, thức; chẳng nên lìa
pháp tánh của sắc mà cầu, chẳng nên lìa
pháp tánh của thọ, tưởng, hành, thức mà cầu. Vì sao? Vì hoặc
pháp tánh của sắc, hoặc
pháp tánh của thọ, tưởng, hành, thức; hoặc lìa
pháp tánh của sắc, hoặc lìa
pháp tánh của thọ, tưởng, hành, thức; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
pháp tánh của sắc, chẳng phải
pháp tánh của thọ, tưởng, hành, thức; chẳng phải lìa
pháp tánh của sắc, chẳng phải lìa
pháp tánh của thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
pháp tánh của sắc, chẳng phải
pháp tánh của thọ, tưởng, hành, thức; chẳng phải lìa
pháp tánh của sắc, chẳng phải lìa
pháp tánh của thọ, tưởng, hành, thức.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của sắc, chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của thọ, tưởng, hành, thức; chẳng nên lìa
pháp tánh của sắc mà cầu, chẳng nên lìa
pháp tánh của thọ, tưởng, hành, thức mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của nhãn xứ, chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân,
ý xứ; chẳng nên lìa
pháp tánh của nhãn xứ mà cầu, chẳng nên lìa
pháp tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân,
ý xứ mà cầu. Vì sao? Vì hoặc
pháp tánh của nhãn xứ, hoặc
pháp tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân,
ý xứ; hoặc lìa
pháp tánh của nhãn xứ, hoặc lìa
pháp tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân,
ý xứ; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
pháp tánh của nhãn xứ, chẳng phải
pháp tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân,
ý xứ; chẳng phải lìa
pháp tánh của nhãn xứ, chẳng phải lìa
pháp tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân,
ý xứ. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
pháp tánh của nhãn xứ, chẳng phải
pháp tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân,
ý xứ; chẳng phải lìa
pháp tánh của nhãn xứ, chẳng phải lìa
pháp tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân,
ý xứ.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của nhãn xứ, chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân,
ý xứ; chẳng nên lìa
pháp tánh của nhãn xứ mà cầu, chẳng nên lìa
pháp tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân,
ý xứ mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của
sắc xứ, chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của thanh, hương, vị, xúc,
pháp xứ; chẳng nên lìa
pháp tánh của
sắc xứ mà cầu, chẳng nên lìa
pháp tánh của thanh, hương, vị, xúc,
pháp xứ mà cầu. Vì sao? Vì hoặc
pháp tánh của
sắc xứ, hoặc
pháp tánh của thanh, hương, vị, xúc,
pháp xứ; hoặc lìa
pháp tánh của
sắc xứ, hoặc lìa
pháp tánh của thanh, hương, vị, xúc,
pháp xứ; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
pháp tánh của
sắc xứ, chẳng phải
pháp tánh của thanh, hương, vị, xúc,
pháp xứ; chẳng phải lìa
pháp tánh của
sắc xứ, chẳng phải lìa
pháp tánh của thanh, hương, vị, xúc,
pháp xứ. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
pháp tánh của
sắc xứ, chẳng phải
pháp tánh của thanh, hương, vị, xúc,
pháp xứ; chẳng phải lìa
pháp tánh của
sắc xứ, chẳng phải lìa
pháp tánh của thanh, hương, vị, xúc,
pháp xứ.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của
sắc xứ, chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của thanh, hương, vị, xúc,
pháp xứ; chẳng nên lìa
pháp tánh của
sắc xứ mà cầu, chẳng nên lìa
pháp tánh của thanh, hương, vị, xúc,
pháp xứ mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của
nhãn giới, chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của
sắc giới,
nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm
duyên sanh ra; chẳng nên lìa
pháp tánh của
nhãn giới mà cầu, chẳng nên lìa
pháp tánh của
sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm
duyên sanh ra mà cầu. Vì sao? Vì hoặc
pháp tánh của
nhãn giới, hoặc
pháp tánh của
sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm
duyên sanh ra; hoặc lìa
pháp tánh của
nhãn giới, hoặc lìa
pháp tánh của
sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm
duyên sanh ra; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
pháp tánh của
nhãn giới, chẳng phải
pháp tánh của
sắc giới,
nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm
duyên sanh ra; chẳng phải lìa
pháp tánh của
nhãn giới, chẳng phải lìa
pháp tánh của
sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm
duyên sanh ra. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
pháp tánh của
nhãn giới, chẳng phải
pháp tánh của
sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm
duyên sanh ra; chẳng phải lìa
pháp tánh của
nhãn giới, chẳng phải lìa
pháp tánh của
sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm
duyên sanh ra.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của
nhãn giới, chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của
sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm
duyên sanh ra; chẳng nên lìa
pháp tánh của
nhãn giới mà cầu, chẳng nên lìa
pháp tánh của
sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm
duyên sanh ra mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của
nhĩ giới, chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của thanh giới,
nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm
duyên sanh ra; chẳng nên lìa
pháp tánh của
nhĩ giới mà cầu, chẳng nên lìa
pháp tánh của thanh giới
cho đến các thọ do nhĩ xúc làm
duyên sanh ra mà cầu. Vì sao? Vì hoặc
pháp tánh của
nhĩ giới, hoặc
pháp tánh của thanh giới
cho đến các thọ do nhĩ xúc làm
duyên sanh ra; hoặc lìa
pháp tánh của
nhĩ giới, hoặc lìa
pháp tánh của thanh giới
cho đến các thọ do nhĩ xúc làm
duyên sanh ra; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
pháp tánh của
nhĩ giới, chẳng phải
pháp tánh của thanh giới,
nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm
duyên sanh ra; chẳng phải lìa
pháp tánh của
nhĩ giới, chẳng phải lìa
pháp tánh của thanh giới
cho đến các thọ do nhĩ xúc làm
duyên sanh ra. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
pháp tánh của
nhĩ giới, chẳng phải
pháp tánh của thanh giới
cho đến các thọ do nhĩ xúc làm
duyên sanh ra; chẳng phải lìa
pháp tánh của
nhĩ giới, chẳng phải lìa
pháp tánh của thanh giới
cho đến các thọ do nhĩ xúc làm
duyên sanh ra.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của
nhĩ giới, chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của thanh giới
cho đến các thọ do nhĩ xúc làm
duyên sanh ra; chẳng nên lìa
pháp tánh của
nhĩ giới mà cầu, chẳng nên lìa
pháp tánh của thanh giới
cho đến các thọ do nhĩ xúc làm
duyên sanh ra mà cầu.
Quyển Thứ 96
HẾT
09
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của tỷ giới, chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của
hương giới,
tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm
duyên sanh ra; chẳng nên lìa
pháp tánh của tỷ giới mà cầu, chẳng nên lìa
pháp tánh của
hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm
duyên sanh ra mà cầu. Vì sao? Vì hoặc
pháp tánh của tỷ giới, hoặc
pháp tánh của
hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm
duyên sanh ra; hoặc lìa
pháp tánh của tỷ giới, hoặc lìa
pháp tánh của
hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm
duyên sanh ra; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
pháp tánh của tỷ giới, chẳng phải
pháp tánh của
hương giới,
tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm
duyên sanh ra; chẳng phải lìa
pháp tánh của tỷ giới, chẳng phải lìa
pháp tánh của
hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm
duyên sanh ra. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
pháp tánh của tỷ giới, chẳng phải
pháp tánh của
hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm
duyên sanh ra; chẳng phải lìa
pháp tánh của tỷ giới, chẳng phải lìa
pháp tánh của
hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm
duyên sanh ra.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của tỷ giới, chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của
hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm
duyên sanh ra; chẳng nên lìa
pháp tánh của tỷ giới mà cầu, chẳng nên lìa
pháp tánh của
hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm
duyên sanh ra mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của thiệt giới, chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của vị giới,
thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm
duyên sanh ra; chẳng nên lìa
pháp tánh của thiệt giới mà cầu, chẳng nên lìa
pháp tánh của vị giới
cho đến các thọ do thiệt xúc làm
duyên sanh ra mà cầu. Vì sao? Vì hoặc
pháp tánh của thiệt giới, hoặc
pháp tánh của vị giới
cho đến các thọ do thiệt xúc làm
duyên sanh ra; hoặc lìa
pháp tánh của thiệt giới, hoặc lìa
pháp tánh của vị giới
cho đến các thọ do thiệt xúc làm
duyên sanh ra; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
pháp tánh của thiệt giới, chẳng phải
pháp tánh của vị giới,
thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm
duyên sanh ra; chẳng phải lìa
pháp tánh của thiệt giới, chẳng phải lìa
pháp tánh của vị giới
cho đến các thọ do thiệt xúc làm
duyên sanh ra. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
pháp tánh của thiệt giới, chẳng phải
pháp tánh của vị giới
cho đến các thọ do thiệt xúc làm
duyên sanh ra; chẳng phải lìa
pháp tánh của thiệt giới, chẳng phải lìa
pháp tánh của vị giới
cho đến các thọ do thiệt xúc làm
duyên sanh ra.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của thiệt giới, chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của vị giới
cho đến các thọ do thiệt xúc làm
duyên sanh ra; chẳng nên lìa
pháp tánh của thiệt giới mà cầu, chẳng nên lìa
pháp tánh của vị giới
cho đến các thọ do thiệt xúc làm
duyên sanh ra mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của
thân giới, chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của xúc giới,
thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm
duyên sanh ra; chẳng nên lìa
pháp tánh của
thân giới mà cầu, chẳng nên lìa
pháp tánh của xúc giới
cho đến các thọ do thân xúc làm
duyên sanh ra mà cầu. Vì sao? Vì hoặc
pháp tánh của
thân giới, hoặc
pháp tánh của xúc giới
cho đến các thọ do thân xúc làm
duyên sanh ra; hoặc lìa
pháp tánh của
thân giới, hoặc lìa
pháp tánh của xúc giới
cho đến các thọ do thân xúc làm
duyên sanh ra; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
pháp tánh của
thân giới, chẳng phải
pháp tánh của xúc giới,
thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm
duyên sanh ra; chẳng phải lìa
pháp tánh của
thân giới, chẳng phải lìa
pháp tánh của xúc giới
cho đến các thọ do thân xúc làm
duyên sanh ra. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
pháp tánh của
thân giới, chẳng phải
pháp tánh của xúc giới
cho đến các thọ do thân xúc làm
duyên sanh ra; chẳng phải lìa
pháp tánh của
thân giới, chẳng phải lìa
pháp tánh của xúc giới
cho đến các thọ do thân xúc làm
duyên sanh ra.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của
thân giới, chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của xúc giới
cho đến các thọ do thân xúc làm
duyên sanh ra; chẳng nên lìa
pháp tánh của
thân giới mà cầu, chẳng nên lìa
pháp tánh của xúc giới
cho đến các thọ do thân xúc làm
duyên sanh ra mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của
ý giới, chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của
pháp giới,
ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm
duyên sanh ra; chẳng nên lìa
pháp tánh của
ý giới mà cầu, chẳng nên lìa
pháp tánh của
pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm
duyên sanh ra mà cầu. Vì sao? Vì hoặc
pháp tánh của
ý giới, hoặc
pháp tánh của
pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm
duyên sanh ra; hoặc lìa
pháp tánh của
ý giới, hoặc lìa
pháp tánh của
pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm
duyên sanh ra; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
pháp tánh của
ý giới, chẳng phải
pháp tánh của
pháp giới,
ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm
duyên sanh ra; chẳng phải lìa
pháp tánh của
ý giới, chẳng phải lìa
pháp tánh của
pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm
duyên sanh ra. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
pháp tánh của
ý giới, chẳng phải
pháp tánh của
pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm
duyên sanh ra; chẳng phải lìa
pháp tánh của
ý giới, chẳng phải lìa
pháp tánh của
pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm
duyên sanh ra.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của
ý giới, chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của
pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm
duyên sanh ra; chẳng nên lìa
pháp tánh của
ý giới mà cầu, chẳng nên lìa
pháp tánh của
pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm
duyên sanh ra mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của
địa giới, chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của thủy, hỏa, phong, không,
thức giới; chẳng nên lìa
pháp tánh của
địa giới mà cầu, chẳng nên lìa
pháp tánh của thủy, hỏa, phong, không,
thức giới mà cầu. Vì sao? Vì hoặc
pháp tánh của
địa giới, hoặc
pháp tánh của thủy, hỏa, phong, không,
thức giới; hoặc lìa
pháp tánh của
địa giới, hoặc lìa
pháp tánh của thủy, hỏa, phong, không,
thức giới; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
pháp tánh của
địa giới, chẳng phải
pháp tánh của thủy, hỏa, phong, không,
thức giới; chẳng phải lìa
pháp tánh của
địa giới, chẳng phải lìa
pháp tánh của thủy, hỏa, phong, không,
thức giới. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
pháp tánh của
địa giới, chẳng phải
pháp tánh của thủy, hỏa, phong, không,
thức giới; chẳng phải lìa
pháp tánh của
địa giới, chẳng phải lìa
pháp tánh của thủy, hỏa, phong, không,
thức giới.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của
địa giới, chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của thủy, hỏa, phong, không,
thức giới; chẳng nên lìa
pháp tánh của
địa giới mà cầu, chẳng nên lìa
pháp tánh của thủy, hỏa, phong, không,
thức giới mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của
Thánh đế khổ, chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của
Thánh đế tập, diệt, đạo; chẳng nên lìa
pháp tánh của
Thánh đế khổ mà cầu, chẳng nên lìa
pháp tánh của
Thánh đế tập, diệt, đạo mà cầu. Vì sao? Vì hoặc
pháp tánh của
Thánh đế khổ, hoặc
pháp tánh của
Thánh đế tập, diệt, đạo; hoặc lìa
pháp tánh của
Thánh đế khổ, hoặc lìa
pháp tánh của
Thánh đế tập, diệt, đạo; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
pháp tánh của
Thánh đế khổ, chẳng phải
pháp tánh của
Thánh đế tập, diệt, đạo; chẳng phải lìa
pháp tánh của
Thánh đế khổ, chẳng phải lìa
pháp tánh của
Thánh đế tập, diệt, đạo. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
pháp tánh của
Thánh đế khổ, chẳng phải
pháp tánh của
Thánh đế tập, diệt, đạo; chẳng phải lìa
pháp tánh của
Thánh đế khổ, chẳng phải lìa
pháp tánh của
Thánh đế tập, diệt, đạo.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của
Thánh đế khổ, chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của
Thánh đế tập, diệt, đạo; chẳng nên lìa
pháp tánh của
Thánh đế khổ mà cầu, chẳng nên lìa
pháp tánh của
Thánh đế tập, diệt, đạo mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của
vô minh, chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của hành, thức,
danh sắc,
lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh,
lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não; chẳng nên lìa
pháp tánh của
vô minh mà cầu, chẳng nên lìa
pháp tánh của hành
cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não mà cầu. Vì sao? Vì hoặc
pháp tánh của
vô minh, hoặc
pháp tánh của hành
cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não; hoặc lìa
pháp tánh của
vô minh, hoặc lìa
pháp tánh của hành
cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
pháp tánh của
vô minh, chẳng phải
pháp tánh của hành, thức,
danh sắc,
lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh,
lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não; chẳng phải lìa
pháp tánh của
vô minh, chẳng phải lìa
pháp tánh của hành
cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
pháp tánh của
vô minh, chẳng phải
pháp tánh của hành
cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não; chẳng phải lìa
pháp tánh của
vô minh, chẳng phải lìa
pháp tánh của hành
cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của
vô minh, chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của hành
cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não; chẳng nên lìa
pháp tánh của
vô minh mà cầu, chẳng nên lìa
pháp tánh của hành
cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của cái không nội, chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của cái không ngoại, cái không
nội ngoại, cái
không không, cái không lớn, cái không
thắng nghĩa, cái
không hữu vi, cái
không vô vi, cái không
rốt ráo, cái
không không biên giới, cái không tản mạn, cái
không không đổi khác, cái không
bản tánh, cái không
tự tướng, cái không
cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái
không không tánh, cái không
tự tánh, cái
không không tánh tự tánh; chẳng nên lìa
pháp tánh của cái không nội mà cầu, chẳng nên lìa
pháp tánh của cái không ngoại
cho đến cái
không không tánh tự tánh mà cầu. Vì sao? Vì hoặc
pháp tánh của cái không nội, hoặc
pháp tánh của cái không ngoại
cho đến cái
không không tánh tự tánh; hoặc lìa
pháp tánh của cái không nội, hoặc lìa
pháp tánh của cái không ngoại
cho đến cái
không không tánh tự tánh; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
pháp tánh của cái không nội, chẳng phải
pháp tánh của cái không ngoại, cái không
nội ngoại, cái
không không, cái không lớn, cái không
thắng nghĩa, cái
không hữu vi, cái
không vô vi, cái không
rốt ráo, cái
không không biên giới, cái không tản mạn, cái
không không đổi khác, cái không
bản tánh, cái không
tự tướng, cái không
cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái
không không tánh, cái không
tự tánh, cái
không không tánh tự tánh; chẳng phải lìa
pháp tánh của cái không nội, chẳng phải lìa
pháp tánh của cái không ngoại
cho đến cái
không không tánh tự tánh. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
pháp tánh của cái không nội, chẳng phải
pháp tánh của cái không ngoại
cho đến cái
không không tánh tự tánh; chẳng phải lìa
pháp tánh của cái không nội, chẳng phải lìa
pháp tánh của cái không ngoại
cho đến cái
không không tánh tự tánh.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của cái không nội, chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của cái không ngoại
cho đến cái
không không tánh tự tánh; chẳng nên lìa
pháp tánh của cái không nội mà cầu, chẳng nên lìa
pháp tánh của cái không ngoại
cho đến cái
không không tánh tự tánh mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của
chơn như, chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của
pháp giới,
pháp tánh, tánh chẳng
hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh
bình đẳng, tánh
ly sanh, định pháp, trụ pháp,
thật tế,
cảnh giới hư không,
cảnh giới bất tư nghì; chẳng nên lìa
pháp tánh của
chơn như mà cầu, chẳng nên lìa
pháp tánh của
pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì mà cầu. Vì sao? Vì hoặc
pháp tánh của
chơn như, hoặc
pháp tánh của
pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì; hoặc lìa
pháp tánh của
chơn như, hoặc lìa
pháp tánh của
pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
pháp tánh của
chơn như, chẳng phải
pháp tánh của
pháp giới,
pháp tánh, tánh chẳng
hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh
bình đẳng, tánh
ly sanh, định pháp, trụ pháp,
thật tế,
cảnh giới hư không,
cảnh giới bất tư nghì; chẳng phải lìa
pháp tánh của
chơn như, chẳng phải lìa
pháp tánh của
pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
pháp tánh của
chơn như, chẳng phải
pháp tánh của
pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì; chẳng phải lìa
pháp tánh của
chơn như, chẳng phải lìa
pháp tánh của
pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của
chơn như, chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của
pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì; chẳng nên lìa
pháp tánh của
chơn như mà cầu, chẳng nên lìa
pháp tánh của
pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của bố thí Ba-la-mật-đa, chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của
tịnh giới,
an nhẫn,
tinh tấn,
tịnh lự,
Bát-nhã Ba-la-mật-đa; chẳng nên lìa
pháp tánh của bố thí Ba-la-mật-đa mà cầu, chẳng nên lìa
pháp tánh của
tịnh giới,
an nhẫn,
tinh tấn,
tịnh lự,
Bát-nhã Ba-la-mật-đa mà cầu. Vì sao? Vì hoặc
pháp tánh của bố thí Ba-la-mật-đa, hoặc
pháp tánh của
tịnh giới,
an nhẫn,
tinh tấn,
tịnh lự,
Bát-nhã Ba-la-mật-đa; hoặc lìa
pháp tánh của bố thí Ba-la-mật-đa, hoặc lìa
pháp tánh của
tịnh giới,
an nhẫn,
tinh tấn,
tịnh lự,
Bát-nhã Ba-la-mật-đa; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
pháp tánh của bố thí Ba-la-mật-đa, chẳng phải
pháp tánh của
tịnh giới,
an nhẫn,
tinh tấn,
tịnh lự,
Bát-nhã Ba-la-mật-đa; chẳng phải lìa
pháp tánh của bố thí Ba-la-mật-đa, chẳng phải lìa
pháp tánh của
tịnh giới,
an nhẫn,
tinh tấn,
tịnh lự,
Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
pháp tánh của bố thí Ba-la-mật-đa, chẳng phải
pháp tánh của
tịnh giới,
an nhẫn,
tinh tấn,
tịnh lự,
Bát-nhã Ba-la-mật-đa; chẳng phải lìa
pháp tánh của bố thí Ba-la-mật-đa, chẳng phải lìa
pháp tánh của
tịnh giới,
an nhẫn,
tinh tấn,
tịnh lự,
Bát-nhã Ba-la-mật-đa.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của bố thí Ba-la-mật-đa, chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của
tịnh giới,
an nhẫn,
tinh tấn,
tịnh lự,
Bát-nhã Ba-la-mật-đa; chẳng nên lìa
pháp tánh của bố thí Ba-la-mật-đa mà cầu, chẳng nên lìa
pháp tánh của
tịnh giới,
an nhẫn,
tinh tấn,
tịnh lự,
Bát-nhã Ba-la-mật-đa mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của bốn
tịnh lự, chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của bốn
vô lượng, bốn
định vô sắc; chẳng nên lìa
pháp tánh của bốn
tịnh lự mà cầu, chẳng nên lìa
pháp tánh của bốn
vô lượng, bốn
định vô sắc mà cầu. Vì sao? Vì hoặc
pháp tánh của bốn
tịnh lự, hoặc
pháp tánh của bốn
vô lượng, bốn
định vô sắc; hoặc lìa
pháp tánh của bốn
tịnh lự, hoặc lìa
pháp tánh của bốn
vô lượng, bốn
định vô sắc; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
pháp tánh của bốn
tịnh lự, chẳng phải
pháp tánh của bốn
vô lượng, bốn
định vô sắc; chẳng phải lìa
pháp tánh của bốn
tịnh lự, chẳng phải lìa
pháp tánh của bốn
vô lượng, bốn
định vô sắc. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
pháp tánh của bốn
tịnh lự, chẳng phải
pháp tánh của bốn
vô lượng, bốn
định vô sắc; chẳng phải lìa
pháp tánh của bốn
tịnh lự, chẳng phải lìa
pháp tánh của bốn
vô lượng, bốn
định vô sắc.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của bốn
tịnh lự, chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của bốn
vô lượng, bốn
định vô sắc; chẳng nên lìa
pháp tánh của bốn
tịnh lự mà cầu, chẳng nên lìa
pháp tánh của bốn
vô lượng, bốn
định vô sắc mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của
tám giải thoát, chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của
tám thắng xứ, chín định
thứ đệ,
mười biến xứ; chẳng nên lìa
pháp tánh của
tám giải thoát mà cầu, chẳng nên lìa
pháp tánh của
tám thắng xứ, chín định
thứ đệ,
mười biến xứ mà cầu. Vì sao? Vì hoặc
pháp tánh của
tám giải thoát, hoặc
pháp tánh của
tám thắng xứ, chín định
thứ đệ,
mười biến xứ; hoặc lìa
pháp tánh của
tám giải thoát, hoặc lìa
pháp tánh của
tám thắng xứ, chín định
thứ đệ,
mười biến xứ; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
pháp tánh của
tám giải thoát, chẳng phải
pháp tánh của
tám thắng xứ, chín định
thứ đệ,
mười biến xứ; chẳng phải lìa
pháp tánh của
tám giải thoát, chẳng phải lìa
pháp tánh của
tám thắng xứ, chín định
thứ đệ,
mười biến xứ. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
pháp tánh của
tám giải thoát, chẳng phải
pháp tánh của
tám thắng xứ, chín định
thứ đệ,
mười biến xứ; chẳng phải lìa
pháp tánh của
tám giải thoát, chẳng phải lìa
pháp tánh của
tám thắng xứ, chín định
thứ đệ,
mười biến xứ.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của
tám giải thoát, chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của
tám thắng xứ, chín định
thứ đệ,
mười biến xứ; chẳng nên lìa
pháp tánh của
tám giải thoát mà cầu, chẳng nên lìa
pháp tánh của
tám thắng xứ, chín định
thứ đệ,
mười biến xứ mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của bốn niệm trụ, chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của bốn chánh đoạn, bốn
thần túc, năm căn,
năm lực, bảy chi
đẳng giác, tám chi
thánh đạo; chẳng nên lìa
pháp tánh của bốn niệm trụ mà cầu, chẳng nên lìa
pháp tánh của bốn chánh đoạn
cho đến tám chi
thánh đạo mà cầu. Vì sao? Vì hoặc
pháp tánh của bốn niệm trụ, hoặc
pháp tánh của bốn chánh đoạn
cho đến tám chi
thánh đạo; hoặc lìa
pháp tánh của bốn niệm trụ, hoặc lìa
pháp tánh của bốn chánh đoạn
cho đến tám chi
thánh đạo; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
pháp tánh của bốn niệm trụ, chẳng phải
pháp tánh của bốn chánh đoạn, bốn
thần túc, năm căn,
năm lực, bảy chi
đẳng giác, tám chi
thánh đạo; chẳng phải lìa
pháp tánh của bốn niệm trụ, chẳng phải lìa
pháp tánh của bốn chánh đoạn
cho đến tám chi
thánh đạo. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
pháp tánh của bốn niệm trụ, chẳng phải
pháp tánh của bốn chánh đoạn
cho đến tám chi
thánh đạo; chẳng phải lìa
pháp tánh của bốn niệm trụ, chẳng phải lìa
pháp tánh của bốn chánh đoạn
cho đến tám chi
thánh đạo.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của bốn niệm trụ, chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của bốn chánh đoạn
cho đến tám chi
thánh đạo; chẳng nên lìa
pháp tánh của bốn niệm trụ mà cầu, chẳng nên lìa
pháp tánh của bốn chánh đoạn
cho đến tám chi
thánh đạo mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của
pháp môn giải thoát không, chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của
pháp môn giải thoát vô tướng,
vô nguyện; chẳng nên lìa
pháp tánh của
pháp môn giải thoát không mà cầu, chẳng nên lìa
pháp tánh của
pháp môn giải thoát vô tướng,
vô nguyện mà cầu. Vì sao? Vì hoặc
pháp tánh của
pháp môn giải thoát không, hoặc
pháp tánh của
pháp môn giải thoát vô tướng,
vô nguyện; hoặc lìa
pháp tánh của
pháp môn giải thoát không, hoặc lìa
pháp tánh của
pháp môn giải thoát vô tướng,
vô nguyện; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
pháp tánh của
pháp môn giải thoát không, chẳng phải
pháp tánh của
pháp môn giải thoát vô tướng,
vô nguyện; chẳng phải lìa
pháp tánh của
pháp môn giải thoát không, chẳng phải lìa
pháp tánh của
pháp môn giải thoát vô tướng,
vô nguyện. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
pháp tánh của
pháp môn giải thoát không, chẳng phải
pháp tánh của
pháp môn giải thoát vô tướng,
vô nguyện; chẳng phải lìa
pháp tánh của
pháp môn giải thoát không, chẳng phải lìa
pháp tánh của
pháp môn giải thoát vô tướng,
vô nguyện.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của
pháp môn giải thoát không, chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của
pháp môn giải thoát vô tướng,
vô nguyện; chẳng nên lìa
pháp tánh của
pháp môn giải thoát không mà cầu, chẳng nên lìa
pháp tánh của
pháp môn giải thoát vô tướng,
vô nguyện mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của
năm loại mắt, chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của sáu phép
thần thông; chẳng nên lìa
pháp tánh của
năm loại mắt mà cầu, chẳng nên lìa
pháp tánh của sáu phép
thần thông mà cầu. Vì sao? Vì hoặc
pháp tánh của
năm loại mắt, hoặc
pháp tánh của sáu phép
thần thông; hoặc lìa
pháp tánh của
năm loại mắt, hoặc lìa
pháp tánh của sáu phép
thần thông; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
pháp tánh của
năm loại mắt, chẳng phải
pháp tánh của sáu phép
thần thông; chẳng phải lìa
pháp tánh của
năm loại mắt, chẳng phải lìa
pháp tánh của sáu phép
thần thông. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
pháp tánh của
năm loại mắt, chẳng phải
pháp tánh của sáu phép
thần thông; chẳng phải lìa
pháp tánh của
năm loại mắt, chẳng phải lìa
pháp tánh của sáu phép
thần thông.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của
năm loại mắt, chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của sáu phép
thần thông; chẳng nên lìa
pháp tánh của
năm loại mắt mà cầu, chẳng nên lìa
pháp tánh của sáu phép
thần thông mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của
mười lực Phật, chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của bốn điều không sợ, bốn sự
hiểu biết thông suốt,
đại từ,
đại bi,
đại hỷ,
đại xả, mười
tám pháp Phật
bất cộng; chẳng nên lìa
pháp tánh của
mười lực Phật mà cầu, chẳng nên lìa
pháp tánh của bốn điều không sợ
cho đến mười
tám pháp Phật
bất cộng mà cầu. Vì sao? Vì hoặc
pháp tánh của
mười lực Phật, hoặc
pháp tánh của bốn điều không sợ
cho đến mười
tám pháp Phật
bất cộng; hoặc lìa
pháp tánh của
mười lực Phật, hoặc lìa
pháp tánh của bốn điều không sợ
cho đến mười
tám pháp Phật
bất cộng; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
pháp tánh của
mười lực Phật, chẳng phải
pháp tánh của bốn điều không sợ, bốn sự
hiểu biết thông suốt,
đại từ,
đại bi,
đại hỷ,
đại xả, mười
tám pháp Phật
bất cộng; chẳng phải lìa
pháp tánh của
mười lực Phật, chẳng phải lìa
pháp tánh của bốn điều không sợ
cho đến mười
tám pháp Phật
bất cộng. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
pháp tánh của
mười lực Phật, chẳng phải
pháp tánh của bốn điều không sợ
cho đến mười
tám pháp Phật
bất cộng; chẳng phải lìa
pháp tánh của
mười lực Phật, chẳng phải lìa
pháp tánh của bốn điều không sợ
cho đến mười
tám pháp Phật
bất cộng.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của
mười lực Phật, chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của bốn điều không sợ
cho đến mười
tám pháp Phật
bất cộng; chẳng nên lìa
pháp tánh của
mười lực Phật mà cầu, chẳng nên lìa
pháp tánh của bốn điều không sợ
cho đến mười
tám pháp Phật
bất cộng mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của
pháp không quên mất, chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của tánh luôn luôn xả; chẳng nên lìa
pháp tánh của
pháp không quên mất mà cầu, chẳng nên lìa
pháp tánh của tánh luôn luôn xả mà cầu. Vì sao? Vì hoặc
pháp tánh của
pháp không quên mất, hoặc
pháp tánh của tánh luôn luôn xả; hoặc lìa
pháp tánh của
pháp không quên mất, hoặc lìa
pháp tánh của tánh luôn luôn xả; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
pháp tánh của
pháp không quên mất, chẳng phải
pháp tánh của tánh luôn luôn xả; chẳng phải lìa
pháp tánh của
pháp không quên mất, chẳng phải lìa
pháp tánh của tánh luôn luôn xả. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
pháp tánh của
pháp không quên mất, chẳng phải
pháp tánh của tánh luôn luôn xả; chẳng phải lìa
pháp tánh của
pháp không quên mất, chẳng phải lìa
pháp tánh của tánh luôn luôn xả.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của
pháp không quên mất, chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của tánh luôn luôn xả; chẳng nên lìa
pháp tánh của
pháp không quên mất mà cầu, chẳng nên lìa
pháp tánh của tánh luôn luôn xả mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của trí
nhất thiết, chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của trí đạo tướng, trí
nhất thiết tướng; chẳng nên lìa
pháp tánh của trí
nhất thiết mà cầu, chẳng nên lìa
pháp tánh của trí đạo tướng, trí
nhất thiết tướng mà cầu. Vì sao? Vì hoặc
pháp tánh của trí
nhất thiết, hoặc
pháp tánh của trí đạo tướng, trí
nhất thiết tướng; hoặc lìa
pháp tánh của trí
nhất thiết, hoặc lìa
pháp tánh của trí đạo tướng, trí
nhất thiết tướng; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
pháp tánh của trí
nhất thiết, chẳng phải
pháp tánh của trí đạo tướng, trí
nhất thiết tướng; chẳng phải lìa
pháp tánh của trí
nhất thiết, chẳng phải lìa
pháp tánh của trí đạo tướng, trí
nhất thiết tướng. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
pháp tánh của trí
nhất thiết, chẳng phải
pháp tánh của trí đạo tướng, trí
nhất thiết tướng; chẳng phải lìa
pháp tánh của trí
nhất thiết, chẳng phải lìa
pháp tánh của trí đạo tướng, trí
nhất thiết tướng.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của trí
nhất thiết, chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của trí đạo tướng, trí
nhất thiết tướng; chẳng nên lìa
pháp tánh của trí
nhất thiết mà cầu, chẳng nên lìa
pháp tánh của trí đạo tướng, trí
nhất thiết tướng mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của tất cả
pháp môn Đà-la-ni, chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của tất cả
pháp môn Tam-ma-địa; chẳng nên lìa
pháp tánh của tất cả
pháp môn Đà-la-ni mà cầu, chẳng nên lìa
pháp tánh của tất cả
pháp môn Tam-ma-địa mà cầu. Vì sao? Vì hoặc
pháp tánh của tất cả
pháp môn Đà-la-ni, hoặc
pháp tánh của tất cả
pháp môn Tam-ma-địa; hoặc lìa
pháp tánh của tất cả
pháp môn Đà-la-ni, hoặc lìa
pháp tánh của tất cả
pháp môn Tam-ma-địa; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
pháp tánh của tất cả
pháp môn Đà-la-ni, chẳng phải
pháp tánh của tất cả
pháp môn Tam-ma-địa; chẳng phải lìa
pháp tánh của tất cả
pháp môn Đà-la-ni, chẳng phải lìa
pháp tánh của tất cả
pháp môn Tam-ma-địa. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
pháp tánh của tất cả
pháp môn Đà-la-ni, chẳng phải
pháp tánh của tất cả
pháp môn Tam-ma-địa; chẳng phải lìa
pháp tánh của tất cả
pháp môn Đà-la-ni, chẳng phải lìa
pháp tánh của tất cả
pháp môn Tam-ma-địa.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của tất cả
pháp môn Đà-la-ni, chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của tất cả
pháp môn Tam-ma-địa; chẳng nên lìa
pháp tánh của tất cả
pháp môn Đà-la-ni mà cầu, chẳng nên lìa
pháp tánh của tất cả
pháp môn Tam-ma-địa mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của Dự-lưu, chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán; chẳng nên lìa
pháp tánh của Dự-lưu mà cầu, chẳng nên lìa
pháp tánh của Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán mà cầu. Vì sao? Vì hoặc
pháp tánh của Dự-lưu, hoặc
pháp tánh của Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán; hoặc lìa
pháp tánh của Dự-lưu, hoặc lìa
pháp tánh của Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
pháp tánh của Dự-lưu, chẳng phải
pháp tánh của Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán; chẳng phải lìa
pháp tánh của Dự-lưu, chẳng phải lìa
pháp tánh của Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
pháp tánh của Dự-lưu, chẳng phải
pháp tánh của Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán; chẳng phải lìa
pháp tánh của Dự-lưu, chẳng phải lìa
pháp tánh của Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của Dự-lưu, chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán; chẳng nên lìa
pháp tánh của Dự-lưu mà cầu, chẳng nên lìa
pháp tánh của Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả, chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả; chẳng nên lìa
pháp tánh của Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả mà cầu, chẳng nên lìa
pháp tánh của Nhất-lai hướng
cho đến A-la-hán quả mà cầu. Vì sao? Vì hoặc
pháp tánh của Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả, hoặc
pháp tánh của Nhất-lai hướng
cho đến A-la-hán quả; hoặc lìa
pháp tánh của Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả, hoặc lìa
pháp tánh của Nhất-lai hướng
cho đến A-la-hán quả; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
pháp tánh của Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả, chẳng phải
pháp tánh của Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả; chẳng phải lìa
pháp tánh của Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả, chẳng phải lìa
pháp tánh của Nhất-lai hướng
cho đến A-la-hán quả. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
pháp tánh của Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả, chẳng phải
pháp tánh của Nhất-lai hướng
cho đến A-la-hán quả; chẳng phải lìa
pháp tánh của Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả, chẳng phải lìa
pháp tánh của Nhất-lai hướng
cho đến A-la-hán quả.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả, chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của Nhất-lai hướng
cho đến A-la-hán quả; chẳng nên lìa
pháp tánh của Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả mà cầu, chẳng nên lìa
pháp tánh của Nhất-lai hướng
cho đến A-la-hán quả mà cầu.
Quyển Thứ 97
HẾT
10
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của Độc-giác, chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của Độc-giác hướng, Độc-giác quả; chẳng nên lìa
pháp tánh của Độc-giác mà cầu, chẳng nên lìa
pháp tánh của Độc-giác hướng, Độc-giác quả mà cầu. Vì sao? Vì hoặc
pháp tánh của Độc-giác, hoặc
pháp tánh của Độc-giác hướng, Độc-giác quả; hoặc lìa
pháp tánh của Độc-giác, hoặc lìa
pháp tánh của Độc-giác hướng, Độc-giác quả; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
pháp tánh của Độc-giác, chẳng phải
pháp tánh của Độc-giác hướng, Độc-giác quả; chẳng phải lìa
pháp tánh của Độc-giác, chẳng phải lìa
pháp tánh của Độc-giác hướng, Độc-giác quả. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
pháp tánh của Độc-giác, chẳng phải
pháp tánh của Độc-giác hướng, Độc-giác quả; chẳng phải lìa
pháp tánh của Độc-giác, chẳng phải lìa
pháp tánh của Độc-giác hướng, Độc-giác quả.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của Độc-giác, chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của Độc-giác hướng, Độc-giác quả; chẳng nên lìa
pháp tánh của Độc-giác mà cầu, chẳng nên lìa
pháp tánh của Độc-giác hướng, Độc-giác quả mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của đại Bồ-tát, chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của Tam-miệu-tam Phật-đà; chẳng nên lìa
pháp tánh của đại Bồ-tát mà cầu, chẳng nên lìa
pháp tánh của Tam-miệu-tam Phật-đà mà cầu. Vì sao? Vì hoặc
pháp tánh của đại Bồ-tát, hoặc
pháp tánh của Tam-miệu-tam Phật-đà; hoặc lìa
pháp tánh của đại Bồ-tát, hoặc lìa
pháp tánh của Tam-miệu-tam Phật-đà; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
pháp tánh của đại Bồ-tát, chẳng phải
pháp tánh của Tam-miệu-tam Phật-đà; chẳng phải lìa
pháp tánh của đại Bồ-tát, chẳng phải lìa
pháp tánh của Tam-miệu-tam Phật-đà. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
pháp tánh của đại Bồ-tát, chẳng phải
pháp tánh của Tam-miệu-tam Phật-đà; chẳng phải lìa
pháp tánh của đại Bồ-tát, chẳng phải lìa
pháp tánh của Tam-miệu-tam Phật-đà.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của đại Bồ-tát, chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của Tam-miệu-tam Phật-đà; chẳng nên lìa
pháp tánh của đại Bồ-tát mà cầu, chẳng nên lìa
pháp tánh của Tam-miệu-tam Phật-đà mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của pháp đại Bồ-tát, chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của
quả vị giác ngộ cao tột; chẳng nên lìa
pháp tánh của pháp đại Bồ-tát mà cầu, chẳng nên lìa
pháp tánh của
quả vị giác ngộ cao tột mà cầu. Vì sao? Vì hoặc
pháp tánh của pháp đại Bồ-tát, hoặc
pháp tánh của
quả vị giác ngộ cao tột; hoặc lìa
pháp tánh của pháp đại Bồ-tát, hoặc lìa
pháp tánh của
quả vị giác ngộ cao tột; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
pháp tánh của pháp đại Bồ-tát, chẳng phải
pháp tánh của
quả vị giác ngộ cao tột; chẳng phải lìa
pháp tánh của pháp đại Bồ-tát, chẳng phải lìa
pháp tánh của
quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
pháp tánh của pháp đại Bồ-tát, chẳng phải
pháp tánh của
quả vị giác ngộ cao tột; chẳng phải lìa
pháp tánh của pháp đại Bồ-tát, chẳng phải lìa
pháp tánh của
quả vị giác ngộ cao tột.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của pháp đại Bồ-tát, chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của
quả vị giác ngộ cao tột; chẳng nên lìa
pháp tánh của pháp đại Bồ-tát mà cầu, chẳng nên lìa
pháp tánh của
quả vị giác ngộ cao tột mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của Thanh-văn thừa, chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa; chẳng nên lìa
pháp tánh của Thanh-văn thừa mà cầu, chẳng nên lìa
pháp tánh của Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa mà cầu. Vì sao? Vì hoặc
pháp tánh của Thanh-văn thừa, hoặc
pháp tánh của Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa; hoặc lìa
pháp tánh của Thanh-văn thừa, hoặc lìa
pháp tánh của Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả thứ ấy đều chẳng phải
tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, chẳng phải
hữu sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải
hữu kiến, chẳng phải
vô kiến, chẳng phải
hữu đối, chẳng phải
vô đối, đều cùng một tướng, gọi là
vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
pháp tánh của Thanh-văn thừa, chẳng phải
pháp tánh của Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa; chẳng phải lìa
pháp tánh của Thanh-văn thừa, chẳng phải lìa
pháp tánh của Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không
sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng phải
pháp tánh của Thanh-văn thừa, chẳng phải
pháp tánh của Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa; chẳng phải lìa
pháp tánh của Thanh-văn thừa, chẳng phải lìa
pháp tánh của Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa.
Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của Thanh-văn thừa, chẳng nên cầu nơi
pháp tánh của Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa; chẳng nên lìa
pháp tánh của Thanh-văn thừa mà cầu, chẳng nên lìa
pháp tánh của Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa mà cầu.
XXVIII. PHẨM THÁN CHÚNG ĐỨC
01
Khi ấy,
trời Đế Thích bạch với
Thiện Hiện: Bạch Đại đức! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành là Ba-la-mật-đa lớn, là Ba-la-mật-đa
vô lượng, là Ba-la-mật-đa
vô biên. Các bậc Dự-lưu học pháp này thì
đắc quả Dự-lưu; các bậc Nhất-lai học pháp này thì
đắc quả Nhất-lai; các bậc Bất-hoàn học pháp này thì
đắc quả Bất-hoàn; các bậc A-la-hán học pháp này thì
đắc quả A-la-hán; các bậc Độc-giác học pháp này thì
đắc quả vị Độc-giác; các đại Bồ-tát học pháp này thì có khả năng
thành thục hữu tình,
nghiêm tịnh cõi Phật,
chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.
Thiện Hiện bảo: Đúng vậy! Đúng vậy! Như ông đã nói! Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành là Ba-la-mật-đa lớn, là Ba-la-mật-đa
vô lượng, là Ba-la-mật-đa
vô biên. Kiều Thi Ca! Hoặc
quá khứ, hoặc
hiện tại, hoặc
vị lai, các bậc Dự-lưu học pháp này thì
đắc quả Dự-lưu; các bậc Nhất-lai học pháp này thì
đắc quả Nhất-lai; các bậc Bất-hoàn học pháp này thì
đắc quả Bất-hoàn; các bậc A-la-hán học pháp này thì
đắc quả A-la-hán; các bậc Độc-giác học pháp này thì
đắc quả vị Độc-giác; các đại Bồ-tát học pháp này thì có khả năng
thành thục hữu tình,
nghiêm tịnh cõi Phật,
chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột
Kiều Thi Ca! Vì sắc là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng lớn; vì thọ, tưởng, hành, thức là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng lớn. Vì sao? Vì
sắc uẩn v.v... khoảng trước, giữa, sau đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là lớn. Vì chúng lớn, nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng nói là lớn.
Kiều Thi Ca! Vì nhãn xứ là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng lớn; vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân,
ý xứ là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng lớn. Vì sao? Vì nhãn xứ v.v... khoảng trước, giữa, sau đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là lớn. Vì chúng lớn, nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng nói là lớn.
Kiều Thi Ca! Vì
sắc xứ là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng lớn; vì thanh, hương, vị, xúc,
pháp xứ là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng lớn. Vì sao? Vì
sắc xứ v.v... khoảng trước, giữa, sau đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là lớn. Vì chúng lớn, nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng nói là lớn.
Kiều Thi Ca! Vì
nhãn giới là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng lớn; vì
sắc giới,
nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm
duyên sanh ra là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng lớn. Vì sao? Vì
nhãn giới v.v... khoảng trước, giữa, sau đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là lớn. Vì chúng lớn, nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng nói là lớn.
Kiều Thi Ca! Vì
nhĩ giới là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng lớn; vì thanh giới,
nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm
duyên sanh ra là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng lớn. Vì sao? Vì
nhĩ giới v.v... khoảng trước, giữa, sau đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là lớn. Vì chúng lớn, nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng nói là lớn.
Kiều Thi Ca! Vì tỷ giới là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng lớn; vì
hương giới,
tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm
duyên sanh ra là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng lớn. Vì sao? Vì tỷ giới v.v... khoảng trước, giữa, sau đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là lớn. Vì chúng lớn, nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng nói là lớn.
Kiều Thi Ca! Vì thiệt giới là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng lớn; vì vị giới,
thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm
duyên sanh ra là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng lớn. Vì sao? Vì thiệt giới v.v... khoảng trước, giữa, sau đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là lớn. Vì chúng lớn, nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng nói là lớn.
Kiều Thi Ca! Vì
thân giới là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng lớn; vì xúc giới,
thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm
duyên sanh ra là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng lớn. Vì sao? Vì
thân giới v.v... khoảng trước, giữa, sau đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là lớn. Vì chúng lớn, nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng nói là lớn.
Kiều Thi Ca! Vì
ý giới là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng lớn; vì
pháp giới,
ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm
duyên sanh ra là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng lớn. Vì sao? Vì
ý giới v.v... khoảng trước, giữa, sau đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là lớn. Vì chúng lớn, nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng nói là lớn.
Kiều Thi Ca! Vì
địa giới là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng lớn; vì thủy, hỏa, phong, không,
thức giới là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng lớn. Vì sao? Vì
địa giới v.v... khoảng trước, giữa, sau đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là lớn. Vì chúng lớn, nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng nói là lớn.
Kiều Thi Ca! Vì
Thánh đế khổ là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng lớn; vì
thánh đế tập, diệt, đạo là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng lớn. Vì sao? Vì
Thánh đế khổ v.v... khoảng trước, giữa, sau đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là lớn. Vì chúng lớn, nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng nói là lớn.
Kiều Thi Ca! Vì
vô minh là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng lớn; vì hành, thức,
danh sắc,
lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh,
lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng lớn. Vì sao? Vì
vô minh v.v... khoảng trước, giữa, sau đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là lớn. Vì chúng lớn, nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng nói là lớn.
Kiều Thi Ca! Vì cái không nội là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng lớn; vì cái không ngoại, cái không
nội ngoại, cái
không không, cái không lớn, cái không
thắng nghĩa, cái
không hữu vi, cái
không vô vi, cái không
rốt ráo, cái
không không biên giới, cái không tản mạn, cái
không không đổi khác, cái không
bản tánh, cái không
tự tướng, cái không
cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái
không không tánh, cái không
tự tánh, cái
không không tánh tự tánh là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng lớn. Vì sao? Vì cái không nội v.v... khoảng trước, giữa, sau đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là lớn. Vì chúng lớn, nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng nói là lớn.
Kiều Thi Ca! Vì
chơn như là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng lớn; vì
pháp giới,
pháp tánh, tánh chẳng
hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh
bình đẳng, tánh
ly sanh, định pháp, trụ pháp,
thật tế,
cảnh giới hư không,
cảnh giới bất tư nghì là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng lớn. Vì sao? Vì
chơn như v.v... khoảng trước, giữa, sau đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là lớn. Vì chúng lớn, nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng nói là lớn.
Kiều Thi Ca! Vì
bố thí Ba-la-mật-đa là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng lớn; vì
tịnh giới,
an nhẫn,
tinh tấn,
tịnh lự,
Bát-nhã Ba-la-mật-đa là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng lớn. Vì sao? Vì
bố thí Ba-la-mật-đa v.v... khoảng trước, giữa, sau đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là lớn. Vì chúng lớn, nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng nói là lớn.
Kiều Thi Ca! Vì bốn
tịnh lự là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng lớn; vì bốn
vô lượng, bốn
định vô sắc là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng lớn. Vì sao? Vì bốn
tịnh lự v.v... khoảng trước, giữa, sau đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là lớn. Vì chúng lớn, nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng nói là lớn.
Kiều Thi Ca! Vì
tám giải thoát là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng lớn; vì
tám thắng xứ, chín định
thứ đệ,
mười biến xứ là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng lớn. Vì sao? Vì
tám giải thoát v.v... khoảng trước, giữa, sau đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là lớn. Vì chúng lớn, nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng nói là lớn.
Kiều Thi Ca! Vì bốn niệm trụ là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng lớn; vì bốn chánh đoạn, bốn
thần túc, năm căn,
năm lực, bảy chi
đẳng giác, tám chi
thánh đạo là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng lớn. Vì sao? Vì bốn niệm trụ v.v... khoảng trước, giữa, sau đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là lớn. Vì chúng lớn, nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng nói là lớn.
Kiều Thi Ca! Vì
pháp môn giải thoát không là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng lớn; vì
pháp môn giải thoát vô tướng,
vô nguyện là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng lớn. Vì sao? Vì
pháp môn giải thoát không v.v... khoảng trước, giữa, sau đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là lớn. Vì chúng lớn, nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng nói là lớn.
Kiều Thi Ca! Vì
năm loại mắt là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng lớn; vì sáu phép
thần thông là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng lớn. Vì sao? Vì
năm loại mắt v.v... khoảng trước, giữa, sau đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là lớn. Vì chúng lớn, nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng nói là lớn.
Kiều Thi Ca! Vì
mười lực của Phật là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng lớn; vì bốn điều không sợ, bốn sự
hiểu biết thông suốt,
đại từ,
đại bi,
đại hỷ,
đại xả, mười
tám pháp Phật
bất cộng là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng lớn. Vì sao? Vì
mười lực của Phật v.v... khoảng trước, giữa, sau đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là lớn. Vì chúng lớn, nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng nói là lớn.
Kiều Thi Ca! Vì
pháp không quên mất là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng lớn; vì tánh luôn luôn xả là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng lớn. Vì sao? Vì
pháp không quên mất v.v... khoảng trước, giữa, sau đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là lớn. Vì chúng lớn, nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng nói là lớn.
Kiều Thi Ca! Vì trí
nhất thiết là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng lớn; vì trí đạo tướng, trí
nhất thiết tướng là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng lớn. Vì sao? Vì trí
nhất thiết v.v... khoảng trước, giữa, sau đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là lớn. Vì chúng lớn, nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng nói là lớn.
Kiều Thi Ca! Vì tất cả
pháp môn Đà-la-ni là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng lớn; vì tất cả
pháp môn Tam-ma-địa là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng lớn. Vì sao? Vì tất cả
pháp môn Đà-la-ni v.v... khoảng trước, giữa, sau đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là lớn. Vì chúng lớn, nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng nói là lớn.
Kiều Thi Ca! Vì Dự-lưu là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng lớn; vì Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng lớn. Vì sao? Vì Dự-lưu v.v... khoảng trước, giữa, sau đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là lớn. Vì chúng lớn, nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng nói là lớn.
Kiều Thi Ca! Vì Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng lớn; vì Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng lớn. Vì sao? Vì Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả v.v... khoảng trước, giữa, sau đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là lớn. Vì chúng lớn, nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng nói là lớn.
Kiều Thi Ca! Vì Độc-giác là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng lớn; vì Độc-giác hướng, Độc-giác quả là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng lớn. Vì sao? Vì Độc-giác v.v... khoảng trước, giữa, sau đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là lớn. Vì chúng lớn, nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng nói là lớn.
Kiều Thi Ca! Vì đại Bồ-tát là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng lớn; vì Tam-miệu-tam Phật-đà là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng lớn. Vì sao? Vì đại Bồ-tát v.v... khoảng trước, giữa, sau đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là lớn. Vì chúng lớn, nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng nói là lớn.
Kiều Thi Ca! Vì pháp của đại Bồ-tát là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng lớn; vì
quả vị giác ngộ cao tột là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng lớn. Vì sao? Vì pháp của đại Bồ-tát v.v... khoảng trước, giữa, sau đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là lớn. Vì chúng lớn, nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng nói là lớn.
Kiều Thi Ca! Vì Thanh-văn thừa là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng lớn; vì Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng lớn. Vì sao? Vì Thanh-văn thừa v.v... khoảng trước, giữa, sau đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là lớn. Vì chúng lớn, nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng nói là lớn.
Kiều Thi Ca! Do
duyên cớ này nên tôi nói: Vì sắc v.v... là lớn nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng lớn.
Kiều Thi Ca! Vì sắc
vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng; vì thọ, tưởng, hành, thức
vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng. Vì sao? Vì lượng của
sắc uẩn v.v... chẳng thể nắm bắt được nên nói là
vô lượng. Kiều Thi Ca! Thí như lượng của
hư không chẳng thể nắm bắt được, lượng của
sắc uẩn v.v... cũng như vậy, chẳng thể nắm bắt được. Kiều Thi Ca! Vì
hư không vô lượng nên
sắc uẩn v.v... cũng
vô lượng. Vì
sắc uẩn v.v...
vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng.
Kiều Thi Ca! Vì nhãn xứ
vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng; vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân,
ý xứ vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng. Vì sao? Vì lượng của nhãn xứ v.v... chẳng thể nắm bắt được nên nói là
vô lượng. Kiều Thi Ca! Thí như lượng của
hư không chẳng thể nắm bắt được, lượng của nhãn xứ v.v... cũng như vậy, chẳng thể nắm bắt được. Kiều Thi Ca! Vì
hư không vô lượng nên nhãn xứ v.v... cũng
vô lượng. Vì nhãn xứ v.v...
vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng.
Kiều Thi Ca! Vì
sắc xứ vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng; vì thanh, hương, vị, xúc,
pháp xứ vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng. Vì sao? Vì lượng của
sắc xứ v.v... chẳng thể nắm bắt được nên nói là
vô lượng. Kiều Thi Ca! Thí như lượng của
hư không chẳng thể nắm bắt được, lượng của
sắc xứ v.v... cũng như vậy, chẳng thể nắm bắt được. Kiều Thi Ca! Vì
hư không vô lượng nên
sắc xứ v.v... cũng
vô lượng. Vì
sắc xứ v.v...
vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng.
Kiều Thi Ca! Vì
nhãn giới vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng; vì
sắc giới,
nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm
duyên sanh ra
vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng. Vì sao? Vì lượng của
nhãn giới v.v... chẳng thể nắm bắt được nên nói là
vô lượng. Kiều Thi Ca! Thí như lượng của
hư không chẳng thể nắm bắt được, lượng của
nhãn giới v.v... cũng như vậy, chẳng thể nắm bắt được. Kiều Thi Ca! Vì
hư không vô lượng nên
nhãn giới v.v... cũng
vô lượng. Vì
nhãn giới v.v...
vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng.
Kiều Thi Ca! Vì
nhĩ giới vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng; vì thanh giới,
nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm
duyên sanh ra
vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng. Vì sao? Vì lượng của
nhĩ giới v.v... chẳng thể nắm bắt được nên nói là
vô lượng. Kiều Thi Ca! Thí như lượng của
hư không chẳng thể nắm bắt được, lượng của
nhĩ giới v.v... cũng như vậy, chẳng thể nắm bắt được. Kiều Thi Ca! Vì
hư không vô lượng nên
nhĩ giới v.v... cũng
vô lượng. Vì
nhĩ giới v.v...
vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng.
Kiều Thi Ca! Vì tỷ giới
vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng; vì
hương giới,
tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm
duyên sanh ra
vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng. Vì sao? Vì lượng của tỷ giới v.v... chẳng thể nắm bắt được nên nói là
vô lượng. Kiều Thi Ca! Thí như lượng của
hư không chẳng thể nắm bắt được, lượng của tỷ giới v.v... cũng như vậy, chẳng thể nắm bắt được. Kiều Thi Ca! Vì
hư không vô lượng nên tỷ giới v.v... cũng
vô lượng. Vì tỷ giới v.v...
vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng.
Kiều Thi Ca! Vì thiệt giới
vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng; vì vị giới,
thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm
duyên sanh ra
vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng. Vì sao? Vì lượng của thiệt giới v.v... chẳng thể nắm bắt được nên nói là
vô lượng. Kiều Thi Ca! Thí như lượng của
hư không chẳng thể nắm bắt được, lượng của thiệt giới v.v... cũng như vậy, chẳng thể nắm bắt được. Kiều Thi Ca! Vì
hư không vô lượng nên thiệt giới v.v... cũng
vô lượng. Vì thiệt giới v.v...
vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng.
Kiều Thi Ca! Vì
thân giới vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng; vì xúc giới,
thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm
duyên sanh ra
vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng. Vì sao? Vì lượng của
thân giới v.v... chẳng thể nắm bắt được nên nói là
vô lượng. Kiều Thi Ca! Thí như lượng của
hư không chẳng thể nắm bắt được, lượng của
thân giới v.v... cũng như vậy, chẳng thể nắm bắt được. Kiều Thi Ca! Vì
hư không vô lượng nên
thân giới v.v... cũng
vô lượng. Vì
thân giới v.v...
vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng.
Kiều Thi Ca! Vì
ý giới vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng; vì
pháp giới,
ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm
duyên sanh ra
vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng. Vì sao? Vì lượng của
ý giới v.v... chẳng thể nắm bắt được nên nói là
vô lượng. Kiều Thi Ca! Thí như lượng của
hư không chẳng thể nắm bắt được, lượng của
ý giới v.v... cũng như vậy, chẳng thể nắm bắt được. Kiều Thi Ca! Vì
hư không vô lượng nên
ý giới v.v... cũng
vô lượng. Vì
ý giới v.v...
vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng.
Kiều Thi Ca! Vì
địa giới vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng; vì thủy, hỏa, phong, không,
thức giới vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng. Vì sao? Vì lượng của
địa giới v.v... chẳng thể nắm bắt được nên nói là
vô lượng. Kiều Thi Ca! Thí như lượng của
hư không chẳng thể nắm bắt được, lượng của
địa giới v.v... cũng như vậy, chẳng thể nắm bắt được. Kiều Thi Ca! Vì
hư không vô lượng nên
địa giới v.v... cũng
vô lượng. Vì
địa giới v.v...
vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng.
Kiều Thi Ca! Vì
Thánh đế khổ
vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng; vì
Thánh đế tập, diệt, đạo
vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng. Vì sao? Vì lượng của
Thánh đế khổ v.v... chẳng thể nắm bắt được nên nói là
vô lượng. Kiều Thi Ca! Thí như lượng của
hư không chẳng thể nắm bắt được, lượng của
Thánh đế khổ v.v... cũng như vậy, chẳng thể nắm bắt được. Kiều Thi Ca! Vì
hư không vô lượng nên
Thánh đế khổ v.v... cũng
vô lượng. Vì
Thánh đế khổ v.v...
vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng.
Kiều Thi Ca! Vì
vô minh vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng; vì hành, thức,
danh sắc,
lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh,
lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não
vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng. Vì sao? Vì lượng của
vô minh v.v... chẳng thể nắm bắt được nên nói là
vô lượng. Kiều Thi Ca! Thí như lượng của
hư không chẳng thể nắm bắt được, lượng của
vô minh v.v... cũng như vậy, chẳng thể nắm bắt được. Kiều Thi Ca! Vì
hư không vô lượng nên
vô minh v.v... cũng
vô lượng. Vì
vô minh v.v...
vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng.
Kiều Thi Ca! Vì cái không nội
vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng; vì cái không ngoại, cái không
nội ngoại, cái
không không, cái không lớn, cái không
thắng nghĩa, cái
không hữu vi, cái
không vô vi, cái không
rốt ráo, cái
không không biên giới, cái không tản mạn, cái
không không đổi khác, cái không
bản tánh, cái không
tự tướng, cái không
cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái
không không tánh, cái không
tự tánh, cái
không không tánh tự tánh vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng. Vì sao? Vì lượng của cái không nội v.v... chẳng thể nắm bắt được nên nói là
vô lượng. Kiều Thi Ca! Thí như lượng của
hư không chẳng thể nắm bắt được, lượng của cái không nội v.v... cũng như vậy, chẳng thể nắm bắt được. Kiều Thi Ca! Vì
hư không vô lượng nên cái không nội v.v... cũng
vô lượng. Vì cái không nội v.v...
vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng.
Kiều Thi Ca! Vì
chơn như vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng; vì
pháp giới,
pháp tánh, tánh chẳng
hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh
bình đẳng, tánh
ly sanh, định pháp, trụ pháp,
thật tế,
cảnh giới hư không,
cảnh giới bất tư nghì
vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng. Vì sao? Vì lượng của
chơn như v.v... chẳng thể nắm bắt được nên nói là
vô lượng. Kiều Thi Ca! Thí như lượng của
hư không chẳng thể nắm bắt được, lượng của
chơn như v.v... cũng như vậy, chẳng thể nắm bắt được. Kiều Thi Ca! Vì
hư không vô lượng nên
chơn như v.v... cũng
vô lượng. Vì
chơn như v.v...
vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng.
Kiều Thi Ca! Vì
bố thí Ba-la-mật-đa
vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng; vì
tịnh giới,
an nhẫn,
tinh tấn,
tịnh lự,
Bát-nhã Ba-la-mật-đa vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng. Vì sao? Vì lượng
của bố thí Ba-la-mật-đa v.v... chẳng thể nắm bắt được nên nói là
vô lượng. Kiều Thi Ca! Thí như lượng của
hư không chẳng thể nắm bắt được, lượng
của bố thí Ba-la-mật-đa v.v... cũng như vậy, chẳng thể nắm bắt được. Kiều Thi Ca! Vì
hư không vô lượng nên
bố thí Ba-la-mật-đa v.v... cũng
vô lượng. Vì
bố thí Ba-la-mật-đa v.v...
vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng.
Kiều Thi Ca! Vì bốn
tịnh lự vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng; vì bốn
vô lượng, bốn
định vô sắc vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng. Vì sao? Vì lượng của bốn
tịnh lự v.v... chẳng thể nắm bắt được nên nói là
vô lượng. Kiều Thi Ca! Thí như lượng của
hư không chẳng thể nắm bắt được, lượng của bốn
tịnh lự v.v... cũng như vậy, chẳng thể nắm bắt được. Kiều Thi Ca! Vì
hư không vô lượng nên bốn
tịnh lự v.v... cũng
vô lượng. Vì bốn
tịnh lự v.v...
vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng.
Kiều Thi Ca! Vì
tám giải thoát vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng; vì
tám thắng xứ, chín định
thứ đệ,
mười biến xứ vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng. Vì sao? Vì lượng của
tám giải thoát v.v... chẳng thể nắm bắt được nên nói là
vô lượng. Kiều Thi Ca! Thí như lượng của
hư không chẳng thể nắm bắt được, lượng của
tám giải thoát v.v... cũng như vậy, chẳng thể nắm bắt được. Kiều Thi Ca! Vì
hư không vô lượng nên
tám giải thoát v.v... cũng
vô lượng. Vì
tám giải thoát v.v...
vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng.
Kiều Thi Ca! Vì bốn niệm trụ
vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng; vì bốn chánh đoạn, bốn
thần túc, năm căn,
năm lực, bảy chi
đẳng giác, tám chi
thánh đạo vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng. Vì sao? Vì lượng của bốn niệm trụ v.v... chẳng thể nắm bắt được nên nói là
vô lượng. Kiều Thi Ca! Thí như lượng của
hư không chẳng thể nắm bắt được, lượng của bốn niệm trụ v.v... cũng như vậy, chẳng thể nắm bắt được. Kiều Thi Ca! Vì
hư không vô lượng nên bốn niệm trụ v.v... cũng
vô lượng. Vì bốn niệm trụ v.v...
vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng.
Kiều Thi Ca! Vì
pháp môn giải thoát không vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng; vì
pháp môn giải thoát vô tướng,
vô nguyện vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng. Vì sao? Vì lượng của
pháp môn giải thoát không v.v... chẳng thể nắm bắt được nên nói là
vô lượng. Kiều Thi Ca! Thí như lượng của
hư không chẳng thể nắm bắt được, lượng của
pháp môn giải thoát không v.v... cũng như vậy, chẳng thể nắm bắt được. Kiều Thi Ca! Vì
hư không vô lượng nên
pháp môn giải thoát không v.v... cũng
vô lượng. Vì
pháp môn giải thoát không v.v...
vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng.
Kiều Thi Ca! Vì
năm loại mắt vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng; vì sáu phép
thần thông vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng. Vì sao? Vì lượng của
năm loại mắt v.v... chẳng thể nắm bắt được nên nói là
vô lượng. Kiều Thi Ca! Thí như lượng của
hư không chẳng thể nắm bắt được, lượng của
năm loại mắt v.v... cũng như vậy, chẳng thể nắm bắt được. Kiều Thi Ca! Vì
hư không vô lượng nên
năm loại mắt v.v... cũng
vô lượng. Vì
năm loại mắt v.v...
vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng.
Kiều Thi Ca! Vì
mười lực của Phật
vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng; vì bốn điều không sợ, bốn sự
hiểu biết thông suốt,
đại từ,
đại bi,
đại hỷ,
đại xả, mười
tám pháp Phật
bất cộng vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng. Vì sao? Vì lượng của
mười lực Phật v.v... chẳng thể nắm bắt được nên nói là
vô lượng. Kiều Thi Ca! Thí như lượng của
hư không chẳng thể nắm bắt được, lượng của
mười lực Phật v.v... cũng như vậy, chẳng thể nắm bắt được. Kiều Thi Ca! Vì
hư không vô lượng nên
mười lực của Phật v.v... cũng
vô lượng. Vì
mười lực của Phật v.v...
vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng.
Kiều Thi Ca! Vì
pháp không quên mất
vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng; vì tánh luôn luôn
xả vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng. Vì sao? Vì lượng của
pháp không quên mất v.v... chẳng thể nắm bắt được nên nói là
vô lượng. Kiều Thi Ca! Thí như lượng của
hư không chẳng thể nắm bắt được, lượng của
pháp không quên mất v.v... cũng như vậy, chẳng thể nắm bắt được. Kiều Thi Ca! Vì
hư không vô lượng nên
pháp không quên mất v.v... cũng
vô lượng. Vì
pháp không quên mất v.v...
vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng.
Kiều Thi Ca! Vì trí
nhất thiết vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng; vì trí đạo tướng, trí
nhất thiết tướng
vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng. Vì sao? Vì lượng của trí
nhất thiết v.v... chẳng thể nắm bắt được nên nói là
vô lượng. Kiều Thi Ca! Thí như lượng của
hư không chẳng thể nắm bắt được, lượng của trí
nhất thiết v.v... cũng như vậy, chẳng thể nắm bắt được. Kiều Thi Ca! Vì
hư không vô lượng nên trí
nhất thiết v.v... cũng
vô lượng. Vì trí
nhất thiết v.v...
vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng.
Kiều Thi Ca! Vì tất cả
pháp môn Đà-la-ni
vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng; vì tất cả
pháp môn Tam-ma-địa
vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng. Vì sao? Vì lượng của tất cả
pháp môn Đà-la-ni v.v... chẳng thể nắm bắt được nên nói là
vô lượng. Kiều Thi Ca! Thí như lượng của
hư không chẳng thể nắm bắt được, lượng của tất cả
pháp môn Đà-la-ni v.v... cũng như vậy, chẳng thể nắm bắt được. Kiều Thi Ca! Vì
hư không vô lượng nên tất cả
pháp môn Đà-la-ni v.v... cũng
vô lượng. Vì tất cả
pháp môn Đà-la-ni v.v...
vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng.
Quyển Thứ 98
HẾT
02
Kiều Thi Ca! Vì Dự-lưu
vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng; vì Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán
vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng. Vì sao? Vì lượng của Dự-lưu v.v... chẳng thể nắm bắt được nên nói là
vô lượng. Kiều Thi Ca! Thí như lượng của
hư không chẳng thể nắm bắt được, lượng của Dự-lưu v.v... cũng như vậy, chẳng thể nắm bắt được. Kiều Thi Ca! Vì
hư không vô lượng nên Dự-lưu v.v... cũng
vô lượng. Vì Dự-lưu v.v...
vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng.
Kiều Thi Ca! Vì Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả
vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng; vì Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả
vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng. Vì sao? Vì lượng của Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả v.v... chẳng thể nắm bắt được nên nói là
vô lượng. Kiều Thi Ca! Thí như lượng của
hư không chẳng thể nắm bắt được, lượng của Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả v.v... cũng như vậy, chẳng thể nắm bắt được. Kiều Thi Ca! Vì
hư không vô lượng nên Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả v.v... cũng
vô lượng. Vì Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả v.v...
vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng.
Kiều Thi Ca! Vì Độc-giác
vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng; vì Độc-giác hướng, Độc-giác quả
vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng. Vì sao? Vì lượng của Độc-giác v.v... chẳng thể nắm bắt được nên nói là
vô lượng. Kiều Thi Ca! Thí như lượng của
hư không chẳng thể nắm bắt được, lượng của Độc-giác v.v... cũng như vậy, chẳng thể nắm bắt được. Kiều Thi Ca! Vì
hư không vô lượng nên Độc-giác v.v... cũng
vô lượng. Vì Độc-giác v.v...
vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng.
Kiều Thi Ca! Vì đại Bồ-tát
vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng; vì Tam-miệu-tam Phật-đà
vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng. Vì sao? Vì lượng của đại Bồ-tát v.v... chẳng thể nắm bắt được nên nói là
vô lượng. Kiều Thi Ca! Thí như lượng của
hư không chẳng thể nắm bắt được, lượng của đại Bồ-tát v.v... cũng như vậy, chẳng thể nắm bắt được. Kiều Thi Ca! Vì
hư không vô lượng nên đại Bồ-tát v.v... cũng
vô lượng. Vì đại Bồ-tát v.v...
vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng.
Kiều Thi Ca! Vì pháp của đại Bồ-tát
vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng; vì
quả vị giác ngộ cao tột
vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng. Vì sao? Vì lượng của pháp của đại Bồ-tát v.v... chẳng thể nắm bắt được nên nói là
vô lượng. Kiều Thi Ca! Thí như lượng của
hư không chẳng thể nắm bắt được, lượng của pháp của đại Bồ-tát v.v... cũng như vậy, chẳng thể nắm bắt được. Kiều Thi Ca! Vì
hư không vô lượng nên pháp của đại Bồ-tát v.v... cũng
vô lượng. Vì pháp của đại Bồ-tát v.v...
vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng.
Kiều Thi Ca! Vì Thanh-văn thừa
vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng; vì Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa
vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng. Vì sao? Vì lượng của Thanh-văn thừa v.v... chẳng thể nắm bắt được nên nói là
vô lượng. Kiều Thi Ca! Thí như lượng của
hư không chẳng thể nắm bắt được, lượng của Thanh-văn thừa v.v... cũng như vậy, chẳng thể nắm bắt được. Kiều Thi Ca! Vì
hư không vô lượng nên Thanh-văn thừa v.v... cũng
vô lượng. Vì Thanh-văn thừa v.v...
vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng.
Kiều Thi Ca! Vì
duyên cớ này nên tôi nói sắc v.v…
vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô lượng.
Kiều Thi Ca! Vì sắc
vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô biên; vì thọ, tưởng, hành, thức
vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô biên. Vì sao? Vì
sắc uẩn v.v... hoặc ở giữa, hoặc ở bên đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là
vô biên. Vì chúng
vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng nói là
vô biên.
Kiều Thi Ca! Vì nhãn xứ
vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô biên; vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân,
ý xứ vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô biên. Vì sao? Vì nhãn xứ v.v... hoặc ở giữa, hoặc ở bên đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là
vô biên. Vì chúng
vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng nói là
vô biên.
Kiều Thi Ca! Vì
sắc xứ vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô biên; vì thanh, hương, vị, xúc,
pháp xứ vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô biên. Vì sao? Vì
sắc xứ v.v... hoặc ở giữa, hoặc ở bên đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là
vô biên. Vì chúng
vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng nói là
vô biên.
Kiều Thi Ca! Vì
nhãn giới vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô biên; vì
sắc giới,
nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm
duyên sanh ra
vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô biên. Vì sao? Vì
nhãn giới v.v... hoặc ở giữa, hoặc ở bên đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là
vô biên. Vì chúng
vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng nói là
vô biên.
Kiều Thi Ca! Vì
nhĩ giới vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô biên; vì thanh giới,
nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm
duyên sanh ra
vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô biên. Vì sao? Vì
nhĩ giới v.v... hoặc ở giữa, hoặc ở bên đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là
vô biên. Vì chúng
vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng nói là
vô biên.
Kiều Thi Ca! Vì tỷ giới
vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô biên; vì
hương giới,
tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm
duyên sanh ra
vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô biên. Vì sao? Vì tỷ giới v.v... hoặc ở giữa, hoặc ở bên đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là
vô biên. Vì chúng
vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng nói là
vô biên.
Kiều Thi Ca! Vì thiệt giới
vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô biên; vì vị giới,
thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm
duyên sanh ra
vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô biên. Vì sao? Vì thiệt giới v.v... hoặc ở giữa, hoặc ở bên đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là
vô biên. Vì chúng
vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng nói là
vô biên.
Kiều Thi Ca! Vì
thân giới vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô biên; vì xúc giới,
thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm
duyên sanh ra
vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô biên. Vì sao? Vì
thân giới v.v... hoặc ở giữa, hoặc ở bên đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là
vô biên. Vì chúng
vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng nói là
vô biên.
Kiều Thi Ca! Vì
ý giới vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô biên; vì
pháp giới,
ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm
duyên sanh ra
vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô biên. Vì sao? Vì
ý giới v.v... hoặc ở giữa, hoặc ở bên đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là
vô biên. Vì chúng
vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng nói là
vô biên.
Kiều Thi Ca! Vì
địa giới vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô biên; vì thủy, hỏa, phong, không,
thức giới vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô biên. Vì sao? Vì
địa giới v.v... hoặc ở giữa, hoặc ở bên đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là
vô biên. Vì chúng
vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng nói là
vô biên.
Kiều Thi Ca! Vì
Thánh đế khổ
vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô biên; vì
thánh đế tập, diệt, đạo
vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô biên. Vì sao? Vì
Thánh đế khổ v.v... hoặc ở giữa, hoặc ở bên đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là
vô biên. Vì chúng
vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng nói là
vô biên.
Kiều Thi Ca! Vì
vô minh vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô biên; vì hành, thức,
danh sắc,
lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh,
lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não
vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô biên. Vì sao? Vì
vô minh v.v... hoặc ở giữa, hoặc ở bên đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là
vô biên. Vì chúng
vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng nói là
vô biên.
Kiều Thi Ca! Vì cái không nội
vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô biên; vì cái không ngoại, cái không
nội ngoại, cái
không không, cái không lớn, cái không
thắng nghĩa, cái
không hữu vi, cái
không vô vi, cái không
rốt ráo, cái
không không biên giới, cái không tản mạn, cái
không không đổi khác, cái không
bản tánh, cái không
tự tướng, cái không
cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái
không không tánh, cái không
tự tánh, cái
không không tánh tự tánh vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô biên. Vì sao? Vì cái không nội v.v... hoặc ở giữa, hoặc ở bên đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là
vô biên. Vì chúng
vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng nói là
vô biên.
Kiều Thi Ca! Vì
chơn như vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô biên; vì
pháp giới,
pháp tánh, tánh chẳng
hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh
bình đẳng, tánh
ly sanh, định pháp, trụ pháp,
thật tế,
cảnh giới hư không,
cảnh giới bất tư nghì
vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô biên. Vì sao? Vì
chơn như v.v... hoặc ở giữa, hoặc ở bên đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là
vô biên. Vì chúng
vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng nói là
vô biên.
Kiều Thi Ca! Vì
bố thí Ba-la-mật-đa
vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô biên; vì
tịnh giới,
an nhẫn,
tinh tấn,
tịnh lự,
Bát-nhã Ba-la-mật-đa vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô biên. Vì sao? Vì
bố thí Ba-la-mật-đa v.v... hoặc ở giữa, hoặc ở bên đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là
vô biên. Vì chúng
vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng nói là
vô biên.
Kiều Thi Ca! Vì bốn
tịnh lự vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô biên; vì bốn
vô lượng, bốn
định vô sắc vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô biên. Vì sao? Vì bốn
tịnh lự v.v... hoặc ở giữa, hoặc ở bên đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là
vô biên. Vì chúng
vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng nói là
vô biên.
Kiều Thi Ca! Vì
tám giải thoát vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô biên; vì
tám thắng xứ, chín định
thứ đệ,
mười biến xứ vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô biên. Vì sao? Vì
tám giải thoát v.v... hoặc ở giữa, hoặc ở bên đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là
vô biên. Vì chúng
vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng nói là
vô biên.
Kiều Thi Ca! Vì bốn niệm trụ
vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô biên; vì bốn chánh đoạn, bốn
thần túc, năm căn,
năm lực, bảy chi
đẳng giác, tám chi
thánh đạo vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô biên. Vì sao? Vì bốn niệm trụ v.v... hoặc ở giữa, hoặc ở bên đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là
vô biên. Vì chúng
vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng nói là
vô biên.
Kiều Thi Ca! Vì
pháp môn giải thoát không vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô biên; vì
pháp môn giải thoát vô tướng,
vô nguyện vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô biên. Vì sao? Vì
pháp môn giải thoát không v.v... hoặc ở giữa, hoặc ở bên đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là
vô biên. Vì chúng
vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng nói là
vô biên.
Kiều Thi Ca! Vì
năm loại mắt vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô biên; vì sáu phép
thần thông vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô biên. Vì sao? Vì
năm loại mắt v.v... hoặc ở giữa, hoặc ở bên đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là
vô biên. Vì chúng
vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng nói là
vô biên.
Kiều Thi Ca! Vì
mười lực của Phật
vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô biên; vì bốn điều không sợ, bốn sự
hiểu biết thông suốt,
đại từ,
đại bi,
đại hỷ,
đại xả, mười
tám pháp Phật
bất cộng vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô biên. Vì sao? Vì
mười lực của Phật v.v... hoặc ở giữa, hoặc ở bên đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là
vô biên. Vì chúng
vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng nói là
vô biên.
Kiều Thi Ca! Vì
pháp không quên mất
vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô biên; vì tánh luôn luôn xả
vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô biên. Vì sao? Vì
pháp không quên mất v.v... hoặc ở giữa, hoặc ở bên đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là
vô biên. Vì chúng
vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng nói là
vô biên.
Kiều Thi Ca! Vì trí
nhất thiết vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô biên; vì trí đạo tướng, trí
nhất thiết tướng
vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô biên. Vì sao? Vì trí
nhất thiết v.v... hoặc ở giữa, hoặc ở bên đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là
vô biên. Vì chúng
vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng nói là
vô biên.
Kiều Thi Ca! Vì tất cả
pháp môn Đà-la-ni
vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô biên; vì tất cả
pháp môn Tam-ma-địa
vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô biên. Vì sao? Vì tất cả
pháp môn Đà-la-ni v.v... hoặc ở giữa, hoặc ở bên đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là
vô biên. Vì chúng
vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng nói là
vô biên.
Kiều Thi Ca! Vì Dự-lưu
vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô biên; vì Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán
vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô biên. Vì sao? Vì Dự-lưu v.v... hoặc ở giữa, hoặc ở bên đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là
vô biên. Vì chúng
vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng nói là
vô biên.
Kiều Thi Ca! Vì Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả
vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô biên; vì Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả
vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô biên. Vì sao? Vì Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả v.v... hoặc ở giữa, hoặc ở bên đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là
vô biên. Vì chúng
vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng nói là
vô biên.
Kiều Thi Ca! Vì Độc-giác
vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô biên; vì
quả vị Độc-giác
vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô biên. Vì sao? Vì Độc-giác v.v... hoặc ở giữa, hoặc ở bên đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là
vô biên. Vì chúng
vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng nói là
vô biên.
Kiều Thi Ca! Vì đại Bồ-tát
vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô biên; vì Tam-miệu-tam Phật-đà
vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô biên. Vì sao? Vì đại Bồ-tát v.v... hoặc ở giữa, hoặc ở bên đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là
vô biên. Vì chúng
vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng nói là
vô biên.
Kiều Thi Ca! Vì pháp của đại Bồ-tát
vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô biên; vì
quả vị giác ngộ cao tột
vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô biên. Vì sao? Vì pháp của đại Bồ-tát v.v... hoặc ở giữa, hoặc ở bên đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là
vô biên. Vì chúng
vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng nói là
vô biên.
Kiều Thi Ca! Vì Thanh-văn thừa
vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô biên; vì Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa
vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô biên. Vì sao? Vì Thanh-văn thừa v.v... hoặc ở giữa, hoặc ở bên đều chẳng thể nắm bắt được nên nói là
vô biên. Vì chúng
vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng nói là
vô biên.
Kiều Thi Ca! Do
duyên cớ này nên tôi nói, vì sắc v.v...
vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô biên.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Vì
sở duyên là
vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô biên.
Khi ấy,
trời Đế Thích hỏi
Thiện Hiện: Bạch Đại đức! Vì sao vì
sở duyên là
vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng vô biên?
Thiện Hiện đáp: Kiều Thi Ca! Vì
sở duyên của trí
nhất thiết trí là
vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô biên.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Vì
sở duyên của
pháp giới là
vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô biên.
Khi ấy,
trời Đế Thích hỏi
Thiện Hiện: Bạch Đại đức! Vì sao vì
sở duyên của
pháp giới là
vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng vô biên?
Thiện Hiện đáp: Kiều Thi Ca! Vì
pháp giới vô biên nên
sở duyên cũng
vô biên. Vì
sở duyên vô biên nên
pháp giới cũng
vô biên. Vì
sở duyên của
pháp giới vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô biên.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Vì
sở duyên của
chơn như là
vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô biên.
Khi ấy,
trời Đế Thích hỏi
Thiện Hiện: Bạch Đại đức! Vì sao vì
sở duyên của
chơn như là
vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng vô biên?
Thiện Hiện đáp: Kiều Thi Ca! Vì
chơn như vô biên nên
sở duyên cũng
vô biên. Vì
sở duyên vô biên nên
chơn như cũng
vô biên. Vì
sở duyên của
chơn như vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô biên.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Vì
hữu tình vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô biên.
Khi ấy,
trời Đế Thích hỏi
Thiện Hiện: Vì sao vì
hữu tình vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng vô biên?
Thiện Hiện đáp: Kiều Thi Ca! Theo ý ông thì sao, nói
hữu tình thì
hữu tình ấy là loại
giả pháp nào?
Trời Đế Thích đáp: Bạch Đại đức! Nói là
hữu tình, thì
hữu tình ấy chẳng phải là
giả pháp cũng chẳng phải là phi
giả pháp, chỉ là
giả lập, thuộc về cái danh tạm, thuộc về cái danh
không thật, thuộc về cái danh không căn cứ.
Thiện Hiện lại hỏi: Kiều Thi Ca! Theo ý ông thì sao, ở trong Bát-nhã-ba-la-mật-đa này,
hữu tình cũng có thật
rõ ràng chăng?
Trời Đế Thích đáp: Bạch Đại đức! Không!
Thiện Hiện bảo: Kiều Thi Ca! Ở trong Bát-nhã-ba-la-mật-đa này,
hữu tình đã chẳng có thật
rõ ràng nên nói là
vô biên, vì chúng ở giữa, ở bên đều chẳng thể nắm bắt được.
Kiều Thi Ca! Theo ý ông thì sao, nếu chư
Như Lai Ứng
Chánh Đẳng Giác trải qua vô số kiếp nói
danh tự của các
hữu tình thì trong đó, có
hữu tình nào có sanh, có diệt chăng?
Trời Đế Thích đáp: Bạch Đại đức! Không! Vì sao? Vì
bản tánh của các
hữu tình là tịnh. Vì từ
bản lai chúng không có
sở hữu.
Thiện Hiện bảo: Kiều Thi Ca! Do
duyên cớ này nên tôi nói: Vì
hữu tình vô biên nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát
tu hành cũng
vô biên.
XXIX. PHẨM
NHIẾP THỌ01
Lúc bấy giờ, trong hội,
trời Đế Thích v.v…
Thiên chúng Phạm Thiên Vương v.v… trong cõi Dục,
chư Thiên và Y-xá-na
Thần Tiên Thiên nữ trong cõi Sắc,
cùng lúc lớn tiếng xướng lên ba lần: Hay thay! Hay thay!
Tôn giả Thiện Hiện nương
thần lực Phật, lấy Phật làm chỗ nương, khéo vì trời người
thế gian chúng tôi mà
phân biệt, khai thị
chánh pháp vi diệu, đó là Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Nếu có Bồ-tát đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa này có khả năng làm như nói không
xa lìa thì
chúng tôi đối với vị ấy
cung kính phụng sự như Phật, như vậy, trong
giáo pháp thậm thâm Bát-nhã-ba-la-mật-đa không có pháp có thể nắm bắt được. Đó là, trong pháp này:
Không có sắc có thể nắm bắt được, không có thọ, tưởng, hành, thức có thể nắm bắt được.
Không có nhãn xứ có thể nắm bắt được, không có nhĩ, tỷ, thiệt, thân,
ý xứ có thể nắm bắt được.
Không có
sắc xứ có thể nắm bắt được, không có thanh, hương, vị, xúc,
pháp xứ có thể nắm bắt được.
Không có
nhãn giới có thể nắm bắt được, không có
sắc giới,
nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm
duyên sanh ra có thể nắm bắt được.
Không có
nhĩ giới có thể nắm bắt được, không có thanh giới,
nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm
duyên sanh ra có thể nắm bắt được.
Không có tỷ giới có thể nắm bắt được, không có
hương giới,
tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm
duyên sanh ra có thể nắm bắt được.
Không có thiệt giới có thể nắm bắt được, không có vị giới,
thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm
duyên sanh ra có thể nắm bắt được.
Không có
thân giới có thể nắm bắt được, không có xúc giới,
thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm
duyên sanh ra có thể nắm bắt được.
Không có
ý giới có thể nắm bắt được, không có
pháp giới,
ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm
duyên sanh ra có thể nắm bắt được.
Không có
địa giới có thể nắm bắt được, không có thủy, hỏa, phong, không,
thức giới có thể nắm bắt được.
Không có
Thánh đế khổ có thể nắm bắt được, không có
thánh đế tập, diệt, đạo có thể nắm bắt được.
Không có
vô minh có thể nắm bắt được, không có hành, thức,
danh sắc,
lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh,
lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não có thể nắm bắt được.
Không có cái không nội có thể nắm bắt được, không có cái không ngoại, cái không
nội ngoại, cái
không không, cái không lớn, cái không
thắng nghĩa, cái
không hữu vi, cái
không vô vi, cái không
rốt ráo, cái
không không biên giới, cái không tản mạn, cái
không không đổi khác, cái không
bản tánh, cái không
tự tướng, cái không
cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái
không không tánh, cái không
tự tánh, cái
không không tánh tự tánh có thể nắm bắt được.
Không có
chơn như có thể nắm bắt được, không có
pháp giới,
pháp tánh, tánh chẳng
hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh
bình đẳng, tánh
ly sanh, định pháp, trụ pháp,
thật tế,
cảnh giới hư không,
cảnh giới bất tư nghì có thể nắm bắt được.
Không có
bố thí Ba-la-mật-đa có thể nắm bắt được, không có
tịnh giới,
an nhẫn,
tinh tấn,
tịnh lự,
Bát-nhã Ba-la-mật-đa có thể nắm bắt được.
Không có bốn
tịnh lự có thể nắm bắt được, không có bốn
vô lượng, bốn
định vô sắc có thể nắm bắt được.
Không có
tám giải thoát có thể nắm bắt được, không có
tám thắng xứ, chín định
thứ đệ,
mười biến xứ có thể nắm bắt được.
Không có bốn niệm trụ có thể nắm bắt được, không có bốn chánh đoạn, bốn
thần túc, năm căn,
năm lực, bảy chi
đẳng giác, tám chi
thánh đạo có thể nắm bắt được.
Không có
pháp môn giải thoát không có thể nắm bắt được, không có
pháp môn giải thoát vô tướng,
vô nguyện có thể nắm bắt được.
Không có
năm loại mắt có thể nắm bắt được, không có sáu phép
thần thông có thể nắm bắt được.
Không có
mười lực của Phật có thể nắm bắt được, không có bốn điều không sợ, bốn sự
hiểu biết thông suốt,
đại từ,
đại bi,
đại hỷ,
đại xả, mười
tám pháp Phật
bất cộng có thể nắm bắt được.
Không có
pháp không quên mất có thể nắm bắt được, không có tánh luôn luôn xả có thể nắm bắt được.
Không có trí
nhất thiết có thể nắm bắt được, không có trí đạo tướng, trí
nhất thiết tướng có thể nắm bắt được.
Không có tất cả
pháp môn Đà-la-ni có thể nắm bắt được, không có tất cả
pháp môn Tam-ma-địa có thể nắm bắt được.
Không có Dự-lưu có thể nắm bắt được, không có Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán có thể nắm bắt được.
Không có Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả có thể nắm bắt được, không có Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả có thể nắm bắt được.
Không có Độc-giác có thể nắm bắt được, không có Độc-giác hướng, Độc-giác quả có thể nắm bắt được.
Không có đại Bồ-tát có thể nắm bắt được, không có Tam-miệu-tam Phật-đà có thể nắm bắt được.
Không có pháp của đại Bồ-tát có thể nắm bắt được, không có
quả vị giác ngộ cao tột có thể nắm bắt được.
Không có Thanh-văn thừa có thể nắm bắt được, không có Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa có thể nắm bắt được.
Tuy không có các
pháp như vậy có thể nắm bắt được nhưng có đặt bày ra
giáo pháp ba thừa, đó là
giáo pháp của Thanh-văn, Độc-giác, Vô-thượng.
Lúc bấy giờ,
Phật bảo chư Thiên Tiên v.v…: Đúng vậy! Đúng vậy! Như các ông đã nói, ở trong
giáo pháp thậm thâm Bát-nhã-ba-la-mật-đa này, tuy không có các pháp sắc v.v… có thể nắm bắt được nhưng có đặt bày ra
giáo pháp của
ba thừa. Nếu có Bồ-tát đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa này lấy
vô sở đắc làm
phương tiện, có khả năng nói như làm không lìa nhau, thì
Thiên Tiên các ngươi đối với Bồ-tát ấy, nên
cung kính phụng sự như Như Lai. Các ngươi nên biết:
Chẳng phải ngay nơi
bố thí Ba-la-mật-đa có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa
bố thí Ba-la-mật-đa có thể đắc
Như Lai; chẳng phải ngay nơi
tịnh giới,
an nhẫn,
tinh tấn,
tịnh lự,
Bát-nhã Ba-la-mật-đa có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa
tịnh giới,
an nhẫn,
tinh tấn,
tịnh lự,
Bát-nhã Ba-la-mật-đa có thể đắc
Như Lai.
Chẳng phải ngay nơi cái không nội có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa cái không nội có thể đắc
Như Lai; chẳng phải ngay nơi cái không ngoại, cái không
nội ngoại, cái
không không, cái không lớn, cái không
thắng nghĩa, cái
không hữu vi, cái
không vô vi, cái không
rốt ráo, cái
không không biên giới, cái không tản mạn, cái
không không đổi khác, cái không
bản tánh, cái không
tự tướng, cái không
cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái
không không tánh, cái không
tự tánh, cái
không không tánh tự tánh có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa cái không ngoại
cho đến cái
không không tánh tự tánh có thể đắc
Như Lai.
Chẳng phải ngay nơi
chơn như có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa
chơn như có thể đắc
Như Lai; chẳng phải ngay nơi
pháp giới,
pháp tánh, tánh chẳng
hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh
bình đẳng, tánh
ly sanh, định pháp, trụ pháp,
thật tế,
cảnh giới hư không,
cảnh giới bất tư nghì có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa
pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì có thể đắc
Như Lai.
Chẳng phải ngay nơi
Thánh đế khổ có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa
Thánh đế khổ có thể đắc
Như Lai; chẳng phải ngay nơi
Thánh đế tập, diệt, đạo có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa
Thánh đế tập, diệt, đạo có thể đắc
Như Lai.
Chẳng phải ngay nơi bốn
tịnh lự có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa bốn
tịnh lự có thể đắc
Như Lai; chẳng phải ngay nơi bốn
vô lượng, bốn
định vô sắc có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa bốn
vô lượng, bốn
định vô sắc có thể đắc
Như Lai.
Chẳng phải ngay nơi
tám giải thoát có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa
tám giải thoát có thể đắc
Như Lai; chẳng phải ngay nơi
tám thắng xứ, chín định
thứ đệ,
mười biến xứ có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa
tám thắng xứ, chín định
thứ đệ,
mười biến xứ có thể đắc
Như Lai.
Chẳng phải ngay nơi bốn niệm trụ có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa bốn niệm trụ có thể đắc
Như Lai; chẳng phải ngay nơi bốn chánh đoạn, bốn
thần túc, năm căn,
năm lực, bảy chi
đẳng giác, tám chi
thánh đạo có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa bốn chánh đoạn, bốn
thần túc, năm căn,
năm lực, bảy chi
đẳng giác, tám chi
thánh đạo có thể đắc
Như Lai.
Chẳng phải ngay nơi
pháp môn giải thoát không có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa
pháp môn giải thoát không có thể đắc
Như Lai; chẳng phải ngay nơi
pháp môn giải thoát vô tướng,
vô nguyện có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa
pháp môn giải thoát vô tướng,
vô nguyện có thể đắc
Như Lai.
Chẳng phải ngay nơi
năm loại mắt có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa
năm loại mắt có thể đắc
Như Lai; chẳng phải ngay nơi sáu phép
thần thông có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa sáu phép
thần thông có thể đắc
Như Lai.
Chẳng phải ngay nơi
mười lực của Phật có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa
mười lực của Phật có thể đắc
Như Lai; chẳng phải ngay nơi bốn điều không sợ, bốn sự
hiểu biết thông suốt,
đại từ,
đại bi,
đại hỷ,
đại xả, mười
tám pháp Phật
bất cộng có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa bốn điều không sợ
cho đến mười
tám pháp Phật
bất cộng có thể đắc
Như Lai.
Chẳng phải ngay nơi
pháp không quên mất có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa
pháp không quên mất có thể đắc
Như Lai; chẳng phải ngay nơi tánh luôn luôn xả có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa tánh luôn luôn xả có thể đắc
Như Lai.
Chẳng phải ngay nơi trí
nhất thiết có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa trí
nhất thiết có thể đắc
Như Lai; chẳng phải ngay nơi trí đạo tướng, trí
nhất thiết tướng có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa trí đạo tướng, trí
nhất thiết tướng có thể đắc
Như Lai.
Chẳng phải ngay nơi tất cả
pháp môn Đà-la-ni có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa tất cả
pháp môn Đà-la-ni có thể đắc
Như Lai; chẳng phải ngay nơi tất cả
pháp môn Tam-ma-địa có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa tất cả
pháp môn Tam-ma-địa có thể đắc
Như Lai.
Chẳng phải ngay nơi Dự-lưu có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa Dự-lưu có thể đắc
Như Lai; chẳng phải ngay nơi Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán có thể đắc
Như Lai.
Chẳng phải ngay nơi Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả có thể đắc
Như Lai; chẳng phải ngay nơi Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa Nhất-lai hướng
cho đến A-la-hán quả có thể đắc
Như Lai.
Chẳng phải ngay nơi Độc-giác có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa Độc-giác có thể đắc
Như Lai; chẳng phải ngay nơi Độc-giác hướng, Độc-giác quả có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa Độc-giác hướng, Độc-giác quả có thể đắc
Như Lai.
Chẳng phải ngay nơi đại Bồ-tát có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa đại Bồ-tát có thể đắc
Như Lai; chẳng phải ngay nơi Tam-miệu-tam Phật-đà có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa Tam-miệu-tam Phật-đà có thể đắc
Như Lai.
Chẳng phải ngay nơi pháp của đại Bồ-tát có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa pháp của đại Bồ-tát có thể đắc
Như Lai; chẳng phải ngay nơi
quả vị giác ngộ cao tột có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa
quả vị giác ngộ cao tột có thể đắc
Như Lai.
Chẳng phải ngay nơi Thanh-văn thừa có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa Thanh-văn thừa có thể đắc
Như Lai; chẳng phải ngay nơi Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa có thể đắc
Như Lai, chẳng phải lìa Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa có thể đắc
Như Lai.
Chư Thiên Tiên! Các ngươi nên biết: Nếu đại Bồ-tát lấy
vô sở đắc làm
phương tiện, thì đối với tất cả pháp luôn luôn
chuyên cần tu học. Đó là:
Học
bố thí Ba-la-mật-đa, học
tịnh giới,
an nhẫn,
tinh tấn,
tịnh lự,
Bát-nhã Ba-la-mật-đa.
Học cái không nội, học cái không ngoại, cái không
nội ngoại, cái
không không, cái không lớn, cái không
thắng nghĩa, cái
không hữu vi, cái
không vô vi, cái không
rốt ráo, cái
không không biên giới, cái không tản mạn, cái
không không đổi khác, cái không
bản tánh, cái không
tự tướng, cái không
cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái
không không tánh, cái không
tự tánh, cái
không không tánh tự tánh.
Học
chơn như, học
pháp giới,
pháp tánh, tánh chẳng
hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh
bình đẳng, tánh
ly sanh, định pháp, trụ pháp,
thật tế,
cảnh giới hư không,
cảnh giới bất tư nghì.
Học chư
Thánh đế.
Học bốn
tịnh lự, học bốn
vô lượng, bốn
định vô sắc.
Học
tám giải thoát, học
tám thắng xứ, chín định
thứ đệ,
mười biến xứ.
Học bốn niệm trụ, học bốn chánh đoạn, bốn
thần túc, năm căn,
năm lực, bảy chi
đẳng giác, tám chi
thánh đạo.
Học
pháp môn giải thoát không, học
pháp môn giải thoát vô tướng,
vô nguyện.
Học
năm loại mắt, học sáu phép
thần thông.
Học
mười lực của Phật, học bốn điều không sợ, bốn sự
hiểu biết thông suốt,
đại từ,
đại bi,
đại hỷ,
đại xả, mười
tám pháp Phật
bất cộng.
Học
pháp không quên mất, học tánh luôn luôn xả.
Học trí
nhất thiết, học trí đạo tướng, trí
nhất thiết tướng.
Học tất cả
pháp môn Đà-la-ni, học tất cả
pháp môn Tam-ma-địa.
Học Dự-lưu, học Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán.
Học Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả, học Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả.
Học Độc-giác, học Độc-giác hướng, Độc-giác quả.
Học đại Bồ-tát, học Tam-miệu-tam Phật-đà.
Học pháp của đại Bồ-tát, học
quả vị giác ngộ cao tột.
Học Thanh-văn thừa, học Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa.
Đại Bồ-tát học như vậy nên đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa luôn luôn
chuyên nhất tu hành không
xao lãng.
Vì vậy nên các ngươi đối với Bồ-tát ấy phải nên
cung kính,
phụng sự giống
như Như Lai. Các ông nên biết, thuở xưa, thời
đức Nhiên Đăng
Như Lai, Ứng
Chánh Đẳng Giác xuất hiện ở
thế gian, ở đầu ngã tư đường, trong thành Chúng hoa, thấy Phật Nhiên Đăng, ta trải năm cành hoa và xỏa tóc trên bùn, cầu
nghe pháp vô thượng. Nhờ lấy
vô sở đắc làm
phương tiện, nên được:
Chẳng lìa
bố thí Ba-la-mật-đa, chẳng lìa
tịnh giới Ba-la-mật-đa, chẳng lìa
an nhẫn Ba-la-mật-đa, chẳng lìa
tinh tấn Ba-la-mật-đa, chẳng lìa
tịnh lự Ba-la-mật-đa, chẳng lìa
Bát-nhã Ba-la-mật-đa.
Chẳng lìa cái không nội, chẳng lìa cái không ngoại, cái không
nội ngoại, cái
không không, cái không lớn, cái không
thắng nghĩa, cái
không hữu vi, cái
không vô vi, cái không
rốt ráo, cái
không không biên giới, cái không tản mạn, cái
không không đổi khác, cái không
bản tánh, cái không
tự tướng, cái không
cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái
không không tánh, cái không
tự tánh, cái
không không tánh tự tánh.
Chẳng lìa
chơn như, chẳng lìa
pháp giới,
pháp tánh, tánh chẳng
hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh
bình đẳng, tánh
ly sanh, định pháp, trụ pháp,
thật tế,
cảnh giới hư không,
cảnh giới bất tư nghì.
Chẳng lìa chư
Thánh đế.
Chẳng lìa bốn
tịnh lự, chẳng lìa bốn
vô lượng, bốn
định vô sắc.
Chẳng lìa
tám giải thoát, chẳng lìa
tám thắng xứ, chín định
thứ đệ,
mười biến xứ.
Chẳng lìa bốn niệm trụ, chẳng lìa bốn chánh đoạn, bốn
thần túc, năm căn,
năm lực, bảy chi
đẳng giác, tám chi
thánh đạo.
Chẳng lìa
pháp môn giải thoát không, chẳng lìa
pháp môn giải thoát vô tướng,
vô nguyện.
Chẳng lìa
năm loại mắt, chẳng lìa sáu phép
thần thông.
Chẳng lìa
mười lực của Phật, chẳng lìa bốn điều không sợ, bốn sự
hiểu biết thông suốt,
đại từ,
đại bi,
đại hỷ,
đại xả, mười
tám pháp Phật
bất cộng.
Chẳng lìa
pháp không quên mất, chẳng lìa tánh luôn luôn xả.
Chẳng lìa trí
nhất thiết, chẳng lìa trí đạo tướng, trí
nhất thiết tướng.
Chẳng lìa tất cả
pháp môn Đà-la-ni, chẳng lìa tất cả
pháp môn Tam-ma-địa.
Chẳng lìa
vô lượng Phật Pháp khác.
Khi ấy, Phật Nhiên Đăng liền
thọ ký cho ta
đắc quả vị giác ngộ cao tột, nói rằng:
Thiện nam tử! Vào đời
vị lai,
trải qua một
vô số đại kiếp, ở trong
hiền kiếp thế giới này, người sẽ đắc
thành quả Phật, hiệu là
Năng Tịch Như Lai, Ứng Chắng
Đẳng Giác,
Minh Hành Viên Mãn,
Thiện Thệ,
Thế Gian Giải,
Vô Thượng Trượng Phu,
Điều Ngự Sĩ,
Thiên Nhơn Sư, Phật, Bạc-già-phạm.
Khi ấy,
chư Thiên Tiên v.v…
bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy rất là
hy hữu, khiến các chúng đại Bồ-tát nhanh chóng có thể
nhiếp thủ trí
nhất thiết trí, vì lấy
vô sở đắc làm
phương tiện. Đó là:
Đối với sắc, chẳng thủ chẳng xả làm
phương tiện; đối với thọ, tưởng, hành, thức, chẳng thủ, chẳng xả làm
phương tiện.
Đối với nhãn xứ, chẳng thủ chẳng xả làm
phương tiện; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân,
ý xứ, chẳng thủ, chẳng xả làm
phương tiện.
Đối với
sắc xứ, chẳng thủ chẳng xả làm
phương tiện; đối với thanh, hương, vị, xúc,
pháp xứ, chẳng thủ, chẳng xả làm
phương tiện.
Đối với
nhãn giới, chẳng thủ chẳng xả làm
phương tiện; đối với
sắc giới,
nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm
duyên sanh ra, chẳng thủ, chẳng xả làm
phương tiện.
Đối với
nhĩ giới, chẳng thủ chẳng xả làm
phương tiện; đối với thanh giới,
nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm
duyên sanh ra, chẳng thủ, chẳng xả làm
phương tiện.
Đối với tỷ giới, chẳng thủ chẳng xả làm
phương tiện; đối với
hương giới,
tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm
duyên sanh ra, chẳng thủ, chẳng xả làm
phương tiện.
Đối với thiệt giới, chẳng thủ chẳng xả làm
phương tiện; đối với vị giới,
thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm
duyên sanh ra, chẳng thủ, chẳng xả làm
phương tiện.
Đối với
thân giới, chẳng thủ chẳng xả làm
phương tiện; đối với xúc giới,
thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm
duyên sanh ra, chẳng thủ, chẳng xả làm
phương tiện.
Đối với
ý giới, chẳng thủ chẳng xả làm
phương tiện; đối với
pháp giới,
ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm
duyên sanh ra, chẳng thủ, chẳng xả làm
phương tiện.
Đối với
địa giới, chẳng thủ chẳng xả làm
phương tiện; đối với thủy, hỏa, phong, không,
thức giới, chẳng thủ, chẳng xả làm
phương tiện.
Đối với
Thánh đế khổ, chẳng thủ chẳng xả làm
phương tiện; đối với
thánh đế tập, diệt, đạo, chẳng thủ, chẳng xả làm
phương tiện.
Đối với
vô minh, chẳng thủ chẳng xả làm
phương tiện; đối với hành, thức,
danh sắc,
lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh,
lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não, chẳng thủ, chẳng xả làm
phương tiện.
Đối với cái không nội, chẳng thủ chẳng xả làm
phương tiện; đối với cái không ngoại, cái không
nội ngoại, cái
không không, cái không lớn, cái không
thắng nghĩa, cái
không hữu vi, cái
không vô vi, cái không
rốt ráo, cái
không không biên giới, cái không tản mạn, cái
không không đổi khác, cái không
bản tánh, cái không
tự tướng, cái không
cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái
không không tánh, cái không
tự tánh, cái
không không tánh tự tánh, chẳng thủ, chẳng xả làm
phương tiện.
Đối với
chơn như, chẳng thủ chẳng xả làm
phương tiện; đối với
pháp giới,
pháp tánh, tánh chẳng
hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh
bình đẳng, tánh
ly sanh, định pháp, trụ pháp,
thật tế,
cảnh giới hư không,
cảnh giới bất tư nghì, chẳng thủ, chẳng xả làm
phương tiện.
Đối với
bố thí Ba-la-mật-đa, chẳng thủ chẳng xả làm
phương tiện; đối với
tịnh giới,
an nhẫn,
tinh tấn,
tịnh lự,
Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng thủ, chẳng xả làm
phương tiện.
Đối với bốn
tịnh lự, chẳng thủ chẳng xả làm
phương tiện; đối với bốn
vô lượng, bốn
định vô sắc, chẳng thủ, chẳng xả làm
phương tiện.
Đối với
tám giải thoát, chẳng thủ chẳng xả làm
phương tiện; đối với
tám thắng xứ, chín định
thứ đệ,
mười biến xứ, chẳng thủ, chẳng xả làm
phương tiện.
Đối với bốn niệm trụ, chẳng thủ chẳng xả làm
phương tiện; đối với bốn chánh đoạn, bốn
thần túc, năm căn,
năm lực, bảy chi
đẳng giác, tám chi
thánh đạo, chẳng thủ, chẳng xả làm
phương tiện.
Đối với
pháp môn giải thoát không chẳng thủ, chẳng xả làm
phương tiện; đối với
pháp môn giải thoát vô tướng,
vô nguyện, chẳng thủ, chẳng xả làm
phương tiện.
Đối với
năm loại mắt, chẳng thủ chẳng xả làm
phương tiện; đối với sáu phép
thần thông, chẳng thủ, chẳng xả làm
phương tiện.
Đối với
mười lực của Phật, chẳng thủ chẳng xả làm
phương tiện; đối với bốn điều không sợ, bốn sự
hiểu biết thông suốt,
đại từ,
đại bi,
đại hỷ,
đại xả, mười
tám pháp Phật
bất cộng, chẳng thủ, chẳng xả làm
phương tiện.
Đối với
pháp không quên mất, chẳng thủ chẳng xả làm
phương tiện; đối với tánh luôn luôn xả, chẳng thủ, chẳng xả làm
phương tiện.
Đối với trí
nhất thiết, chẳng thủ chẳng xả làm
phương tiện; đối với trí đạo tướng, trí
nhất thiết tướng, chẳng thủ, chẳng xả làm
phương tiện.
Đối với tất cả
pháp môn Đà-la-ni, chẳng thủ chẳng xả làm
phương tiện; đối với tất cả
pháp môn Tam-ma-địa, chẳng thủ, chẳng xả làm
phương tiện.
Đối với Dự-lưu, chẳng thủ chẳng xả làm
phương tiện; đối với Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán, chẳng thủ, chẳng xả làm
phương tiện.
Đối với Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả, chẳng thủ chẳng xả làm
phương tiện; đối với Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả, chẳng thủ, chẳng xả làm
phương tiện.
Đối với Độc-giác, chẳng thủ chẳng xả làm
phương tiện; đối với Độc-giác hướng, Độc-giác quả, chẳng thủ, chẳng xả làm
phương tiện.
Đối với đại Bồ-tát, chẳng thủ chẳng xả làm
phương tiện; đối với Tam-miệu-tam Phật-đà, chẳng thủ, chẳng xả làm
phương tiện.
Đối với pháp của đại Bồ-tát, chẳng thủ chẳng xả làm
phương tiện; đối với
quả vị giác ngộ cao tột, chẳng thủ, chẳng xả làm
phương tiện.
Đối với Thanh-văn thừa, chẳng thủ chẳng xả làm
phương tiện; đối với Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa, chẳng thủ, chẳng xả làm
phương tiện.
Quyển Thứ 99
HẾT
02
Lúc bấy giờ,
đức Thế Tôn biết rõ
bốn chúng, đó là: Bí-sô, Bí-sô-ni, Ô-ba-sách-ca, Ô-ba-tư-ca và đại Bồ-tát cùng với
bốn đại vương,
thiên chúng, trời Ba-mươi-ba, trời Dạ-mạ, trời Đổ-sử-đa, trời Lạc-biến-hóa, trời Tha-hóa-tự-tại, trời Phạm-chúng, trời Phạm-phụ, trời Phạm-hội, trời Đại-phạm, trời Quang, trời Thiểu-quang, trời Vô-lượng-quang, trời Cực-quang-tịnh, trời Tịnh, trời Thiểu-tịnh, trời Vô-lượng-tịnh, trời Biến-tịnh, trời Quảng, trời Thiểu-quảng, trời Vô-lượng-quảng, trời Quảng-quả, trời Vô-phiền, trời Vô-nhiệt, trời Thiện-hiện, trời Thiện-kiến, trời Sắc-cứu-cánh, đều tập
hợp hòa hiệp để làm chúng, liền bảo
trời Đế Thích:
Kiều Thi Ca! Hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bí-sô, Bí-sô-ni, Ô-ba-sách-ca, Ô-ba-tư-ca, hoặc các
Thiên tử, hoặc các
Thiên nữ, hoặc
thiện nam tử, hoặc
thiện nữ nhơn, chẳng lìa tâm của trí
nhất thiết trí, lấy
vô sở đắc làm
phương tiện, đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa này,
thọ trì,
đọc tụng,
tinh cần tu tập, như lý
tư duy, vì người
diễn thuyết,
truyền bá rộng rãi, nên biết những người ấy không bị các
ác ma vương và
quyến thuộc của ma có thể làm
não hại được. Vì sao? Kiều Thi Ca!
Thiện nam tử,
thiện nữ nhơn v.v… ấy khéo an trụ không,
vô tướng,
vô nguyện của sắc; khéo an trụ không,
vô tướng,
vô nguyện của thọ, tưởng, hành, thức, chẳng thể dùng cái không để
đạt được sự
thông suốt của không, chẳng thể dùng cái
vô tướng để
đạt được sự
thông suốt của
vô tướng, chẳng thể dùng cái
vô nguyện để
đạt được sự
thông suốt của
vô nguyện. Vì sao? Vì
sắc uẩn v.v…
tự tánh đều là không, nên người
não hại, kẻ bị
não hại, sự
não hại, chẳng thể nắm bắt được.
Kiều Thi Ca!
Thiện nam tử,
thiện nữ nhơn v.v… ấy, khéo an trụ không,
vô tướng,
vô nguyện của nhãn xứ; khéo an trụ không,
vô tướng,
vô nguyện của nhĩ, tỷ, thiệt, thân,
ý xứ, chẳng thể dùng không để
đạt được sự
thông suốt của không, chẳng thể dùng
vô tướng để
đạt được sự
thông suốt của
vô tướng, chẳng thể dùng
vô nguyện để
đạt được sự
thông suốt của
vô nguyện. Vì sao? Vì nhãn xứ v.v...
tự tánh của chúng đều là không, nên người
não hại, kẻ bị
não hại và sự
não hại, chẳng thể nắm bắt được.
Kiều Thi Ca!
Thiện nam tử,
thiện nữ nhơn v.v… ấy, khéo an trụ không,
vô tướng,
vô nguyện của
sắc xứ; khéo an trụ không,
vô tướng,
vô nguyện của thanh, hương, vị, xúc,
pháp xứ, chẳng thể dùng không để
đạt được sự
thông suốt của không, chẳng thể dùng
vô tướng để
đạt được sự
thông suốt của
vô tướng, chẳng thể dùng
vô nguyện để
đạt được sự
thông suốt của
vô nguyện. Vì sao? Vì
sắc xứ v.v...
tự tánh của chúng đều là không, nên người
não hại, kẻ bị
não hại và sự
não hại, chẳng thể nắm bắt được.
Kiều Thi Ca!
Thiện nam tử,
thiện nữ nhơn v.v… ấy, khéo an trụ không,
vô tướng,
vô nguyện của
nhãn giới; khéo an trụ không,
vô tướng,
vô nguyện của
sắc giới,
nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm
duyên sanh ra, chẳng thể dùng không để
đạt được sự
thông suốt của không, chẳng thể dùng
vô tướng để
đạt được sự
thông suốt của
vô tướng, chẳng thể dùng
vô nguyện để
đạt được sự
thông suốt của
vô nguyện. Vì sao? Vì
nhãn giới v.v...
tự tánh của chúng đều là không, nên người
não hại, kẻ bị
não hại và sự
não hại, chẳng thể nắm bắt được.
Kiều Thi Ca!
Thiện nam tử,
thiện nữ nhơn v.v… ấy, khéo an trụ không,
vô tướng,
vô nguyện của
nhĩ giới; khéo an trụ không,
vô tướng,
vô nguyện của thanh giới,
nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm
duyên sanh ra, chẳng thể dùng không để
đạt được sự
thông suốt của không, chẳng thể dùng
vô tướng để
đạt được sự
thông suốt của
vô tướng, chẳng thể dùng
vô nguyện để
đạt được sự
thông suốt của
vô nguyện. Vì sao? Vì
nhĩ giới v.v...
tự tánh của chúng đều là không, nên người
não hại, kẻ bị
não hại và sự
não hại, chẳng thể nắm bắt được.
Kiều Thi Ca!
Thiện nam tử,
thiện nữ nhơn v.v… ấy, khéo an trụ không,
vô tướng,
vô nguyện của tỷ giới; khéo an trụ không,
vô tướng,
vô nguyện của
hương giới,
tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm
duyên sanh ra, chẳng thể dùng không để
đạt được sự
thông suốt của không, chẳng thể dùng
vô tướng để
đạt được sự
thông suốt của
vô tướng, chẳng thể dùng
vô nguyện để
đạt được sự
thông suốt của
vô nguyện. Vì sao? Vì tỷ giới v.v...
tự tánh của chúng đều là không, nên người
não hại, kẻ bị
não hại và sự
não hại, chẳng thể nắm bắt được.
Kiều Thi Ca!
Thiện nam tử,
thiện nữ nhơn v.v… ấy, khéo an trụ không,
vô tướng,
vô nguyện của thiệt giới; khéo an trụ không,
vô tướng,
vô nguyện của vị giới,
thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm
duyên sanh ra, chẳng thể dùng không để
đạt được sự
thông suốt của không, chẳng thể dùng
vô tướng để
đạt được sự
thông suốt của
vô tướng, chẳng thể dùng
vô nguyện để
đạt được sự
thông suốt của
vô nguyện. Vì sao? Vì thiệt giới v.v...
tự tánh của chúng đều là không, nên người
não hại, kẻ bị
não hại và sự
não hại, chẳng thể nắm bắt được.
Kiều Thi Ca!
Thiện nam tử,
thiện nữ nhơn v.v… ấy, khéo an trụ không,
vô tướng,
vô nguyện của
thân giới; khéo an trụ không,
vô tướng,
vô nguyện của xúc giới,
thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm
duyên sanh ra, chẳng thể dùng không để
đạt được sự
thông suốt của không, chẳng thể dùng
vô tướng để
đạt được sự
thông suốt của
vô tướng, chẳng thể dùng
vô nguyện để
đạt được sự
thông suốt của
vô nguyện. Vì sao? Vì
thân giới v.v...
tự tánh của chúng đều là không, nên người
não hại, kẻ bị
não hại và sự
não hại, chẳng thể nắm bắt được.
Kiều Thi Ca!
Thiện nam tử,
thiện nữ nhơn v.v… ấy, khéo an trụ không,
vô tướng,
vô nguyện của
ý giới; khéo an trụ không,
vô tướng,
vô nguyện của
pháp giới,
ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm
duyên sanh ra, chẳng thể dùng không để
đạt được sự
thông suốt của không, chẳng thể dùng
vô tướng để
đạt được sự
thông suốt của
vô tướng, chẳng thể dùng
vô nguyện để
đạt được sự
thông suốt của
vô nguyện. Vì sao? Vì
ý giới v.v...
tự tánh của chúng đều là không, nên người
não hại, kẻ bị
não hại và sự
não hại, chẳng thể nắm bắt được.
Kiều Thi Ca!
Thiện nam tử,
thiện nữ nhơn v.v… ấy, khéo an trụ không,
vô tướng,
vô nguyện của
địa giới; khéo an trụ không,
vô tướng,
vô nguyện của thủy, hỏa, phong, không,
thức giới, chẳng thể dùng không để
đạt được sự
thông suốt của không, chẳng thể dùng
vô tướng để
đạt được sự
thông suốt của
vô tướng, chẳng thể dùng
vô nguyện để
đạt được sự
thông suốt của
vô nguyện. Vì sao? Vì
địa giới v.v...
tự tánh của chúng đều là không, nên người
não hại, kẻ bị
não hại và sự
não hại, chẳng thể nắm bắt được.
Kiều Thi Ca!
Thiện nam tử,
thiện nữ nhơn v.v… ấy, khéo an trụ không,
vô tướng,
vô nguyện của
Thánh đế khổ; khéo an trụ không,
vô tướng,
vô nguyện của
thánh đế tập, diệt, đạo, chẳng thể dùng không để
đạt được sự
thông suốt của không, chẳng thể dùng
vô tướng để
đạt được sự
thông suốt của
vô tướng, chẳng thể dùng
vô nguyện để
đạt được sự
thông suốt của
vô nguyện. Vì sao? Vì
Thánh đế khổ v.v...
tự tánh của chúng đều là không, nên người
não hại, kẻ bị
não hại và sự
não hại, chẳng thể nắm bắt được.
Kiều Thi Ca!
Thiện nam tử,
thiện nữ nhơn v.v… ấy, khéo an trụ không,
vô tướng,
vô nguyện của
vô minh; khéo an trụ không,
vô tướng,
vô nguyện của hành, thức,
danh sắc,
lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh,
lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não, chẳng thể dùng không để
đạt được sự
thông suốt của không, chẳng thể dùng
vô tướng để
đạt được sự
thông suốt của
vô tướng, chẳng thể dùng
vô nguyện để
đạt được sự
thông suốt của
vô nguyện. Vì sao? Vì
vô minh v.v...
tự tánh của chúng đều là không, nên người
não hại, kẻ bị
não hại và sự
não hại, chẳng thể nắm bắt được.
Kiều Thi Ca!
Thiện nam tử,
thiện nữ nhơn v.v… ấy, khéo an trụ không,
vô tướng,
vô nguyện của cái không nội; khéo an trụ không,
vô tướng,
vô nguyện của cái không ngoại, cái không
nội ngoại, cái
không không, cái không lớn, cái không
thắng nghĩa, cái
không hữu vi, cái
không vô vi, cái không
rốt ráo, cái
không không biên giới, cái không tản mạn, cái
không không đổi khác, cái không
bản tánh, cái không
tự tướng, cái không
cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái
không không tánh, cái không
tự tánh, cái
không không tánh tự tánh, chẳng thể dùng không để
đạt được sự
thông suốt của không, chẳng thể dùng
vô tướng để
đạt được sự
thông suốt của
vô tướng, chẳng thể dùng
vô nguyện để
đạt được sự
thông suốt của
vô nguyện. Vì sao? Vì cái không nội v.v...
tự tánh của chúng đều là không, nên người
não hại, kẻ bị
não hại và sự
não hại, chẳng thể nắm bắt được.
Kiều Thi Ca!
Thiện nam tử,
thiện nữ nhơn v.v… ấy, khéo an trụ không,
vô tướng,
vô nguyện của
chơn như; khéo an trụ không,
vô tướng,
vô nguyện của
pháp giới,
pháp tánh, tánh chẳng
hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh
bình đẳng, tánh
ly sanh, định pháp, trụ pháp,
thật tế,
cảnh giới hư không,
cảnh giới bất tư nghì, chẳng thể dùng không để
đạt được sự
thông suốt của không, chẳng thể dùng
vô tướng để
đạt được sự
thông suốt của
vô tướng, chẳng thể dùng
vô nguyện để
đạt được sự
thông suốt của
vô nguyện. Vì sao? Vì
chơn như v.v...
tự tánh của chúng đều là không, nên người
não hại, kẻ bị
não hại và sự
não hại, chẳng thể nắm bắt được.
Kiều Thi Ca!
Thiện nam tử,
thiện nữ nhơn v.v… ấy, khéo an trụ không,
vô tướng,
vô nguyện của bố thí Ba-la-mật-đa; khéo an trụ không,
vô tướng,
vô nguyện của
tịnh giới,
an nhẫn,
tinh tấn,
tịnh lự,
Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng thể dùng không để
đạt được sự
thông suốt của không, chẳng thể dùng
vô tướng để
đạt được sự
thông suốt của
vô tướng, chẳng thể dùng
vô nguyện để
đạt được sự
thông suốt của
vô nguyện. Vì sao? Vì
bố thí Ba-la-mật-đa v.v...
tự tánh của chúng đều là không, nên người
não hại, kẻ bị
não hại và sự
não hại, chẳng thể nắm bắt được.
Kiều Thi Ca!
Thiện nam tử,
thiện nữ nhơn v.v… ấy, khéo an trụ không,
vô tướng,
vô nguyện của bốn
tịnh lự; khéo an trụ không,
vô tướng,
vô nguyện của bốn
vô lượng, bốn
định vô sắc, chẳng thể dùng không để
đạt được sự
thông suốt của không, chẳng thể dùng
vô tướng để
đạt được sự
thông suốt của
vô tướng, chẳng thể dùng
vô nguyện để
đạt được sự
thông suốt của
vô nguyện. Vì sao? Vì bốn
tịnh lự v.v...
tự tánh của chúng đều là không, nên người
não hại, kẻ bị
não hại và sự
não hại, chẳng thể nắm bắt được.
Kiều Thi Ca!
Thiện nam tử,
thiện nữ nhơn v.v… ấy, khéo an trụ không,
vô tướng,
vô nguyện của
tám giải thoát; khéo an trụ không,
vô tướng,
vô nguyện của
tám thắng xứ, chín định
thứ đệ,
mười biến xứ, chẳng thể dùng không để
đạt được sự
thông suốt của không, chẳng thể dùng
vô tướng để
đạt được sự
thông suốt của
vô tướng, chẳng thể dùng
vô nguyện để
đạt được sự
thông suốt của
vô nguyện. Vì sao? Vì
tám giải thoát v.v...
tự tánh của chúng đều là không, nên người
não hại, kẻ bị
não hại và sự
não hại, chẳng thể nắm bắt được.
Kiều Thi Ca!
Thiện nam tử,
thiện nữ nhơn v.v… ấy, khéo an trụ không,
vô tướng,
vô nguyện của bốn niệm trụ; khéo an trụ không,
vô tướng,
vô nguyện của bốn chánh đoạn, bốn
thần túc, năm căn,
năm lực, bảy chi
đẳng giác, tám chi
thánh đạo, chẳng thể dùng không để
đạt được sự
thông suốt của không, chẳng thể dùng
vô tướng để
đạt được sự
thông suốt của
vô tướng, chẳng thể dùng
vô nguyện để
đạt được sự
thông suốt của
vô nguyện. Vì sao? Vì bốn niệm trụ v.v...
tự tánh của chúng đều là không, nên người
não hại, kẻ bị
não hại và sự
não hại, chẳng thể nắm bắt được.
Kiều Thi Ca!
Thiện nam tử,
thiện nữ nhơn v.v… ấy, khéo an trụ không,
vô tướng,
vô nguyện của
pháp môn giải thoát không; khéo an trụ không,
vô tướng,
vô nguyện của
pháp môn giải thoát vô tướng,
vô nguyện, chẳng thể dùng không để
đạt được sự
thông suốt của không, chẳng thể dùng
vô tướng để
đạt được sự
thông suốt của
vô tướng, chẳng thể dùng
vô nguyện để
đạt được sự
thông suốt của
vô nguyện. Vì sao? Vì
pháp môn giải thoát không v.v...
tự tánh của chúng đều là không, nên người
não hại, kẻ bị
não hại và sự
não hại, chẳng thể nắm bắt được.
Kiều Thi Ca!
Thiện nam tử,
thiện nữ nhơn v.v… ấy, khéo an trụ không,
vô tướng,
vô nguyện của
năm loại mắt; khéo an trụ không,
vô tướng,
vô nguyện của sáu phép
thần thông, chẳng thể dùng không để
đạt được sự
thông suốt của không, chẳng thể dùng
vô tướng để
đạt được sự
thông suốt của
vô tướng, chẳng thể dùng
vô nguyện để
đạt được sự
thông suốt của
vô nguyện. Vì sao? Vì
năm loại mắt v.v...
tự tánh của chúng đều là không, nên người
não hại, kẻ bị
não hại và sự
não hại, chẳng thể nắm bắt được.
Kiều Thi Ca!
Thiện nam tử,
thiện nữ nhơn v.v… ấy, khéo an trụ không,
vô tướng,
vô nguyện của
mười lực của Phật; khéo an trụ không,
vô tướng,
vô nguyện của bốn điều không sợ, bốn sự
hiểu biết thông suốt,
đại từ,
đại bi,
đại hỷ,
đại xả, mười
tám pháp Phật
bất cộng, chẳng thể dùng không để
đạt được sự
thông suốt của không, chẳng thể dùng
vô tướng để
đạt được sự
thông suốt của
vô tướng, chẳng thể dùng
vô nguyện để
đạt được sự
thông suốt của
vô nguyện. Vì sao? Vì
mười lực của Phật v.v...
tự tánh của chúng đều là không, nên người
não hại, kẻ bị
não hại và sự
não hại, chẳng thể nắm bắt được.
Kiều Thi Ca!
Thiện nam tử,
thiện nữ nhơn v.v… ấy, khéo an trụ không,
vô tướng,
vô nguyện của
pháp không quên mất; khéo an trụ không,
vô tướng,
vô nguyện của tánh luôn luôn xả, chẳng thể dùng không để
đạt được sự
thông suốt của không, chẳng thể dùng
vô tướng để
đạt được sự
thông suốt của
vô tướng, chẳng thể dùng
vô nguyện để
đạt được sự
thông suốt của
vô nguyện. Vì sao? Vì
pháp không quên mất v.v...
tự tánh của chúng đều là không, nên người
não hại, kẻ bị
não hại và sự
não hại, chẳng thể nắm bắt được.
Kiều Thi Ca!
Thiện nam tử,
thiện nữ nhơn v.v… ấy, khéo an trụ không,
vô tướng,
vô nguyện của trí
nhất thiết; khéo an trụ không,
vô tướng,
vô nguyện của trí đạo tướng, trí
nhất thiết tướng, chẳng thể dùng không để
đạt được sự
thông suốt của không, chẳng thể dùng
vô tướng để
đạt được sự
thông suốt của
vô tướng, chẳng thể dùng
vô nguyện để
đạt được sự
thông suốt của
vô nguyện. Vì sao? Vì trí
nhất thiết v.v...
tự tánh của chúng đều là không, nên người
não hại, kẻ bị
não hại và sự
não hại, chẳng thể nắm bắt được.
Kiều Thi Ca!
Thiện nam tử,
thiện nữ nhơn v.v… ấy, khéo an trụ không,
vô tướng,
vô nguyện của tất cả
pháp môn Đà-la-ni; khéo an trụ không,
vô tướng,
vô nguyện của tất cả
pháp môn Tam-ma-địa, chẳng thể dùng không để
đạt được sự
thông suốt của không, chẳng thể dùng
vô tướng để
đạt được sự
thông suốt của
vô tướng, chẳng thể dùng
vô nguyện để
đạt được sự
thông suốt của
vô nguyện. Vì sao? Vì tất cả
pháp môn Đà-la-ni v.v...
tự tánh của chúng đều là không, nên người
não hại, kẻ bị
não hại và sự
não hại, chẳng thể nắm bắt được.
Kiều Thi Ca!
Thiện nam tử,
thiện nữ nhơn v.v… ấy, khéo an trụ không,
vô tướng,
vô nguyện của Dự-lưu; khéo an trụ không,
vô tướng,
vô nguyện của Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán, chẳng thể dùng không để
đạt được sự
thông suốt của không, chẳng thể dùng
vô tướng để
đạt được sự
thông suốt của
vô tướng, chẳng thể dùng
vô nguyện để
đạt được sự
thông suốt của
vô nguyện. Vì sao? Vì Dự-lưu v.v...
tự tánh của chúng đều là không, nên người
não hại, kẻ bị
não hại và sự
não hại, chẳng thể nắm bắt được.
Kiều Thi Ca!
Thiện nam tử,
thiện nữ nhơn v.v… ấy, khéo an trụ không,
vô tướng,
vô nguyện của Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả; khéo an trụ không,
vô tướng,
vô nguyện của Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả, chẳng thể dùng không để
đạt được sự
thông suốt của không, chẳng thể dùng
vô tướng để
đạt được sự
thông suốt của
vô tướng, chẳng thể dùng
vô nguyện để
đạt được sự
thông suốt của
vô nguyện. Vì sao? Vì Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả v.v...
tự tánh của chúng đều là không, nên người
não hại, kẻ bị
não hại và sự
não hại, chẳng thể nắm bắt được.
Kiều Thi Ca!
Thiện nam tử,
thiện nữ nhơn v.v… ấy, khéo an trụ không,
vô tướng,
vô nguyện của Độc-giác; khéo an trụ không,
vô tướng,
vô nguyện của Độc-giác hướng, Độc-giác quả, chẳng thể dùng không để
đạt được sự
thông suốt của không, chẳng thể dùng
vô tướng để
đạt được sự
thông suốt của
vô tướng, chẳng thể dùng
vô nguyện để
đạt được sự
thông suốt của
vô nguyện. Vì sao? Vì Độc-giác v.v...
tự tánh của chúng đều là không, nên người
não hại, kẻ bị
não hại và sự
não hại, chẳng thể nắm bắt được.
Kiều Thi Ca!
Thiện nam tử,
thiện nữ nhơn v.v… ấy, khéo an trụ không,
vô tướng,
vô nguyện của đại Bồ-tát; khéo an trụ không,
vô tướng,
vô nguyện của Tam-miệu-tam Phật-đà, chẳng thể dùng không để
đạt được sự
thông suốt của không, chẳng thể dùng
vô tướng để
đạt được sự
thông suốt của
vô tướng, chẳng thể dùng
vô nguyện để
đạt được sự
thông suốt của
vô nguyện. Vì sao? Vì đại Bồ-tát v.v...
tự tánh của chúng đều là không, nên người
não hại, kẻ bị
não hại và sự
não hại, chẳng thể nắm bắt được.
Kiều Thi Ca!
Thiện nam tử,
thiện nữ nhơn v.v… ấy, khéo an trụ không,
vô tướng,
vô nguyện của pháp của đại Bồ-tát; khéo an trụ không,
vô tướng,
vô nguyện của
quả vị giác ngộ cao tột, chẳng thể dùng không để
đạt được sự
thông suốt của không, chẳng thể dùng
vô tướng để
đạt được sự
thông suốt của
vô tướng, chẳng thể dùng
vô nguyện để
đạt được sự
thông suốt của
vô nguyện. Vì sao? Vì pháp của đại Bồ-tát v.v...
tự tánh của chúng đều là không, nên người
não hại, kẻ bị
não hại và sự
não hại, chẳng thể nắm bắt được.
Kiều Thi Ca!
Thiện nam tử,
thiện nữ nhơn v.v… ấy, khéo an trụ không,
vô tướng,
vô nguyện của Thanh-văn thừa; khéo an trụ không,
vô tướng,
vô nguyện của Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa, chẳng thể dùng không để
đạt được sự
thông suốt của không, chẳng thể dùng
vô tướng để
đạt được sự
thông suốt của
vô tướng, chẳng thể dùng
vô nguyện để
đạt được sự
thông suốt của
vô nguyện. Vì sao? Vì Thanh-văn thừa v.v...
tự tánh của chúng đều là không, nên người
não hại, kẻ bị
não hại và sự
não hại, chẳng thể nắm bắt được.
Lại nữa, Kiều Thi Ca!
Thiện nam tử,
thiện nữ nhơn v.v… ấy là những người, mà
loài người, chẳng phải người không thể dễ dàng làm hại được. Vì sao? Vì các
thiện nam tử,
thiện nữ nhơn v.v… ấy lấy
vô sở đắc làm
phương tiện, đối với tất cả
hữu tình, khéo
tu tâm từ bi,
hỷ xả.
Kiều Thi Ca!
Thiện nam tử,
thiện nữ nhơn v.v… ấy chẳng bao giờ bị
não hại bởi các
sự kiện hiểm ác một cách bất ngờ, cũng chẳng chết đột ngột. Vì sao? Vì
thiện nam tử,
thiện nữ nhơn v.v… ấy
tu hành bố thí Ba-la-mật-đa, đối với các
hữu tình cấp dưỡng
bình an chơn chánh.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Ở
thế giới ba lần ngàn này, có chúng trời Tứ-đại-vương,
trời Ba-mươi-ba, trời Dạ-mạ, trời Đổ-sử-đa, trời Lạc-biến-hóa, trời Tha-hóa-tự-tại, trời Phạm-chúng, trời Cực-quang-tịnh, trời Biến-tịnh, trời Quảng-quả v.v… đã
phát tâm cầu sự
giác ngộ cao tột, đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa này, nếu vị nào chưa được nghe,
thọ trì,
đọc tụng,
tinh cần tu học,
chánh tư duy, thì nay nên chẳng lìa
tâm trí nhất thiết trí, lấy
vô sở đắc làm
phương tiện, đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa này
chú tâm nghe,
thọ trì,
đọc tụng,
tinh cần tu học, như lý
tư duy.
Kiều Thi Ca! Nếu
thiện nam tử,
thiện nữ nhơn v.v… chẳng lìa
tâm trí nhất thiết trí, lấy
vô sở đắc làm
phương tiện, đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa này,
chí tâm nghe,
thọ trì,
đọc tụng,
tinh cần tu học, như lý
tư duy, thì
thiện nam tử,
thiện nữ nhơn v.v… ấy, hoặc tại nhà trống, hoặc tại đồng hoang, hoặc tại đường hiểm và nơi có
tai nạn chẳng bao giờ
sợ hãi,
kinh khủng dựng lông. Vì sao? Vì
thiện nam tử,
thiện nữ nhơn v.v… ấy chẳng lìa
tâm trí nhất thiết trí, lấy
vô sở đắc làm
phương tiện, khéo tu cái không nội, khéo tu cái không ngoại, cái không
nội ngoại, cái
không không, cái không lớn, cái không
thắng nghĩa, cái
không hữu vi, cái
không vô vi, cái không
rốt ráo, cái
không không biên giới, cái không tản mạn, cái
không không đổi khác, cái không
bản tánh, cái không
tự tướng, cái không
cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái
không không tánh, cái không
tự tánh, cái
không không tánh tự tánh.
Lúc bấy giờ, ở
thế giới ba lần ngàn này có chúng trời Tứ-đại-vương, trời Ba-mươi-ba, trời Dạ-mạ, trời Đổ-sử-đa, trời Lạc-biến-hóa, trời Tha-hóa-tự-tại, trời Phạm-chúng, trời Phạm-phụ, trời Phạm-hội, trời Đại-phạm, trời Quang, trời Thiểu-quang, trời Vô-lượng-quang, trời Cực-quang-tịnh, trời Tịnh, trời Thiểu-tịnh, trời Vô-lượng-tịnh, trời Biến-tịnh, trời Quảng, trời Thiểu-quảng, trời Vô-lượng-quảng, trời Quảng-quả, trời Vô-phiền, trời Vô-nhiệt, trời Thiện-hiện, trời Thiện-kiến, trời Sắc-cứu-cánh v.v… cùng
bạch Phật:
Bạch Thế Tôn! Nếu
thiện nam tử,
thiện nữ nhơn v.v… chẳng lìa
tâm trí nhất thiết trí, lấy
vô sở đắc làm
phương tiện, đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa
thâm sâu này,
thường hay thọ trì,
đọc tụng,
tinh cần tu học, như lý
tư duy, sao chép,
giảng giải,
truyền bá rộng rãi thì chúng con thường theo
cung kính,
hộ vệ chẳng để tất cả
tai nạn xâm phạm bất ngờ. Vì sao? Vì
thiện nam tử,
thiện nữ nhơn v.v… ấy chính là đại Bồ-tát.
Bạch Thế Tôn! Vì do đại Bồ-tát ấy nên khiến các
hữu tình vĩnh viễn xa lìa các đường
hiểm ác,
địa ngục,
bàng sanh, quỷ giới, A-tố-lạc.
Bạch Thế Tôn! Vì do đại Bồ-tát ấy nên các trời, người
vĩnh viễn xa lìa tất cả các khổ về
tai họa, tật dịch, bần cùng,
đói khát, nóng lạnh v.v…
Bạch Thế Tôn! Vì do đại Bồ-tát ấy nên
thế gian mới có mười
thiện nghiệp đạo.
Bạch Thế Tôn! Vì do đại Bồ-tát ấy nên
thế gian mới có bốn
tịnh lự, bốn
vô lượng, bốn
định vô sắc.
Bạch Thế Tôn! Vì do đại Bồ-tát ấy nên
thế gian mới có
tám giải thoát,
tám thắng xứ, chín định
thứ đệ,
mười biến xứ.
Bạch Thế Tôn! Vì do đại Bồ-tát ấy nên
thế gian mới có
bố thí Ba-la-mật-đa,
tịnh giới,
an nhẫn,
tinh tấn,
tịnh lự,
Bát-nhã Ba-la-mật-đa.
Bạch Thế Tôn! Vì do đại Bồ-tát ấy nên
thế gian mới có cái không nội, cái không ngoại, cái không
nội ngoại, cái
không không, cái không lớn, cái không
thắng nghĩa, cái
không hữu vi, cái
không vô vi, cái không
rốt ráo, cái
không không biên giới, cái không tản mạn, cái
không không đổi khác, cái không
bản tánh, cái không
tự tướng, cái không
cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái
không không tánh, cái không
tự tánh, cái
không không tánh tự tánh.
Bạch Thế Tôn! Vì do đại Bồ-tát ấy nên
thế gian mới có
chơn như,
pháp giới,
pháp tánh, tánh chẳng
hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh
bình đẳng, tánh
ly sanh, định pháp, trụ pháp,
thật tế,
cảnh giới hư không,
cảnh giới bất tư nghì.
Bạch Thế Tôn! Vì do đại Bồ-tát ấy nên
thế gian mới có
Thánh đế khổ,
Thánh đế tập, diệt, đạo.
Bạch Thế Tôn! Vì do đại Bồ-tát ấy nên
thế gian mới có bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn
thần túc, năm căn,
năm lực, bảy chi
đẳng giác, tám chi
thánh đạo.
Bạch Thế Tôn! Vì do đại Bồ-tát ấy nên
thế gian mới có
pháp môn giải thoát không,
pháp môn giải thoát vô tướng,
vô nguyện.
Bạch Thế Tôn! Vì do đại Bồ-tát ấy nên
thế gian mới có
năm loại mắt, sáu phép
thần thông.
Bạch Thế Tôn! Vì do đại Bồ-tát ấy nên
thế gian mới có
mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự
hiểu biết thông suốt,
đại từ,
đại bi,
đại hỷ,
đại xả, mười
tám pháp Phật
bất cộng.
Bạch Thế Tôn! Vì do đại Bồ-tát ấy nên
thế gian mới có
pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả.
Bạch Thế Tôn! Vì do đại Bồ-tát ấy nên
thế gian mới có trí
nhất thiết, trí đạo tướng, trí
nhất thiết tướng.
Bạch Thế Tôn! Vì do đại Bồ-tát ấy nên
thế gian mới có tất cả
pháp môn Đà-la-ni, tất cả
pháp môn Tam-ma-địa.
Bạch Thế Tôn! Vì do đại Bồ-tát ấy nên
thế gian mới có
dòng họ lớn Sát-đế-lợi,
dòng họ lớn Bà-la-môn,
dòng họ lớn
Trưởng giả,
dòng họ lớn
Cư sĩ, các tiểu
quốc vương chuyển luân Thánh vương, Bề tôi
phụ tá.
Bạch Thế Tôn! Vì do đại Bồ-tát ấy nên
thế gian mới có chúng trời Tứ-đại-vương, trời Ba-mươi-ba, trời Dạ-mạ, trời Đổ-sử-đa, trời Lạc-biến-hóa, trời Tha-hóa-tự-tại.
Bạch Thế Tôn! Vì do đại Bồ-tát ấy nên
thế gian mới có trời Phạm-chúng, trời Phạm-phụ, trời Phạm-hội, trời Đại-phạm, trời Quang, trời Thiểu-quang, trời Vô-lượng-quang, trời Cực-quang-tịnh, trời Tịnh, trời Thiểu-tịnh, trời Vô-lượng-tịnh, trời Biến-tịnh, trời Quảng, trời Thiểu-quảng, trời Vô-lượng-quảng, trời Quảng-quả.
Bạch Thế Tôn! Vì do đại Bồ-tát ấy nên
thế gian mới có trời Vô-phiền, trời Vô-nhiệt, trời Thiện-hiện, trời Thiện-kiến, trời Sắc-cứu-cánh.
Bạch Thế Tôn! Vì do đại Bồ-tát ấy nên
thế gian mới có trời Không-vô-biên-xứ, trời Thức-vô-biên-xứ, trời Vô-sở-hữu-xứ, trời Phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ.
Bạch Thế Tôn! Vì do đại Bồ-tát ấy nên
thế gian mới có Dự-lưu, Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán và Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả, Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả.
Bạch Thế Tôn! Vì do đại Bồ-tát ấy nên
thế gian mới có Độc-giác và Độc-giác hướng, Độc-giác quả.
Bạch Thế Tôn! Vì do đại Bồ-tát ấy nên
thế gian mới có đại Bồ-tát
thành thục hữu tình,
nghiêm tịnh cõi Phật.
Bạch Thế Tôn! Vì do đại Bồ-tát ấy nên
thế gian mới có
Như Lai Ứng
Chánh Đẳng Giác,
chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột,
chuyển pháp luân nhiệm mầu, độ
vô lượng chúng sanh.
Bạch Thế Tôn! Vì do đại Bồ-tát ấy nên
thế gian mới có
Phật bảo,
Pháp bảo, Bí-sô
Tăng bảo.
Bạch Thế Tôn! Vì
nhơn duyên ấy nên chúng con: Thiên, Long và A-tố-lạc, Kiền-đạt-phược, Yết-lộ-trà, Khẩn-nại-lạc, Dược-xoa, La-sát-ba, Mạc-hô-lạc-già, nhơn
phi nhơn v.v… thường theo
cung kính ủng hộ đại Bồ-tát ấy, chẳng để cho tất cả
tai họa xâm phạm não hại.
Lúc bấy giờ,
Thế Tôn bảo
trời Đế Thích và các Thiên, Long, A-tố-lạc v.v…: Đúng vậy! Đúng vậy! Như các ngươi đã nói. Kiều Thi Ca! Nếu
thiện nam tử,
thiện nữ nhơn … chẳng lìa
tâm trí nhất thiết trí, lấy
vô sở đắc làm
phương tiện, đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa
thâm sâu này, thường
thọ trì,
đọc tụng,
tinh cần tu học, như lý
tư duy, sao chép,
giảng giải,
truyền bá rộng rãi thì nên biết
Thiện nam tử,
thiện nữ nhơn v.v… ấy chính là đại Bồ-tát.
Kiều Thi Ca! Vì do đại Bồ-tát ấy nên các
hữu tình vĩnh viễn được dứt trừ
địa ngục,
bàng sanh, quỷ giới, A-tố-lạc v.v… Kiều Thi Ca! Vì do đại Bồ-tát ấy nên
chư thiên, nhơn
vĩnh viễn được
xa lìa tất cả các khổ
tai họa, bệnh tật, bần cùng,
đói khát, nóng lạnh v.v…
Kiều Thi Ca! Vì do đại Bồ-tát ấy nên mười
thiện nghiệp đạo
xuất hiện ở
thế gian.
Kiều Thi Ca! Vì do đại Bồ-tát ấy nên bốn
tịnh lự, bốn
vô lượng, bốn
định vô sắc xuất hiện ở
thế gian.
Kiều Thi Ca! Vì do đại Bồ-tát ấy nên
tám giải thoát,
tám thắng xứ, chín định
thứ đệ,
mười biến xứ xuất hiện ở
thế gian.
Kiều Thi Ca! Vì do đại Bồ-tát ấy nên
bố thí Ba-la-mật-đa,
tịnh giới,
an nhẫn,
tinh tấn,
tịnh lự,
Bát-nhã Ba-la-mật-đa xuất hiện ở
thế gian.
Kiều Thi Ca! Vì do đại Bồ-tát ấy nên cái không nội, cái không ngoại, cái không
nội ngoại, cái
không không, cái không lớn, cái không
thắng nghĩa, cái
không hữu vi, cái
không vô vi, cái không
rốt ráo, cái
không không biên giới, cái không tản mạn, cái
không không đổi khác, cái không
bản tánh, cái không
tự tướng, cái không
cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái
không không tánh, cái không
tự tánh, cái
không không tánh tự tánh xuất hiện ở
thế gian.
Kiều Thi Ca! Vì do đại Bồ-tát ấy nên
chơn như,
pháp giới,
pháp tánh, tánh chẳng
hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh
bình đẳng, tánh
ly sanh, định pháp, trụ pháp,
thật tế,
cảnh giới hư không,
cảnh giới bất tư nghì
xuất hiện ở
thế gian.
Kiều Thi Ca! Vì do đại Bồ-tát ấy nên
Thánh đế khổ,
Thánh đế tập, diệt, đạo
xuất hiện ở
thế gian.
Kiều Thi Ca! Vì do đại Bồ-tát ấy nên bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn
thần túc, năm căn,
năm lực, bảy chi
đẳng giác, tám chi
thánh đạo xuất hiện ở
thế gian.
Kiều Thi Ca! Vì do đại Bồ-tát ấy nên
pháp môn giải thoát không,
pháp môn giải thoát vô tướng,
vô nguyện xuất hiện ở
thế gian.
Kiều Thi Ca! Vì do đại Bồ-tát ấy nên
năm loại mắt, sáu phép
thần thông xuất hiện ở
thế gian.
Kiều Thi Ca! Vì do đại Bồ-tát ấy nên
mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự
hiểu biết thông suốt,
đại từ,
đại bi,
đại hỷ,
đại xả, mười
tám pháp Phật
bất cộng xuất hiện ở
thế gian.
Kiều Thi Ca! Vì do đại Bồ-tát ấy nên
pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả
xuất hiện ở
thế gian.
Kiều Thi Ca! Vì do đại Bồ-tát ấy nên trí
nhất thiết, trí đạo tướng, trí
nhất thiết tướng
xuất hiện ở
thế gian.
Kiều Thi Ca! Vì do đại Bồ-tát ấy nên tất cả
pháp môn Đà-la-ni, tất cả
pháp môn Tam-ma-địa
xuất hiện ở
thế gian.
Kiều Thi Ca! Vì do đại Bồ-tát ấy nên
dòng họ lớn Sát-đế-lợi,
dòng họ lớn Bà-la-môn,
dòng họ lớn
Trưởng giả,
dòng họ lớn
Cư sĩ, các tiểu
quốc vương chuyển luân Thánh vương, Bề tôi
phụ tá xuất hiện ở
thế gian.
Kiều Thi Ca! Vì do đại Bồ-tát ấy nên chúng trời Tứ-đại-vương, trời Ba-mươi-ba, trời Dạ-mạ, trời Đổ-sử-đa, trời Lạc-biến-hóa, trời Tha-hóa-tự-tại
xuất hiện ở
thế gian.
Kiều Thi Ca! Vì do đại Bồ-tát ấy nên trời Phạm-chúng, trời Phạm-phụ, trời Phạm-hội, trời Đại-phạm, trời Quang, trời Thiểu-quang, trời Vô-lượng-quang, trời Cực-quang-tịnh, trời Tịnh, trời Thiểu-tịnh, trời Vô-lượng-tịnh, trời Biến-tịnh, trời Quảng, trời Thiểu-quảng, trời Vô-lượng-quảng, trời Quảng-quả
xuất hiện ở
thế gian.
Kiều Thi Ca! Vì do đại Bồ-tát ấy nên trời Vô-phiền, trời Vô-nhiệt, trời Thiện-hiện, trời Thiện-kiến, trời Sắc-cứu-cánh
xuất hiện ở
thế gian.
Kiều Thi Ca! Vì do đại Bồ-tát ấy nên trời Không-vô-biên-xứ, trời Thức-vô-biên-xứ, trời Vô-sở-hữu-xứ, trời Phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ
xuất hiện ở
thế gian.
Kiều Thi Ca! Vì do đại Bồ-tát ấy nên Dự-lưu, Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán và Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả, Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả
xuất hiện ở
thế gian.
Kiều Thi Ca! Vì do đại Bồ-tát ấy nên Độc-giác và Độc-giác hướng, Độc-giác quả
xuất hiện ở
thế gian.
Kiều Thi Ca! Vì do đại Bồ-tát ấy nên đại Bồ-tát
xuất hiện ở
thế gian,
thành thục hữu tình,
nghiêm tịnh cõi Phật.
Kiều Thi Ca! Vì do đại Bồ-tát ấy nên
Như Lai Ứng
Chánh Đẳng Giác xuất hiện ở
thế gian,
chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột,
chuyển pháp luân nhiệm mầu, độ
vô lượng chúng sanh.
Kiều Thi Ca! Vì do đại Bồ-tát ấy nên
Phật bảo,
Pháp bảo, Bí-sô
Tăng bảo xuất hiện ở
thế gian.
Kiều Thi Ca! Vì
duyên cớ này, Thiên, Long, A-tố-lạc v.v… các ngươi thường nên theo
cung kính,
cúng dường,
tôn trọng,
ngợi khen, và siêng năng
ủng hộ đại Bồ-tát này, chớ để tất cả
tai họa xâm phạm não hại.
Kiều Thi Ca! Nếu có người thường
cung kính,
cúng dường,
tôn trọng,
ngợi khen đại Bồ-tát như vậy, thì nên biết chính là
cung kính,
cúng dường,
tôn trọng,
ngợi khen ta và tất cả các
đức Như Lai Ứng
Chánh Đẳng Giác trong
mười phương.
Vì vậy, nên tất cả Thiên, Long, A-tố-lạc v.v…các ngươi thường nên theo
cung kính,
cúng dường,
tôn trọng,
ngợi khen và siêng năng
ủng hộ đại Bồ-tát này, chớ để tất cả
tai họa xâm phạm não hại.
Kiều Thi Ca!
Giả sử Thanh-văn, Duyên-giác đầy khắp châu Nam
Thiệm Bộ như rừng mía, lau, trúc, nếp, mè, rừng rậm dày đặc không hở, có
thiện nam tử,
thiện nữ nhơn v.v… đối với
ruộng phước ấy, dùng
vô lượng các thứ đồ dùng
tốt đẹp vừa ý,
cung kính,
cúng dường,
tôn trọng,
ngợi khen, suốt cả
cuộc đời, hoặc lại có người chỉ trong khoảnh khắc
cung kính,
cúng dường,
tôn trọng,
ngợi khen một đại Bồ-tát
sơ phát tâm chẳng lìa sáu phép Ba-la-mật-đa; nếu lấy
công đức của những người trước so với
phước đức của người này thì trăm phần chẳng bằng một, ngàn phần chẳng bằng một, trăm ngàn phần chẳng bằng một, ức phần chẳng bằng một, trăm ức phần chẳng bằng một, ngàn ức phần chẳng bằng một, trăm ngàn ức phần chẳng bằng một, phần tính đếm, phần
thí dụ cho đến phần cực số cũng chẳng bằng một.
Kiều Thi Ca!
Giả sử Thanh-văn, Độc-giác đầy khắp cả châu Nam
Thiệm Bộ, châu Đông Thắng Thân như rừng mía, lau, trúc, nếp, mè, rừng rậm v.v… dày đặc không chỗ hở, có
thiện nam tử,
thiện nữ nhơn v.v… đối với
ruộng phước ấy, dùng
vô lượng các thứ đồ dùng
tốt đẹp vừa ý,
cung kính,
cúng dường,
tôn trọng,
ngợi khen, suốt cả
cuộc đời, hoặc lại có ngươi chỉ trong khoảnh khắc
cung kính,
cúng dường,
tôn trọng,
ngợi khen một đại Bồ-tát
sơ phát tâm chẳng lìa sáu phép Ba-la-mật-đa; nếu lấy
công đức của những người trước so với
phước đức của người này thì trăm phần chẳng bằng một, ngàn phần chẳng bằng một, trăm ngàn phần chẳng bằng một,
cho đến phần cực số cũng chẳng bằng một.
Kiều Thi Ca!
Giả sử Thanh-văn, Độc-giác đầy khắp cả châu Nam
Thiệm Bộ, châu Đông Thắng Thân, châu Tây Ngưu Hóa như rừng mía, lau, trúc, nếp, mè, rừng rậm dày đặc không chỗ hở, có
thiện nam tử,
thiện nữ nhơn v.v… đối với
ruộng phước ấy, dùng
vô lượng các thứ đồ dùng
tốt đẹp vừa ý cung kính,
cúng dường,
tôn trọng,
ngợi khen, suốt cả
cuộc đời, hoặc lại có ngươi chỉ trong khoảnh khắc
cung kính,
cúng dường,
tôn trọng,
ngợi khen một đại Bồ-tát
sơ phát tâm chẳng lìa sáu phép Ba-la-mật-đa; nếu lấy
công đức của những người trước so với
phước đức của người này thì trăm phần chẳng bằng một, ngàn phần chẳng bằng một, trăm ngàn phần chẳng bằng một,
cho đến phần cực số cũng chẳng bằng một.
Kiều Thi Ca!
Giả sử Thanh-văn, Độc-giác đầy khắp cả châu Nam
Thiệm Bộ, châu Đông Thắng Thân, châu Tây Ngưu Hóa, châu Bắc Cu Lô như rừng mía, lau, trúc, nếp, mè, rừng rậm v.v… dày đặc không hở, có
thiện nam tử,
thiện nữ nhơn v.v… đối với
ruộng phước ấy, dùng
vô lượng các thứ đồ dùng
tốt đẹp,
vừa ý cung kính,
cúng dường,
tôn trọng,
ngợi khen, suốt cả
cuộc đời, hoặc lại có ngươi chỉ trong khoảnh khắc
cung kính,
cúng dường,
tôn trọng,
ngợi khen một đại Bồ-tát
sơ phát tâm chẳng lìa sáu phép Ba-la-mật-đa; nếu lấy
công đức của những người trước so với
phước đức của người này thì trăm phần chẳng bằng một, ngàn phần chẳng bằng một, trăm ngàn phần chẳng bằng một,
cho đến phần cực số cũng chẳng bằng một.
Kiều Thi Ca!
Giả sử Thanh-văn, Độc-giác đầy khắp cả bốn châu như rừng mía, lau, trúc, nếp, mè, rừng rậm dày đặc không chỗ hở, có
thiện nam tử,
thiện nữ nhơn v.v… đối với
ruộng phước ấy, dùng
vô lượng các thứ đồ dùng
tốt đẹp,
vừa ý cung kính,
cúng dường,
tôn trọng,
ngợi khen, suốt cả
cuộc đời, hoặc lại có ngươi chỉ trong khoảnh khắc
cung kính,
cúng dường,
tôn trọng,
ngợi khen một đại Bồ-tát
sơ phát tâm chẳng lìa sáu phép Ba-la-mật-đa; nếu lấy
công đức của những người trước so với
phước đức của người này thì trăm phần chẳng bằng một, ngàn phần chẳng bằng một, trăm ngàn phần chẳng bằng một,
cho đến phần cực số cũng chẳng bằng một.
Kiều Thi Ca!
Giả sử Thanh-văn, Độc-giác đầy khắp
Tiểu Thiên thế giới như rừng mía, lau, trúc, nếp, mè, rừng rậm v.v… dày đặc không chỗ hở, có
thiện nam tử,
thiện nữ nhơn v.v… đối với
ruộng phước ấy, dùng
vô lượng các thứ đồ dùng
tốt đẹp,
vừa ý cung kính,
cúng dường,
tôn trọng,
ngợi khen, suốt cả
cuộc đời, hoặc lại có ngươi chỉ trong khoảnh khắc
cung kính,
cúng dường,
tôn trọng,
ngợi khen một đại Bồ-tát
sơ phát tâm chẳng lìa sáu phép Ba-la-mật-đa; nếu lấy
công đức của những người trước so với
phước đức của người này thì trăm phần chẳng bằng một, ngàn phần chẳng bằng một, trăm ngàn phần chẳng bằng một,
cho đến phần cực số cũng chẳng bằng một.
Kiều Thi Ca!
Giả sử Thanh-văn, Độc-giác đầy khắp
Trung Thiên thế giới như rừng mía, lau, trúc, nếp, mè, rừng rậm v.v… dày đặc không chỗ hở, có
thiện nam tử,
thiện nữ nhơn v.v… đối với
ruộng phước ấy, dùng
vô lượng các thứ đồ dùng
tốt đẹp,
vừa ý cung kính,
cúng dường,
tôn trọng,
ngợi khen, suốt cả
cuộc đời, hoặc lại có ngươi chỉ trong khoảnh khắc
cung kính,
cúng dường,
tôn trọng,
ngợi khen một đại Bồ-tát
sơ phát tâm chẳng lìa sáu phép Ba-la-mật-đa; nếu lấy
công đức của những người trước so với
phước đức của người này thì trăm phần chẳng bằng một, ngàn phần chẳng bằng một, trăm ngàn phần chẳng bằng một,
cho đến phần cực số cũng chẳng bằng một.
Kiều Thi Ca!
Giả sử Thanh-văn, Độc-giác đầy khắp
cảnh giới chư Phật trong
thế giới ba lần ngàn như rừng mía, lau, trúc, nếp, mè, rừng rậm v.v… dày đặc không chỗ hở, có
thiện nam tử,
thiện nữ nhơn v.v… đối với
ruộng phước ấy, dùng
vô lượng các thứ đồ dùng
tốt đẹp,
vừa ý cung kính,
cúng dường,
tôn trọng,
ngợi khen, suốt cả
cuộc đời, hoặc lại có ngươi chỉ trong khoảnh khắc
cung kính,
cúng dường,
tôn trọng,
ngợi khen một đại Bồ-tát
sơ phát tâm chẳng lìa sáu phép Ba-la-mật-đa; nếu lấy
công đức của những người trước so với
phước đức của người này thì trăm phần chẳng bằng một, ngàn phần chẳng bằng một, trăm ngàn phần chẳng bằng một,
cho đến phần cực số cũng chẳng bằng một.
Kiều Thi Ca!
Giả sử Thanh-văn, Độc-giác đầy khắp
vô lượng,
vô biên thế giới trong
mười phương như rừng mía, lau, trúc, nếp, mè, rừng rậm v.v… dày đặc không chỗ hở, có
thiện nam tử,
thiện nữ nhơn v.v… đối với
ruộng phước ấy, dùng
vô lượng các thứ đồ dùng
tốt đẹp,
vừa ý cung kính,
cúng dường,
tôn trọng,
ngợi khen, suốt cả
cuộc đời, hoặc lại có ngươi chỉ trong khoảnh khắc
cung kính,
cúng dường,
tôn trọng,
ngợi khen một đại Bồ-tát
sơ phát tâm chẳng lìa sáu phép Ba-la-mật-đa; nếu lấy
công đức của những người trước so với
phước đức của người này thì trăm phần chẳng bằng một, ngàn phần chẳng bằng một, trăm ngàn phần chẳng bằng một,
cho đến phần cực số cũng chẳng bằng một. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì chẳng do Thanh-văn và Độc-giác mà có đại Bồ-tát và các
đức Như Lai Ứng
Chánh Đẳng Giác xuất hiện ở
thế gian, chỉ do đại Bồ-tát mà có Thanh-văn, Độc-giác và các
đức Như Lai Ứng
Chánh Đẳng Giác xuất hiện ở
thế gian.
Vì vậy nên các ngươi, tất cả Thiên, Long, A-tố-lạc, Kiền-đạt-phược, Yết-lộ-trà, Khẩn-nại-lạc, Dược-xoa, La-sát-ba, Mạc-hô-lạc-già, nhơn
phi nhơn thường nên
ủng hộ bảo vệ cung kính cúng dường,
tôn trọng,
ngợi khen đại Bồ-tát này, chớ để tất cả
tai họa xâm phạm não hại.
Lúc bấy giờ,
trời Đế Thích bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thật là hy hữu! Đại Bồ-tát ấy, đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa
thâm sâu này,
thọ trì,
đọc tụng,
tinh cần tu học, như lý
tư duy, sao chép,
giảng giải,
truyền bá rộng rãi.
Nhiếp thọ công đức của những việc
cụ thể như vậy,
thành thục hữu tình,
nghiêm tịnh cõi Phật từ
cõi Phật này đến
cõi Phật khác, thân cận,
phụng sự chư
Phật Thế Tôn. Theo đó sự
vui vẻ, căn lành
thù thắng, do đối với chư
Phật cung kính,
cúng dường,
tôn trọng,
ngợi khen, liền được
viên mãn; đối với
Chánh pháp của chư Phật đã được nghe,
cho đến khi
chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, không bao giờ quên. Những
pháp yếu đã được nghe, có khả năng nhanh chóng
nhiếp thọ, nên được
dòng họ viên mãn,
thân mẫu viên mãn, sự sanh
viên mãn,
quyến thuộc viên mãn,
tướng hảo viên mãn,
quang minh viên mãn, nhãn
viên mãn, nhĩ
viên mãn,
âm thanh viên mãn Đà-la-ni
viên mãn, Tam-ma-địa
viên mãn. Lại
dùng sức phương tiện thiện xảo, biến thân như Phật, từ
thế giới này đến
thế giới khác, đến nước không có Phật,
giảng thuyết khen ngợi
bố thí Ba-la-mật-đa,
giảng thuyết khen ngợi
tịnh giới,
an nhẫn,
tinh tấn,
tịnh lự,
Bát-nhã Ba-la-mật-đa;
giảng thuyết khen ngợi cái không nội,
giảng thuyết khen ngợi cái không ngoại, cái không
nội ngoại, cái
không không, cái không lớn, cái không
thắng nghĩa, cái
không hữu vi, cái
không vô vi, cái không
rốt ráo, cái
không không biên giới, cái không tản mạn, cái
không không đổi khác, cái không
bản tánh, cái không
tự tướng, cái không
cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái
không không tánh, cái không
tự tánh, cái
không không tánh tự tánh;
giảng thuyết khen ngợi
chơn như,
giảng thuyết khen ngợi
pháp giới,
pháp tánh, tánh chẳng
hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh
bình đẳng, tánh
ly sanh, định pháp, trụ pháp,
thật tế,
cảnh giới hư không,
cảnh giới bất tư nghì;
giảng thuyết khen ngợi
Thánh đế khổ,
giảng thuyết khen ngợi
Thánh đế tập, diệt, đạo;
giảng thuyết khen ngợi bốn
tịnh lự,
giảng thuyết khen ngợi bốn
vô lượng, bốn
định vô sắc;
giảng thuyết khen ngợi
tám giải thoát,
giảng thuyết khen ngợi
tám thắng xứ, chín định
thứ đệ,
mười biến xứ;
giảng thuyết khen ngợi bốn niệm trụ,
giảng thuyết khen ngợi bốn chánh đoạn, bốn
thần túc, năm căn,
năm lực, bảy chi
đẳng giác, tám chi
thánh đạo;
giảng thuyết khen ngợi
pháp môn giải thoát không,
giảng thuyết khen ngợi
pháp môn giải thoát vô tướng,
vô nguyện;
giảng thuyết khen ngợi
năm loại mắt,
giảng thuyết khen ngợi sáu phép
thần thông;
giảng thuyết khen ngợi
mười lực của Phật,
giảng thuyết khen ngợi bốn điều không sợ, bốn sự
hiểu biết thông suốt,
đại từ,
đại bi,
đại hỷ,
đại xả, mười
tám pháp Phật
bất cộng;
giảng thuyết khen ngợi
pháp không quên mất,
giảng thuyết khen ngợi tánh luôn luôn xả;
giảng thuyết khen ngợi trí
nhất thiết,
giảng thuyết khen ngợi trí đạo tướng, trí
nhất thiết tướng;
giảng thuyết khen ngợi tất cả
pháp môn Đà-la-ni,
giảng thuyết khen ngợi tất cả
pháp môn Tam-ma-địa;
giảng thuyết khen ngợi
Phật bảo;
giảng thuyết khen ngợi
Pháp bảo, Bí-sô
Tăng bảo. Lại
dùng sức phương tiện thiện xảo, vì các
hữu tình,
tuyên thuyết pháp yếu,
tùy nghi an trí trong pháp Ba-thừa, khiến
vĩnh viễn giải thoát sanh, lão, bệnh, tử, chứng
cảnh giới Vô-dư-y Niết-bàn; hoặc lại cứu giúp nỗi khổ trong các đường ác, khiến được vào cõi nhơn, thiên hưởng sự
an lạc.
Quyển Thứ 100
HẾT