Phạm Thiên Thư
KINH HIỀN
HỘI HOA ĐÀM
Thi Hóa Tư Tưởng Kinh Hiền Ngu
Cơ sở Văn Chương Sài Gòn xuất bản lần thứ nhất năm 1973
Nhà Xuất Bản Tổng Hợp TP. HCM tái bản năm 2014
31. Sạch nhơ cũng một lòng này 32. Triệu Cát Tường 33. Năm trăm người nghèo 34. Bố thí đầu 35. Bố thí mắt 36. Năm trăm người mù 37. Phụng Đô 38. Áo rách lòng vàng 39. Đại Kiếp Tân Ninh 40. Vi Diệy Tỳ Khiêu Ni 31. Sạch nhơ cũng một lòng nàyChuyện xưa tại xóm Bình Đông,
Gần thành Xá-vệ có đồng nho tươi.
Là nhà hào phú
đắc thời,
Cậy quyền ức hiếp bao người cực thay.
Muộn mằn vợ mới mang thai,
5.300. Tưởng là
quý tử, mừng vui
đợi chờ.
Nào hay khi trẻ sinh ra,
Không tai, không mắt
xấu xa ghê người.
Đau lòng, nuối giấu một nơi,
Nghĩ rằng che mắt bịt lời cho xong.
Mười năm giữ trẻ riêng phòng,
Ngờ đâu rằng suốt cả vùng đã nghi.
Đó đây người chuyện thầm thì,
Mỉa mai quyền lực khinh khi
sang giàu.
Miệng đời hồ dễ bịt đâu,
Gió bay đã thoảng những câu nát lòng.
Vào ra nghe nỗi sượng sùng,
Kiêu căng giảm thú, đỉnh chung sinh nhàm.
Nghĩ mình nặng tội
gian tham,
Gây thù đã lắm, buộc oan cũng nhiều.
Phải chăng vì thế quỉ yêu,
Đầu thai báo ứng muôn chiều gớm ganh.
Nghĩ thôi khiếp sợ
ngọn ngành,
Lo đi van vái đền linh, động thần.
Đến ngày nghe
đức Thế tônVề
hóa duyên tại giữa thôn hạnh đào.
Vội sai ngay mấy tớ hầu
Mua nhiều phẩm vật để vào lễ hương.
Trái ngon, hoa đẹp
cúng dường,
Dâng xong, yên trí
thênh thang ra về.
Tưởng nhờ
uy lực chở che,
Oán xưa, tội cũ tức thì sạch không.
Xe rong ruổi đến cánh đồng,
Cầu nghiêng bóng suối một dòng nao nao.
Bên dòng có vị Tỳ-kheo
Giặt y dưới suối như chiều ráng phai.
Giậm chân đôi ngựa hí dài,
Bên cầu đòi nước giục hoài không đi.
Dừng xe bãi cỏ xanh rì,
Ngựa khát gặp suối
lưu ly thỏa lòng.
Chủ nhân
bước xuống thong dongTới ngồi nghỉ dưới tàng thông la đà.
Thấy
nhà sư giặt cà-sa,
Trang nghiêm tướng mạo,
hiền hòa dung nhan.
Vợ chồng vui đến hỏi han,
Phát tâm xin giặt y vàng cho sư.
Thầy rằng “xin nhận
lòng từ,
Nhưng áo, như nghiệp Diêm-phù khác chi.
Dù ai
đại trí đại biCũng không
thể diệt tham si hộ mình.
Báo duyên như bóng theo hình,
Ác tìm nơi ác, thường tình
xưa nay.
Giặt y là phải tự tay,
Sạch, nhơ cũng một lòng này do ta.”
Nói rồi sư
hóa thân ra
5.350. Cơn mây biến giữa giang hà dòng sâu.
Vợ chồng ngộ lý nhiệm mầu,
Gối quì trên cỏ, lễ đầu dưới hoa.
Tạ ơn thức tỉnh trần sa,
Rồi lên xe
trở về nhà sửa sang.
Mở kho thóc, dựng học đường,
Giúp nghèo,
cứu khổ, xóm làng được ơn.
Lại đi thỉnh
đức Thế tônCùng là
đại chúng về thôn lễ bày.
Đạo từ, mong thấm đó đây,
Như mưa trải khắp cỏ cây
thuận hòa.
Vừa hôm khai dựng
pháp tòa,
Thinh không phơi phới mưa hoa đẹp trời.
Thì con trẻ bỗng mở lời,
Và tai mắt đủ như người
thế gian.
Khôi ngô,
dáng điệu chững chàng,
Sẹo đen, vết xấu biến tan lúc nào.
Mẹ cha
vui sướng biết bao,
Đưa con đến trước đài cao lạy mừng,
Và nhờ
hiền giả A-nan
Xin Phật
cho biết quả, nhân trẻ này.
Trên tòa hương khói trầm bay,
Thế tôn hoan hỉ: “con đây chính là
Trọng thần tại một triều xưa,
Quốc dân
trông cậy, đức vua tin dùng.
Bao năm
quyền thế vô cùng,
Mà dân đói khổ lại không
đoái hoài.
Cố tình che mắt,
bưng tai,
Yên thân chung đỉnh, mặc ai nhọc nhằn.
Kiếp này chịu quả phế nhân,
May nhờ
phụ mẫu chuyển dần
nghiệp chung.”
Nghe xong trẻ bỗng sáng lòng,
Chắp tay cung kính thưa cùng mẹ cha:
“Con
mang ơn nặng sinh ra,
Lại nuôi mười mấy năm đà cực thay.
Bây giờ con mới tỏ hay,
Tội kia đã được đức này gột cho.
Mẹ cha
tinh tiến đường tu,
Con xin
sám hối đền bù ân sâu.
Duyên may sớm gặp đạo mầu
Mở đường
giải thoát, vượt cầu
tham mê.
Dốc lòng theo hướng
trí bi,
Chim hồng cất cánh, luyến gì
phù vân.
Cúi đầu xin đấng
song thân,
Cho con dời gót, theo chân
Đại hùng.”
Mẹ cha nhỏ lệ
vui mừng,
Chắp tay hướng lễ lên từng đài cao.
Tâm thành, lời đẹp xiết bao,
Gió thơm chuyển tới mây đào giọng vui.
Gần xa khắp cả những ai
5.400. Được nghe thấu chuyện, đều bày lại nhau.
Nơi nơi nhuần thấm đạo mầu,
Kinh hiền chép mấy dòng châu khuyến người.
32. Triệu Cát TườngNgày xưa trên bến
hoa tươiCó ông lái khoác áo tơi đưa thuyền.
Kẻ sang, người tới hai miền,
Một sào đẩy nguyệt, đôi triền xông mây.
Chiều kia trong chuyến đò đầy
Có bà
trưởng giả thôn Tây đi cùng.
Con thơ ôm bế trong lòng,
5.850. Đứa con mắt sáng, môi hồng da tươi.
Hầu theo có bốn năm người,
Giỏ quà, chiếu cạp trải ngồi đò qua.
Lái ông đã biết rõ nhà,
Tường cao, mái rộng, đại gia
tiếng đồn.
Lại
từ thiện nhất xóm thôn,
Giúp người cơ cực
tâm hồn đẹp thay.
Hiếm hoi được một trai đây,
Nưng như nưng trứng, hứng tày hứng hoa.
Sớm nay đi viếng ngoại gia,
Trở về vừa kịp chuyến đò chiều đông.
Nhổ sào thuyền tới giữa sông,
Bỗng đâu mây cuộn cơn giông kéo về.
Gió gầm như sảng như mê,
Dập dềnh ngọn nước bốn bề sóng reo.
Mặc cho kẻ chống người chèo,
Một cơn gió bỗng xoay chiều cuộn phăng.
Thuyền như ngọn lá thu vàng
Xoáy trong gió mạnh dưới hàng sóng cao.
Rồi chìm lặng
dưới sông sâu,
Mặt sông còn lại một màu nhạt đen.
Mọi người gối sóng bơi lên,
Hài nhi đâu nữa trong triền sóng say.
Chỉ bà mẹ ngất lịm đây,
Nhờ ông lái
cứu khỏi tay
thủy thần.
Tỉnh ra
đau xót muôn phần,
Bà toan nhào xuống sóng gầm mấy phen.
Chịu sao thấu nỗi thảm phiền,
Theo con về chốn
cửu tuyền cho xong.
Gia nhân hoảng hốt
vô cùng,
Cố công ngăn giữ,
hết lòng khuyên can.
Bãi chiều cát nổi mênh mang,
Hung tin khiến cả xóm làng ngẩn ngơ.
Rộn ràng già trẻ kéo ra,
Nhìn theo sóng cuộn biết là hỏi đâu.
Xót xa, ngồi lại
âu sầu,
Bên sông thắp nén hương cầu
giải oan.
Sớm mai chợt một khách thương
Qua làng kể chuyện lạ thường xiết bao:
Tại thôn dưới khúc sông đào,
Tối qua cá lớn mắc vào lưới vây.
Khênh về vội mổ tươi ngay,
Thì trong ruột cá lạ thay, có người.
Hài nhi
thoi thóp chút hơi,
Được đem
cấp cứu một
hồi tỉnh ra.
Người nghe thấy chuyện sững sờ,
Vội vàng đi báo cho nhà mất con.
Mẹ cha chưa hẳn
hoàn hồn,
Nhưng liền theo khách tới thôn cuối vùng.
Ruột gan như nấu như nung,
5.900. Chân đi tựa chạy, mà lòng thấy lâu.
Tới nhà vội bước vào mau,
Gặp con tưởng
giấc mộng đâu lạ lùng.
Ôm con nước mắt tuôn ròng,
Thực đây, mừng thực, nỗi mừng
hồi sinh.
Khóc thôi, quì gối
chân thànhTạ ơn người đã phước lành cứu cho.
Chủ nhân cũng vốn
hiền từ,
Vội nâng khách dậy, xin là “không nên…
Ân gì, đây chỉ là duyên,
Kiếp xưa hẳn đã có nguyền
với nhau.
Nên giờ gặp tự dòng sâu,
Dám xin nhận tiếng đỡ đầu, nên chăng?
Chúng tôi sầu nỗi muộn mằn,
Nếu được nghĩa tử, coi bằng ngọc châu.”
Nghe ra ý hợp tâm đầu,
Cười vui
chủ khách trao câu
đậm đà.
Rồi lo sửa lễ
dâng hoa,
Kết giao một trẻ, hai nhà quý thương.
Chăm nuôi bé Triệu
Cát Tường,
Mai sau dòng dõi khói hương cũng nhờ.
Êm đềm ngày chuyển tháng qua,
Trường giang
đắp đổi phù sa bao lần.
Cát Tường đến tuổi
thành nhân,
Càng khôi ngô dáng, càng
văn võ tài.
Đã lòng hiếu đễ đôi nơi,
Lại
thương mến cả
mọi người thân sơ.
Yêu từ ngọn cỏ, đài hoa,
Mến từ sâu kiến cùng là chim muông.
Song thân hả dạ vô vàn,
Hai nhà bàn liệu tính đàng
nhân duyên.
Có nàng khuê các dáng tiên,
Tuổi vừa chanh cốm, tính hiền như thơ.
Hai nơi
cha mẹ đều ưa,
Nhưng con thì lại
chối từ quyết không.
Chàng thưa “xin hãy
mở lòng,
Buộc chi thân trẻ
tơ hồng quẩn quanh.
Lối mòn phú quý,
cạnh tranh,
Sao bằng đường rộng
tung hoành,
vị tha.
Con xem khắp chốn người ta,
Niềm đau, nỗi khổ thực là lắm thay,
Nên chưa muốn để tháng ngày
Vợ xinh, con đẹp vui vầy thú riêng.”
Một hôm nghe nói gần miền,
Thế tôn vừa tới
hóa duyên độ người.
Chàng đưa bạn hữu đến nơi,
Thấy Phật
thiền định trên đồi hoa sim.
Là tan ngay hết
ưu phiền,
Rồi
chợt nghe giữa cõi im, lạ lùng.
Tiếng nào nổi giữa
hư không,
5.950. Như cơn gió mạnh phá tung mây mù.
Tiếng nào vọng tự kiếp xưa,
Như chuông gióng giả vượt bờ
chiêm bao.
Tiếng nào vó ngựa tung cao,
Như xô ải hận, tiến vào thành hoa.
Tiếng nào tiếng chẳng thiết tha,
Chàng quì gối trước Phật-đà
an nhiên.
Cảm theo
công đức vô biên,
Rưng rưng lệ xuống chân hiền
Như Lai.
Thế tôn bảo “suối
Thiên thaiChảy về gội hết u hoài
thế gian.
Chín mươi mốt kiếp
trần hoàn,
Lệ đem góp lại muôn hàng sóng cao.
Lênh đênh mặt biển ba đào,
Thân chìm trong lệ ai nào dìm thân.
Thì nay tuôn hết
một lần,
Bao nhiêu mây nổi
phù trần sạch trôi.
Tâm lao cửa kín
ba đờiBây giờ
hóa hiện như trời ngọc châu.”
Đưa tay Phật nhẹ xoa đầu,
Cát Tường thân bỗng hóa màu bạch quang.
Lúc này
hiền giả A-nan
Đứng hầu dưới cội hoa vàng trình lên:
“Xin cho được biết phúc duyên,
Sao vừa gặp
Phật tâm liền bừng khai?”
Rằng “vô lượng kiếp cách đây,
Tỳ-bà-thi Phật ra đời độ dân.
Đồi xa có một thi nhân,
Vào thu ướp trái, đón xuân ươm hồng.
Buổi nhàn dạo cảnh rừng trong,
Thấy Phật bên suối
bềnh bồng y tơ.
Đêm về thắp nến làm thơ
Ngợi ca hạnh Phật bên bờ
chiêm bao.
Thơ vang khắp chốn thôn đào,
Lan ra châu quận, truyền vào thành xa.
Thơ như phơi phới mưa hoa,
Tươi vườn
đạo hạnh, đẹp nhà huệ tâm.
Xưa hằng
tích đức tu nhân,
Kiếp này hiểm nạn trăm phần cũng qua.
Xưa trồng quả ngọt, ươm hoa,
Cứu người thương vật lòng hòa
trí bi.
Kiếp này vóc dáng
phương phi,
Thông minh phú quý ai bì được sao.
Lại giờ như cánh chim cao,
Vượt cơn huyễn mộng, nhập vào
từ quang.
Áng thơ bay giữa vô vàn
Nhủ người trong
cõi trần hoàn tín tu.
Ngàn nay thêm đẹp ngàn xưa,
Mỗi trang thơ mỗi đài hoa
cúng dường.
Ngâm lên là
giải thoát hương,
6.000. Trần gian lưu
áng văn chương tuyệt vời.
Khiến cho
địa ngục ba đời,
Hóa thành tịnh độ trong lời
diệu thanh.”
33. Năm trăm người nghèoNgày xưa trong rừng mơ xanh,
Có chim tụng trái trên cành thu hoa.
Là vườn
thái tử Kỳ-đà
Cúng dường đức Phật đôi nhà cỏ thơm.
Mây
từ vân tập bốn phương,
Khói hồ gợn tiếng trầm chuông gió chiều.
Từ lâu có bọn dân nghèo,
Năm trăm người vẫn hầu theo Phật từ.
Sống nhờ
tín thí thừa dư,
Quẩn quanh bên Phật sớm trưa chẳng rời.
Chiều kia kéo đến hầu Người,
Rằng “thầy như thể
mặt trời sáng soi.
Chúng con như cỏ ven đồi,
Như bèo mặt nước nổi trôi mấy dòng.
Nhờ ơn tựa dưới vừng hồng,
Khiến xuân hoa nở hạ nồng trái ương.
Giờ xin cậy
đấng Pháp vươngĐộ cho vượt thoát mê trường tham si.”
Phật ngồi nở nụ
từ bi,
Truyền cho
thập giới tam quy rõ ràng.
Áo xưa rách rưới
nghèo nànBỗng dưng
hóa hiện y vàng cà-sa.
Lòng tươi như cánh xuân hoa,
Năm trăm người tạ Phật-đà xiết bao.
Rồi tìm rừng thẳm núi cao,
Động xanh thiền lự, suối đào quán mây.
Nghe tin, người khắp đó đây
Đều chê “Phật độ
ăn mày, gớm sao!
Chẳng phân kẻ thấp người cao,
Bần hèn so với
sang giàu chẳng hơn.
Từ nay
tín thí cúng dườngChỉ dành dâng đức
Pháp vương trời người.
Của đâu cho hạng chây lười,
Dựa vào Phật pháp mong đời ấm no…”
Thôi thì tiếng nhỏ tiếng to,
Bới lông tìm vết vu cho đủ điều.
Làm năm trăm vị Tăng nghèo
Tủi thân, xét phận thấy chiều xót xa.
Bảo nhau về
trước pháp tòa,
Quì thưa “vì chuyện bẩn nhà
Như Lai.
Chúng con xin lại về đời,
Dám đâu
gai mắt những người
tín tâm.”
Phật rằng “pháp tựa
hư không,
Ra vào ai cũng một lòng như ai.
Pháp như lửa lớn
mặt trờiCháy tan cả nghiệp
ba đời tham si.
Pháp như thanh tịnh lưu ly,
6.050. Sạch băng trần nghiệp kể gì hèn sang.
Bước chân tám nẻo đường vàng,
Trí bi làm sức phục hàng
tham mê.
Nhân gian mát cội Bồ-đề,
Lời
hư giả đó muôn bề mặc ai.”
Năm trăm vị lạy tạ Người,
Bước chân tản mác khắp đồi, núi, khe.
Quyết lòng tu
vượt sông mê,
Chẳng bao lâu đã
Bồ-đề tâm khai.
Một hôm
thái tử cúng trai,
Thỉnh riêng Phật với một vài
thánh Tăng.
Trước khi Phật tới lễ đàn,
Bảo năm trăm vị bay sang
cõi trờiHái ngay mươi thúng đào tươi
Đem về
bố thí cho người tín gia.
Lầu riêng
thái tử Kỳ-đà,
Cúng dường Tăng Phật trên tòa ngọc châu.
Bỗng dưng có
áng mây mầu
Giữa
hư không bắc một cầu
diệu quang.
Trông lên
thấp thoáng y vàng,
Năm trăm vị xuống
đàn tràng trầm bay.
Đứng nhìn
dung mạo ngất ngây,
Thiền oai như thể hương bay rừng đàn.
Thưa “Tăng chúng ở đâu sang,
Thần thông vượt ánh
dương quang giữa trời.
Lại cầm hoa báu đào tươi…”
Phật rằng “chúng đó phải người đâu xa.
Thuở chưa nương bóng Phật-đà,
Bần hàn không ruộng không nhà,
xin ăn.”
Lệ mừng
thái tử khôn ngăn,
Khấu đầu dưới Phật
ăn năn tội mình.
Đã coi giới đó
đáng khinh,
Biết đâu nghèo mạt mà
tinh tiến thường.
Hầm than vẫn giấu
kim cương,
Đất sâu vẫn lẫn
vàng ròng nguyên khôi.
Phật tâm bình đẳng nơi người,
Con sâu cái kiến không ngoài
chân như.
Hối xong,
thái tử hỏi thưa:
“Tiền duyên từ thuở xa xưa thế nào,
Sinh ra trong chốn dân nghèo
Lầm than đói khổ muôn chiều
thảm thương.
Khi cầu nương bóng
Pháp vương,
Lại nên
biến hóa khác thường
oai nghi.”
Phật rằng “chẳng dễ tư nghì,
Thường là
nhân quả khác gì trả vay.
Trừ khi Bồ-tát cứu đời,
Tạo
nhân duyên mới, chuyển dời
nghiệp chung.
Bấy giờ
nhân quả mới xong,
Niết-bàn lập giữa trần hồng đổi thay.
Nguyên xưa cũng tại châu này,
6.100. Có rừng mây tía trùng vây động hồng.
Hai nghìn
ẩn sĩ tu non,
Tọa thiền đỉnh ngọn chon von sương mù.
Nguyện chung hóa cõi Diêm-phù,
Mưa hòa gió thuận bốn mùa tốt tươi.
Trong thôn kia có một người,
Phú gia địch quốc
đời đời tu nhân.
Với lòng hộ nước hộ dân,
Khuôn trì
Tam bảo một thân xá nào.
Vườn riêng nghìn mẫu mai đào,
Đến mùa
kiết hạ tìm vào động khe.
Thỉnh
Tăng chúng khắp nơi về,
Cúng dường tứ sự mọi bề kính tôn,
Vườn riêng thành chốn
thiền môn,
Nhân gian thành cõi
đạo trường nghiêm trang.
Tuyển dùng trong bọn
gia nhân,
Năm trăm người để quét sân hầu trà.
Cùng lo thắp nến, thay hoa,
Hoặc khi trai ngọ,
pháp tòa khói hương.
Năm trăm người đó quen đường
Hầu nhà
sang trọng,
coi thường chúng Tăng.
Cho nên trong lúc nói năng,
Hay chen
câu chuyện lăng nhăng để cười.
Như khi quét dọn hầu người,
Tỏ ra lơ đãng vừa chơi vừa làm.
Biết
căn cơ kẻ
si phàm,
Hai nghìn
tu sĩ chẳng mang lòng phiền.
Cuối mùa giục bước non tiên,
Chư Tăng giải hạ bên triền non mai.
Hào quang chiếu khắp
cõi trời,
Bốn phương đất trổ
hoa tươi cúng dường.
Gió nào thổi tự rừng hương,
Thần tiên cũng tự
mười phương hiện về.
Lưng trời hạc kết tàn che,
Đài sen cao tỏa bốn bề
diệu âm.
Khiến người
tỉnh giấc mê lầm,
Hốt nhiên ngộ nhập chân tâm diệu vời.
Nghĩ xưa tà ý thô lời,
Năm trăm kẻ nọ
tới nơi đạo trườngChí thành quì dưới đài hương
Ăn năn sám hối trăm đường thiết tha.
Nguyện rằng “trong kiếp
trần sa,
Đem thân
theo dấu Phật-đà tịnh tu.
Nguyện lưu
Chính pháp đền bù,
Chong đèn
bi trí cho dù bể dâu.”
Thế rồi theo đúng nguyện cầu,
Năm trăm người đó trải bao kiếp trần,
Dù khi
nghèo khổ dại đần,
Dù khi sinh chốn
thế thần quyền danh.
Cũng đều giữ được
tâm thành,
6.150. Hướng về
Phật đạo, nhân lành thêm ra.
Kiếp này lại gặp Phật-đà,
Tiền thân là bực
phú gia thuở nào.
Gặp bầy, hạc lại vút cao,
Sắc không không sắc ra vào ngại chi.
Áo gai là
giải thoát y,
Thân nghèo là ngọc
lưu ly sáng ngời.
Ngục sâu lại hóa cung trời,
Ngu si lại hiện diệu vời
chân tâm.”
Nghe xong
tứ chúng vui mừng,
Khuyên nhau thành nội thôn rừng tịnh tu.
Bể cồn đá động thâm u,
Tiếng chuông giải thoát nghìn thu trầm từ.
34. Bố thí đầuThuở xưa nước Tỳ-xá-ly,
Đất thơm in dấu
từ bi Phật-đà.
Có rừng
cổ thụ ta-la,
Một chiều chim rộn trong hoa hát mừng.
Tay Phật cầm nhánh lan rừng
Quay sang phía
hữu bảo rằng “A-nan!
Đạo ta như khói
chiên đàn,
Mười phương pháp giới tỉnh hàng
nhân thiên.
Gỗ tàn cho khói trầm lên,
Thế gian gieo một
thiện duyên cũng là.
Thân này nào khác chi hoa,
Đạo như cây quý nở ra bốn mùa.
Hương trời giữa khói sương đưa,
Hoa kia rồi cũng một mùa như hoa.
Đây xe pháp giữa Ta-bà,
Giờ sao mưa gió nghe ra
rã rời.
Dù
Như Lai trụ muôn đời
Hay là một kiếp diệu vời khác chi.”
A-nan chẳng
hiểu ý gì,
Phật truyền đến gốc cây kia trầm từ.
Bấy giờ trong cõi không hư,
Mây đen
cuồn cuộn tựa như biển trùng.
Hiện ra ma vương Ba-tuần,
Dưới hoa quì lạy
muôn phần kính tôn,
Rồi thưa “trong cõi bụi vàng,
Thế tôn đã độ vô vàn
nhân thiên.
Bến mê đã lặng sóng phiền,
Sen thơm nở giữa khởi duyên
trùng trùng.
Dù cho
vô tận vô cùng,
Đạo ngài như vẳng
hồng chung tiếng vàng.
Giờ xin thỉnh nhập Niết-bàn.”
Phật đưa
một nắm bụi tàn trên tay.
Bụi này, hay cõi đất đây,
Đâu nhiều, đâu ít hỏi ngay Ba-tuần.
Ma rằng “chút gợn
phù vân,
Cõi này đất hẳn
muôn phần nhiều hơn.”
Nhẹ nhàng Phật nối lời luôn:
6.200. “Vậy người
mê muội trong cơn khác nào.
Luân hồi khổ ải
lao đao,
Trôi lăn bể dục còn bao nhiêu người.”
Ma rằng “thiện ác mây trôi,
Ngộ mê như ngọn sóng dời biển đêm.”
Phật cười nở nụ nhiệm huyền,
Khen ma “ngươi
chứng đạo hiền mốt mai.
Còn ta ba tháng nữa thôi,
Niết-bàn sẽ nhập như lời ngươi mong.”
Tạ lui, chúa quỉ
ghi lòngLời ban di chúc, trần hồng khó hay.
A-nan thiếp ngủ giấc ngày,
Nằm mơ thấy một bóng cây rợp trời.
Trái hoa năm sắc
tuyệt vời,
Bỗng dưng cây hóa
mặt trời chói chang.
Mười phương gội ánh mây vàng,
Rừng cây nội cỏ nở ngàn
hoa thơm.
A-nan
tỉnh giấc mộng vương,
Nghĩ rằng bóng mát y nương bấy ngày.
Rồi ra cây hóa
mặt trời,
Phương phương hoa cỏ hết nơi
an bình.
Là khi mình phải cậy mình,
Đuốc hồng soi giữa
vô minh bóng dày.
Thôi, ta sắp chẳng còn Thầy,
Dựa nương
đức độ như ngày xa xưa.
Nghĩ rồi nước mắt như mưa,
Vội vàng tìm đến trình thưa Phật từ
Những điều vừa thấy trong mơ,
Khiến lòng một tín muời ngờ lắm thay.
Phật rằng “sinh, diệt
xưa nay,
Ba tuần trăng nữa đến ngày đó thôi.”
Nghe xong
Tăng chúng rụng rời,
Bóng cây đã hóa
mặt trời tự tâm.
Phật khuyên “pháp giới
vô thường,
Như Lai đã chỉ
con đường vào ra.
Có ta hay chẳng có ta,
Tự tâm thanh tịnh vẫn là chốn nương.
Giới trai là của
tư lương,
Trí bi là cửa
chân thường tiến tu.
Vượt trăm ải mộng Diêm-phù,
Bừng soi
trí huệ cho dù không ta.
Dù ta
thường trụ Ta-bà,
Mải mê tham chấp cũng là
như không.
Việc nên ta đã làm xong,
Lời nên ta cũng tận lòng mở khai.
Chân tâm thường trụ Như Lai,
Không đi, không lại, không ngoài, không trong.”
Ngài Xá-lợi-phất than rằng
“Ôi thôi! Mắt sáng
thường hằng thế gian.
Bây giờ ngài nhập Niết-bàn,
6.250. Chúng sinh như thể con đàn cậy ai.
Con xin diệt trước
Như Lai,
Chẳng đành tâm thấy bóng ngài
hóa thân.”
Nói rồi quanh Phật ba lần,
Quì nâng chén ngọc để lên đỉnh đầu.
Trang nghiêm từ biệt giây lâu,
Trở ra hạc nội rầu rầu cỏ xanh.
Ông tìm về La-duyệt thành,
Chốn quê, nở đóa hoa lành nơi đây.
Tin ông
nhập diệt lan ngay,
Vua A-xà-thế lòng đầy xót xa.
Vội vàng lên thẳng loan xa
Cùng đoàn hộ giá tới nhà tranh quê.
Vua than “ngài nỡ vội về,
Lấy ai đem đạo Bồ-đề hóa khai!”
Rồi vua lệ nóng tuôn dài,
Khiến Xá-lợi-phất thấy
bùi ngùi thương.
Ông khuyên “muôn vật
vô thường,
Sớm làm mây nổi chiều vương mưa dài,
Xá gì
sinh tử cõi đời,
Ngại gì
một nắm xương dời dưới khe.
Thiện duyên vun cội Bồ-đề,
Kiếp như cát nổi đi về
độ tha.
Thiện căn người lại gặp ta,
Pháp duyên hóa độ Ta-bà chuyển mê.”
Ngoài kia
thiện tín dồn về,
Tin thầy sắp diệt
não nề lòng ai.
Than rằng “ngọc sáng trời người,
Ôi gươm lửa cắt
ba đời vô minh.
Ôi sen nở giữa đầm xanh,
Ôi chim giục sáng trên cành đông ba.
Nhờ thầy
đại chúng an hòa
Bấy lâu, giờ lại xót xa tiễn người.
Đuốc trầm
nghi ngút ùn hơi,
Trăng đêm
man mác mây dời tàn sao.
Ông nhập thiền giữa đài cao,
Nội xa cỏ quý
rì rào lá nghiêng.
Người lên từng
cõi trời thiền,
Như chim tiên hạc qua miền tuyết hoa.
Trên cao mây hiện sắc tòa.
Sao đan tàn ngọc, khánh hòa gió bay.
Lời tiên vọng giữa trời mây,
Ca tụng hiền giả đức dày trí cao.
Ứng cơ chuyển tiếp pháp mầu,
Diệu thanh như thế suối mau mau dồn.
Biện tài như nước trời tuôn,
Giới như
đại tướng phá cường địch mê.
Theo Như Lai mở Bồ-đề,
Pháp luân như ngọc
pha lê tuyệt vời.
Chư tiên tán tụng dứt lời,
6.300. Nhục thân La-hán vẫn ngồi
an nhiên.
Giác linh thăng hóa cõi trên,
Trong khi
đệ tử dưới miền nhớ thương.
Đây yên lặng, nụ cười buồn,
Kia ngồi than khóc bên đường như mưa.
Lại nhiều kẻ đứng trầm tư,
Tay
dâng hoa trắng tựa bờ xuân mai.
Thôn trong
cho đến thành ngoài,
Chim lồng cá chậu được người
phóng sinh.
Phương đông vừa dựng bình minh,
Một làn mây đỏ hóa hình cỗ xe.
Từ xa đem lửa bay về
Kết thành tháp lửa bốn bề
khói thơm.
Tiếng kinh thơ tụng bên đường,
Hoa như mưa lấp than hường dần tan.
Hiện ra xá-lợi hồng vàng,
Tựa kho ngọc báu bên đàng tỏa soi.
Lại nghe trên đỉnh từng trời,
Tiếng đàn ảo diệu chen lời hát ca.
Giây lâu, trời lặng như xưa,
Vua A-xà-thế bấy giờ bình thân.
Nhặt, chia xá-lợi nhiều phần,
Truyền đem xây cất mấy lần tháp cao.
Lại truyền định những nơi nào,
Dựng bia, khắc chữ, chép sao công người.
Thả tù,
bố thí nơi nơi,
Gọi là tưởng niệm
cuộc đời thánh Tăng.
Chuyện này do một khách thương,
Đem về
bạch Phật tại rừng ta-la.
A-nan khi đó nghe qua,
Nhớ thương hiền hữu lệ sa vắn dài.
Thế tôn trông thấy
mỉm cười,
Giơ tay vẫy đến bên người bảo ban
Rằng “thánh Tăng nhập Niết-bàn,
Pháp thân còn mãi vô vàn
thiên thu.
Dù cho hoa cỏ Diêm-phù,
Dù cho khe suối sương mù gió mây.
Pháp thân còn đó còn đây,
Giới hương giải thoát tròn đầy nguyệt trong.
Nghìn xưa nơi cõi bụi hồng,
Phất từng diệt trước chẳng lòng nhìn ta.”
A-nan vội
chắp tay hoa
Dưới thềm thỉnh
pháp duyên là trước sau.
Phật kể “xưa kiếp Diêm châu,
Nguyệt Quang vua nọ đức giàu
trí bi.
Lúa thơm muôn dặm xanh rì,
Thành cung một cõi
lưu ly ngọc ngà.
Nọ lầu vàng rực mây tà,
Kia đền hồng ngọc chói lòa nắng mai.
Muôn muôn
tụ lạc an vui,
6.350. Sông biêng biếc lụa vọng lời đò ca.
Một hôm vua ngự
thưởng hoa,
Nghĩ rằng đời khác như là xuân thu.
Nghiệp xưa
tích đức hiền tu,
Kiếp này
quả báo cho dù tốt tươi.
Phúc duyên cảm đến người người,
Núi sông thành quách ngời ngời vàng châu.
Bây giờ cầu chút duyên sau,
Mở kho
bố thí muôn lầu gấm hoa.
Dù cho muôn cõi muôn nhà,
Dù cho khắp chốn Ta-bà ngại chi.
Tin vua
bố thí loan đi,
Nhân dân khắp cõi tìm về tận nơi.
Sớm hôm
lần lượt bao người,
Xin tiền, xin vật, như
lời hứa ban.
Tiếng truyền
oai đức Nguyệt Quang,
Khiến cho muôn nước lân bang nể vì.
Phương Tây có vị vua kia,
Ghét ghen là thói
so bì xưa nay.
Càng nghe lòng giận càng đầy,
Liền bàn mật với nhóm bầy tôi thân.
Hỏi ai chước quỉ mưu thần,
Hạ
Nguyệt Quang được
một lần thị oai.
Có người
giáo sĩ mỉm cườiNói “xin lấy hẳn đầu người
lập công.”
Vua nghe như mở tấm lòng,
Hẹn cho hai tháng phải xong việc này.
Việc thành hứa gả con đây,
Chung nhau
quyền lợi đủ đầy trị dân.
Vui mừng,
giáo sĩ lui chân,
Về non
cầu đảo quỉ thần giúp tay.
Hành trang sửa soạn đó đây,
Voi chăng màn gấm đợi ngày kéo sang.
Bấy giờ vua nước
Nguyệt Quang,
Nào là chớp giật nào hàng tinh rơi.
Khói sương ùn mấy ngày trời,
Rồi là sao chổi
sáng ngời hiện ra.
Quạ đen bay lại bay qua,
Lại thêm
dã thú gầm như động rừng.
Hết dân
nằm mộng bất tường,
Trống rồng bị thủng, lọng vàng ngả nghiêng.
Lại vua trong giấc nửa đêm,
Nghe như
xào xạc ngoài thềm lá rơi.
Trông ra: quỉ xám đương cười,
Tay cầm vương miện trỏ nơi ngai rồng.
Điềm chi, khiến mộng buồn lòng,
Bách quan nghe chuyện
vô cùng xốn xang.
Đến hôm, trước cửa thành vàng,
Có người
giáo sĩ lân bang xin vào
Tâu “ngài
phát nguyện thanh cao,
6.400. Đạo tâm tỏa sáng khác nào
thái dương.
Nên tôi từ chốn
Tây phương,
Vượt trăm dặm núi đỉnh sương hướng về.
Nghe ngài theo hạnh Bồ-đề,
Bao phen
bố thí chẳng hề tiếc đâu.
Nhưng dù ban phát ngọc châu,
Cũng là
vật dụng phải đâu khác người.
Dám
cho đến máu thịt rơi,
Dám đem mạng sống cứu đời mới cao.
Nên tôi chẳng ngại xin vào
Giúp vua tự thắng, nêu cao gương hiền.
Nhưng vì rất khó, cho nên
Ngài có nhận trước mới xin
giãi bày.”
Đức vua
hoan hỉ chịu ngay,
Dù quên
thân mạng lòng này ngại đâu.
Nghe xong
đạo sĩ khấu đầu,
Dưới thềm khúm núm thêm câu dối lừa:
“Mẹ tôi nằm bệnh từ xưa,
Quỉ ma
hành hạ thân già đớn đau.
Pháp sư truyền dạy
đã lâu,
Bệnh này chữa phải có đầu đế vương.
Như ngài phúc tuệ đôi đường,
Thì bộ óc chính là phương thuốc thần.
Nói ra, thực rất ngại ngần,
Dẫu rằng đã được
minh quân rộng lòng.
Phần tôi
kính trọng ngai rồng,
Thay trời trị nước
vô cùng lớn lao.
Trần gian dễ thấy ai nào,
Đã ngôi báu, lại đức cao như ngài.
Nhưng phần xót
mẫu thân tôi,
Tuổi xuân đã chịu
suốt đời gian lao.
Đến già lại
bệnh khổ sao,
Nghe mẹ rên xiết như bào lòng con.
Nên liền xin lượng núi non,
Bằng không, xin chịu nát mòn cũng cam.”
Vua rằng “ngươi cứ yên tâm,
Đã
lời hứa trước, tấm thân chẳng nề.
Đầu ta, ngươi sẽ đem về
Chữa bệnh
ma quỉ, trọn bề dưỡng sinh.”
Triều thần
sửng sốt khiếp kinh:
Vua
bố thí cả mạng mình nữa sao!
Người băng lên chín bệ cao:
Xin ngài ở lại ngôi cao dân nhờ.
Người thì
lý luận trình thưa,
Đem tài hùng biện khuyên vua đủ điều.
Nhưng lòng son vẫn không xiêu:
“Các khanh thôi chớ buồn nhiều vì ta.
Phải đem đức trải gần xa,
Không còn
vị kỷ mới là
độ sinh.
Nhân gian cần có gương lành,
Ta xin treo để thức tình người sau.
Thân này, vì muốn giữ lâu,
Thì trăm năm cũng qua cầu mà thôi.
Điện vàng
đừng sợ không ngai,
Con ta lại sẽ nối ngôi trị vì.
Có chư khanh đó, lo gì,
Việc dân việc nước mọi bề vẫn yên.”
Đại thần có vị tiến lên
Rầu rầu đứng trước vua hiền lạy thưa:
“Thánh hoàng,
hạnh nguyện độ tha,
Cắt đầu
bố thí để mà khuyến dân.
Xin tha lỗi kẻ tôi thần
Chẳng đành
ngó thấy mình rồng máu hoen.”
Nói rồi tự móc trái tim,
Bàn tay máu nhuộm dâng lên ngai vàng.
Trăm quan xiết đỗi
kinh hoàng,
Dẫu là gan sắt cũng hàng lệ rơi.
Còn vua, di chúc
hẳn hoi,
Lại thêm căn dặn đủ lời trước sau.
Rồi cầm gươm tự cắt đầu
Trao cho
giáo sĩ vẫn chầu một bên.
Người này vội vã lên yên
Trốn đi như thể một tên tội tù.
Bấy giờ khắp cõi Diêm-phù,
Đất bằng chuyển động vụt vù gió bay.
Thiên cung mấy đỉnh từng trời,
Kim thân Bồ-tát rạng ngời chiếu soi.
Vội vàng thiên chúng nơi nơi
Trải hoa mười cõi dâng người
đại bi.
Mưa thành cát ngọc
lưu ly,
Gió thành
diệu nhạc muôn vì sao nghiêng.
Hương trầm từ đất bốc lên,
Chim tha mây trải khắp miền hót ca.
Thần dân trồng mấy dặm hoa,
Nguyện cho
thần thức vua hòa
đại tâm.
Hóa siêu trong cõi
mê lầm,
Như hoa nở giữa sơn lâm mấy trùng.
Trong khi
giáo sĩ băng rừng,
Đem đầu vua, trốn trên lưng ngựa dài.
Phóng đi nào biết đêm ngày,
Lạ sao đầu nọ tỏa
hoài hương thơm.
Khi về tới được
biên cương,
Kiệu son sẵn đợi thẳng đường tiến kinh.
Tin loan khắp chốn khắp thành,
Khiến dân nước đó giật mình ngẩn ngơ.
Bấy giờ ở chốn cung vua,
Mừng như thắng trận treo cờ kết bông.
Dựng đài cao giữa chợ đông
Để bêu thủ
cấp cho công chúng nhìn.
Sớm mai, vừa nhạt bóng đêm,
6.500. Dân từ khắp nước đã
chen nhau về.
Nóng xem cho được đầu kia,
Của người
hiền đức bốn bề
tiếng vang.
Trên đài cao, dưới nắng vàng,
Hộp sơn vừa mở thoảng làn hương bay.
Nhưng sao thật lạ lùng thay,
Đầu vừa khỏi hộp, hóa ngay sen hường.
Hào quang chiếu rực
mười phương,
Gió thơm
man mác, mây buông tàn đào.
Lại nghe đàn sáo ngọt ngào,
Âm thanh nhẹ tự trời cao thoảng về.
Người người
khai ngộ lìa mê,
Chắp tay cung kính, bốn bề lâng lâng.
Nguyệt Quang xưa bực
minh quân,
Đức dày nhiều kiếp
tiền thân góp thành.
Vị quan tự móc tim mình
Là Xá-lợi-phất
tu hành kiếp nay.
Suốt trong sáu cõi đổi thay,
Bao lần
thị hiện đủ đầy cúng ta.
Dấu chân in khắp Ta-bà,
Bây giờ rũ nắm
trần sa giữa dòng.
Như chim thần vút qua sông,
Tiếng kêu khiến nở vừng hồng đỉnh xa.”
Thuyết xong Phật dạo đường hoa,
Bước yên dưới liễu la đà nắng bay.
35. Bố thí mắtNgày xưa, trong một rừng cây
Bên thành Xá-vệ, dưới mây phớt hồng.
Chim vi vút hót trong sương,
Hoa man mác nở bên đường mát tươi.
Hương bay mấy dặm tơ trời,
Nhà tranh đôi nếp thoảng hơi tịnh trầm.
Tiếng vàng giữa chốn
tuyền lâm,
Như xuân suối chảy như đầm thu hơi.
Liễu buông quanh một rừng người,
Như chim từ bốn phương trời họp đây.
Trên nền cỏ mướt nhung say,
Thiện nam tín nữ quanh Thầy trầm tư.
Phật ngồi khoác tấm y tơ,
Như hoàng cúc nở mấy bờ nắng mai.
Tay như lan nụ búp dài,
Lời như mưa đọng trên
đài sen thơm.
Pháp mầu như ánh triêu dương
Khiến người bừng
thức giấc trường mộng say.
Có đoàn về chậm sáng nay
Vì ngang đường núi gặp đây một người.
Mù lòa từ lúc ra đời
Nên không biết cảnh đất trời là chi.
Khi nghe nhộn nhịp tiếng đi,
Bước như sóng cuộn dồn về một phương.
Lắng tai thấy vẻ khác thường,
6.550. Anh liền men tới bên đường
hỏi thăm.
Người
cho biết có
Thế tônVân du mấy ngả núi non mới về.
Đạo ngài
khai ngộ chuyển mê,
Như xuân
mầu nhiệm thoảng về muôn hoa.
Khiến cho khắp cõi Ta-bà,
Khiến cho
vô lượng trần sa trở mình.
Anh rằng “nghe được âm thinh
Thì tôi có thể biết minh chúa nào.
Hoặc như
tiếng sấm trời cao,
Thì
tâm trí hẳn sâu mầu
vô song.
Hoặc tiếng như giục trống đồng,
Biện tài như thể nghìn sông sóng dồn.
Hoặc tiếng trầm ấm như đờn
Thì thanh cao hẳn đáng tôn
thánh hiền.
Hoặc tiếng như
trời Phạm thiên,
Người này làm
Chuyển luân vương đời đời.
Phúc cao
trí huệ tuyệt vời,
Hoặc
làm Phật khắp trời người ngưỡng trông.
Xin bác
làm phúc vui lòng,
Dẫn tôi theo đến rừng trong, để tường.
Nghe
âm thanh sẽ
rõ ràng,
Biết là vị ấy giả chân thế nào.”
Nhập đoàn
bước thấp bước caoTới nơi, ngừng cạnh gốc đào cùng nhau.
Anh mù lắng tiếng nhiệm mầu,
Khánh đâu
giải thoát, chuông đâu trầm từ.
Rõ ràng âm Phạm
như như,
Lòng anh mừng quá, mắt mù sáng ngay.
Trông ra hoa lá muôn cây,
Trời
thăm thẳm lụa, người vây điệp trùng.
Trên nền cỏ mướt như nhung,
Thế tôn lồ lộ giữa
vầng hào quang.
Nắng mai rực
sắc y vàng,
Khoác trên
Tăng chúng nghiêm trang xum vầy.
Đoàn người dắt anh tới đây
Bỗng thấy đôi mắt sáng đầy
tự nhiên.
Vội vàng xúm hỏi huyên thiên,
Anh rằng “pháp Phật nhiệm huyền biết bao.
Từ âm vừa lắng tiếng vào,
Biến tan ý xấu, rạt rào tình thương…”
Nói thôi, anh vội
tìm đườngXen vào tận chỗ
Thế tôn đương ngồi.
Cánh hoa phơi phới quanh người,
Hương bay
dìu dịu một trời
hân hoan.
Phật đưa năm ngón tay thon
Vẫy anh cho tới ngồi luôn cạnh ngài.
Như cha hiền đón con trai
Bao năm biền biệt phương trời cách xa.
Anh nghe lòng nỗi thiết tha,
6.600. Khiến rưng rưng lệ chan hòa
niềm thương.
Trí sao vụt sáng như gương,
Thân sao chợt tỏa mùi hương
chiên đàn.
Như chim bỏ hội hoa vàng,
Cánh bay còn ướp đôi làn phấn thơm.
Dưới trời lãng đãng mây vương,
A-nan ngẫm chuyện lạ thường
xưa nay:
Thân phàm lại có hương bay,
Mắt đui lại bỗng sáng ngay rõ ràng?
Phật cười
hiểu ý A-nan
Muốn nghe biết rõ
tiền thân người mù.
Liền
hoan hỉ kể ngay cho
Một chuyện trong những kiếp xưa của ngài.
Thuở ấy có bực
anh tàiLàm vua một nước quyền oai lẫy lừng.
Đức cao
thu phục quỉ thần,
Ải biên
bền vững nhân dân phú cường.
Trong khi đó vua láng giềng
Tháng ngày chỉ mãi hoang đàng mà thôi.
Khi săn bắn, lúc
ăn chơi,
Việc dân việc nước buông lơi, thiết gì!
Ưa dùng những bạn
gian phiChuyên quyền
bóc lột, bốn bề oán kêu.
Nhân dân cơ cực đủ điều,
Mồ hôi nước mắt bao nhiêu cho vừa.
Hễ ai
lên tiếng can vua
Là bị
đày đọa ngục tù khổ thân!
Hiền lương có vị đại thần,
Vốn nghe
danh đức minh quân nước ngoài
Bèn
tìm cách trốn
tới nơi,
Trình bày
quốc sự, xin ngài thương cho,
Giúp quân về diệt gian nô
Cùng là bạo chúa để mà cứu dân.
Hiền vương nghe kể
xa gần,
Thương người nước đó nhục nhằn
đã lâu.
Giờ đây tìm đến mong cầu
Xin trừ
gian ác, lẽ đâu
chối từ.
Ví tu suốt kiếp
trần saChẳng bằng
cứu khổ người qua ách nàn.
Dù nơi
địa ngục cơ hàn
Còn hơn ở chốn Niết-bàn an vui.
Quên
thân mạng để giúp người,
Đó là Bồ-tát
đời đời hóa thân.
Nghĩ rồi truyền xuống quan quân
Dựng cờ
chính nghĩa mây vần sóng sôi.
Hẹn khi diệt bạo tàn rồi,
Tìm người
hiền đức dựng ngôi
thái bình.
Còn ta, sẽ rút hết binh,
Dù
đền ơn, nhượng mấy thành, chẳng ham.
Cốt sao trừ được ác gian,
6.650. Cứu người
thoát khỏi lầm than bạo quyền.
Thế là trống giục vang rền,
Ngựa voi chuyển bước gươm tên chói lòa.
Mạnh như bão nổi mưa sa,
Ải biên muôn dặm tràn qua một ngày.
Địch nghe tim vỡ hồn bay,
Nhân dân nổi dậy phá ngay thành trì.
Hôn quân cùng bọn
gian phiBị dân bắt giữ hết bề
đảo điên.
Vua truyền đóng tại ải biên,
Giúp tìm tân chúa đức hiền trị dân.
Xong rồi xuống lệnh hồi quân,
Oai danh đại nghĩa vang rần Tây Đông.
Trở về nước, lại
thong dong,
Một chiều vua dạo cánh đồng ngó hoa.
Nhìn sông nước cuộn
bao la,
Sớm mây sắc trắng chiều qua sắc vàng.
Sóng xuôi điệp điệp hàng hàng,
Bờ cao sóng đập âm vang thì thào.
Lớp này tan để lớp sau,
Vua thầm nghĩ khác chi đâu
kiếp người.
Nghiệp nhân quả báo khôn dời,
Tử sinh một chuỗi sương rơi ngọn đào.
Sóng tàn nước có đi đâu,
Lớp này tan để làm cầu lớp sau.
Ngàn năm mãi tiếng
rì rào,
Thân ta rồi cũng khác nào sóng kia.
Chẳng mau vượt khỏi sông mê,
Xá chi giả tướng đi về
sắc không.
Bỗng dưng vua gặp ngoài đồng,
Lều tranh một mái vẻ trông
tiêu điều.
Gió mưa vách rã cột xiêu,
Lách lau nắng dãi lối rêu ngõ nào.
Cỏ hoang vạch lối rẽ vào,
Nhà trong một trẻ xanh xao
mù lòa.
Mồ côi không mẹ không cha,
Ngày lần vào xóm mấy nhà
xin ăn.
Gian nan đói khổ
muôn phần,
Tháng năm
lủi thủi một thân tật nguyền.
Vua nghe lặng nghĩ
triền miên,
Dân còn đói khổ mà trên hay nào.
Nghĩ mình chót vót ngôi cao,
Hoàng cung lộng lẫy, ra vào ngựa xe.
Còn người
đói khát mù lòa,
Bọt bèo kiếp sống lê la phố phường.
Lều tranh một nắng hai sương,
Kiếp người thôi một dặm đường đớn đau.
Thế mà vua có hay đâu,
Trông ra chỉ thấy vàng châu quanh người.
Giận thân mắt sáng mà đui!
6.700. Liền tự móc một con ngươi của mình.
Nguyện rằng “cứu khổ
chúng sinh,
Thề trừ cội rễ
vô minh sâu dày.
Thề làm
lợi lạc người người,
Trần gian còn một nụ cười hoan ca.
Nguyện này nếu được như là,
Thì mắt trẻ nọ hóa ra
sáng ngời.”
Lời vua chuyển đất rung trời,
Chiều hôm chợt hiện
mặt trời bình minh.
Chim
mười phương họp trên cành,
Tha hoa cúng rải
hạnh lành đức vua.
Lạ thay đứa trẻ đang mù,
Bỗng dưng như mắt chim thu tỏ ngời.
Trông ra mặt đất chân trời,
Lúa thơm phương đất, hoa rơi ngọn cành.
Núi rừng cây trĩu trái xanh,
Chon von hồng tía mấy thành mây phong.”
Phật kết: “Vô thủy vô chung,
Nguyện Bồ-tát hóa
vô cùng vô biên.
Kiếp xa xưa kẻ tật nguyền,
Bây giờ mắt huệ hiện viền
tánh không.
Suốt nơi khắp
cõi trần hồng,
Khác chi cát bụi trong lòng bàn tay.
Kể trong kẻ tóc triền mây,
Thú trùng
cho đến cỏ cây muôn loài.
Đều là
pháp thể Như Lai,
Đến
vô lượng cõi không ngoài
chân tâm.”
Vừa nghe người phá
vọng tâm,
Như sen
thường trụ trong đầm
thiên thu.
Phát lòng
thanh tịnh tiến tu,
Nguyện muôn lượng kiếp
đền bù hạnh duyên.
36. Năm trăm người mùMột thời
đức Phật hóa duyên,
Bước
chân giác ngộ miền miền kính tôn.
Dấu đi nở một sen hương,
Mỗi lời dựng một
thái dương lòng người.
Dù nơi thành bãi chân trời,
Đâu đâu cũng
thấm nhuần lời
trí bi.
Một hôm có bọn mù kia,
Năm trăm người ngụ Xá-ly ngoại thành.
Nghĩ thân
phúc đức mỏng manh,
Đui lòa kiếm bữa
loanh quanh lần hồi.
Giờ nghe
đức Phật hiện đời,
Khiến người sáng mắt nơi nơi
thái bình.
Như trời dựng mở bình minh,
Như lòng mở hội nghĩ mình phúc duyên.
Bàn nhau kéo đến rừng thiền,
Về nương
Tam bảo đạo hiền học tu.
Mong sao thoát được bệnh mù,
Nguyện
thành Phật đạo Diêm-phù hóa khai.
Thắp truyền đuốc tuệ sáng soi,
6.750. Mở tâm cứu giúp muôn loài mê tham.
Quyết lòng họp lại một đoàn,
Dắt nhau nhờ kẻ thuộc đàng đưa đi.
Gió mưa đói rét ngại gì,
Trèo non vượt suối chẳng nề khó khăn.
Kéo nhau sang Xá-vệ thành,
Một hôm gặp một dòng xanh sóng trùng.
Làm sao vượt được qua sông,
Ạt ào sóng dội
bềnh bồng mây trôi.
Gã đưa đường bỏ đi rồi,
Bến sông còn lại bọn người dắt nhau.
Bàn quanh bàn quẩn lao xao,
Đến đây còn biết hướng nào lại qua.
Bấy giờ Phật ở miền xa,
Hào quang định lực tỏa ra bốn bề.
Thấy bọn mù đến sông kia,
Tìm cầu
chính pháp chẳng nề gian nguy.
Phật liền
nhập quán từ biKhiến cho muôn loại hướng về
đạo tâm.
Tỉnh, quê khắp chốn
xa gầnBỗng dưng náo
nức lòng dân kéo về.
Mây thành quạt lụa tàn che,
Người người
thư thái khác gì hội hoa.
Làng ven sông đánh thuyền ra
Đưa người tàn tật
vượt qua bến này.
Dắt nhau
lặn lội đêm ngày,
Hướng theo chim hót tìm ngay
cửa thiền.
Tới nơi, liền sạch oán phiền,
Nghe trong gió thoảng hương triền
hoa khai.
Phút giây, chợt cả đoàn người
Mắt bừng sáng thấy rõ đài
trầm hươngGiữa thành Xá-vệ mây vương,
Hào quang tỏa sáng
mười phương ngời ngời.
Trông lên thấy Phật
mỉm cười,
Bọn kia quì xuống lệ rơi nghẹn ngào.
Còn ngờ quáng mắt
chiêm bao,
Non mê biển oán tay nào xô tan.
Dưới hoa,
hiền giả A-nan
Thấy điều
mầu nhiệm vô vàn mừng vui.
Thế tôn hiểu ý,
mỉm cười:
“Kiếp xưa ta đã đưa người bao phen.
Mà người quá đỗi bon chen,
Che mắt
thiên hạ đảo điên nghiệp dày.
Bây giờ thọ
quả báo đây,
Mắt không ánh sáng một bầy theo nhau.”
A-nan hỏi lẽ nhiệm mầu,
Phật rằng “nhân quả trước sau chẳng dời.
Nghiệp nhân như chuỗi bóng sôi,
Lênh đênh bể ải nổi trôi dật dờ.”
Rồi ngài kể chuyện xa xưa
Có một
hiền giả sớm trưa
tu trì.
Một lòng
đại trí đại biKhiến cho muôn thú cũng về cảm theo.
Nhà bên cửa núi cheo leo,
Đưa người vực núi sớm chiều ngại chi.
Cũng nhờ thiện lực
từ biKhiến cho
ác thú không hề hại ai.
Một hôm, có toán đông người
Nói là buôn bán tìm nơi đổi hàng.
Nhờ ông hướng dẫn vượt non,
Đi qua những lối
xuyên sơn khó dò.
Hứa rằng sau mỗi chuyến đưa
Sẻ trao
vàng bạc để mà đền công.
Ông cười: “nào tôi có mong
Bạc tiền đâu, chỉ cốt lòng giúp thôi.
Xưa nay qua lại bao người,
Nghề này nghiệp nọ kiếm lời nuôi thân.
Bây giờ các chú làm ăn,
Ta mong cũng giữ
lòng nhân ý thành.
Bán buôn có lợi cho mình,
Mà người hữu ích, mới đành tâm ta.”
Bọn kia chính bọn
gian tà,
Thói quen là những
lọc lừa đảo điên.
Tài xoay trắng
hóa thành đen,
Bao người
sạt nghiệp vì tin lỡ rồi!
Giờ nghe ông nói những lời
Nghĩa nhân, nên vội đặt nhời nghĩa nhân
Rằng “chúng con rất
thiện tâm,
Chưa hề có một
lỗi lầm phiền ai.
Tới đây lạ cảnh lạ người,
Xin thầy đưa dẫn
một đời nhớ ơn.”
Thế rồi
lui tới luôn luôn,
Đèo cao, dốc hiểm, đường mòn quen chân.
Ngày kia, đến lúc
hiền nhânGần lìa cõi thế, trối trăn bọn này
Rằng “ta sắp
thoát trần đây,
Các ngươi xét lại tháng ngày đã qua.
Liệu mau hối cãi,
cần tu,
Mai đây ta sẽ độ cho
tâm thành.”
Bọn người kia chợt giật mình,
Bao nhiêu tội trước,
thực tình ăn năn.
Quì bên xác lạnh
hiền nhân,
Thiết tha
sám hối chí tâm nguyện thề:
“Quyết theo đường
sáng trí bi,
Đắp xây
tuệ nghiệp,
xa lìa mê tham.”
Kể xong
Phật bảo A-nan:
“Thế nên trong kiếp
trần hoàn như nay,
Bọn người kia lại tìm đây,
Mắt đang u tối sáng ngay như thường.”
Lau vàng lướt gió
trầm hương,
Tiếng chuông tịnh lự chiều sương dâng mừng.
Núi xa vẳng gọi chim rừng,
Hòa theo nhạc suối tưng bừng
hư không.
37. Phụng ĐôXưa, nơi xóm trúc thôn đông
Có nhà vườn rộng cây trồng tốt tươi.
Lúa ngô xanh một nương dài,
Nối dòng hiền đức, sinh người khôi ngô.
Ba trai hẳn vững cơ đồ,
Lại riêng chàng út: Phụng Đô
biệt tài.
Đã thường
cần mẫn hơn ai,
Dâu xanh tốt lá, lúa dài trĩu bông.
Mà khi ngơi việc ruộng đồng,
Cùng hai anh lại gắng công sách đèn.
Gương xưa, noi đức
thánh hiền,
Việc nay,
suy luận đắp rèn trí cao.
Gần xa ai cũng khen lao:
“Sinh con như vậy tiếc nào công sinh.”
Cành cao rợp bóng thâm tình,
Tay cha vẫy lại bên mình, thiết tha:
“Đã nhiều nắng dãi sương pha,
Già đây đến lúc trời xa đất gần.
Trước khi rời cõi
phù vân,
Cha còn đôi chút
ân cần này thôi.
Duyên xưa đã hẳn bao đời,
Trong tình ruột thịt
luân hồi vào ra.
Kiếp này lại họp một nhà,
Phải sao được mãi
thuận hòa dưới trên.”
Rồi ông đem
một nắm tên
Cho ba chàng trẻ đứng bên, dạy lời:
“Các con bẻ từng chiếc coi.”
Tức thì từng chiếc tên rời gẫy ngay.
Bèn cầm cả nắm trao tay:
“Giờ con bẻ thứ bó này
xem sao.”
Quả
nhiên không có chàng nào
Bẻ được nguyên bó, đành trao lại người.
Ông rằng “như lẽ trên đời,
Họp nhau thì mạnh, chia rời tất nguy.
Trời xanh cao rộng nhường kia,
Hãy như tên nọ bắn đi ngút ngàn.
Lợi riêng đôi chút đừng ham,
Túi cơm, giá áo buộc ràng quẩn quanh.
Chí như chim vượt mây thành,
Bốn phương đất thẫm trời xanh là nhà.
Lòng như núi biếc đồng hoa,
Trang nghiêm muôn loại đâu là riêng ai.
Chẳng theo nghiệp lụy an bài,
Như tên bật vút ra ngoài khuôn thiêng.”
Lắng
nghe lời đẹp cha hiền,
Ba chàng tha thiết một nguyền bên nhau.
Lo rèn
tâm trí cao sâu,
Biển đời vượt sóng
mai sau ngại gì.
Môi già tươi nụ
từ bi,
Ông thêm: “tử biệt
sinh ly lẽ thường.
Khi ta
mãn kiếp trần gian,
Xác này sẽ đặt trên giàn lửa thơm.
Các con đừng chút khóc thương,
Hãy nên
bố thí,
cúng dường phóng sinh.”
Sau khi căn dặn
ngọn ngành,
Bấy giờ ông mới nhẹ mình
an tâm.
Tìm vào hang động
tuyền lâm,
Một lòng
sám hối lỗi lầm nghiệp xưa.
Diệt tan
vọng tưởng mê mờ,
Mấy
tuần sau đã đến giờ tử ly.
Ba chàng theo đúng lời kia,
Phóng sinh bố thí không hề lãng xao.
Nguyện cho cha vút cánh cao,
Lìa xa
trần cấu cõi nào
hóa sinh.
Anh em
thân thiết bóng hình,
Ruộng vườn mầu mỡ,
gia đình thịnh vui.
Khôn thiêng, cha hẳn
mỉm cười,
Các con đoàn kết như
lời trối trăn.
Một hôm cậu út chơi rừng,
Ngồi dưới
đại thụ ngắm từng lá cao.
Bỗng dưng thấy
áng mây đào
Hóa thành chim phượng bóng sao
dị thường.
Như non
che khuất một phương,
Rồi tung cánh lớn vút đường
không gian.
Gió lay, chàng tỉnh
bàng hoàng,
Bên mình
tơi tả hoa
vàng vàng bay.
Điềm chi? một thoáng mộng ngày!
Phụng Đô thắc mắc rời ngay về nhà
Tìm hai anh, hỏi gần xa,
Giấc mơ thế ấy, đoán ra thế nào.
Anh rằng “hẳn chí em cao
Như chim từ
áng mây đào
hóa thân.
Cánh tung vượt lụy
hồng trần,
Nên trong mộng ứng
muôn phần tốt tươi.”
Phụng Đô từ tốn nối lời:
“Nguyện xưa em vẫn khôn nguôi tấc lòng.
Chẳng
ham danh lợi đèo bồng,
Trăm năm
tù túng trong vòng nhân duyên.
Chỉ mong xa lánh lụy phiền,
Như chim liệng cánh trong miền trời cao.
Đó là điều vẫn ước ao,
Theo anh thấy có lẽ nào khác chăng?”
Người anh nói giọng
ân cần:
“Trải
đau thương mới hiểu phần thanh cao.
Vượt bùn sen nở thơm sao,
Không gian truân ấy ai nào biết ai.
Ví dù chú gặp
Như Lai,
6.950. Với lòng
ỷ lại cũng hoài một thân.
Theo anh: phải nhập
hồng trần,
Trong
phiền não ấy chim thần tung cao.
Vả chăng tự ý ra vào,
Ngộ mê không lối, ai nào cậy ai.
Ví dù quyết gặp
Như Lai,
Thử xin vượt lụy
trần ai tự mình.”
Lời anh
cặn kẽ chân tình,
Nhưng lòng em vẫn đinh ninh một bề.
Sớm mai, trời gió
lê thê,
Chân mây còn lẻ một vì sao nghiêng.
Phụng Đô khởi bước xa miền,
Hai anh đưa tiễn, lòng riêng nặng lòng!
Kẻ đi, chân nhẹ dặm hồng,
Người về mắt trĩu còn trông dõi hoài.
Vi vu lau lách bãi dài,
Nắng pha giọt nước gió mài gót lê.
Phố xa thoắt thấy đã kề,
Dừng chân, du tử ngoảnh về cô thôn.
Đâu nào… mái dựng chon von,
Mây xanh khoảng đó còn buồn dáng ai?...
Hành trang thôi lại bên người,
Gió phơi phới trỗi nhịp vui viễn trình.
Tháng ngày thả gót lênh đênh,
Khi say sông nước bình minh rực hồng.
Khi nằm bãi ngó trăng trong,
Khi
lưng chừng núi bạn cùng sơn nhân.
Vừa quen chỗ, lại rời chân,
Đó đây thoắt đã mười năm phiêu bồng.
Quen rồi biển Bắc thành Đông,
Quán biên thùy dựng, thuyền trùng dương qua.
Một hôm hái thuốc rừng xa,
Thấy cây quế nọ thực là quý sao.
Về kinh dâng tiến hoàng trào,
Ngự y tâu với ngôi cao: “quế này
Một đời ao ước gặp đây,
Rừng
linh thiêng mới sinh cây dược thần.”
Vua mừng,
trọng đãi quý nhân,
Vời vào nội điện
ân cần hỏi han.
Dinh cơ, chức tước đặc ban,
Đón người hồ hải vào hàng quyền danh.
Mau quen
nghi lễ triều đình,
Riêng còn lạ chuyện kinh thành phấn hương.
Tơ lòng chưa sợi tình vương,
Trong veo mạch suối trẩy đường gió mây.
Một chiều
man mác hương say,
Thong dong vó ngựa ra ngoài thành đô.
Lúa vàng thơm sóng nhấp nhô,
Bầy chim se sẻ quanh bờ đùa vui.
Phụng Đô mến cảnh đi hoài,
7.000. Ngựa
thong thả nhịp, nắng phơi phới tà.
Vườn ai
đằm thắm cỏ hoa,
Lối quanh tùng trúc nguy nga một vùng.
Dừng cương dưới bóng cội thông,
Tới bên rào biếc ngắm hồng tường vi.
Chợt nhìn đàn bướm say mê,
Đương bay thăm khóm hoa kia trong vườn.
Mắt theo, lòng bỗng
bàng hoàng:
Bên hoa, ai đó!
dịu dàng nét thơ.
Áo hoàng yến rũ nếp mơ,
Trâm cài nửa mái, huyền mơ diễm kiều.
Vẻ xuân tươi rạng nắng chiều,
Trên đôn cẩm thạch ngồi thêu khăn hồng.
Dáng nghiêng thược dược mơ mòng,
Chừng nghe gió cũng nao lòng cỏ hoa.
Chàng ngoài giậu biếc nhìn qua
Bâng khuâng ngắm vẻ kiêu sa đóa quỳnh.
Mà ai kia vẫn vô tình,
Ngón tay lả nét băng trinh thêu thùa.
Thoảng đâu một ánh hương đưa,
Ướp theo cánh bướm ơ hờ bay ngang.
Dừng tay kim chỉ,
mơ màng,
Nghiêng nghiêng nàng tựa dưới hàng hoa mơ.
Nhìn trời ngâm mấy vần thơ,
Khiến ai đắm giữa âm thừa chơi vơi.
Thốt nhiên chàng cất nên lời:
“Phải chăng đây mộng đó người đào nguyên?...”
Qua rào nghe vẳng tiếng khen,
Nàng buông khăn lụa, đứng lên sững sờ
Nhận ra ngoài bức giậu thưa
Có người đứng tư bao giờ không hay.
Áo người biêng biếc màu mây,
Ngoài bờ hoa tím đương ngây ngất nhìn.
Khiến lòng
bối rối càng thêm,
Quay mình toan vội
bước lên hiên nhài.
Phụng Đô
tỉnh giấc chơi vơi,
Vội vàng cất tiếng “xin người dừng chân!
Rộng lòng tha lỗi bỉ nhân
Trót gây kinh động
tâm thần chúa hoa.
Chiều nay theo dải nắng tà,
Tới đây gặp cảnh vườn thơ diễm hồng.
Nên đã mạn phép đứng trông,
Ngờ đâu
vô ý phật lòng cô nương!”
Giọng nghe
phong nhã khác thường,
Bồi hồi ngưng bước, rẽ ràng gởi thưa:
“Vì quen vắng vẻ vườn nhà,
Buổi nhàn thường vẫn thêu thùa chút vui.
Phút say cảnh bởi đẹp trời,
Có chi mà lỗi, xin người
an tâm.”
Dứt lời, nghiêng mái tóc xuân,
7.050. Dáng chào e ấp, nhẹ chân lui vào.
Để ai
trầm lặng bên rào,
Dõi theo vóc liễu nao nao
tâm hồn.
Đường về
ngơ ngẩn hoàng hôn,
Lắng trong hơi gió như còn giọng ngâm.
Rồi đêm mơ tỉnh bao lần,
Nhớ nhung về bóng giai nhân vườn nào.
Niềm riêng đâu dễ im sao,
Ngày ra tìm bạn
thấp cao thăm dò.
Mới hay vườn thẳm đào tơ
Là nơi trang trại tiểu thơ họ Trần.
Kinh thành nức tiếng
Tường Vân,
Nết
tài hoa, tuổi cài trâm diễm kiều.
Nàng mong đôi lứa đã nhiều,
Mà bông khuê các vẫn treo riêng cành.
Mừng khi nghe rõ
sự tình,
Chàng liền nhờ cậy mối manh đến người.
Song thân mến đức, chuộng tài,
Còn nàng
bẽn lẽn thầm vui duyên lành.
Hằn là hương lửa
ba sinh,
Gặp nhau chiều đó, vô tình mà ra…
Bõ lòng riêng tưởng thiết tha,
Mải
mê tâm cảm, hững hờ chỉ kim.
Nghĩ là mộng đẹp cho tim
Thế thôi, đâu dám mong thêm có ngày.
Vâng theo hôn lễ đủ đầy,
Đôi hồn xuân biếc, một dây
tơ hồng.
Bên nhau hôm sớm
thong dong,
Vần thơ dưới nguyệt, chén nồng bên hoa.
Lầu cao ngây ngất
âm ba,
Tường Vân so phím, tay ngà lướt dây.
Ru chàng say nhịp tơ say,
Tiếng mau mau cánh chim bay vút trời.
Thành đàn gỗ cũng lên hơi,
Ngón thon nhạn trắng lả lơi giữa dòng.
Tiếng trầm mưa đổ trên sông,
Tuyết sa biển bãi hoa đồng chim xao.
Lại về vi vút mây cao,
Âm âm động suối bướm nào cồn hoa.
Hơi đàn như thiết như tha,
Mạch đàn như khói trầm sa ngút vời.
Ngón mau như kéo mây trời,
Dây thưa non nỉ như lời
thiên thu.
Tay người hạc đậu trên tơ
Khiến trăng mười sáu cũng
ngơ ngẩn trời.
Song ngoài đôi cánh hoa rơi,
Nhìn hoa người lại ngỡ người trong mơ.
Ngày nào cách tấm rào thưa,
Hoa xanh riêng lối, nắng tà soi chung.
Những đêm giấc ngủ mơ mòng,
Khuê trang dệt mộng, thư phòng ước ao.
Sắt son hò hẹn kiếp nào,
Giờ nên loan phượng ngọt ngào sánh duyên.
Xuân qua hạ giục lòng quyên,
Thời gian theo mảnh trăng lên khuyết đầy.
Mười năm thoáng mộng sum vầy,
Hiên văn ríu rít một bầy trẻ xinh.
Năm trai
tuấn tú thông minh,
Cành mai lại hé nụ quỳnh đôi bông.
Một hôm chàng dạo ven sông,
7.100. Chợt buồn cá chậu chim lồng quẩn quanh.
Ngắm trời bát ngát trăng xanh,
Chim đơn tung cánh vượt thành hoa mây.
Chim ơi biển Bắc non Tây,
Còn ta chật hẹp tháng ngày
công danh.
Chim ơi đồng tía non xanh,
Còn ta quanh quất trong thành
chiêm bao.
Chim ơi cồn hạnh nội đào,
Còn ta vương víu ra vào
vợ con.
Đêm nay chim tới động non,
Vui trăng đầu bãi tiếng còn vọng sông.
Vó xuôi ngựa gõ trần hồng,
Theo giòng nước cuộn trăng không bến bờ.
Chí hồng lại giục lòng xưa,
Về phòng văn để bài thơ tạ tình.
Như chim xoải cánh lênh đênh,
Đường trăng vó giục bên dòng sông sa.
Rừng vàng trở áo thu hoa,
Lòng ơi đã rũ
trần sa sạch ngần.
Chàng lên kiếm động non thần,
Lắng tâm phá dứt
vọng trần thoát ra.
Lần hồi ngày lại ngày qua,
Hiên văn, lầu nhạc nhạt nhòa mây trôi.
Như tên vút khỏi
vòm trời,
Riêng trăng bầu bạn bên người trầm tư.
Một đêm ngồi động rêu mờ,
Trông lên hoa rụng như mưa phía ngoài.
Chàng đi dạo dưới bờ mai,
Hỏi xuân thu có dạc dài đến hoa.
Nghĩ mình đã mấy năm qua,
Lẽ đầu ngồi để xương da
rụng rời.
Nhớ xưa Xá-vệ có người
Rộng khai
chính đạo rạng ngời
trí bi.
Vậy còn
lần lữa mà chi,
Tìm Thầy, giờ phải ra đi
một lần.
Thế rồi quảy gói
phù vân,
Đường trăng như gọi
dấu chân ngút vời.
Chuyến này gặp được mới thôi,
Thử xem hư thực như lời đồn danh.
Qua bao sương ải mây thành,
7.150. Mùa xuân lại rộn trên cành tiếng chim.
Buổi kia ngừng trước non sim,
Hoa lay cánh biếc, non xanh lặng tờ.
Gặp người khoác tấm y tơ,
Trông quen tưởng đã bao giờ cố nhân.
Bỗng dưng như sạch
bụi trần,
Lòng chàng bừng dậy
mùa xuân diệu vời.
Từ đây ở lại bên Người,
Vọng tâm đã tuyệt
ba đời chiêm bao.
Một đêm phóng ánh
bạch hào,
Dù xa muôn dặm khác nào
gần đây.
Thấy trên biển Bắc ùn mây,
Sóng nhô đầu bạc gió vây gầm gừ.
Một thuyền xoay trở ngất ngư,
Nhìn trong khoang chợt thoáng ngờ dáng ai.
Đúng rồi: người anh thứ hai,
Hẳn theo thuyền kiếm
ngọc trai đảo nào.
Biển trùng
vùn vụt sóng cao,
Phút giây
sinh tử kẻ gào người la.
Chàng dùng
khẩu mật truyền xa,
Bảo anh phải niệm Phật-đà ngay đi.
Nam-mô
đức Phật từ bi,
Độ cho
thoát khỏi cơn nguy khốn này.
Người anh phách lạc hồn bay,
Bỗng
nghe lời nọ bên tai
rõ ràng.
Mọi người chợt thấy
hào quang,
Tâm kia chợt lại
vững vàng như không.
Tiếng đâu như vẳng chuông đồng,
Người người quì niệm một lòng
trang nghiêm.
Bỗng dưng gió lặng sóng yên,
Thuyền giương cánh lại xuôi miền cố hương.
Ai ai thấy chuyện lạ thường,
Lòng tin như khối
kim cương tỏa ngời.
Mùa mưa lại đã đến rồi,
An cư ba tháng tùy nơi
thuận tình.
Phụng Đô sửa áo ôm bình
Xin về quê cũ tự mình
an cư.
Lại xin mở cửa
thái hư,
Đem xuân lại nở hoa từ chốn quê.
Thế tôn ưng thuận cho về
Quê cha trồng cội Bồ-đề
đền ơn.
Hạ vàng trở gót phong sương,
Kể từ biền biệt cố hương đến giờ.
Cùng anh viếng mộ cha xưa,
Rồi vui hỏi chuyện ngày qua biển trùng.
Trong lần hiểm nạn bão giông,
Niệm
hồng danh Phật thoát vòng gian lao.
Người anh vội đáp: “lạ sao!
Cơn nguy chợt có
bạch hào chiếu qua.
Tiếng ai khuyên niệm Phật-đà,
Làm theo, quả được trời hòa sóng yên.
Nhưng em
xa cách trăm miền
Mà sao lại biết việc trên rõ ràng?...”
Phụng Đô liền tỏa
hào quang,
Mười phương như nắm bụi vàng trên tay.
Rõ ràng biển Bắc thành Tây,
Rõ ràng cõi đó phương đây
rành rành.
Bàng hoàng tâm trí hai anh,
Vội quì dưới cỏ
tâm thành tỏ thưa:
“Tiễn em ngày đó nào ngờ
Trên đường
cầu đạo gió mưa khôn ngừng.
Tưởng đâu bang núi động rừng,
Cánh chim vụt đã mấy từng mây cao.
Chợt giờ gặp lại mừng sao,
Thân em lại khoác y đào
nghiêm trang.
Kể chi trong tỉnh ngoài làng,
Đức cao hẳn khắp nước đang
mong chờ.
Hai anh
phát nguyện từ xưa,
Trợ duyên chính pháp Phật thừa mở khai.
Giờ đây mong được cúng trai,
Để gieo nghiệp đức,
vị lai cậy nhờ.
Xin em cung
thỉnh Phật từ
Cùng Tăng
thánh chúng về cho vùng này.
Ánh vàng soi chiếu nơi đây,
Khiến
công đức thấm đủ đầy
chúng sinh.”
Phụng Đô vui giúp
việc lành,
Bên hoa trầm ngát
hóa thành gió bay.
Lưng trời cuộn bóng rồng mây
Đến thành Xá-vệ lựa ngày thỉnh trai.
Vui lòng,
đức Phật Như LaiHứa cùng
đệ tử rằng Ngài sẽ qua.
Vội về nghi thiết trầm hoa,
Dựng đài
pháp bảo một nhà tịnh thanh.
Tin vui lan khắp tỉnh thành:
Tuần sau Phật
hóa duyên lành nơi đây.
Thôn Nam
cho đến đồi Tây,
Người người sửa soạn đợi ngày cung nghinh.
Những nghề săn lưới
sát sinh,
Dân đều
vứt bỏ, thêm tình
yêu thương.
Đến ngày trai thỉnh
cúng dường,
Mây đâu tụ
kết tán hường thỉnh không.
Hoa đâu nở trắng nội đồng,
Chim vui cùng với non bồng gió reo.
Trên mây một vị Tỳ-kheo
Kiết già phu tọa y điều
quang minh.
Là thầy trực nhật: Tục Sinh
Xuống đây sửa soạn lễ đình trầm hoa.
Lại thêm mười sáu lạc đà
Chúng sa-di xuống bên nhà khói hương.
Biến ra rừng núi hoa sương,
7.250. Đồi cao trái đỏ hồ vương khói dài.
Bên đường hoa trải hàng hai,
Động trầm chim họp tụng vui kinh Hiền.
Thêm năm La-hán cao niên
Hóa thành rồng cuộn kết nên một tòa.
Phun thành bốn mối tuôn ra
Mây hồng tỏa chiếu
bao la giữa trời.
Kiều-trần-như, đó năm người
Thần thông vô ngại tỏa ngời trí minh.
Ma-ha Ca-diếp
vân trình,
Một nhà giảng đọc tự mình biến ra.
Cột mây, mái hạc, thềm hoa,
Vi vu gió thoảng trên tòa nhạc bay.
Rồi Xá-lợi-phất qua đây,
Tướng oai
sư tử kết đài
trân châu.
Rung lên sấm chớp năm màu,
Tự thinh không xuống bên lầu nguy nga.
Mục-kiền-liên cũng bay qua
Hóa thành voi trắng sáu ngà lớn sao.
Mỗi đầu ngà, hiện một ao,
Mỗi ao lại nở sen đào bảy bông.
Đài sen hiện sắc cầu vồng,
Trên cầu
ngọc nữ trải hồng cánh tươi.
Đầu voi mây kết bảy đài,
Mục-kiền-liên
hóa thân ngời
hào quang.
A-na-luật hiện hồ vàng,
Bảy hồ
thất bảo rỡ ràng sắc hương.
Đài hoa óng ánh
kim cương,
Bóng A-na-luật y hường sắc bay.
Nhật quang cầm ở trên tay
Phóng ra
bốn hướng trời đầy vàng soi.
Lại Nan-đà đến lưng trời,
Ngựa xe, tàn tán diệu vời trước sau.
Vó nào nhạc chuyển mưa mau,
Ánh lên muôn sắc một bầu trời mây.
Hiện thêm bảy núi ngọc đầy,
Có đường đá trắng kết dây hoa vàng.
Ngài Tu-bồ-đề trong hang
Lưu ly mã não hàng hàng suối tuôn.
Rồi ngàn thân của La vương,
Kết thành tháp cẩn
kim cương tỏa ngời.
Đó là
thần lực tuyệt vời,
Văn-đà Ni tử giữa trời hóa ra.
Tràng tràng
anh lạc khánh hoa,
Vi vu gió thổi nhạc hòa du dương.
Và đây một
đám mây hương,
Ngàn con hạc kết lọng hường bay đi.
Thần thông ngài Ưu-ba-ly
Hóa ra lọng gấm diệu kỳ đó thôi.
Nhạn
tha khánh ngọc lưng trời,
7.300. Thoảng mưa nhã nhạc nơi nơi thái hòa.
Với nhiều sa-môn hóa ra
Lưu ly biêng biếc đường qua ngút ngàn.
Lề đá
thất bảo chói chang,
Đôi bờ dương liễu
dịu dàng lối mây.
Hàng hàng
Tăng chúng qua đây,
Nghiêm trang y pháp dáng đầy
thung dung.
Đại Ninh hiện giữa
hư không,
Bảy từng cây báu
trùng trùng trái hoa.
Dưới cây hiện bảy ngọc tòa,
Đại Ninh ngồi giữa thân đà sáng tươi.
Mười phương mây nổi hoa dời,
Hào quang nhật nguyệt cõi trời tỏa buông.
Lại tòa ngan ngát khói hương,
Tân-lư trầm mặc dáng thường
uy nghi.
Nguyệt quang đeo cổ, diệu kỳ,
Phóng soi ánh sáng muôn vì sao sa.
Vừa khi ấy, La-hầu-la
Trên vòm mây nổi như tòa non sương.
Oai nghi vẻ đẹp
phi thường,
Hóa thân làm
Chuyển luân vương giữa trời.
Năm trăm
đệ tử đến nơi,
Bày ra
cõi giới diệu vời phương mây.
Bỗng dưng ánh sáng vàng soi,
Đó là
biến tướng Phật dời
tòa sen.
Rõ ràng như
thái dương lên,
Đất trời chuyển động sáu lần
nghiêm trang.
Hai bên
Đế Thích,
Phạm thiên,
Cùng là
tiên giới khắp miền
phiêu diêu.
Lối sang mây trải vóc điều,
A-nan cùng
đại chúng theo Phật từ.
Như bầy hạc giữa
thái hư,
Đại phương mây nổi
chân như một viền.
Dưới thành dân dã trông lên,
Phật cùng
đại chúng hóa duyên miền nào.
Pháp y phơi phới tầng cao,
Khiến người sinh dạ ước ao tín thành.
Khỏi vòng tâm bệnh nổi nênh,
Mừng vui theo hướng cha lành tiến mau.
Như
cuồn cuộn sóng theo nhau,
Bao loài khác cũng tự đâu kéo về
Kính nghe
diệu pháp Bồ-đề,
Chân tâm mở lối,
si mê phá vòng.
Thế tôn hiện giữa
hư không,
Bên đường hoa nổi
bềnh bồng áo bay.
Rồi vào ngự giữa đàn trai,
Bỗng dưng
hóa hiện cõi trời như nhiên.
Một phương
tịnh độ hiện tiền,
Thế gian được thấy,
ưu phiền sạch tan.
Bấy giờ
hiền giả A-nan
7.350. Chắp tay cung kính hỏi han sự này.
Phật rằng “trong
cõi trần đây,
Ngài Ca-diếp đã ra tay một thời.
Từ tâm ngài
cứu độ đời,
Khiến cho
nhân loại được vơi biển sầu.
Trong khi có một nhà giàu
Ở vùng xa nọ, tâm cầu
tiến tu.
Phúc gây, mong
kiếp sau nhờ,
Lưng non dựng một ngôi chùa
nghiêm trang.
Chép kinh,
tạc tượng, thỉnh Tăng,
Mở trường
tu học, dựng
đàn pháp khai.
Đạo mầu mong thấm nơi nơi,
Đến khi ông
mãn kiếp người,
hóa sinhLàm vua trên cõi thiên đình,
Thành vàng điện ngọc
quang minh chói lòa.
Cháu con hưởng đức ông cha,
Khuyên nhau tu tiến thêm ra phúc lành.
Khắp nơi châu, quận, tỉnh, thành
Kính yêu
dòng họ công danh rỡ ràng.
Con trai ông có một chàng
Thay cha
hộ pháp cúng dàng
chư Tăng.
Một lòng ngăn ác phù chân,
Soi trăng
tu học chuyên cần sớm khuya.
Dù không
thế phát quy y,
Chân tu giữa cõi bộn bề tanh hôi.
Truyền lưu
chính pháp trụ đời
Chẳng
tham danh lợi nổi trôi bọt bèo.
Thuyền to vững một tay chèo,
Hộ trì Tam bảo y theo pháp hiền.
Nguyện không
thành Phật thành tiên,
Chỉ làm Bồ-tát
hóa duyên cứu đời.
Truyền đăng trí tuệ người người,
Phát tâm cứu thoát muôn loài khốn nguy.
Thực người
đại trí đại bi,
Như non ngọc giữa tham si chiếu ngời.
Trải qua bao
kiếp luân hồi,
Một lòng
hộ pháp sáng soi đạo hiền.
Bây giờ gặp lại
nhân duyên,
Như chim lớn vượt miền miền trăng sao.
Rong chơi một
giấc mộng đào,
Chí kim cương vững ra vào ngại chi.
Tâm như cửa ngọc
lưu ly,
Dấu chân đại trí đại bi rõ ràng.
Hôm nay lễ thỉnh
trai Tăng,
Cùng là Bồ-tát vân đằng qua đây
Cúng dường hiện mấy đài mây,
Tiền thân đền chút duyên may gọi là.
Dù
vô lượng cõi trần sa,
Cũng do
hóa hiện tâm ra
trùng trùng.”
Thuyết xong
Phật hiện thần thông,
7.400. Giữa trời vọng
tiếng chuông đồng
âm ba.
Khiến trời cao rụng mưa hoa,
Người người
tỉnh thức nhà nhà an vui.
Khiến đồng lúa trổ đòng tươi,
Khiến trùng thú bỏ
luân hồi hóa sinh.
38. Áo rách lòng vàngMột đêm Phật chiếu
quang minh,
Nghìn trùng mây kết
thủy tinh điện đài.
Hiện
chân tướng khắp muôn loài,
Trong hồ sen trắng cõi ngoài
vô biên.
Nước hồ là cõi
đại thiên,
Chúng sinh hiện đóa
bạch liên trùng trùng.
Đóa thì vươn ngát
hư không,
Đóa thì vừa kết nụ bông đáy hồ.
Gần đài Phật ngự ven bờ,
Có bông sen nọ tới giờ mở khai.
Phật cười nâng một ngón tay,
Hóa thành gió nhẹ mở đài nhụy hương.
Sớm mai vào lúc tinh sương,
Phật mang bình ngọc y hường
nghiêm trang.
Theo sau là ông A-nan,
Lòng hoa khói ngút sương tan đầu cành.
Xa xa cổng Xá-vệ thành,
Mây hồng
man mác, đá xanh mấy bờ.
Cánh chim trắng dệt dòng thơ,
Lề đường cỏ biếc biếc tơ
hữu tình.
Bước
chân tịch mặc
kinh hành,
Dấu in lối cát nét tranh
tuyệt vời.
Cổng thành vừa
bước tới nơi,
Phật dừng chân trước một người gánh phân.
Nhớp nhơ rách rưới
muôn phần,
Là Ni-đề kẻ hạ nhân vốn dòng.
Sớm ngày
vất vả long đong,
Nghề
quen làm mướn đổ thùng
đã lâu.
Thấy người khác, dám nhìn đâu,
Biết mình như kiếp ngựa trâu
đọa đày.
Giờ nhác thấy Phật tránh ngay,
Gánh sang lối khác bên này ngõ ra.
Nhưng lại vẫn gặp Phật-đà,
Chắn ngang, môi nở nụ hoa
đại từ.
Anh ta dừng bước ngẩn ngơ,
Phật rằng: “ngươi muốn vượt bờ mê chăng,
Xuất gia nhập chúng tu hành,
Nương theo ánh đạo trọn lành
trí bi.”
Ni-đề phục giữa lối đi:
”Dòng con hạ tiện được gì mà mong!
Chư Tăng quý tựa
vàng ròng,
Chí như rồng phượng ngoài vòng
trần lao.
Đạo ngài sánh với trời cao,
Thân hèn đâu dám
dự vào chúng Tăng.”
Thế tôn nâng dậy, bảo rằng:
7.450. ”Đạo ta như nước chảy băng nhơ phiền.
Đạo ta như lửa cung tiên,
Đốt tan
mê muội muôn nghìn sạch băng.
Đạo như đại nhật sao trăng,
Sáng soi muôn loại
mười phương làu làu.
Đạo như muôn cửa sâu mầu,
Khuôn vàng cao rộng
sang giàu kể chi.
Trí hiền cao đến
ngu si,
Ác gian
cho đến từ bi cũng là.
Một tâm vượt khỏi
ái hà,
Bụi trần vô lượng hóa ra Niết-bàn.”
Phật truyền
hiền giả A-nan,
Dắt Ni-đề xuống bến giang tắm mình.
Sau khi
hóa độ trong thành,
Ngài về
tinh xá Kỳ-hoàn nghỉ ngơi.
Gọi Ni-đề đến bên Người,
Giảng cho
Tứ đế, giới trai tẩy phiền.
Nghe xong ông
chứng ngộ liền,
Trở thành La-hán
tự nhiên phép mầu.
Tam minh soi tỏ trước sau,
Trăm thành quách mộng vút mau cánh thần.
Chuyện
Phật độ kẻ gánh phân,
Tin lan đến khắp chúng dân nội thành.
Người cho như một
điềm lành,
Người rằng ô uế đạo
thanh tịnh này.
Xôn xao ải Bắc thành Tây,
Vua
nghe tin cũng tìm ngay đến rừng.
Quyết xin Phật chớ
bao dung,
Kẻ kia ô uế bần cùng khó coi.
Tới nơi vua gặp một người,
Đang ngồi vá áo
mỉm cười an nhiên.
Dưới thềm chợt hiện
chư tiên,
Đào, hoa, hương, nhạc dâng lên
cúng dường.
Ngừng xe, vua xuống bên đường,
Chắp tay hỏi: “Đức
Thế tôn có nhà?
Kính nhờ La-hán bạch qua,
Rằng con có chuyện xin thưa cùng Người.”
Sư liền bay bổng lên trời,
Mây thành hoa báu rạng ngời
hào quang.
Vào trong
tinh xá Kỳ-hoàn,
Bạch Phật: “có đức vua sang hầu Ngài.”
Như Lai bảo trở ra mời,
Ni-đề lại hóa mây trời bay cao.
Vua đang nghỉ dưới cội đào,
Thấy sư, vách đá xuyên vào
hư không.
Rõ ràng sáu phép
thần thông,
Khiến vua
cung kính tỏ lòng sợ oai.
Theo vào đến chỗ
Như Lai,
Vội quỳ xuống dưới chân Ngài tỏ thưa:
”Thực con chưa gặp bao giờ,
7.500. Thần thông qua lại đá bờ như nay.
Phép mầu hiện hóa mây bay,
Xin
cho biết thánh Tăng này là ai.”
Phật
ung dung: “Chính là người
Khiến vua vội tới, sắp
lời khuyên ta.”
Vua Ba-tư-nặc sững sờ,
Ngờ đâu hạ tiện tu mà
thành công.
Dự hàng La-hán
thần thông,
Mà ta xưa đã nuôi lòng rẻ khinh.
Nghĩ thôi
hối hận tội mình.
Thế Tôn vẫy lại, thân tình bảo ban:
”Xem trong hư huyễn
thế gian,
Tôn ti,
giá trị, hèn sang cũng là
Cõi tù ngục nhốt người ta,
Dựng nên
giả ngã một tòa vọng mê.
Đắm tham
mãi mãi đi về,
Chơi vơi cuộn giữa bốn bề lệ sông.
Sinh ra ngã, pháp đôi vòng,
So đo, trá ngụy, một lòng hơn thua.
Cõi trần từ thuở xa xưa,
Mãi đem giả tướng tự lừa dối nhau.
Chân tâm một thể nhiệm mầu,
Như hương sen tỏa trước sau cũng đồng.
Cho nên hôm tới cửa Đông,
Là ta có ý gặp ông Ni-đề.
Biết
cơ duyên tới, đón về
Khuyến tu
rực rỡ Bồ-đề
tự tâm.
Cầu đạo lớn, vượt
mê lầm,
Trong bao nhiêu kiếp dễ tầm thấy đâu.
Hiển
chân tánh giữa tham sầu,
Dù là một sớm tâm mầu bừng soi.
Cũng cùng tánh trí tột vời,
Cũng cùng máu chảy trong người như ai.
Tâm kia chẳng có trong ngoài,
Ngộ mê chẳng có riêng loài
thấp cao.”
Vua nghe
thức tỉnh chiêm bao,
Nguyện lòng
chẳng nệ ai nào hơn ai.
Đem về một tánh
Như Lai,
Từ bi trải đến muôn loài
chúng sinh.
Gột lòng kiêu hãnh
vô minh,
Cúi đầu
sám hối, về thành
an nhiên.
Quyết lòng hóa chuyển nhân duyên,
Phá tan định thức
lưu truyền xưa nay.
Tương duyên
kết hợp nên người,
Thiên đường dựng ở cõi đời đâu xa.
Khiến cho nước nước nhà nhà,
Ấm no hiền đức thuận hòa an vui.
Ác gian cũng tự lòng người,
Thiện nhân cũng tự
cuộc đời hóa sinh.
Trên đài Phật
phóng quang minh,
7.550. Mười phương pháp giới hiện hình ao sen.
Một bông sen chợt nổi lên,
Như vành xe lớn vươn trên nền trời.
Cánh hoa năm sắc diệu vời,
Hào quang năm sắc tỏ ngời
mười phương.
Là điềm vua
Chuyển luân vươngHiện lên phát nguyện kim cương cứu đời.
Khiến cho khắp dưới
vòm trờiThương yêu thắm thiết tình người thơm hoa.
A-nan tiến lại bên tòa:
”Bạch Thầy, chắc có duyên xưa lạ lùng?
Ni-đề nay hiển
thần thông,
Vua Ba-tư-nặc
mở lòng đại bi.”
Phật
cho hay kiếp
xưa kia,
Đức Ca-diếp chuyển Bồ-đề trần gian.
Đêm ngày mõ
tụng kinh vang,
Tiếng âm
định lực phục hàng
nghiệp ma.
Ngày kia ở chốn Lam-già.
Chúng Tăng y giới Phật-đà tịnh tu.
Có thầy
thượng tọa trụ trì,
Thông minh kiêu ngạo,
sân si còn đầy.
Ỷ mình đã ở bậc thầy,
Bắt một ông đạo ngày ngày đổ phân.
Ông này chứng Tu-đà-hoàn,
Mà
Tăng chúng ở Già-lam hay nào.
Thầy kia tự ngã tự cao,
Nên nhiều kiếp bị đọa vào bần dân.
Kiếm ăn bằng cách đổ phân,
Song nhờ
kiếp trước gieo
nhân tu hành.
Nên hôm Phật tới cổng thành,
Đón người vốn tích duyên lành xa xưa.
Như
hoa sen đã đến giờ,
Tỏa hương
thanh tịnh trên bờ
nghiêm trang.
Giúp cho dứt cõi đoạn tràng,
Cánh linh điểu thoắt vượt ngang khỏi miền.
Ni-đề xưa lại có nguyền,
Mai sau thành đạo như viền trăng soi.
Cho người người khắp chốn nơi,
Gặp bậc
Đại giác chuyển đời
nhân duyên.
Khiến trần hồng với
thiên tiênCũng là một cảnh đôi miền khác chi.
Cát sông cũng tỉnh tham si,
Mười phương hiện cõi
lưu ly Phật-đà.
Nguyện kia chuyển cõi Ta-bà,
Khác chi một đóa
liên hoa diệu vời.”
Thuyết xong cuộn áo giáng trời,
Con chim hát núi âm rơi dưới cành.
Tiếng chim như rụng thiên thanh,
Hàng hàng
Tăng lữ kinh hành bên hoa.
Áo vàng
thấp thoáng chiều pha,
7.600. Bước im như suối mù sa núi nào.
A-nan đứng dưới cội đào,
Hiu hiu gió cuộn thì thào nội cây.
Chân trời, chim lẫn ngàn mây,
Cùng nhau
thấp thoáng họp bầy về Nam.
39. Đại Kiếp Tân NinhMột thời, trong ánh
từ quang,
Toàn dân Xá-vệ bốn phương vui hòa.
Có người thương khách lại qua
Đem lời
xưng tụng truyền xa cõi ngoài.
Vua
Kim Địa quốc, vốn người
Thắng dư ngàn trận, vang trời
oai danh.
Hiện là
Đại Kiếp Tân Ninh,
Nghe khen nước khác,
lôi đình nổi ngay.
Liền cho
sứ giả sang đây
Đòi chia lãnh thổ, hẹn ngày gắt gao!
Vua quan Xá-vệ lo sao,
Vội cầu Phật chỉ cách nào thoát nguy.
Tìm qua động khói tà huy,
Tới bờ rêu biếc, bái quì tỏ thưa.
Dưới giàn hoa rụng như mưa,
Phật ngồi bên suối ngâm thơ
một mình.
Sau khi nghe kể
sự tình,
Bảo về cho sứ Tân Ninh biết là
Liền bên Xá-vệ từ xưa
Có một vương quốc mạnh vừa gấp trăm.
Chở che Xá-vệ bao lần,
Giờ
nghe tin dữ, vội thăm
sự tình.
Truyền đòi
sứ giả Tân Ninh
Phải sang chầu tại triều đình đó ngay.
Không tuân sẽ bị tan thây,
Tài nào thoát được họa này mà mong.
Rồi ngài dụng phép
thần thông,
Rừng Kỳ-hoàn
hóa thành đồng nguy nga.
Ngựa, voi, xe trận bày ra,
Trại doanh san sát, rừng cờ đua tươi.
Lại thêm dũng tướng ngàn người,
Chỉ huy hàng ngũ
sáng ngời gươm đao.
Hào sâu ngút ngút thành cao,
Điện cung lầu các khác nào
thiên tiên.
Lúa thơm xanh ngắt muôn miền,
Đâu đâu cũng dựng chùa chiền
tôn nghiêm.
Lối vào thành ngọc đôi bên,
Mấy tòa
mã não mấy thềm
lưu ly.
Ngai vàng điện ngọc
uy nghi,
Văn quan võ tướng đôi bề
nghiêm minh.
Về phần
sứ giả Tân Ninh
Nghe đòi, chưa biết
sự tình ra sao.
Đất người đâu dễ thoát nào,
Thì qua xem để rồi sau liệu đường.
Phái đoàn tiến tới thành vương,
7.650. Giật mình
trước cảnh phi thường oai nghi.
Nước mình
so sánh đáng chi,
Mà vua mình lại toan bề viễn chinh!
Trước thềm, phách lạc hồn kinh,
Tay dâng thơ nọ, mặt xanh như chàm.
Giọng oai truyền tự ngai vàng,
Bắt vua
Kim Địa phải sang đây chầu.
Tội đòi đất cát không đâu,
Nuôi lòng hiếu thắng, gây sầu binh đao.
Phải sang tạ trước thiên trào,
Nếu không, toàn quốc tiêu hao tức thì.
Phán xong, cho sứ
lui về,
Một đoàn người ngựa hết bề vênh vang.
Về đến
Kim Địa khai tường
Rằng thấy nước
Chuyển luân vương thực là
Cung vàng điện ngọc nguy nga,
Thành cao, hào rộng, binh cơ oai hùng.
Nhân dân vui sướng vô cùng,
Khắp nơi tươi đẹp, suốt vùng thương nhau.
Rõ là nước mạnh dân giàu,
Ngựa voi
chinh phục năm châu cũng thừa.
Tân Ninh đại đế sững sờ,
Tưởng mình vô địch, ai ngờ đến đâu!
Vội vàng triệu tập chư hầu,
Các vua nước nhỏ vẫn chầu tiến đây.
Chiến, hòa
thảo luận hăng say,
Cuối cùng đành chịu theo ngày hẹn sang.
Để cho thấy được
Thiên vươngVà cho
tránh khỏi tai ương nước nhà.
Mang theo nhung gấm ngọc ngà,
Nghìn xe ngựa kéo,
cầu hòa lễ sang.
Xứ đoàn ra khỏi
biên cương,
Gặp toàn
ngạ quỉ bên đường
hiện ra,
Cung tên gươm giáo sáng lòa,
Vạc dầu,
địa ngục, muôn tòa lửa nung.
Sẵn sàng luộc kẻ ác hùng,
Diệt quân
xâm lược,
vô cùng gớm ghê.
Xa xa thành dựng
pha lêHào quang rực rỡ bốn bề nguy nga.
Ngàn ngàn voi ngựa kéo ra.
Toàn là dũng tướng, toàn là tinh binh.
Vua nước
Kim Địa thất kinh,
Càng trông càng tự giận mình cạn nông.
Trước nơi chín bệ thềm rồng,
Ăn năn hối lỗi, tạ lòng cao sâu.
Nguyện đem bao nước chư hầu
Theo về nghĩa cả, quy chầu
thánh vương.
Phật truyền mở tiệc thết mừng,
Món ngon thức quý lạ lùng bày ra.
Tân Ninh
quan sát gần xa,
7.700. Khắp nơi trên thuận dưới hòa xiết bao.
Kính thành hỏi đấng
tối caoCách nào
kiến quốc, cách nào an dân.
“Luật hòa là phép cường quân,
Khẩu hòa là phép nghĩa nhân trị người.
Kiến hòa
khai hóa cõi đời,
Thân hòa là phép nơi nơi
an lành.
Lợi hòa là phép yên dân,
Ý hòa là phép trừ sân muộn phiền.
Bi là sức sống
triền miên,
Trí là gươm phép dựng quyền
quốc gia.
Hùng là sức dẹp phong ba,
Dù muôn cõi cũng một nhà anh em.”
Dạy xong, truyền lấy cung tên,
Tám chàng
lực sĩ vội khiêng đến Ngài.
Bảo Tân Ninh giương thử coi,
Nhà vua ra sức một hồi: uổng công!
Phật bèn cầm lấy tên, cung,
Nhẹ nhàng giương nảy tiếng đồng sấm ran.
Bắn ra vô vạn tên vàng,
Người trong tiệc yến
kinh hoàng xiết bao.
Cánh cung ngọc tỏa
bạch hào,
Đầu tên sen nở khác nào luân xa.
Đài sen nhụy kết thành tòa,
Chuyển luân vương ngự giữa hoa diệu vời.
Gió đâu thoảng ngát trầm hơi,
Trong hương văng vẳng những lời pháp thiêng.
Khiến người nghe sạch
ưu phiền,
Thiện căn tăng trưởng, dưới trên
thuận hòa.
Người thì
phát nguyện xuất gia,
Vượt
tam thế mộng ngự tòa
kim cương.
Người thì vượt thoát
vô thường,
Khiến mười
cõi giới cúng dường ân chiêm.
Chúng sinh trên cõi
thiên tiênVừa nghe
chính pháp, hương liền tỏa đưa.
Lòng
thanh tịnh, trải hoa mưa
Cúng dường tán thán Phật thừa mở khai.
Có người
cầu đạo Như Lai,
Có người nguyện xuống
trần ai hộ trì.
Lại hàng ngạ quì tham si,
Tai nghe sấm chuyển
từ bi hóa lòng.
Tiêu tan cõi ngục lửa hồng,
Hốt nhiên siêu thoát ngoài vòng tâm lao.
Cõi
nhân thiên hóa sinh vào,
Hoặc đi
cứu khổ người nào đớn đau.
Lại loài trùng thú ngựa trâu
Vừa trông ánh sáng nhiệm mầu tỏa soi.
Tham si như
đám mây trôi,
Hóa sinh lên
cõi trời người
tiến tu.
Lại người dưới cõi ngục tù,
7.750. Người trong biển oán non thù nhẹ tênh.
Thân tâm muôn sự
an lành,
Hóa sinh lên
cõi trời xanh ngọc ngà.
Người dù
ác nghiệp trần sa,
Nghe xong rũ bụi
ái hà tanh hôi.
Tân Ninh cùng với bầy tôi
Tan tành
ác kiến,
phục hồi chân tâm.
Vội quì bên bậc
thánh vương,
Một lòng
sám hối,
vô thường nguyện qua.
Bỗng dưng thành quách muôn tòa
Bay lên cùng bóng mây sa giữa trời.
Hiện ra Tăng chúng muôn người,
Quanh tòa
thất bảo diệu vời
hào quang.
Giữa đài Phật
đắp y vàng,
Từ bi trí tuệ rỡ ràng ngọc soi.
Thần thông biến hiện diệu vời,
Các vua cùng đến bên Người
hân hoan:
“Chúng con
ngu muội gian tham,
Bây giờ nguyện
xuất thế gian tu hành.
Nghìn năm gặp được duyên lành,
Xin ngài
tế độ cho thành nghiệp lưu.”
Phật gọi “thiện lai Tỳ-khiêu!”
Là áo vua biến hồng điều cà-sa.
A-nan hầu dưới giàn hoa,
Cánh rơi như thể tuyết sa y vàng.
Thấy các vua giữa
đạo tràngBỗng dưng
biến tướng, dự hàng
thánh Tăng.
Chắp tay hỏi đức
Pháp vương:
“Xin thầy cho được
tỏ tường việc nay:
Vì sao các vị vua đây
Tóc rụng, áo đổi, hiện bày dáng tu?”
Thế tôn kể kiếp xa xưa,
Đời
Phật Ca-diếp pháp thừa mãn khai.
Sau khi ngài
nhập diệt rồi,
Thành kia mới có một người tín gia
Thường đi các chốn lam-già
Khuyến người
công đức dựng nhà
pháp Tăng.
Trợ duyên các vị
tu hành,
In kinh để chút nhân lành
mai sau.
Lại tìm
mã não trân châuTạc nên chuyện tích nhiệm mầu Phật, Tăng.
Tín gia nhiều kiếp
tu hành,
Kiếp làm vua
cõi trời xanh trị vì.
Kiếp làm chúa ngục
Thiết vi,
Đâu đâu cũng hiện
từ bi một lòng.
Trải
vô lượng kiếp trần hồng,
Kiếp này
trị quốc ngai rồng rạng oai.
Còn bao vua nước nhỏ đây,
Đời xưa công quả dựng xây chùa chiền.
Phúc lành đầy cõi
tam thiên,
7.800. Bây giờ gặp Phật
hóa duyên đại từ.
Như đêm hiện nguyệt
chân như,
Lụy
trần sa bỗng khắc giờ đập tan.
Sông xuôi lãng đãng mây vàng,
Về non đào tụ đôi hàng chim bay.
40. Vi Diệu Tỳ Khiêu Ni Một thời Phật trụ nơi đây,
Như mưa xuân đượm cỏ cây
đồng đều.
Người người theo đạo cao siêu,
Khác chi cây cỏ kết nhiều trái thơm.
Một lòng
như pháp y nương,
Mỗi người là một
đạo trường trí bi.
Trong thành Xá-vệ nước kia,
Có ngàn
thiếu nữ quy y Phật từ.
Sang giàu cho đến bần ngu,
Sáu điều
hòa hợp, cùng tu một chùa.
Ngày
ngày trai tịnh công phu,
Cầu yên dân nước,
đền bù đàn-na.
Khiến cho các hàng
tại giaTín tâm Tam bảo,
thuận hòa an vui.
Trong hàng
ni chúng có người
Vốn dòng
quý tộc tuyệt vời hoa dung.
Xưa quen nệm gấm màn nhung,
Vườn xuân
yểu điệu đóa hồng chúa hoa.
Văn chương lễ giáo nếp nhà,
Kết thành ngọc giữa Ta-bà
nghiêm trang.
Thi nhân phương ấy có chàng
Đã bao ngày tháng vì nàng ngẩn ngơ.
Khi giai nhân chọn đường tu,
Lòng si
cay đắng nên thơ bao vần.
Than người hoài phí tuổi xuân,
Đời hoa
rực rỡ có ngần mà thôi.
Được mang
nhan sắc tuyệt vời,
Sao toan dìm phí trong nơi
am thiền.
Mà nào chắc hết
trần duyên,
Mốt mai
biển ái gọi đền nguồn ân.
Bấy giờ thân mới thương thân,
Nâu sồng một thuở, vẻ xuân đâu còn!
Cô phòng ngày tháng héo hon,
Nhìn người hương lửa sớm hôm ấm nồng…
Thơ bay tới biết bao dòng,
Trước còn dạ vững, sau lòng phân vân.
Nghe ra lý lẽ đôi phần,
Lá xanh xuân nọ vàng dần hơi thu.
Ni về khép cổng chùa tu,
Sớm mai mở cổng quét thu hồng đào.
Hoa vương ngọn chổi thanh hao,
Thoảng nghe
hơi thở hương nào bướm nghiêng.
Lòng đôi cửa tục,
cửa thiền,
Ai xui con nhện giăng thêm tơ vò.
Nghĩ gì chim hỡi nhỏ to,
7.850. Có buồn lá úa trên đò nước xuôi.
Mây ơi,
trôi nổi bao đời,
Chừng như mây nhớ chân trời về mau.
Cỏ ơi, sao cỏ rầu rầu,
Vườn xanh đã rụng trên đầu mấy xuân.
Núi ơi, sao núi tần ngần,
Chân ơi, có nhớ đường
vần vũ hoa.
Tâm tình,
sư trưởng nhận ra,
Thấy ni dưới gốc mai già đăm chiêu.
Biết xuân xanh ấy diễm kiều,
Biết trong
tuổi trẻ có nhiều
đam mê.
Trách mình
giới luật nghiêm trì,
Mà đường
giáo lý trí bi lơ làKhiến cho
ni chúng trong chùa
Tâm chưa vững trước
lọc lừa thế gian.
Hôm sau lên trước quả đường,
Thỉnh xin mở một
đạo trường Như Lai.
Đem Kinh, Luật, Luận khai bày,
Thỉnh bà
Vi Diệu làm thầy
giảng sư.
Vị này
tu học công phu,
Đạo cao đức trọng sớm trưa
tu trì.
Vẻ hoa còn thắm dung nghi.
Hẳn
nhan sắc thuở xuân thì ai hơn.
Bây giờ chấp chưởng
thiền môn,
Xứng
danh tài đức đôi đường vẹn hai.
Chọn ngày
chính pháp khai bày,
Đạo trường ni chúng ngồi vây điệp trùng.
Toàn là
mơn mởn thu dung,
Tuổi hoa đương thuở
ngại ngùng chúa xuân.
Gian nan chưa lấm đường trần,
Cầu oan chưa hẳn
một lần bước qua.
Tham mê còn ám lòng hoa,
Thanh cao
gương sáng Phật-đà chưa soi.
Nghĩ nên đem hẳn
cuộc đờiLàm đề
thuyết pháp, thức người
sơ cơ.
Tiếng chuông khai giảng đến giờ,
Ni sư từ tốn lên tòa khói hương:
“Dục tâm như lửa nung than,
Huyễn mê là gốc con đàng
chúng sanh.
Tạo nên
ảo giác, giả thân,
Cuốn trong tham hận
muôn phần khổ đau.
Bần ngu
cho đến sang giàu,
Có thân có khổ như nhau khác gì.
Sanh, già, bệnh, tử,
biệt ly,
Thôi thì thù hận, thôi thì oán than.
Giả danh là cõi tù giam,
Khiến
thân khẩu ý vô vàn giáo đâm.
Thoáng
vui lòng chửa vội mừng
Đã rơi dòng lệ rưng rưng mắt đầy.
Ai từng lo héo mặt mày,
7.900. Ai từng
thức suốt đêm dài
thở than.
Dặm trường ai có
gian nanMới từng
hiểu rõ trái oan là tình.
Rồi bà thuật lại chuyện mình,
Khi xưa tên gọi Đoan Trinh diễm kiều.
Gặp người
anh tuấn mến yêu,
Nhưng
cha mẹ chẳng thuận chiều lòng con.
Ép duyên về một vương tôn,
Khiến chàng trai nọ tủi buồn ra đi.
Ba năm, sau lễ vu quy,
Phòng hương vừa tiếng hài nhi
chào đờiThì dồn dập những nạn tai.
Đầu xuân ấy, giữa đêm dài giấc mê
Chợt nghe vó ngựa giặc về,
Giật mình, lửa đã mấy bề bốc cao.
Vội vàng theo lối cửa sau
Ôm con trốn lẩn rừng sâu
lạnh lùng.
Sáng ngày trời mới hừng đông,
Lần về còn cảnh tro hồng bụi rơi.
Giặc đêm đã giết chồng rồi!
Gia nhân kẻ chết, kẻ thời trốn đâu.
Bên chồng khóc ngất giây lâu,
Rồi lo bới đất vùi sâu trọn tình.
Ôm con liền bước
loanh quanh,
Mong tìm về mái
gia đình mẹ cha.
Nửa đường, quán trọ làng xa,
Gặp đêm bọn cưới vây nhà, giết con!
Thấy nàng
nhan sắc mê hồn,
Dễ dàng toan bắt theo luôn về rừng.
Trong khi tướng cướp
vui mừngThì lòng nàng đã quyết từng phút giây.
Trả thù con, cùng chết đây,
Còn hơn sống nữa, dẫu đầy vàng son.
Lần tay giấu ngược dao con,
Lừa đâm một nhát máu tuôn thành dòng.
Bị thương, tướng cướp nổi hung,
Thế là chịu trận
hãi hùng vũ phu.
Ngất đi, tưởng chết bấy giờ,
Nào hay
hồi tỉnh lúc vừa bình minh.
Bàng hoàng giữa cảnh vắng tênh,
Xác con tím ngắt cạnh mình, hỡi ôi!
Nhận ra, lại xỉu từng hồi,
Những toan cắn lưỡi lìa đời cho xong.
Chợt nhìn tán lá sầu đông,
Cha già mẹ yếu hẳn trông tin mình.
Còn thân, thôi cũng thôi đành,
Cầm bằng phận mỏng thời xanh nhuốm chàm.
Tình duyên là những vòng tang,
Gắng về cố quận để làm đạo con.
Đường dài lê gót héo hon
7.950. Đến nhà, trời hỡi: đâu còn nhà xưa!
Gọi tìm
cha mẹ ngẩn ngơ,
Có người chỉ giúp: hai mồ cỏ xanh!
Thân già chết nạn đao binh
Năm qua, lúc giặc hoành hành nơi đây.
Dân lành lắm kẻ tan thây,
Trông thôn xóm đó: còn đầy tan hoang.
Nghe thôi
đau đớn kinh hoàng,
Đoạn tràng, ai đã đoạn tràng thế đâu!
Bước chân đưa rặt lối sầu,
Bàn tay
định mệnh đẩy nhau đường cùng.
Còn gì, trong kiếp long đong,
Cái thân bèo dạt trên dòng gió mưa.
Lần ra bến nước sương mù.
Sông ơi, phận bạc xin nhờ lòng xanh.
Gió nâng tà áo gieo mình,
Sóng dồn tay biếc đón
linh hồn sầu.
Là thôi, là hết thương đau,
Hồng nhan hẳn vượt thoát cầu truân chuyên.
Nào hay cõi sống
ưu phiềnCòn đôi má phấn trả đền, chưa tha!
Giữa dòng nước xiết
bao la,
Lưới đâu kéo vớt lên bờ thuyền ai.
Trong khoang
cấp cứu một hồi,
Nàng
dần dần tỉnh, thấy người ngẩn ngơ.
Đây là cõi thực hay mơ?
Cả hai cùng tưởng, cùng ngờ
phải chăng.
Tình đau, ghi thuở tuyết băng,
Người lên xe cưới, người thầm lặng đi!
Bao năm, ai ngóng ai chi,
Chợt nay mắt lệ đầm đìa nhận nhau.
Đôi hồi cạn tỏ nông sâu,
Chuyện nàng tự thuở lên cầu
tai ương.
Và lênh đênh những bước chàng,
Từ ra đi với sầu tan nát lòng.
Đã toan trời đất
vẫy vùng,
Phá tan những nỗi bất công trên đời.
Đem cho
thiên hạ nguồn vui,
Cánh tay niên thiếu chuyển dời nước non.
Nhưng rồi gió cát ba bôn,
Mấy năm dựng nghiệp, một cơn tan tành!
Ném gươm, bỏ mộng
tung hoành,
Một thuyền một lưới lênh đênh sông dài.
Lấy đời ngư phủ làm vui,
Khi thăm bến lạ, khi rời thôn quen.
Với đời: không kể tuổi tên,
Với lòng: không nỗi trắng, đen đo lường.
Khi say trăng nước mênh mang,
Tựa thuyền gõ nhịp ca vang đất trời.
Một mình vui nốt cuộc chơi,
8.000. Ngờ đâu nay lại gặp người thuở xưa.
Nghĩ rằng: trời định duyên ta,
Nên xin nàng nối đường tơ ngày nào.
Đoan Trinh luống
ngại ngùng sao,
Một thân chìm nổi ba đào mấy phen.
Với chàng, như đã phụ duyên,
Hay chi mà định tái nguyền lửa hương.
Nhưng chàng khăng khít lời thương:
“Đã ly biệt, lại giữa đường
gặp nhau.
Trời dành êm ấm về sau,
Lẽ đâu
cố chấp chịu sầu
dở dang.
Để cho đôi kẻ đôi đàng,
Xót nhau sinh nỗi đoạn tràng vì nhau.”
Cảm lòng chân thiết trước sau,
Gượng tươi nàng khẽ cúi đầu
tạ ơn.
Trăng thề giờ mới tròn gương,
Đời xuân giờ mới sắt son
ân tình.
Trên dòng nước biếc
mông mênh,
Sóng êm rọi tỏ đôi hình uyên ương.
Bên nhau nào kể
thời gian,
Tới khi thấy dấu hiệu nàng có thai.
Biếng ăn gần một tháng trời,
Trong thuyền choáng váng nằm
ngồi không yên.
Chàng tìm mái nhỏ thôn quen
Cho nàng thai dưỡng ấm êm đợi ngày.
Vừa xong chốn ở nơi đây,
Căng buồm, chàng lại vượt ngay sóng trùng.
Tính toan thời phải gắng công,
Lưới chài thêm để
tiêu dùng mai sau.
Mỗi lần đi cũng không lâu,
Cách ngày, chàng đã tìm nhau thăm chừng.
Lòng vui chẳng ngại nắng sương,
Sau vài chuyến, lại tính đường khác đi.
Biết rằng tại cửa sông kia,
Dân đi biển mới giàu vì
ngọc trai.
Chàng bèn: “ta thử
tới nơi,
Nghe buôn một chuyến, ăn lời cả năm.
Đi lâu cũng chỉ hai tuần,
Ở nhà nàng cứ
an tâm, dưỡng mình.”
Nhìn chồng rời bến bình minh,
Nhớ nhung thêm đậm nghĩa tình
phu thê.
Thêm yêu vườn nhỏ, bờ tre,
Chùm hoa tỉ muội bên bờ
dễ thương.
Mười hôm, sau buổi tiễn chàng
Có người lạ mặt tìm nàng báo tin:
Chàng vừa gặp phải cơn đen,
Bán buôn
phạm luật, quan trên giữ rồi.
Nhắn nàng phải gấp
tới nơiĐể
lo liệu, chậm rồi khó khăn!
Thất kinh, nàng vội theo chân
8.050. Mụ ra tỉnh đó, dám
ngần ngại chi.
Nơi đây xe ngựa bốn bề,
Đưa nàng vào một nhà kia lạ lùng.
Mụ thầm thì chuyện buồng trong,
Rồi ra bảo “hãy
nén lòng ở đây.
Tôi đi lo giúp việc ngay,
Người
quyền quý tại chốn này thiếu chi.”
Dứt lời mụ vội bỏ đi,
Nàng ngơ ngác đứng buồn tê giữa nhà.
Thấy liền mụ khác
bước raRằng “con vào nghỉ, rồi ta liệu bàn.
Nhà này
thân thiết các quan,
Việc con dễ được nể nang, cậy nhờ.”
Nói rồi tay dắt nàng vô,
Lên lầu hoa gấm, cạnh hồ nước xinh:
“Con nên tắm rửa khoẻ mình,
Chiều nay quan lớn trong thành đến chơi,
Điều cần con phải làm tươi,
Nói năng lựa ý chiều người mới xong.”
Đã hơi
nghi ngại trong lòng,
Nhìn quanh lầu vắng nhà không, đành chờ.
Chân mây thu hết nắng tà,
Tiếng cười nói chợt khắp nhà rộn vui.
Mụ đưa lên gác một người,
Nói thầm: “quan huyện đương thời đó con.
Bạc tiền như núi như non,
Việc ngài nhận giúp chẳng còn sợ đâu.”
Mụ ra khép trái cửa lầu,
Huyện quan ghé mặt, vuốt đầu lả lơi.
Giằng tay, nàng chạy ra ngoài,
Nhưng mụ nấp đó
tức thời chặn ngay:
“Này, này, bảo thực
cho hay,
Bán mi, mụ đó lấy ngay bạc nghìn.
Biết điều thì hãy chịu yên,
Vào hầu quan lớn khỏi phiền ruột ta.”
Mạnh tay mụ đẩy nàng vô,
Huyện quan như hổ đói vồ mồi ngon.
Kéo xô nàng ngã lên giường,
Nước này, đến nước liều còn đợi chi.
Vớ ngay bình sứ
pha lêĐập đầu hổ đói, đầm đìa máu chan.
Hắn vừa
cất tiếng thét vang,
Mụ ào cửa tới, mấy nàng
theo sau.
Thế là giữ cẳng nắm đầu,
Trận mưa đấm đạp nàng đau ngất hồi.
Ngừng tay, tưởng đã chết rồi,
Tối đêm chở xác vứt ngoài rừng xa.
Biết đâu còn tội đời hoa,
Bữa kia
tỉnh lại: nằm nhà ai đây?
Bên giường, bà lão mừng thay,
8.100. Một tay bưng thuốc, một tay nâng đầu:
“Con đừng ngồi dậy, mà đau,
Để lão giúp đỡ cho mau lại người.”
Lão ông cũng về
tới nơi,
Thấy nàng tỉnh hẳn mừng vui
vô cùng.
Hôm kia đi củi trong rừng,
Gặp người nằm ngất bên vùng cỏ tươi,
Xem còn
thoi thóp chút hơi,
Lại coi như bị trụy thai nguy nàn.
Cùng nhau khiêng vội về làng,
Đã qua mấy bữa thuốc thang tận tình.
Chừng nghe thấy chuyện Đoan Trinh,
Ông bà càng xét, dỗ dành bảo khuyên:
“Thôi, con cố nén lo phiền
Để mau
bình phục mà tìm chốn xưa.”
Sụt sùi, nàng
chắp tay thưa:
“Đời con có phúc mới là gặp đây,
Ơn như trời đất cao dày,
Con xin ghi tạc dạ này muôn thu…”
Cưu mang mấy chục ngày qua,
Thấy mình cứng cáp, nàng thưa xin về.
Để người trọn nghĩa
phu thê,
Ông bà đưa tiễn, dẫu nghe buồn lòng.
Dò đường tìm lại bến sông,
Dân nơi xóm cũ vừa trông thấy nàng
Xúm quanh lộ vẻ
xót thương,
Kể cho nghe chuyện lúc chàng về đây.
Nàng vừa rời bến mươi ngày,
Lo âu chàng vội đi ngay kiếm tìm.
Kẻ nào mưu tính
đảo điên,
Lừa này để dẫn tới miền tỉnh xa!
Dẫu trời sắp vẻ phong ba,
Rong thuyền chàng vẫn vượt ra ngàn trùng.
Thế là đêm nổi bão giông,
Lật thuyền chìm vỡ giữa dòng trường giang.
Ngày sau xác nổi gần làng,
Vớt lên, dân xã
chu toàn ma chay.
Lại nghe hồn lạc phách bay,
Bước đi thất thểu tới ngay mộ người.
Tàn đêm, cạnh nấm đất tươi,
Bỗng dưng nàng lại phá cười như ma.
Nhìn mây cuộn nỗi
bao la,
Tưởng đang vẫy gọi nàng ra chân trời.
Chung quanh náo động tiếng người,
Giáo gươm
va chạm, gió dời ngựa vang.
Lòng đau dựng cảnh chiến tràng,
Ngẩn ngơ đi khắp tỉnh, làng hát ca.
Con điên! ai cũng
lánh xa,
Nàng trông
thiên hạ hóa ra thú trùng.
Người thì bụng lửa mồm chông,
8.150. Mắt người là một dòng sông cuốn người.
Nghe trong tiếng nói tiếng cười,
Toàn là lửa độc ngạt trời hò reo.
Lê la nào biết sớm chiều,
Một hôm chợt thấy sói beo quanh mình.
Lại như thây chết yêu tinh,
Hoặc toàn xiềng xích ngục hình đeo mang.
Chợt đâu một ánh
hào quangNhư bông sen tỏa vô vàn tía xanh.
Bao nhiêu
quỉ sứ yêu tinh
Thoắt thay đổi, hóa nên hình người ta.
Trong khi
thấp thoáng nẻo xa,
Hoành y
rực rỡ sắc tà dương soi.
Rồi
trang nghiêm, hiện một người
Đưa tay như nụ
hoa tươi nhiệm mầu.
Lòng ai sạch oán tan sầu,
Tưởng vừa trong giấc ngủ lâu giật mình.
Áo người
rực rỡ quang minh,
Dáng đi trầm mặc ôm bình ngọc vân.
Đoan Trinh vội bước theo chân
Người về
tịnh xá Kỳ-hoàn
nghiêm trang.
Chung quanh
đệ tử hàng ngàn,
Thân như hồng ngọc, y vàng tịnh thanh.
Mây bay, chim rộn trên cành,
Xa xa suối liễu đôi nhành lơ thơ.
Tự nhiên có một
sư côHiền từ dắt đến bên hồ nước xinh
Bảo nàng tắm rửa thân mình,
Quy y Tam bảo, phúc lành
xuất gia.
Thế rồi khép động thiền-na,
Đến hôm nghe Phật lại qua
đạo trường.
Vội ra quì dưới đài hương,
Một vùng
giải thoát, gió thơm diệu vời.
Nghe thân như hết bụi đời,
Nghe tâm như sạch mây trời mù che.
Trông xa bát ngát bồn bề:
Núi non
hổ phách pha lê chói lòa.
Từng
hơi thở nhẹ vào ra
Như dòng suối lặng dưới hoa trầm từ.
Xuôi về nghìn kiếp xa xưa,
Bao nhiêu vọng tướng bây giờ sạch trơn.
Chắp tay: “bạch
đức Thế tôn,
Nhân duyên ngày trước lưu tồn
đến nay.
Thân như móc sớm, chớp ngày,
Thỉnh xin
đức Phật khai bày cho con.”
Trên đài giữa nét cười son,
Hào quang phóng tỏa muôn hòn núi cao.
Mở ra dường cõi
chiêm bao,
Nàng xưa là vợ
phú hào một thôn.
Hiếm hoi không được mụn con
8.200. Nên chồng mới chuốc hầu non một người.
Vào ra
quấn quít vui cười,
Khiến ghen như thể lửa trời nấu nung.
Lại khi sinh trẻ đầu lòng,
Vợ chồng khắn khít, ẵm bồng luôn tay.
Quên ai khó nhọc bao ngày,
Cơ đồ
sự nghiệp một tay gây dừng.
Giờ nhìn nước lã người dưng
An nhiên ngồi hưởng, sao đừng tiếc công!
Chẳng là không trả về không,
Uất ghen, tính chuyện kim đồng giấu đi.
Một chiều gặp bé trai kia
Nhởn nhơ dưới gốc hoa hoè
rong chơi.
Kim dài giấu sẵn trên tay,
Trước sau chẳng một ai hay biết nào.
Thấy nàng
lẳng lặng đi vào,
Bé kia
bước thấp bước cao lại mừng.
Cầm kim luống những ngập ngừng,
Lệ đâu lại đọng rưng rưng mắt đầy.
Bao lần định lại ngừng tay,
Trẻ kia mắt ngó
thơ ngây đâu ngờ.
Lòng ghen cùng với vò tơ,
Phân vân trăm nỗi, chần chờ mấy phương.
Tiếng ai gọi vọng sau tường,
Nghìn cơ còn lại một đường này thôi.
Nhớ xưa chồng vợ kề đôi,
Bây giờ
lủi thủi ra người
bàng quan.
Rồi khi đầu bạc thân tàn,
Họ vui con cháu vênh vang kể nào.
Hẳn dùng mắt, miệng như dao,
Bõ ngày phận nhỏ thăm chào, nể nang.
Công xưa khó nhọc, ai màng,
Gia tài này cũng chuyển sang, còn gì!
Nghĩ càng như hoảng, như mê,
Hại người, hơn chịu ngày kia hại mình.
Thế là
nắm chặt chiếc đinh,
Giơ cao đóng xuống
thân hình trẻ kia.
Đỉnh đầu máu đỏ đầm đìa,
Giơ tay
bịt miệng nghe gì tiếng la.
Chiếc đinh đóng ngập vào da,
Máu tuông mà ngó nhạt nhòa thấy đâu.
Mắt trông quáng đủ sắc màu,
Lòng ghen chỉ có oán sầu ngụt sôi.
Mưu cơ đã sắp sẵn rồi,
Vứt thây xuống giếng, vội rời vườn hoang.
Áo quần tẩy sạch
phi tang,
Cáo quan thì mất nghìn vàng là xuôi.
Buổi chiều tìm trẻ khắp nơi,
Vườn sau ruộng trước, tăm hơi nào còn.
Sau cùng vớt được xác con,
8.250. Nàng ôm khóc ngất từng cơn khác nào.
Gia nhân làng xóm xôn xao,
Quan trên là chỗ thân nào nghi ai.
Mưu gian che được mắt người,
Nhưng sao lọt khỏi mắt trời
chí công.
Trải bao nhiêu kiếp bụi hồng,
Trả vay vay trả
trong vòng trầm luân…”
Thuật xong
câu chuyện quả, nhân,
Sư bà Vi Diệu ân cần thêm câu:
“May ta gặp được đạo mầu,
Dứt vòng
nhân quả, oán sầu diệt tan.
Tội dù
Bắc hải Nam san,
Kết nhau như áo tơ vàng mặc đây.
Đổi thay còn cũng tùy tay,
Hướng tâm
quy Phật dứt ngay đó là.
Có thì muôn vật sinh ra,
Không thì muôn vật lại đà hoàn không.
Có không thì cũng tại lòng,
Đương nhiên lại bước
trong vòng chiêm bao.
Cõi đời
hoa đốm lao xao,
Tiến tu lòng
chẳng nệ vào có không.
Nguyện Bồ-tát độ trần hồng,
Cho dù sương lạnh như bông tuyết đào.
Các người mê đắm
chiêm bao,
Muôn muôn kiếp mộng kết vào cảnh thân.
Tham mê mãi mãi xoay vần,
Trăm đường cũng tại
dấu chân kiếm tìm.
Sao như đá núi
tịch nhiên,
Như chìm
tịnh độ giữa miền cỏ hoa…”
Giọng sư ấm khắp
pháp tòa,
Mở lòng ni chúng chan hòa
từ quang.
Vườn xuân
rực rỡ sắc hương,
Chùm hoa tỉ muội trên giàn nở tươi.