17. PHẨM ĐẠI CHÚNG SỞ VẤN THỨ 17
(Hán bộ phần đầu quyển thứ mười)
Bấy giờ đức Thế-Tôn từ trên mặt phóng các thứ ánh sáng màu : Những ánh sáng xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng, tía, chiếu thân Thuần-Đà. Thuần-Đà gặp ánh sáng nầy, bèn cùng
quyến thuộc mang những
thức ăn đến rừng Ta-La để
cúng dường đức Phật lần
cuối cùng và
cúng dường chúng Tỳ-kheo.
Lúc đó có Trời Đại-Oai-Đức đứng án
trước mặt bảo Thuần-Đà rằng : Ông Thuần-Đà nên dừng lại, chớ dâng cúng.
Đức Như-Lai lại phóng
vô lượng vô biên ánh sáng,
đại chúng cõi trời gặp ánh sáng nầy liền để cho Thuần-Đà đem những
thức ăn uống dâng lên Phật.
Lúc đó
chư thiên cùng các
chúng sanh đem đồ
cúng dường cũng lần đến nơi trước Phật, đồng quì bạch rằng : Ngưỡng mong đức Như-Lai
cho phép các Tỳ- kheo thọ vật thực nầy.
Các Tỳ-kheo biết đã đến giờ ăn, bèn
chấp trì y-bát
an lành ngồi yên.
Thuần-Đà vì Phật và
chúng sanh mà
bố thí những tòa báu
sư tử, treo phan lọng lụa cùng
chuỗi ngọc hương hoa. Lúc bấy giờ cả
tam thiên đại thiên thế giới trang nghiêm tốt đẹp như cõi Cực-lạc ở phương Tây.
Thuần-Đà quì trước Phật, sầu lo buồn bã bạch rằng : “ Ngưỡng mong đức Như- Lai
xót thương trụ thọ một kiếp, hoặc dưới một kiếp.”
Phật bảo Thuần-Đà : “ Ông muốn
đức Phật ở lâu nơi đời, phải nên mau dâng
cúng dường lần
cuối cùng.
Lúc đó tất cả Đại-Bồ-Tát,
chư thiên,
mọi người người khác miệng đồng lời xướng rằng : “ Lạ lùng thay ông Thuần-Đà, trọn nên
phước đức lớn có thể làm cho đức Như-Lai nhận lấy lần
cúng dường cuối cùng.
Chúng ta vô phước
uổng công trần thiết !”
Đức Thế-Tôn muốn làm cho tất cả
đại chúng mãn nguyện, mỗi mỗi lỗ chơn lông trên thân
Phật hoá thành
vô lượng Phật mỗi
đức Phật đều có
vô lượng Tỳ-kheo Tăng. Chư Phật và Tỳ-kheo Tăng nầy
thị hiện thọ sự cúng dường của Đại- chúng. Thích-Ca Như-Lai tự thọ phần của Thuần-Đà dâng.
Do
thần lực của Phật tám hộc cơm của Thuần-Đà đều
cung cấp đầy đủ tất cả Đại-hội. Thuần-Đà thấy vậy,
vui mừng hớn hở, tất cả
đại chúng cũng đều
hoan hỷ.
Toàn thể đại chúng lúc đó đều nghĩ rằng : Nay đức Như-Lai đã nhận sự
cúng dường rồi, không bao lâu sẽ vào Niết-Bàn. Lòng
đại chúng vừa buồn vừa mừng.
Lúc bấy giờ rừng cây Ta-La vốn hẹp nhỏ, do
thần lực của Phật, khoảng
không gian như mũi kim đều có
vô lượng chư Phật Thế-Tôn và
quyến thuộc Bồ- Tát đồng ngồi thọ thực. Những
thức ăn cũng đồng không sai khác.
Lúc đó
chư Thiên,
mọi người, A-Tu-La
vân vân, khóc lóc buồn khổ than rằng : Nay đức Như-Lai đã thọ lần
cúng dường cuối cùng củachúng ta, rồi đây
đức Phật sẽ nhập Niết-Bàn,
chúng ta còn biết sẽ
cúng dường ai. Nay
chúng ta mất hẳn bực điều-ngự
vô thượng, khác nào người mù không con mắt.
Đức Thế-Tôn vì muốn
an ủi tất cả
đại chúng mà nói kệ rằng:
Đại chúng chớ buồn than, Pháp chư Phật phải vậy. Phật nhập nơi Niết-Bàn, Đã trải
vô lượng kiếp. Thường hưởng vui
vô thượng, Vĩnh biễn ở
an ổn.
Mọi người lóng lòng nghe ! Phật sẽ nói Niết-Bàn : Phật đã lìa
ăn uống. Trọn không khổ
đói khát, Phật sẽ vì
mọi người, Nói nguyện
tùy thuận kia, Khiến tất cả
đại chúng, Đều được vui
an ổn, Nghe xong nên
tu hành, Pháp thườngtrụ của Phật.
Giả sử quạ chim cắt, Chung một cây làm ổ. Như anh em
thân yêu, Phật mới Niết- Bàn hẳn. Như-Lai xem tất cả, Thương như La-Hầu-La, Thường làm thầy
chúng sanh, Sao lại Niết-Bàn hẳn.
Giả sử rắn chuột sói, Đồng
ở chung một hang, Thương nhau như anh em, Phật mới Niết-bàn hẳn. Như-Lai xem tất cả, Thương như La- Hầu-La, Thường làm cha chúng snh, Thế nào Niết-Bàn hẳn.
Giả sử hoa thất- diệp, Thơm như hoa bàn-sư. Trái cây ca-lưu-ca, Chuyển làm trái trấn-đầu, Như- Lai xem tất cả, Thương như La-Hầu-La, Sao lại bỏ Từ-Bi.
Vĩnh viễn nhập Niết- Bàn.
Giả sử nhứt-xiển-đề,
Hiện thân thành Phật đạo, Thọ hẳn vui
đệ nhứt, Phật mới vào Niết-Bàn. Như-Lai xem tất cả, Đều như La-Hầu-La, Sao lại bỏ Từ-Bi,
Vĩnh viễn nhập niết-Bàn.
Giả sử tất cả chúng.
Đồng thời thành Phật đạo,
Xa lìa các
lỗi lầm, Phật mới nhập Niết-Bàn. Như-Lai xem tất cả, Đều như La-Hầu-La, Sao lại bỏ Từ-bi,
Vĩnh viễn nhập Niết-Bàn.
Giả sử nước đái muỗi, Ngập lụt cả
đại địa, Ngập núi và trăm sông, Biển cả đều đầy tràn. Nếu có việc như vậy, Phật mới vào Niết-Bàn. Lòng bi xem tất cả, Đều như La-Hầu-La, Thường làm thầy
chúng sanh, Sao lại Niết-Bàn hẳn. Vì thế nên
mọi người, Phải
ưa thích chánh pháp. Chẳng nên sanh
buồn rầu,
Than thở mà khóc lóc. Muốn có hạnh chơn chánh, Phải
tu Phật thường trụ, Nên xét
pháp như vậy, Còn mãi chẳng
biến đổi. Lại nên
suy nghĩ rằng : Tam-Bảo đều
thường trụ, Thời đặng
lợi ích lớn, Như cây khô sanh trái. Đây gọi là Tam-Bảo,
Tứ chúng phải khéo nghe, Nghe rồi thêm
vui mừng, Liền
phát tâm Bồ-Đề. Nếu biết được Tam-Bảo,
Thường trụ đồng chơn- đế, Đây thời là
thệ nguyện,
Tối-thượng của chư Phật.
Nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, có thể
y cứ theo
thệ nguyện tối thượng của Như-Lai mà tự
phát nguyện, nên biết người nầy không có
ngu si, kham
lãnh thọ sự
cúng dường. Bởi
nguyện lực nầy có
công đức quả báo rất
thù thắng nơi
thế gian, như A-La-Hán. Nếu ai chẳng thể
quan sát Tam-bảo
thường trụ như vậy, kẻ nầy là chiên-đà-la.
Nếu có người biết được Tam-Bảo là
thường trụ, là
nhơn duyên pháp chơn thật, thời lìa khổ đặng an vui, không có gì nhiễu hại lưu nạn được người nầy.
Lúc đó cả
đại chúng trời, người, a-tu-la
vân vân,
nghe lời Phật dạy, đều
vui mừng hớn hở
tâm tưởng đều nhu,
dung nhan vui vẻ oai đức thanh tịnh, khéo dứt
ngũ cái,
tâm không phân biệt cao hạ, biết Phật là
thường trụ. Do đó
đại chúng sắp đặt các thứ
cúng dường,
cõi trời rải các thứ hoa trời, hương bột, hương thoa, đánh
trống trời, trỗi
kỹ nhạc trời để
cúng dường Phật.
Phật bảo Ca-Diếp Bồ-Tát rằng : “Ông thấy việc
hy hữu của
đại chúng đây chăng ?
Ca-Diếp Bồ-Tát
bạch Phật : “ Thế-Tôn ! Tôi đã thấy. Tôi thấy các đức Như-Lai đông
vô lượng vô biên không
thể tính đếm,
lãnh thọ những
thức uống ăn của
đại chúng cúng dường. Lại thấy chư
Phật thân rất cao lớn, mà chỗ ngồi chỉ choán khoảng bằng mũi kim. Chúng đông
vi nhiễu không
chướng ngại nhau. Lại thấy
đại chúng đều
phát nguyện nói mười ba
bài kệ. Tôi cũng biết
đại chúng đều tự nghĩ rằng : Nay đức Như-Lai riêng thọ tôi
cúng dường.
Giả sử tất cả vật thực của Thuần-Đà dâng cúng, nghiền nhỏ như
vi trần, đem một
vi trần dâng một
đức Phật, vẫn không khắp đủ, nhưng nhờ
thần lực của Phật, mà đều
cung cấp đủ tất cả
đại chúng, chỉ có các vị Đại-Bồ-Tát như Văn-Thù Sư-Lợi Pháp-Vương
Tử vân vân, mới biết được sự
hi hữu nầy. Đây đều là đức Như-Lai
phương tiện thị hiện, chúng Thanh-Văn và A-Tu-La
vân vân đều biết đức Như-Lai là
pháp thường trụ”.
Đức Thế-Tôn bảo Thuần-Đà rằng : “ Nay ông có thấy việc
hi hữu lạ lùng nầy
chăng ?”
_ Bạch Thế-Tôn ! Tôi thiệt có thấy. Tôi trước thấy
vô lượng chư Phật, ba mươi hai tướng, tám mươi thứ tốt
trang nghiêm nơi thân. Chư Đại-Bồ-Tát
cung kính vi nhiễu”.
Phật bảo Thuần-Đà : “
Vô lượng chư Phật mà ông đã thấy, đó là ta
hoá hiện ra để đem sự
lợi ích vui mừng đến cho tất cả
chúng sanh. Hàng Đại Bồ-Tát như vậy
công hạnh tu hành chẳng thể nghĩ bàn, có thể làm
vô lượng Phật sự. Nầy Thuần-Đà, nay ông đã
thành tựu hạnh Đại-Bồ-Tát, đặng trụ
thập địa, đã làm xong đầy đủ
công hạnh của Bồ-tát”ï
Ca-Diếp Bồ-Tát
bạch Phật : “ Thế-Tôn ! Đúng như
lời Phật dạy. Chỗ
tu tập của Thuần-Đà trọn nên hạnh Bồ-Tát, tôi cũng
tùy hỷ.
Hôm nay đức Như-Lai vì muốn đem sự
sáng suốt lớn cho
chúng sanh đời
vị lai, mà nói kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bàn nầy.
Bạch Thế-Tôn ! Tất cả
khế kinh có còn nghĩa
dư thừa hay không nghĩa
dư thừa ?
Nầy Thiện-nam-tử ! Kinh của Phật đã nói cũng có nghĩa
dư thừa, cũng không nghĩa
dư thừa.
Thuần-Đà
bạch Phật : “ Thế-Tôn ! Như lời Phật nói :
Tất cả vật của mình có, Đem
bố thí cho tất cả, Chỉ phải nên đều
tán thán, Trọn không được có khuy tổn.
Bạch Thế-Tôn ! Nghĩa đó thế nào.
Trì giới, hủy giới có sai khác gì ?
Phật nói : “ Chỉ trừ một người,
ngoài ra tất cả bố-thí đều nên tán thán”.
Thuần-Đà
bạch Phật : “ Thế nào gọi là chỉ trừ một người ?”
Phật nói : : Người
phá giới như trong kinh nầy đã nói”.
Thuần-Đà lại bạch : “ Nay tôi chưa được rõ, cúi mong
đức Phật nói rõ cho”.
Phật bảo Thuần-Đà : “ Trong kinh đây nói người
phá giới là nhứt-xiển-đề.
Ngoài ra tất cả chỗ bố-thí đều nên
tán thán, đặng
quả báo rất lớn”.
Thuần-Đà
bạch Phật : “ Thế-Tôn ! Nghĩa nhứt-xiển-đề như thế nào ?”
Phật bảo Thuần-Đà : “ Nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, nói lời thô ác, chê bai
chánh pháp, tạo tội nặng nề, trọn chẳng
ăn năn,
tâm không hổ thẹn, người như vậy gọi là
xu hướng con đường nhứt-xiển-đề.
Nếu người phạm bốn tội trọng,
năm tội nghịch, tự
quyết định biết
phạm tội trọng như vậy, mà tâm chẳng biết sợ sệt
hổ thẹn, chẳng bằng lòng
phát lồ, ở nơi
chánh pháp trọn không lòng
hộ trì kiến lập, chê bai khinh tiện, nhiều lời
lỗi lầm, người như vậy cũng gọi là hướng đến đường nhứt-xiển-đề.
Nếu lại có ngưới nói rằng : Không Phật,
không Pháp, không Tăng, người như vậy, cũng gọi là hướng đến đường nhứt-xiển-đề.
Chỉ trừ bọn nhứt-xiển-đề này,
ngoài ra tất cả chỗ
bố thí đều nên
tán thán .”
Thuần-Đà lại
bạch Phật rằng : “ Thế-Tôn ! Như Phật nói
phá giới, nghĩa đó thế
nào ?”
_ Nầy Thuần-Đà ! Nếu phạm bốn tội nặng và
năm tội nghịch, cùng hủy báng
chánh pháp, người như vậy gọi là
phá giới.
Thuần-Đà
bạch Phật : “ Thế-Tôn ! người
phá giới như vậy có thể cứu vớt được
chăng ?”
_ Nầy Thuần-Đà! Có
nhơn duyên thời cứu vớt được. Nếu người đó còn mặc
pháp phục chưa bỏ, trong tâm luôn
hổ thẹn sợ sệt, tự trách cứ lấy mình, trong lòng
ăn năn, sanh tâm
hộ trì chánh pháp, muốn
kiến lập chánh pháp và nguyện sẽ
cúng dường người
hộ pháp. Nếu có người
đọc tụng kinh điển Đại-thừa, tôi sẽ đến han hỏi để được
thọ trì đọc tụng. Khi đã
thông thuộc rồi, tôi sẽ vì người khác giảng nói.
Nầy Thuần-Đà người như trên đây, Phật gọi là chẳng
phá giới.
Ví như mặt trời mọc lên có thể phá trừ tất cả
tối tăm sương mù. Cũng vậy, kinh Đại-thừa Đại- Niết-Bàn
vi diệu nầy, khi
hiện ra nơi đời, có thể phá trừ những nghiệp tội trong
vô lượng kiếp của
chúng sanh. Thế nên kinh nầy nói rằng
hộ trì chánh pháp đặng
quả báo lớn, có thể cứu vớt kẻ
phá giới.
Nếu có người hủy báng
chánh pháp nầy, mà có thể tự
ăn năn chừa cải,
trở về nơi
chánh pháp, tự nghĩ tất cả điều ác đã làm, như người tự hại lấy mình, sanh lòng kinh sợ
hổ thẹn. Trừ
chánh pháp nầy ra không có gì
cứu hộ được. Vì thế nên phải
trở về nơi
chánh pháp.
Người nầy
nếu có thể quy y chánh pháp như trên,
bố thí cho người nầy sẽ đặng
vô lượng phước. Ngưới nầy cũng gọi là bậc đáng
lãnh thọ sự
cúng dường của
thế gian.
Nếu người phạm những
tội nghiệp ác như trên, trãi qua một tháng, hoặc mười lăm ngày, chẳng có lòng
phát lồ quy y chánh pháp, nếu
bố thí cho người nầy được
quả báo rất ít.
Người
phạm tội ngũ nghịch,
nếu có thể sanh lòng
ăn năn hổ thẹn quy y hộ trì chánh pháp như trên, người nầy chẳng gọi là
phạm tội ngũ nghịch. Nếu
bố thí cho người nầy, đặng
vô lượng phước. Nếu
phạm tội ngũ nghịch, mà chẳng sanh tâm
quy y hộ pháp. Nếu
bố thí cho người nầy, đặng phước không
đáng kể.
Nếu Thiện-nam-tử ! Người
phạm tội trọng nên có tâm nầy :
Chánh pháp tức là tạng Như-Lai
vi mật, tôi phải
hộ trì kiến lập. Nếu ai
bố thí cho người nầy,thời đặng
quả báo rất tốt.
Nầy Thiện-nam-tử !
Ví như thiếu phụ kia mang thai gần ngày sanh nở,
nhằm lúc trong nước
loạn lạc,
lánh nạn trốn đến xứ khác, giữa đường sanh nở. Sau đó nghe nước nhà đã
an ổn, đem con
trở về, giữa đường phải lội qua con sông nước đầy chảy xiết, đến giữa dòng đuối sức, tự nghĩ rằng : Tôi thà cùng con tôi đồng chết, quyết không bỏ con để được sống
một mình. Do đó
mẹ con đều bị nước cuốn chìm.
Phụ nữ ấy,
sau khi chết được sanh lên
cõi trời.
Phụ nữ nầy tánh vốn tệ ác nhờ lòng thương con mà đặng sanh lên
cõi trời.
Cũng vậy, người phạm bốn tội nặng,
năm tội nghịch, nếu sanh tâm
quy y hộ trì chánh pháp thời là
phước điền vô thượng của
thế gian. Người
hộ pháp nầy được
vô lượng quả báo tốt như vậy.
Thuần-Đà
bạch Phật : Thế-Tôn ! Nếu hạng nhứt-xiển-đề có thể tự
ăn năn chừa cải,
cung kính cúng dường tán thán Tam-Bảo.
Bố thí cho người nầy có đặng
quả báo lớn chăng ?
Nầy Thiện-nam-tử ! Nay ông chẳng nên nói như vậy.
Ví như có người ăn trái Am-La nghĩ rằng : Trong hột trái nầy có lẽ ngọt liền đập bể hột ra để nếm thấy vị rất chát đắng, lòng sanh
hối hận sợ mất giống trái tốt, mới gom góp mãnh hột vụn đem ươm nơi đất, siêng năng
săn sóc, đến dùng sửa, tô, dầu để tưới bón. Ý ông nghĩ thế nào, hột đó có thể mọc lên cây được chăng ?
_ Bạch Thế-Tôn ! “ Không thể mọc lên được, dầu cho trời mưa chất
cam lồ, hột nát bể ấy cũng mọc không được”.
_ Nầy Thiện-nam-tử ! Hạng nhứt-xiển-đề đã đốt cháy căn lành, sẽ ở nơi chỗ nào mà trừ tội đặng.
Nếu sanh tâm lành, thời kẻ đó chẳng gọi là nhứt-xiển-đề.
Do nghĩa nầy tất cả chỗ
bố thí đặng
quả báo chẳng phải không sai khác. Vì thí cho hàng Thanh-Văn đặng
quả báo khác, thí hàng
Bích-Chi Phật đặng
quả báo cũng khác.
Duy cúng thí đức Như-Lai đặng
quả báo vô thượng. Thế nên nói rằng : Tất cả chỗ
bố thí chẳng phải không sai khác.
Thuần-Đà lại bạch : “ Thế-Tôn ! Do cớ chi đức Như-Lai nói
bài kệ ấy ?”
_ Nầy Thuần-Đà ! Vì có
nhơn duyên nên ta nói
bài kệ ấy.
Trong thành Vương-Xá có nhà
cư sĩ không
lòng tin Tam-Bảo,
phụng thờ phái Ni- Kiền-Tử đến hỏi Phật nghĩa
bố thí nên ta nói
bài kệ ấy. Cũng vì các vị Đại-Bồ- Tát mà nói nghĩa tạng
bí mật,
bài kệ ấy nghĩa
như vầy :
Tất cả đó là ít phần tất cả. Phải biết Đại-Bồ-Tát là bực tôn quý trong
loài người,
nhiếp thủ hạng
trì giới cung cấp cho đồ
cần dùng, dứt bỏ hạng
phá giới, như bỏ cỏ rác.
Nầy Thiện-nam-tử ! Như
xưa kia ta nói kệ rằng :
Tất cả sông ngòi, Quyết có xoáy cong, Tất cả rừng rậm, Aét có cây cối, Tất cả người nữ.
Quyết lòng dua vạy, Tất cả
tự tại, Quyết hưởng an vui.
Lúc đó Văn-thù Sư-Lợi Bồ-Tát đến lạy
chơn Phật mà nói kệ rằng :
Chẳng phải tất cả sông, Điều quyết có xoáy cong, Chẳng phải tất cả rừng, Quyết gọi là cây cối. Chẳng phải
mọi người nữ, Quyết có lòng dua vạy. Tất cả hàng
tự tại. Chẳng quyết đều hưởng vui.
Văn-Thù Sư-Lợi lại bạch : “ Kệ của
đức Phật nói còn có nghĩa
dư thừa, cúi mong đức Như-lai nói rõ
nhơn duyên kia.
Thế-Tôn ! Vì nơi
thế giới nầy, có bờ Câu-da-ni, nơi ấy có con sông Ta-bà-da ngay thẳng chẳng cong, như sợi dây, chạy chăng vào biển Tây. Con sông ấy nơi trong những kinh khác Phật chưa từng nói, xin đức Như-Lai nhơn hội
phương đẳng nầy, nói nghĩa còn
dư thừa trong kinh A-Hàm, khiến các vị Bồ-Tát
hiểu rõ nghĩa ấy.
Thế-Tôn !
Ví như có người, lúc trước thời biết quặng vàng, lúc sau lại chẳng biết vàng. Cũng vậy, đức Như-Lai biết rõ tất cả pháp mà
lời nói ra còn có nghĩa
dư thừa chẳng trọn. Dầu đức Như-Lai nói nghĩa thừa như vậy, nhưng cũng nên
phương tiện giải rõ
ý nghĩa kia.
Tất cả rừng rậm quyết là cây cối. Đây cũng chưa được trọn, vì các thứ cây vàng, bạc,
lưu ly những cây bằng chất báu, cũng gọi là rừng.
Tất cả người nữ quyết có lòng dua vạy. Đây cũng chưa trọn, vì cũng có người nữ khéo
giữ giới cấm trọn nên
công đức, có lòng
đại từ bi.
Tất cả
tự tại quyết hưởng an vui. Đây cũng chưa trọn,
ví như Thích-Ca Như-Lai là
đấng pháp vương tự tại, chẳng ở trong
phạm vi vô thường, chẳng
thể diệt dứt là
rốt ráo an vui. Hàng Phạm-Vương Đế-Thích, các trời, dầu đặng
tự tại, nhưng đều là
vô thường, chưa phải an vui. Nếu đặng
thường trụ không
biến đổi mới đặng gọi là
tự tại, chính là Đại-thừa Đại-Niết-bàn.”
Phật bảo Văn-Thù Sư-lợi : “ Nay ông khéo đặng
biện tài vô ngại.
Nầy Thiện-nam-tử ! Vả thôi, nên lóng nghe.
Ví như trưởng giả mang
bịnh khổ, y sĩ hiệp thuốc cao để
điều trị. Vì tham, người bịnh muốn uống nhiều. Y sĩ bảo,
nếu có thể tiêu hoá được thời nên uống nhiều, nay thân
trưởng giả gầy yếu chẳng nên uống nhiều. Phải biết thuốc cao nầy gọi là
cam lồ, cũng gọi là
độc dược, nếu uống nhiều chẳng
tiêu hóa được thời thành chất độc.
Nầy Thiện-nam-tử ! Nay ông chớ cho rằng
lời nói của y sĩ là trái nghĩa mật lý, làm hư
công hiệu của thuốc cao.
Nầy Thiện-nam-tử ! Cũng vậy, đức Như-Lai nhơn vua Ba-Tư -Nặc, Vương-tử, và hậu phi có lòng
kiêu mạn, vì muốn
điều phục họ nên
thị hiện nói lời ấy cho họ sợ sệt, như y sĩ kia. Do đó mà ta nói kệ rằng :
Tất cả sông ngòi, Quyết có xoáy cong, Tất cả rừng rậm, Quyết là cây cối. Tất cả người nữ,
Quyết lòng dua vạy. Tất cả
tự tại, Quyết hưởng an vui.
Nầy Văn-Thù Sư-Lợi ! Ông nên biết rằng
lời nói của đức Như-Lai không có sai sót. Như cõi đất nầy, có thể làm cho lật úp,
lời nói của Như-Lai trọn không sai sót. Do nghĩa nầy nên
lời nói của đức Như-Lai tất cả có
dư thừa.
Lúc đó
đức Phật khen Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát : “
Lành thay !
Lành thay ! Nầy Thiện-nam-tử ! Từ lâu ông đã biết nghĩa như vậy. Vì
thương xót tất cả, muốn làm cho
chúng sanh đặng
trí huệ, nên ông
cố ý hỏi đức Như-Lai nghĩa của
bài kệ như vậy “.
Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát lại ở nơi trước Phật mà nói
bài kệ rằng :
Với
lời nói của người,
Tùy thuận chẳng chống trái, Cũng chẳng xem người khác, Làm hay là chẳng làm, Chỉ tự xem thân mình, Làm lành hay chẳng lành.
Thế-Tôn !
Pháp dược như vậy chẳng phải là chánh thuyết, chỉ là đối với
lời nói của người khác mà
tùy thuận chẳng trái. Cúi mong đức Như-Lai
xót thương chánh thuyết cho. Vì Thế-Tôn thường nói, tất cả
ngoại giáo cả chín mươi lăm phái, đều đi đến
ác đạo. Hàng Thanh-Văn
đệ tử đều hướng đến chánh lộ. Khéo
giữ gìn cấm giới, nhiếp trì
oai nghi,
gìn giữ sáu căn, những người như vậy, rất
ưa thích đại thừa, thẳng đến thiện-đạo. Cớ sao đức Như-Lai ở trong chín loại kinh thấy có ai hủy báng người khác, thời bèn
quở trách.
Bài kệ trên đây
ý nghĩa như thế nào ?
_ Nầy Thiện-nam-tử ! Ta nói kệ ấy cũng chẳng phải vì tất cả
chúng sanh. Lúc đó chỉ vì vua A-Xà-Thế. Chư Phật
nếu không nhơn duyên trọn chẳng nghịch thuyết.
Nầy Thiện-nam-tử ! Vua A-Xa-Thế khi hại cha rồi, đến
giáo hội muốn chiết phục ta, hỏi rằng : Thế-Tôn có nhứt-thiết-trí hay chẳng có nhứt-thiết-trí. Điều- Đạt trong
vô lượng đời đã qua, thường ôm lòng ác,
theo dõi muốn làm hại Như-Lai. Nếu là bực nhứt-thiết-trí, sao Như-Lai cho Điều-Đạt
xuất gia.
Do
nhơn duyên vua A-Xà-Thế hỏi mà ta nói
bài kệ :
Với
lời nói của người,
Tùy thuận chẳng trái nghịch, Cũng chẳng xem người khác, Làm hay là chẳng làm. Chỉ tự xem thân mình, Làm lành hay chẳng lành.
Rồi
Phật bảo nhà vua, nay nhà vua hại cha đã tạo tội nghịch, nay phải
phát lồ để được tiêu tội, cớ sao lại xem
lỗi lầm của người khác.
Nầy Thiện-nam-tử ! Do nghĩa đó nên ta vì vua A-Xa-Thế mà nói
bài kệ ấy.
Nầy thiện-nam-tử ! Ta cũng vì người
hộ trì cấm giới thành tựu oai nghi, lại xem lỗi của người khác mà nói
bài kệ ấy.
Nếu lại có người, nhận lãnh lời dạy của người khác,
xa lìa những
tội ác, rồi dạy lại người khác, làm cho lìa những
tội ác. Người như vậy thời là
đệ tử của Phật. Đức Thế-tôn vì Văn-thù-Sư-Lợi Bồ-tát mà nói kệ rằng :
Tất cả đều sợ dao gậy, Không ai chẳng mến
thân mạng, Tự
tha thứ đáng làm lệ, Chớ giết cũng chớ đánh đập.
Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát lại ở trước Phật mà nói kệ rằng :
Chẳng phải tất cả đều sợ gậy. Chẳng phải tất cả mến
thân mạng, Tự
tha thứ đáng lấy làm lệ, Siêng
thực hành những
phương tiện lành.
Pháp cú của đức Như-Lai nói cũng chưa trọn nghĩa. Vì như A-La-hán, Chuyển- Luân Thánh-Vương,
ngọc nữ, tượng bảo,
mã bảo, chủ tạng đại-thần,
Chư Thiên và A-tu-la, không có ai cầm gươm bén có thể làm hại được.
Dũng sĩ, liệt nữ, mã vương, thú vương. Tỳ-kheo
trì giới, dầu có oan đối đến làm hại, nhưng họ chẳng sợ sệt. Do nghĩa nầy
bài kệ của Như-Lai nói cũng chưa trọn nghĩa.
Nếu nói tự
tha thứ đáng lấy làm lệ đó, cũng không trọn nghĩa. Vì nếu
giả sử A- La-Hán, lấy mình làm lệ cho người, thời có
ngã tưởng và
thọ mạng tưởng. Nếu có
ngã tưởng và
thọ mạng tưởng thời phải
giữ gìn. Như thế thời
phàm phu lẽ ra cũng thấy A-La-Hán đều là hạng người còn
tu hành. Nếu thấy như vậy, thời thành
tà kiến, sẽ phải đọa
Địa ngục A-Tỳ.
Lại A-La-Hán trọn không
móng tâm sát hại chúng sanh.
Vô lượng chúng sanh cũng không thể làm hại A-la-Hán.
_ Nầy Thiện-nam-tử! Nói rằng
ngã tưởng là đối với
chúng sanh có lòng
đại bi, không có tưởng giết hại là nói
tâm bình đẳng của A-La-hán. Chớ cho rằng đức Thế-Tôn không
nhơn duyên mà nghịch thuyết.
Ngày xưa trong thành Vương-Xá, có người thợ săn giết nhiều nai, mời ta
ăn thịt. Lúc đó dầu ta nhận
lời mời, nhưng đối với các
chúng sanh sanh
lòng từ bi
xem như La-Hầu-La mà nói kệ rằng :
Sẽ khiến người được
trường thọ,
Mãi mãi sống ở nơi đời,
Thọ trì pháp chẳng giết hại. Dường như
thọ mạng của Phật. Do cớ đó nên ta nói
bài kệ : Tất cả đều sợ dao gậy, Không ai chẳng mến
thân mạng. Tự
tha thứ, đáng làm lệ, Chớ giết, cũng chớ đánh đập.
Lành thay !
Lành thay ! Văn-Thù-Sư-Lợi vì các vị Đại-Bồ-Tát gạn hỏi đức Như-Lai
giáo pháp như vậy.
Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát lại nói kệ rằng :
Thế nào là kính
cha mẹ,
Tùy thuận tôn trọng song thân ? Thế nào thật
hành pháp nầy, Bị đọa nơi ngục
vô gián ?
Đức Như-Lai nói kệ đáp :
Nếu dùng
tham ái làm mẹ, Dùng
vô minh, để làm cha. Rồi
tùy thuận tôn trọng đó, Thời phải đọa ngục
vô gián.
Đức Như-Lai lại vì Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát nói kệ rằng :
Tất cả thuộc kẻ khác, Thời gọi đó là khổ, Tất cả
do nơi mình.
Tự tại được an vui, Tất cả kẻ
kiêu mạn,
Thế lực rất
bạo ác, Những người hiền người lành, Tất cả đều mến tưởng.
Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát
bạch Phật rằng : “ Thế-Tôn !
Lời nói của Như-Lai cũng chẳng trọn nghĩa. Ngưỡng mong đức Như-Lai
thương xót nói
nhơn duyên đó.
Ví như con trai của
trưởng giả, lúc theo thầy học tập, là thuộc nơi thầy chăng ? Nếu thuộc nơi thầy, thời chẳng phải. Nếu chẳng thuộc nơi thầy, thời cũng chẳng phải. Nếu đặng
tự tại, theo nghĩa cũng chẳng phải.
Ví như Vương-tử không có học tập, làm việc gì cũng chẳng thành, ngu tối thường khổ. Vương-tử ấy nếu cho là
tự tại, thời chẳng đúng nghĩa, nếu nói thuộc người khác, nghĩa cũng chẳng phải.
Do lẽ trên đây
lời nói của Phật gọi là có thừa. Vì thế nên tất cả thuộc người khác chẳng ắt thọ khổ. Tất cả
tự tại chẳng ắt hưởng vui. Tất cả kẻ
kiêu mạn,
thế lực rất
bạo ác, lời nầy cũng có thừa. Thế-tôn ! Như các liệt nữ, vì tâm
kiêu mạn, mà
xuất gia học đạo,
giữ gìn cấm giới,
thành tựu oai nghi, kềm giữ sáu căn chẳng cho
buông lung. Thế nên tất cả
phiền não kiêu mạn chẳng ắt là
bạo ác.
Người hiền, ngườilành, tất cả đều mến tưởng lời nầy cũng có thừa.Như người phạm bốn tội nặng rồi chẳng bỏ
pháp phục,
giữ gìn oai nghi,
hộ trì chánh poháp, người khác thấy chẳng mến, người nầy
sau khi chết ắt đọa
địa ngục. Nếu có người hiền
phạm tội trọng, người
hộ pháp thấy đó, liền đuổi ra bảo
hoàn tục. Do nghĩa nầy tất cả người hiền người lành chẳng ắt đều được mến tưởng.
.
Phật bảo Văn-thù Sư-Lợi Bồ-tát : Vì có
duyên do nên đức Như-Lai ở trong
trường hợp nầy nói pháp có nghĩa thừa. Lúc đó trong thành Vương-Xá có người nữ tên Thiện-Hiền
trở về nhà
cha mẹ. Nhơn đó nàng đến chỗ ta
quy y Phật, Pháp, và
chúng Tăng mà bạch rằng : Tất cả người nữ chẳng được
tự do, tất cả người nam
tự tại vô ngại.
Ta biết rõ tâm nàng bèn vì nàng mà nói
bài kệ tụng như trên.
Nầy Văn-Thù-Sư-Lợi !
Lành thay !
Lành thay ! Nay ông có thể vì tất cả
chúng sanh hỏi nơi đức Như-Lai
mật ngữ như vậy”.
Văn-Thù- Sư-Lơiï Bồ-Tát lại nói kệ rằng :
Tất cả loài
chúng sanh, Nhờ
ăn uống được sống, Tất cả người đại-lực, Tâm họ không tật đố, Tất cả nhơn uống ăn, Mà mắc nhiều
bịnh khổ, Tất cả tu
tịnh hạnh, Mà đặng hưởng an vui.
Nay đức Thế-Tôn thọ vật thực của ông Thuân-Đà
cúng dường,
phải chăng đức Như-Lai có sợ sệt ư ?
Đức Phật vì Văn-Thu-ø Sư-Lợi Bồ-Tát mà nói kệ rằng :
Chẳng phải tất cả
chúng sanh, Đều nhờ uống ăn mà sống, Chẳng phải tất cả
đại lực,
Tâm họ đều không tật đố, Chẳng phải tất cả do ăn, Mà chác lầy bịnh hoạn, Chẳng phải tất cả
tịnh hạnh. Đều đặng hưởng quả an vui.
Nầy Văn-Thù Sư-Lợi ! Nếu ông mang bịnh, thời
đức Phật cũng mang bịnh. Vì hàng A-La-Hán va
Bích-Chi Phật, các vị Bồ-Tát cùng chư Phật Như-Lai đều thiệt không có
ăn uống. Chỉ vì muốn
giáo hóa chúng sanh nên
thị hiện thọ dụng vật thực của
chúng sanh cúng thí. Làm cho
chúng sanh đầy đủ đàn-ba-la-mật, cứu vớt cho ngã quỉ,
súc sanh,
địa ngục.
Nếu cho rằng đức Như-Lai
khổ hạnh sáu năm,
thân thể ốm gầy, thời là không đúng. Chư Phật Thế-Tôn
giải thoát ba cõi chẳng đồng với
phàm phu. Lẽ nào
thân thể lại ốm gầy. Chư Phật siêng năng
tu tập đặng thân
kim cương chẳng đồng với thân nguy hiểm
vô thường của người đời. Hàng
đệ tử của ta cũng chẳng thể nghĩ bàn, đều chẳng nương nơi
ăn uống mà sống.
Nói rằng tất cả người
đại lực tâm không tật đố, đây cũng là không trọn nghĩa. Như trong
thế gian có người
cả đời không có lòng tật đố, mà họ cũng không có
đại lực.
Nói rằng tất cả
bịnh khổ do
ăn uống sanh ra, đây cũng chưa trọn nghĩa. Vì thấy có người mang phải bịnh ở ngoài đưa đến, như bị chém đâm v.v…
Nói rằng tất cả người tu
tịnh hạnh hưởng quả an vui, đây cũng chưa trọn nghĩa, vì
trong đời cũng có hàng
ngoại đạo tu
tịnh hạnh, mà vẫn thọ lấy quả
khổ não.
Lời
thuyết pháp của đức Như-Lai còn có nghĩa thừa, đó là đức Như-Lai vì có
duyên do mà nói những kệ như vậy :
Xưa kia nơi nước Ưu-Thiền-Ni, có nhà Bà- La-Môn tên Cổ-Đê-Đức đến nơi
Phật thọ pháp bát-quan-trai. Lúc đó ta vì nhà Bà-La-Môn ấy mà nói kệ như vậy”.
Ca-Diếp Bồ-Tát
bạch Phật : “ Thế-Tôn ! Những gì gọi là không nghĩa thừa ? Thế nào lại gọi là nhứt-thiết-nghĩa ?”
_ Nầy Thiện-nam-tử ! Chỉ trừ pháp lành
trợ đạo, thường, lạc, gọi là nhứt- thiết, cũng gọi là không thừa,
ngoài ra các pháp khác cũng gọi là có thừa, cũng gọi là không thừa. Vì muốn làm cho
mọi người ưa thích chánh pháp, biết nghĩa có thừa và
nghĩa không thừa nầy.
Ca-Diếp Bồ-Tát
vui mừng hớn hở
bạch Phật rằng : Rất lạ lùng ! Rất lạ lùng ! Đức Thế-Tôn
bình đẳng xem
chúng sanh như La-Hầu-La”.
Đức Phật tán thán Ca-Diếp Bồ-Tát :
Lành thay !
Lành thay ! Chỗ
kiến giải của ông rất sâu
vi diệu. Ca-Diếp Bồ-Tát
bạch Phật : “ Cúi xin đức Như-Lai nói về sự được
công đức ở nơi kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bàn nầy”.
_ Nầy Thiện-nam-tử ! Nếu có người đặng nghe
danh hiệu của kinh nầy,
công đức của người đó đặng chẳng phải hàng Thanh-Văn
Bích-Chi Phật có thể
tuyên thuyết, duy
đức Phật biết rõ thôi. Vì chẳng thể nghĩ bàn là
cảnh giới Phật. Huống là người
thọ trì đọc tụng thông thuộc, biên chép kinh nầy.
Lúc đó
chư Thiên,
mọi người và A-tu-La ở trước Phật khác miệng đồng lời mà nói kệ rằng :
Chư Phật khó nghĩ bàn. Pháp, Tăng cũng như vậy, Vì thế nay kính thỉnh. Xin Phật nán ở lại. Đại-Ca-Diếp Tôn-Giả, Cùng với A-Nan-Đà,
Quyến thuộc của hai ngài, Xin chờ giây lát đến. Và chúa nước Ma-Già, Đại-vương A-Xà-Thế.
Chí tâm kính tin Phật, Vẫn còn chưa đến đây. Cúi xin đức Như-Lai,
Xót thương ở giây lát, Nơi trong
đại chúng nầy. Quyết lưới nghi
chúng tôi.
Đức Như-Lai vì
đại chúng mà nói kệ rằng :
Trưởng tử trong
giáo pháp ta, Tức là ông Đại-Ca-Diếp, Ông A-Nan siêng
tinh tấn. Dứt được tất cả lưới nghi.
Đại chúng nên
quán sát kỹ, A-Nan là bực
đa văn,
Tự nhiên có thể
hiểu rõ.
Pháp thường và pháp
vô thường. Vì
thế đại chúng chẳng nên, Sanh lòng lo buồn
sầu khổ.
Bấy giờ
đại chúng đem các đồ vật
cúng dường Như-Lai.
Cúng Phật xong tất cả đều
phát tâm vô thượng bồ-đề.
Vô lượng vô biên hằng hà sa Bồ-Tát đặng trụ bực
sơ địa.
Đức Thế-Tôn
thọ ký cho Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát, Ca-Diếp Bồ-Tát và Thuần-Đà.
Thọ ký xong
đức Phật nói rằng : Nầy các Thiện-nam-tử, phải tự
tu tập tâm mình, chớ nên
phóng dật. Nay lưng ta có bịnh, cả mình đều đau nhức, ta muốn nằm như đứa trẻ nít và người thường bịnh hoạn. Các ông Văn-Thù Sư-Lợi nên vì
bốn bộ chúng mà giảng nói
đại pháp. Nay ta đem pháp nầy,
giao phó cho các ông. Đến khi Đại-Ca-Diếp và A-Nan đến, các ông sẽ
phó chúc chánh pháp như vậy”.
Dặn dò xong, vì muốn
điều phục chúng sanh, nên
đức Phật hiện thân có bịnh,
nằm nghiêng bên mặt.