KINH ĐẠI BÁT NIẾT-BÀN
QUYỂN HAI MƯƠI MỐT[5]
PHẨM BỒ TÁT QUANG MINH BIẾN
CHIẾU CAO QUÝ ĐỨC VƯƠNG
Phẩm thứ mười – Phần một
Bấy giờ,
đức Thế Tôn bảo
Đại Bồ Tát Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương rằng: “Thiện nam tử! Nếu có vị
Đại Bồ Tát nào
tu hành kinh Đại Niết-bàn này sẽ được mười
công đức không thể nghĩ bàn, không cùng chia sẻ với hàng
Thanh văn và
Phật Bích-chi, khiến người nghe đến đều phải
kinh ngạc quái lạ, chẳng phải trong chẳng phải ngoài, chẳng phải khó chẳng phải dễ, chẳng phải tướng, chẳng phải
không tướng, chẳng phải pháp
thế gian, không có
tướng mạo,
thế gian không có được!
“Những gì là mười? Trong
công đức thứ nhất[6] có năm điều. Những gì là năm? Một là
nghe được những điều không [thể] nghe.[7] Hai là được nghe rồi có thể làm
lợi ích. Ba là có thể trừ dứt lòng
nghi hoặc. Bốn là tâm
sáng suốt ngay thẳng không
tà vạy. Năm là có thể biết được
ý nghĩa sâu kín của
Như Lai. Đó là năm điều [trong
công đức thứ nhất].
“Thế nào là
nghe được những điều không [thể] nghe? Đó là nói những
ý nghĩa hết sức sâu kín như: Tất cả
chúng sanh đều có tánh Phật; Phật, Pháp,
chư Tăng không có gì khác nhau;
tánh tướng của
Tam bảo là thường, lạc, ngã, tịnh; hết thảy chư Phật đều không dứt tất cả để nhập Niết-bàn mà luôn thường còn, không
biến đổi.
“Niết-bàn của
Như Lai chẳng phải có, chẳng phải không; chẳng phải
hữu vi, chẳng phải
vô vi; chẳng phải
hữu lậu, chẳng phải
vô lậu; chẳng phải sắc, chẳng phải
không sắc; chẳng phải tên gọi, chẳng phải không tên gọi; chẳng phải tướng, chẳng phải
không tướng; chẳng phải có, chẳng phải không có; chẳng phải vật, chẳng phải không vật; chẳng phải nhân, chẳng phải quả; chẳng phải chờ đợi, chẳng phải không đợi; chẳng phải sáng, chẳng phải tối; chẳng phải xuất, chẳng phải không xuất; chẳng phải thường, chẳng phải không thường; chẳng phải dứt, chẳng phải không dứt; chẳng phải khởi đầu, chẳng phải
kết thúc; chẳng phải
quá khứ, chẳng phải tương lai, chẳng phải
hiện tại; chẳng phải các ấm, chẳng phải không các ấm;[8] chẳng phải các nhập, chẳng phải không các nhập;[9] chẳng phải các giới, chẳng phải không các giới;[10] chẳng phải
mười hai nhân duyên, chẳng phải không
mười hai nhân duyên.
“Các
pháp như vậy là
hết sức sâu kín, từ trước [vị
Bồ Tát ấy] chưa từng
nghe được mà nay có thể
nghe được.
“Lại nữa, không [thể] nghe đó [cũng] là nói tất cả kinh sách của
ngoại đạo, như bốn bộ luận Tỳ-đà,[11] luận Tỳ-già-la,[12] luận Vệ-thế-sư,[13] luận Ca-tỳ-la,[14] cùng tất cả những
chú thuật,
y phương, kỹ nghệ,
nhật thực, nguyệt thực,
tinh tú vận chuyển, sách địa lý, sấm ký... Những thứ kinh sách ấy, từ trước chưa từng
nghe được ý nghĩa sâu kín, nay ở trong kinh Đại Niết-bàn này đều được [nghe] biết rõ.
“Lại nữa, trong Mười một
bộ kinh, trừ kinh Tỳ-phật-lược,[15] cũng không có nghĩa sâu kín như thế này. Nay nhân nơi kinh này mà được biết những nghĩa ấy.
Thiện nam tử! Đó gọi là
nghe được những điều không [thể] nghe.
“Thế nào là nghe rồi có thể làm lợi ích? Những ai có thể nghe và tin nhận kinh Đại Niết-bàn này ắt đều có thể rõ biết đầy đủ những nghĩa rất sâu của hết thảy
kinh điển Phương đẳng Đại thừa.
Ví như người đàn ông hay đàn bà khi nhìn vào tấm
gương sáng sạch liền thấy được
rõ ràng hình sắc, dáng vẻ của họ. Kinh Đại Niết-bàn cũng như tấm
gương sáng, vị
Bồ Tát cầm gương ấy liền thấy rõ được
ý nghĩa rất sâu của
kinh điển Đại thừa. Lại như người ở trong nhà tối cầm cây đuốc lớn liền soi thấy rõ hết thảy
mọi vật. Kinh Đại Niết-bàn cũng như cây đuốc,
Bồ Tát cầm đuốc ấy liền thấy được
ý nghĩa sâu xa khó hiểu của
Đại thừa. Lại như khi
mặt trời hiện ra, có cả muôn ngàn
tia sáng, ắt có thể soi rõ cả những
chỗ tối tăm trong rừng núi, khiến hết thảy
mọi người đều thấy được
mọi vật ở xa.
Mặt trời trí tuệ thanh tịnh Đại Niết-bàn này cũng vậy, soi rõ những chỗ
sâu xa kín đáo của
Đại thừa, khiến cho người theo
Hai thừa có thể từ xa nhìn thấy
Phật đạo. Vì sao vậy? Vì có thể nghe và tin nhận
kinh điển vi diệu Đại Niết-bàn này.
“Thiện nam tử! Nếu có vị
Bồ Tát ma-ha-tát nào nghe và tin nhận kinh Đại Niết-bàn này, liền biết được tên gọi của hết thảy các pháp.
Nếu có thể sao chép, tụng đọc
thông suốt, vì người khác mà giảng rộng,
suy xét ý nghĩa trong kinh, ắt rõ biết được
nghĩa lý của hết thảy các pháp.
“Thiện nam tử! Người nghe và tin nhận kinh này chỉ biết được tên gọi, không biết được
ý nghĩa. Nếu sao chép, tụng đọc, vì người khác giảng rộng,
suy xét ý nghĩa trong kinh, ắt có thể biết được nghĩa.
“Lại nữa,
thiện nam tử! Người vừa nghe qua kinh này, tuy biết rằng tự mình có tánh Phật nhưng không thể thấy được. Nếu sao chép, tụng đọc, vì người khác giảng rộng,
suy xét ý nghĩa trong kinh, ắt có thể thấy được tánh Phật.
“Người nghe qua kinh này tuy có nghe tên gọi
pháp bố thí nhưng không thể được thấy
pháp Bố thí Ba-la-mật. Nếu sao chép, tụng đọc, vì người khác giảng rộng,
suy xét ý nghĩa trong đó, ắt có thể thấy được
pháp Bố thí Ba-la-mật.
Cho đến pháp Trí tuệ Ba-la-mật cũng vậy.[16]
“Thiện nam tử!
Bồ Tát ma-ha-tát
nếu có thể nghe được kinh Đại Niết-bàn này ắt rõ biết các pháp và
ý nghĩa của pháp, đầy đủ hai đức không ngăn ngại,[17] đối với các sa-môn, bà-la-môn, hoặc
chư thiên, ma,
Phạm thiên, hết thảy các loài trong
thế gian đều không có sự sợ sệt; [có thể] mở mang chỉ bày,
phân biệt Mười hai bộ kinh,
diễn thuyết ý nghĩa không chút sai lệch; không nghe nơi người khác mà có thể tự rõ biết,
đến gần quả vị A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.
“Thiện nam tử! Đó gọi là nghe rồi có thể làm
lợi ích.
“Thế nào là có thể trừ dứt lòng nghi hoặc? Lòng nghi có hai loại, một là nghi tên gọi, hai là nghi
ý nghĩa. Người nghe qua kinh này dứt được lòng nghi về tên gọi. Người
suy xét ý nghĩa kinh này dứt được lòng nghi về
ý nghĩa.
“Lại nữa,
thiện nam tử! Có năm mối nghi. Một là nghi việc Phật có
chắc chắn nhập Niết-bàn hay không? Hai là nghi việc Phật có
thường trụ hay không? Ba là nghi việc Phật có phải chân lạc hay không? Bốn là nghi việc Phật có phải
chân tịnh hay không? Năm là nghi việc Phật có phải
chân ngã hay không? Người nghe qua kinh này liền dứt trừ
mãi mãi mối nghi về việc Phật nhập Niết-bàn. Nếu sao chép, tụng đọc, vì người khác giảng rộng,
suy xét ý nghĩa trong kinh thì
mãi mãi dứt trừ được cả bốn mối nghi kia.
“Lại nữa,
thiện nam tử! Có ba việc nghi. Một là nghi việc có thừa
Thanh văn hay không? Hai là nghi việc có thừa
Duyên giác hay không? Ba là nghi việc có
Phật thừa hay không? Người nghe qua kinh này, cả ba việc nghi ấy liền dứt sạch. Nếu sao chép, tụng đọc, vì người khác giảng rộng,
suy xét ý nghĩa trong kinh, ắt có thể biết rõ rằng tất cả
chúng sanh đều có tánh Phật.
“Lại nữa,
thiện nam tử! Như có những
chúng sanh không được nghe kinh Đại Niết-bàn này thì trong lòng có nhiều sự
nghi hoặc, như là
thường hay vô thường; lạc hay
bất lạc; tịnh hay
bất tịnh; ngã hay
vô ngã; mạng hay chẳng phải mạng;
chúng sanh hay chẳng phải
chúng sanh;
rốt ráo hay không
rốt ráo; hoặc đời khác, hoặc đời đã qua, hoặc có, hoặc không, hoặc khổ, hoặc chẳng phải khổ; hoặc tập, hoặc chẳng phải tập; hoặc diệt, hoặc chẳng phải diệt; hoặc đạo, hoặc chẳng phải đạo; hoặc pháp, hoặc chẳng phải pháp; hoặc thiện, hoặc chẳng phải thiện; hoặc không, hoặc chẳng phải không. Ngay khi được nghe kinh này, những sự
nghi hoặc như thế ắt đều dứt sạch.
“Lại nữa,
thiện nam tử! Như có người không được nghe kinh này, trong lòng lại có đủ mọi sự
nghi hoặc, như là: Sắc có phải là ta hay chăng? Thọ, tưởng, hành, thức có phải là ta hay chăng? Là con mắt có thể nhìn thấy, hay
bản ngã nhìn thấy?
Cho đến là thức có thể
nhận biết, hay
bản ngã nhận biết? Là sắc
thọ báo hay
bản ngã thọ báo?
Cho đến là thức
thọ báo, hay
bản ngã thọ báo? Là sắc đi đến
một đời sống khác, hay
bản ngã đi đến
đời sống khác?
Cho đến là thức [18]cũng
nghi hoặc như vậy. [Lại nghi về việc] pháp
sanh tử có khởi đầu, có
kết thúc; hay là không có khởi đầu, không có kết thúc? Người được nghe qua kinh này rồi thì những sự
nghi hoặc như thế cũng đều được dứt hẳn.
“Lại có người
nghi ngờ rằng: những kẻ nhất-xiển-đề, kẻ phạm
bốn giới cấm nặng, tạo
năm tội nghịch,
phỉ báng kinh Phương đẳng, những kẻ như vậy có tánh Phật hay không có tánh Phật? Người được nghe qua kinh này rồi thì những sự
nghi hoặc như thế đều được dứt hẳn.
“Lại có người nghi rằng:
Thế gian là có
giới hạn hay
không giới hạn? Có các
thế giới mười phương hay không có các
thế giới mười phương? Người được nghe qua kinh này rồi thì những sự
nghi hoặc như thế cũng đều được dứt hẳn.
“Như vậy gọi là có thể dứt trừ lòng
nghi hoặc.
“Thế nào là tâm
sáng suốt ngay thẳng không tà vạy? Nếu trong lòng có
nghi ngờ ắt chỗ thấy biết không chân chánh. Hết thảy người
thế gian nếu không được nghe
kinh điển vi diệu Đại Niết-bàn này thì chỗ thấy biết đều sai lệch,
tà vạy.
Cho đến hàng
Thanh văn,
Phật Bích-chi, chỗ thấy biết cũng đều sai lệch.
“Thế nào gọi là chỗ thấy biết sai lệch,
tà vạy của tất cả người thế gian? Trong chỗ
hữu lậu mà thấy có thường, lạc, ngã, tịnh; đối với
Như Lai mà thấy là
vô thường, khổ,
bất tịnh,
vô ngã; thấy có
chúng sanh, mạng sống, chỗ thấy biết, cho rằng có
cõi trời phi hữu tưởng phi
vô tưởng[19] là Niết-bàn; thấy vị trời
Tự tại[20] có
Tám thánh đạo, có
chấp có, chấp
đoạn diệt. Những chỗ thấy như vậy gọi là sai lệch,
tà vạy.
Bồ Tát ma-ha-tát nếu
nghe được kinh Đại Niết-bàn này,
tu tập và
thực hành Thánh hạnh ắt dứt trừ được những chỗ thấy sai lệch,
tà vạy như vậy.
“Thế nào gọi là chỗ thấy biết sai lệch,
tà vạy của hàng
Thanh văn, Duyên giác?[21] Họ thấy
Bồ Tát từ cung trời Đâu-suất xuống, cưỡi voi trắng
giáng thần vào thai mẹ, có cha là Tịnh-phạn, mẹ là Ma-da ở thành Ca-tỳ-la. Ngài ở trong thai đủ mười tháng rồi sanh ra. Khi ngài sanh ra chưa rơi xuống đất thì có Đế-thích đón lấy giữa
hư không, có hai vị
Long vương là Nan-đà và Bạt-nan-đà phun nước tắm.
Đại quỷ thần vương là Ma-ni-bạt-đà cầm lọng báu đứng hầu phía sau. Thần đất hóa ra hoa đỡ dưới chân ngài. Ngài
đi theo đủ
bốn hướng, mỗi hướng bảy bước. Khi đến Thiên miếu, các tượng
chư thiên đều
đứng dậy nghinh tiếp. Vị tiên A-tư-đà bồng ngài lên
xem tướng.
Xem tướng xong liền sanh lòng buồn đau
thảm thiết, tự
đau xót rằng mình sắp qua đời, không được thấy
Phật đạo hưng thịnh.
“[Họ cũng thấy]
Bồ Tát theo thầy học sử sách, toán pháp, bắn tên, cưỡi ngựa, địa lý, sấm ký, các môn kỹ nghệ. Ngài ở trong cung có sáu mươi ngàn
cung nữ để giúp vui. Ngài ra khỏi thành dạo chơi
quán sát, đến vườn Ca-tỳ-la, trên đường gặp người già yếu
cho đến vị sa-môn mặc
pháp phục mà đi.[22] Khi
trở về trong cung, ngài thấy hình thể và
dung mạo của các
cung nữ dường như những bộ xương khô, cung điện
hiện có chẳng khác gì gò mộ trong bãi tha ma. Ngài
nhàm chán, muốn
xuất gia, giữa đêm liền vượt thành tìm đến chỗ những vị
đại tiên nhân như các ông Uất-đà-già,[23] A-la-la[24]... nghe dạy về
cảnh giới của thức và
cảnh giới phi hữu tưởng phi
vô tưởng. Nghe như vậy rồi, ngài
quán sát kỹ những
cảnh giới ấy, thấy cũng là
vô thường, khổ,
bất tịnh,
vô ngã, liền
từ bỏ mà đến ở dưới cội cây
tu khổ hạnh đủ sáu năm.[25]
“Sau đó biết rằng
khổ hạnh như thế không thể
thành tựu A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề,
Bồ Tát liền đi đến sông A-lợi-bạt-đề[26] tắm rửa sạch sẽ, rồi thọ nhận món cháo sữa do cô gái chăn bò
phụng hiến. Dùng cháo xong, ngài đến ngồi
dưới gốc cây Bồ-đề,
phá ma Ba-tuần,[27] được
thành tựu quả
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Ở thành Ba-la-nại,[28] ngài vì năm vị tỳ-kheo[29] mà
Chuyển bánh xe pháp lần đầu tiên,
cho đến khi tại thành Câu-thi-na này
thị hiện Niết-bàn.
“Những chỗ thấy như vậy của hàng
Thanh văn,
Duyên giác gọi là sai lệch,
tà vạy.
“Thiện nam tử!
Bồ Tát ma-ha-tát, nghe và thọ nhận kinh Đại Niết-bàn này ắt được dứt trừ những chỗ thấy biết như vậy.
Nếu có thể sao chép,
đọc tụng kinh này
thông suốt, vì người khác giảng nói,
suy xét nghĩa kinh, ắt được chỗ thấy biết ngay thẳng, không sai lệch,
tà vạy.
“Thiện nam tử!
Bồ Tát ma-ha-tát
tu hành kinh Đại Niết-bàn này biết rõ rằng:
Từ vô lượng kiếp
đến nay, đức
Bồ Tát chẳng hề
giáng thần từ cung Đâu-suất vào thai mẹ,
cho đến cũng có việc nhập Niết-bàn tại thành Câu-thi-na này. Đó gọi là chỗ thấy biết ngay thẳng của hàng
Bồ Tát ma-ha-tát.
“[Thế nào là] có thể hiểu được
ý nghĩa sâu kín của Như Lai? Đó là [những
ý nghĩa về] Đại Bát Niết-bàn; là tất cả
chúng sanh đều có tánh Phật, [nhưng phải]
sám hối bốn giới cấm nặng, trừ bỏ lòng chê bai
giáo pháp, dứt hết
năm tội nghịch, trừ bỏ tâm
bất tín,[30] sau đó mới
chứng đắc quả
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Như vậy gọi là những
ý nghĩa rất
sâu xa kín đáo.
“Này
thiện nam tử! Vì sao gọi là
ý nghĩa rất sâu xa? Tuy biết
chúng sanh thật không có tự ngã, nhưng
nghiệp quả trong tương lai không hề dứt mất. Tuy biết rằng
năm ấm tan rã
trong đời này, nhưng
nghiệp lành nghiệp dữ đều chẳng mất. Tuy có các nghiệp nhưng không có người tạo tác; tuy có chỗ đến nhưng không có người đi đến; tuy có sự
trói buộc nhưng không có người bị
trói buộc; tuy có Niết-bàn nhưng không có người nhập Niết-bàn. Đó gọi là
ý nghĩa rất sâu kín.”
Lúc ấy,
Bồ Tát ma-ha-tát
Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương
bạch Phật: “Thế Tôn!
Theo như con hiểu nghĩa Phật đã dạy về chỗ nghe và không nghe thì không phải như thế! Vì sao vậy? Nếu pháp là có, liền phải xác định là có; nếu pháp là không, liền phải xác định là không. Cái không lẽ ra chẳng sanh, cái có lẽ ra chẳng diệt. Như có nghe tức là nghe; không nghe tức là không nghe, vì sao nói rằng
nghe được những điều không [thể] nghe?
“Bạch Thế Tôn!
Nếu không thể nghe, đó là không nghe; nếu đã nghe rồi, xét cho cùng cũng là không nghe. Vì sao vậy? Vì đã nghe rồi [nên hiện nay không nghe]! Vì sao nói rằng
nghe được những điều không [thể] nghe?
“Ví như có người đi, khi đến rồi ắt là không đi, khi đang đi ắt là không đến. Cũng như khi đã sanh rồi là không có sự sanh, [nếu] không sanh cũng không có sự sanh. Khi
đạt được rồi là không [còn gì để] được, [nếu] không
đạt được cũng là không được. Khi nghe rồi là không [còn sự] nghe, [nếu] không nghe [cũng] là không nghe, [
ý nghĩa] đều là như vậy!
“Bạch Thế Tôn!
Nếu không nghe [cũng là] nghe thì tất cả
chúng sanh chưa có Bồ-đề lẽ ra phải có, chưa được Niết-bàn lẽ ra phải được, chưa thấy tánh Phật lẽ ra phải thấy. Vì sao [
Như Lai] nói rằng hàng
Bồ Tát ở
Mười trụ địa tuy thấy tánh Phật nhưng chưa [thấy] được rõ ràng?
“Thế Tôn!
Nếu không nghe [cũng là] nghe,
Như Lai trong
quá khứ từng được nghe [
Chánh pháp] từ nơi ai? Nếu là được nghe, sao trong kinh A-hàm
Như Lai nói rằng không có thầy dạy?
“Nếu không nghe [là] không nghe mà
Như Lai thành tựu quả
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, thì tất cả
chúng sanh không nghe [là] không nghe, lẽ ra cũng đều
thành tựu quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề! Nếu
Như Lai chưa nghe kinh Đại Niết-bàn này mà thấy được tánh Phật, thì tất cả
chúng sanh chưa nghe kinh này lẽ ra cũng phải thấy được tánh Phật!
“Bạch Thế Tôn! Phàm là
hình sắc thì hoặc có thể thấy, hoặc không thể thấy.
Âm thanh cũng vậy, hoặc có thể nghe, hoặc không thể nghe.
“Đại Niết-bàn này chẳng phải
hình sắc, chẳng phải
âm thanh, sao lại nói rằng có thể thấy, có thể nghe?
“Bạch Thế Tôn!
Quá khứ đã dứt rồi nên không thể nghe, tương lai chưa đến nên cũng không thể nghe. Vào lúc đang nghe trong
hiện tại cũng không gọi là nghe, vì vừa nghe rồi thì
âm thanh liền diệt mất, nên xét cho cùng là không thể nghe!
“Đại Niết-bàn này cũng không thuộc về
quá khứ, tương lai,
hiện tại.
Nếu không thuộc về
quá khứ, tương lai,
hiện tại thì không thể
thuyết giảng.
Nếu không thể
thuyết giảng ắt là không thể nghe! Vì sao [
Như Lai] nói rằng
Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết-bàn này
nghe được những điều không [thể] nghe?”
Lúc ấy,
đức Thế Tôn khen ngợi
Bồ Tát ma-ha-tát
Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương: “Lành thay,
lành thay! Thiện nam tử! Nay ông biết rõ rằng tất cả các pháp dường
như ảo hóa, như tia lửa lóe ra, như cảnh thành quách
biến hóa, như hình vẽ trên mặt nước, lại cũng như bọt sóng, bọt nước, như thân cây chuối, rỗng không chẳng thật, chẳng phải mạng sống, chẳng phải ta, không
khổ không vui, đồng như chỗ thấy biết của hàng
Bồ Tát ở
Mười trụ địa.”
Lúc ấy, giữa
đại chúng bỗng trong khoảnh khắc
xuất hiện ánh
hào quang rực rỡ. Trong ánh
hào quang ấy, không phải màu xanh lại thấy là xanh, không phải màu vàng lại thấy là vàng, không phải màu đỏ lại thấy là đỏ, không phải màu trắng lại thấy là trắng, không có
hình sắc lại thấy là
hình sắc, không phải
sáng tỏ lại thấy là
sáng tỏ, không phải sự thấy mà lại nhìn thấy.
Bấy giờ,
đại chúng thấy
hào quang ấy rồi,
thân tâm đều khoái lạc, như vị tỳ-kheo nhập phép
thiền định Sư tử vương.
Đại Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi liền
bạch Phật: “Thế Tôn! Nay ánh
hào quang này là do ai phát ra?”
Lúc ấy,
đức Như Lai lặng thinh chẳng nói.
Bồ Tát Ca-diếp lại hỏi
Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi: “Do
nhân duyên gì mà có ánh
hào quang này chiếu soi đại chúng?”
Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi lặng thinh chẳng đáp.
Lúc ấy,
Bồ Tát Vô Biên Thân lại hỏi
Bồ Tát Ca-diếp: “Ánh
hào quang hôm nay là của ai vậy?”
Bồ Tát Ca-diếp lặng thinh chẳng đáp.
Bồ Tát Tịnh Trụ Vương Tử lại hỏi
Bồ Tát Vô Biên Thân: “Do
nhân duyên gì mà trong
đại chúng có ánh
hào quang này?”
Bồ Tát Vô Biên Thân lặng thinh chẳng đáp.
Cứ như vậy, năm trăm vị
Bồ Tát lần lượt hỏi nhau, nhưng chẳng ai trả lời!
Bấy giờ,
đức Thế Tôn hỏi
Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi: “Do
nhân duyên gì mà trong
đại chúng có ánh
hào quang này?”
Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi đáp: “Bạch Thế Tôn!
Hào quang ấy gọi là
trí tuệ.
Trí tuệ tức là
thường trụ;
pháp thường trụ không do
nhân duyên, sao Phật lại hỏi do
nhân duyên gì có
hào quang ấy?
“Hào quang ấy gọi là Đại Niết-bàn. Đại Niết-bàn tức là
thường trụ,
pháp thường trụ không do
nhân duyên, sao Phật lại hỏi do
nhân duyên gì có
hào quang ấy?
“Hào quang ấy tức là
Như Lai.
Như Lai tức là
thường trụ.
Pháp thường trụ không do
nhân duyên, sao Phật lại hỏi nơi nhân duyên?
“Hào quang ấy gọi là
đại từ đại bi.
Đại từ đại bi gọi là
thường trụ.
Pháp thường trụ không do
nhân duyên, sao Phật lại hỏi nơi nhân duyên?
“Hào quang ấy tức là nghĩ nhớ đến Phật. Nghĩ nhớ đến Phật gọi là
thường trụ.
Pháp thường trụ không do
nhân duyên, sao Phật lại hỏi nơi nhân duyên?
“Hào quang ấy là đạo không chung cùng với hết thảy hàng
Thanh văn,
Duyên giác. Đạo chẳng chung cùng với
Thanh văn,
Duyên giác tức là
thường trụ.
Pháp thường trụ không do
nhân duyên, sao Phật lại hỏi nơi nhân duyên?
“Bạch
Thế Tôn, thật cũng có
nhân duyên. Đó là nhân dứt trừ
vô minh liền thắp sáng được
ngọn đèn A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.”
Phật dạy: “Văn-thù-sư-lợi! Nay ông chớ nên
đi vào ý nghĩa rốt ráo sâu xa nhất của các pháp, hãy theo
ý nghĩa chân thật [
tương đối] của
thế gian mà giảng nói về [
hào quang] ấy.”
Văn-thù-sư-lợi thưa: “Bạch Thế Tôn! Về phương đông của
thế giới này,
trải qua số
thế giới nhiều như số cát của hai mươi
sông Hằng, có
một thế giới Phật tên là
Bất Động. Nơi ở của
đức Phật tại thế giới ấy hai bề ngang dọc đều rộng đủ mười hai ngàn do-tuần.[31] Mặt đất nơi cõi ấy bằng
bảy báu, không có
các loại đất đá; bằng phẳng, mềm mại, không có hầm hố. Cây cối nơi ấy đều do bốn món báu[32] tạo thành.
Hoa quả um tùm tươi tốt, mùa nào cũng có.
Chúng sanh ngửi được
mùi thơm của hoa thì
thân tâm an lạc như vị tỳ-kheo vào
cảnh thiền thứ ba.[33]
“Bao quanh cõi ấy lại có ba ngàn con sông lớn, nước sông
mầu nhiệm, có đủ tám vị.[34]
Chúng sanh tắm trong nước sông ấy liền được
vui vẻ khoái lạc, như vị tỳ-kheo vào
cảnh thiền thứ hai.[35] Các sông ấy có rất nhiều đủ mọi loại hoa như hoa ưu-bát-la, hoa ba-đầu-ma, hoa câu-vật-đầu, hoa phân-đà-lợi, hoa hương, hoa hương loại lớn, hoa
vi diệu hương, hoa thường,
các loại hoa không cần tất cả
chúng sanh che chở,
bảo vệ.
“Hai bên bờ sông cũng có đủ
các loại hoa như hoa a-đề-mục-đa-già, hoa chiêm-bà, hoa ba-trá-la, hoa bà-sư-la, hoa ma-lợi-ca, hoa ma-lợi-ca loại lớn, hoa tân-ma-lợi-ca, hoa tu-ma-na, hoa do-đề-ca, hoa đàn-nậu-ca-lợi, hoa thường,
các loại hoa không cần tất cả
chúng sanh che chở,
bảo vệ. Đáy sông đầy cát bằng vàng, có bốn bậc thang
đi lên bằng vàng, bạc,
lưu ly,
pha lê đủ màu. Có nhiều loài chim
tụ tập vui đùa trên bờ sông.
“Lại có
vô số cọp, sói,
sư tử và các giống
thú dữ, chim dữ, nhưng chúng nhìn nhau
hiền hậu và thương nhau như
mẹ con.
“Trong
thế giới ấy không có một người nào phạm các điều
trọng cấm[36] hoặc
phỉ báng Chánh pháp, cũng không có những kẻ nhất-xiển-đề, không có
năm tội nghịch.[37]
“Thế giới ấy điều hòa
thích hợp, không có những nỗi khổ vì nóng, lạnh, đói, khát. Không có những mối
tham dục, giận tức, lười nhác buông thả,
ghen ghét ganh tỵ. Không có
mặt trời,
mặt trăng, ban ngày, ban đêm, không
phân biệt thời tiết, giống như ở
cõi trời Đao-lợi,
cõi trời thứ hai trong
Dục giới.
“Nhân dân ở
thế giới ấy đều có
hào quang, hết thảy đều không có lòng
kiêu mạn. Tất cả đều là những vị
Đại sĩ Bồ Tát, đều đã
chứng đắc thần thông, đầy đủ
công đức lớn, lòng
tôn trọng Chánh pháp, nương theo
Đại thừa, yêu mến nghĩ nhớ đến
Đại thừa,
ham thích Đại thừa,
trân trọng gìn giữ Đại thừa. Thảy đều
thành tựu trí tuệ lớn lao, được phép Đại
tổng trì, trong lòng thường
thương xót tất cả
chúng sanh.
“Đức Phật nơi ấy hiệu là
Mãn Nguyệt Quang Minh Như Lai,
Ứng cúng,
Chánh biến tri,
Minh hạnh túc,
Thiện thệ,
Thế gian giải,
Vô thượng sĩ Điều ngự trượng phu,
Thiên nhân sư, Phật,
Thế Tôn. Tùy nơi an trụ mà ngài tuyên giảng
Chánh pháp,
chúng sanh ở cõi ấy thảy đều được nghe.
“Đức Phật ấy đã vì
Đại Bồ Tát Lưu Ly Quang mà tuyên
giảng kinh Đại Niết-bàn này. Ngài dạy: ‘Thiện nam tử! Nếu
Bồ Tát ma-ha-tát có thể
tu hành kinh Đại Niết-bàn thì đối với những điều không [thể] nghe đều có thể
nghe được.’
“Đại
Bồ Tát Lưu Ly Quang thưa hỏi Phật
Mãn Nguyệt Quang Minh cũng không khác với câu hỏi của
Bồ Tát ma-ha-tát
Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương ở cõi này.
“Phật
Mãn Nguyệt Quang Minh liền dạy
Bồ Tát Lưu Ly Quang rằng: ‘Thiện nam tử! Về phương tây của
thế giới này, cách đây số
cõi Phật nhiều như số cát của hai mươi
sông Hằng, có
một thế giới tên là Ta-bà. Cõi ấy có nhiều núi đồi gò nổng, đất cát đá sỏi,
gai góc và chông độc đầy dẫy khắp nơi,
thường có những nổi khổ vì đói, khát, nóng, lạnh.
“Nhân dân ở cõi ấy không biết
cung kính hàng sa-môn, bà-la-môn,
cha mẹ, thầy dạy; họ tham đắm những việc không đúng pháp, ưa muốn những việc không đúng pháp,
tu hành theo
tà pháp, chẳng tin vào
chánh pháp, tuổi thọ ngắn ngủi. Có những kẻ làm việc
gian trá bị phép vua
trừng phạt. Những vị vua tuy có đất đai cai trị nhưng không thấy
thỏa mãn, nhìn sang nước của vua khác mà sanh lòng
tham muốn rồi khởi binh
đánh nhau, người
chết oan rất nhiều. Bậc vua chúa làm việc không đúng
pháp như thế, các vị
thiện thần ở bốn
cõi trời không có lòng
hoan hỷ, cho nên giáng xuống nạn hạn hán, lúa thóc
mất mùa,
nhân dân nhiều bệnh tật,
khổ não vô cùng.
“Nơi cõi ấy có
đức Phật hiệu là Thích-ca-Mâu-ni
Như Lai,
Ứng cúng,
Chánh biến tri,
Minh hạnh túc,
Thiện thệ,
Thế gian giải,
Vô thượng sĩ Điều ngự trượng phu,
Thiên nhân sư, Phật,
Thế Tôn. Vì lòng
đại bi thuần hậu,
thương xót chúng sanh nên ngài ở tại thành Câu-thi-na, trong rừng có cây sa-la mọc sóng đôi mà giảng rộng với
đại chúng kinh Đại Niết-bàn này.
“Cõi ấy có vị
Bồ Tát tên là
Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương, cũng thưa hỏi về việc này giống như lời ông hỏi. Nay
đức Phật Thích-ca Mâu-ni sắp
trả lời câu hỏi ấy, ông mau đến đó,
tự nhiên sẽ được nghe.’
“Bạch Thế Tôn!
Bồ Tát Lưu Ly Quang nghe vậy rồi liền cùng với tám vạn bốn ngàn vị
Đại Bồ Tát sắp đến đây, cho nên trước hết
hiện ra điềm lành. Do
nhân duyên ấy nên có ánh
hào quang này. Như thế gọi là
nhân duyên, cũng không phải
nhân duyên.”
Lúc ấy,
Bồ Tát Lưu Ly Quang cùng tám vạn bốn ngàn vị
Đại Bồ Tát, thảy đều cầm phướn, lọng,
hương hoa, chuỗi
anh lạc, các món
kỹ nhạc,
tốt đẹp thù thắng hơn nhiều lần so với các món đã được
cúng dường [ở
pháp hội này] trước đây. Tất cả cùng đến thành Câu-thi-na, chỗ hai cây sa-la mọc sóng đôi, mang các thức
cúng dường dâng lên
phụng hiến Phật, cúi đầu và mặt
lễ bái sát
chân Phật,
chắp tay cung kính đi nhiễu quanh theo chiều bên phải ba vòng.
Lễ kính xong, các vị đều ngồi sang một bên.
Bấy giờ,
đức Thế Tôn hỏi các vị
Bồ Tát kia: “Thiện nam tử! Các ông đến đây như vậy là có [sự] đi đến hay không có [sự] đi đến?”
Bồ Tát Lưu Ly Quang thưa: “Bạch Thế Tôn! Có đi đến cũng chẳng đến; không đi đến cũng chẳng đến. Chúng con quán xét trong nghĩa này
hoàn toàn không có việc đến đây.
“Bạch Thế Tôn! Nếu các hành là thường, cũng không có việc đến đây; nếu là
vô thường, lại cũng không có việc đến đây. Nếu người thấy có tánh
chúng sanh thì có việc đến hay không đến. Chúng con nay không thấy có tánh
nhất định của
chúng sanh, làm sao nói rằng có việc đến hay không đến?
“Kẻ có lòng
kiêu mạn liền thấy rằng có đi, có đến; người không có lòng
kiêu mạn ắt không có đi, không có đến.
“Người chấp giữ các hành thì thấy rằng có đi, có đến; người
không chấp giữ các hành ắt không có đi, không có đến.
“Nếu thấy rằng
đức Như Lai dứt hết tất cả mà nhập Niết-bàn, ắt là có đi, có đến; nếu thấy
đức Như Lai không dứt hết tất cả mà nhập Niết-bàn thì không có đi, không có đến.
“Không nghe biết tánh Phật ắt là có đi, có đến; người nghe biết được tánh Phật thì không có đi, không có đến.
“Nếu thấy hàng
Thanh văn và
Phật Bích-chi có Niết-bàn, ắt là có đi, có đến;
nếu không thấy
Thanh văn và
Phật Bích-chi có Niết-bàn thì không có đi, không có đến.
“Nếu thấy hàng
Thanh văn và
Phật Bích-chi là thường, lạc, ngã, tịnh, ắt là có đi, có đến; nếu người không thấy như
vậy thì không có đi, không có đến.
“Nếu thấy
Như Lai không có thường, lạc, ngã, tịnh, ắt là có đi, có đến; nếu thấy
Như Lai là thường, lạc, ngã, tịnh, ắt là không có đi, không có đến.
“Bạch Thế Tôn! Xin hãy tạm gác việc đó lại. Nay con có chỗ muốn thưa hỏi, xin
Như Lai rủ lòng
thương xót cho phép con được hỏi.”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Ông cứ
tùy ý mà hỏi, nay chính là lúc
thích hợp. Ta sẽ vì ông mà
phân biệt giảng thuyết. Vì sao vậy? Chư Phật thật khó gặp, cũng như hoa ưu-đàm.
Chánh pháp cũng vậy, rất khó được nghe. Trong
Mười hai bộ kinh,
kinh Phương đẳng lại càng khó được nghe hơn hết. Cho nên phải
hết lòng lắng nghe và nhận lãnh.”
Lúc ấy,
Bồ Tát ma-ha-tát
Lưu Ly Quang được Phật
cho phép và
ân cần răn dạy, liền
bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Vì sao
Bồ Tát ma-ha-tát
tu hành kinh Đại Niết-bàn lại
nghe được những điều không [thể] nghe?”
Bấy giờ,
đức Như Lai ngợi khen rằng: “Lành thay,
lành thay! Thiện nam tử! Nay ông muốn
thấu triệt kinh điển Đại thừa Đại Niết-bàn
sâu rộng như biển lớn này, lại gặp được ta có thể khéo léo
giảng thuyết. Nay ông đang bị trúng mũi tên độc
nghi ngờ, ta là vị đại
lương y có thể khéo nhổ mũi tên ấy ra. Ông đối với tánh Phật chưa được sáng rõ, ta có ngọn đuốc
trí tuệ có thể vì ông
soi sáng. Nay ông muốn
vượt qua dòng sông lớn
sanh tử, ta có thể vì ông làm vị
đại thuyền sư. Ông đối với ta sanh
ý tưởng xem như cha mẹ, ta đối với ông cũng có lòng thương như con đẻ. Nay lòng ông
ham muốn Chánh pháp, lại gặp được
Như Lai có nhiều
của quý, sắp
ban cho ông.
“Hãy lắng nghe cho kỹ! Hãy nghe cho kỹ! Và hãy
suy xét cho rõ. Ta sẽ vì ông mà
phân biệt phân biệt giảng thuyết.
“Thiện nam tử! Nay ông muốn được
nghe pháp thật là
đúng lúc. Nếu được
nghe pháp rồi nên sanh tâm
cung kính,
tin theo,
hết lòng lắng nghe và nhận lãnh,
tôn trọng cung kính. Đối với
Chánh pháp đừng tìm chỗ
lỗi lầm, đừng nhớ nghĩ những sự
tham dục,
sân khuể,
ngu si. Đừng xét tìm những chỗ tánh nết tốt xấu của người
thuyết pháp. Được
nghe pháp rồi đừng sanh lòng
kiêu mạn. Đừng vì sự
cung kính,
danh dự hay
lợi dưỡng; hãy vì sự
cứu độ thế gian,
vì lợi ích của món
cam lộ Chánh pháp. Cũng đừng sanh
ý nghĩ rằng: ‘Ta được
nghe pháp rồi,
trước tiên sẽ tự độ mình, sau đó mới
độ người khác.
Trước tiên sẽ
giải thoát cho mình, sau đó mới
giải thoát cho người khác.
Trước tiên sẽ tự
an ổn cho mình, sau đó mới làm
an ổn người khác.
Trước tiên sẽ tự mình có Niết-bàn, sau đó mới khiến cho người khác được Niết-bàn.’
“Đối với Phật, Pháp và
Chư tăng nên sanh
ý tưởng bình đẳng như nhau. Đối với cuộc
sanh tử nên sanh
ý tưởng cho là
hết sức khổ não. Đối với Đại Niết-bàn, nên sanh
ý tưởng là thường, lạc, ngã, tịnh.
“Trước hết nên vì người khác, sau đó mới vì
bản thân mình. Nên vì
Đại thừa, đừng vì
hai thừa Thanh văn và
Duyên giác. Đối với tất cả các pháp nên không có chỗ trụ, cũng đừng chuyên chấp vào tướng trạng của tất cả các pháp. Đối với các pháp đừng sanh lòng
tham muốn. Thường sanh những
ý tưởng rõ biết pháp, thấy pháp.
“Thiện nam tử! Nếu ông có thể giữ tâm như
vậy mà hết lòng nghe pháp thì có thể gọi là
nghe được những điều chưa nghe.
“Thiện nam tử! Có các
trường hợp là: không nghe [cũng là] nghe, không nghe [là] không nghe, nghe [cũng là] không nghe và nghe [là] nghe.
“Thiện nam tử! Cũng giống như các
trường hợp không sanh [cũng là] sanh, không sanh [là] không sanh, sanh [cũng là] không sanh và sanh [là] sanh; hoặc
như không đến [cũng là] đến, không đến [là] không đến, đến [cũng là] không đến và đến [là] đến.”
[
Bồ Tát Lưu Ly Quang thưa hỏi:] “Bạch Thế Tôn! Thế nào là không sanh [cũng là] sanh?”
[Phật dạy:] “Thiện nam tử! [Khi
Bồ Tát] trụ yên nơi lý
chân thật của
thế gian, lúc [
thị hiện] vừa ra khỏi
bào thai, đó gọi là không sanh [cũng là] sanh.”
[Lại hỏi:] “Còn thế nào là không sanh [là] không sanh?”
[Phật dạy:] “Thiện nam tử! Đại Niết-bàn này không hề có tướng sanh, đó gọi là không sanh [là] không sanh.”
[Lại hỏi:] “Thế nào là sanh [cũng là] không sanh?”
[Phật dạy:] “Thiện nam tử! Theo lẽ
chân thật [
tương đối] của
thế gian thì lúc chết đi gọi rằng sanh [cũng là] không sanh.”
[Lại hỏi:] “Còn thế nào gọi rằng sanh [là] sanh?”
[Phật dạy:] “Thiện nam tử! Hết thảy
phàm phu đều thuộc về
trường hợp sanh [là] sanh. Vì sao vậy? Vì sự sanh này nối tiếp sự sanh kia, không hề
gián đoạn. Hết thảy các
pháp hữu lậu trong từng giây phút đều sanh ra, nên gọi rằng sanh [là] sanh.
“Hàng
Bồ Tát ở
trụ vị thứ tư thì sanh [cũng là] không sanh. Vì sao vậy? Vì sanh ra một cách
tự do tùy ý nên gọi rằng sanh [cũng là] không sanh.
“Thiện nam tử! Như vậy gọi là những pháp trong [
Phật pháp]. Còn thế nào là những pháp ngoài [
Phật pháp]? Đó là các
trường hợp chưa sanh [cũng là] sanh, chưa sanh [là] chưa sanh, sanh [cũng là] chưa sanh và sanh [là] sanh.
“Thiện nam tử!
Ví như hạt giống chưa nảy mầm, được có đủ
bốn đại hòa hợp, được người ra công chăm sóc, sau đó mới sanh ra mầm. Như vậy gọi rằng chưa sanh [cũng là] sanh.
“Thế nào gọi là chưa sanh [là] chưa sanh?
Ví như hạt giống bị hỏng, cùng với
hạt giống chưa gặp đủ
điều kiện nhân duyên. Các
trường hợp như vậy gọi rằng chưa sanh [là] chưa sanh.
“Thế nào là sanh [cũng là] chưa sanh? Như hạt nảy mầm rồi nhưng không
tăng trưởng. Như vậy gọi rằng sanh [cũng là] chưa sanh.
“Thế nào gọi rằng sanh [là] sanh? Như
hạt giống nảy mầm thì mới
tăng trưởng,
nếu không nảy mầm thì không
tăng trưởng. Tất cả
pháp hữu lậu cũng đều như thế. Như vậy là những
trường hợp sanh [là] sanh của các pháp ngoài [
Phật pháp].”
Bồ Tát ma-ha-tát
Lưu Ly Quang
bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Các
pháp hữu lậu nếu như có sanh thì [sự sanh] đó là thường chăng? Hay là vô thường?
“Nếu sự sanh là thường thì các
pháp hữu lậu ắt không có sự sanh. Nếu sự sanh là
vô thường thì các
pháp hữu lậu ắt phải là thường.
“Bạch Thế Tôn! Nếu cái sanh có thể tự sanh ra, thì sự
sanh không có
tự tánh.
Nếu có thể sanh ra cái khác thì do
nhân duyên gì không sanh ra vô lậu?
“Bạch Thế Tôn! Nếu trong khi chưa sanh mà có sự sanh, vì sao
đến nay mới gọi là sanh? Nếu khi chưa sanh mà không có cái sanh, sao chẳng nói rằng
hư không là sanh?”
Phật dạy: “Lành thay,
lành thay! Thiện nam tử! [Những điều như] không sanh [cũng là] sanh là không thể
thuyết giảng; sanh [là] sanh cũng không thể
thuyết giảng. [Các
trường hợp] sanh [là] không sanh cũng không thể
thuyết giảng; không sanh [là] không sanh cũng không thể thuyết giảng!
“Sự sanh cũng không thể
thuyết giảng; sự không sanh cũng không thể
thuyết giảng. Nhưng vì có
nhân duyên nên cũng có thể
thuyết giảng.
“Thế nào là không sanh [là]
sanh không thể thuyết giảng? [Cái] không sanh đó gọi là sanh, làm sao còn có thể thuyết giảng? Vì sao vậy? Vì cái không sanh đó đã sanh rồi.
“Thế nào gọi rằng sanh [là]
sanh không thể thuyết giảng? Vì sanh [là] sanh nên có sự sanh; vì sanh [là] sanh nên có sự không sanh. [Như vậy] cũng là không thể
thuyết giảng.
“Thế nào là sanh [là] không
sanh không thể thuyết giảng? [Có sự] sanh nên gọi tên là sanh, sự
sanh không tự nó sanh ra nên không thể
thuyết giảng.
“Thế nào gọi rằng không sanh [là] không sanh cũng không thể thuyết giảng? Không sanh đó gọi là Niết-bàn. Niết-bàn không sanh ra nên không thể
thuyết giảng. Vì sao vậy? Vì nhờ
tu tập theo
Chánh đạo mà được Niết-bàn [chứ không có sự sinh ra].
“Thế nào là sự sanh cũng không thể thuyết giảng? Vì [tuy nói là có] sự sanh [nhưng vốn thật] là không.
“Thế nào là sự không sanh cũng không thể thuyết giảng? Vì [tuy nói là không sanh nhưng thật] có sự
chứng đắc.
“Thế nào là vì có
nhân duyên nên có thể thuyết giảng? Vì có mười pháp
nhân duyên làm nhân cho sự sanh ra. Vì nghĩa ấy nên cũng có thể
thuyết giảng.
“Thiện nam tử! Nay các ông chớ nên nhập phép
Không định[38] rất
sâu xa. Vì sao vậy? Vì
đại chúng nơi đây
căn tánh chậm lụt.
“Thiện nam tử! Sự sanh ra của các
pháp hữu vi cũng là thường, [nhưng] vì sự
tồn tại [của chúng] không thường nên sự sanh ra đó cũng là
vô thường.
“Sự
tồn tại của các
pháp hữu vi cũng là thường, [nhưng] vì sanh [
tiếp nối] sanh, [
liên tục biến đổi] nên sự
tồn tại [của chúng] cũng là
vô thường.
“Sự
biến đổi cũng là thường, [nhưng] vì pháp là
vô thường nên sự
biến đổi cũng là
vô thường.
“Sự
hoại diệt cũng là thường, [nhưng] vì vốn [từ chỗ] không mà nay thành có nên sự
hoại diệt cũng là
vô thường.
“Thiện nam tử!
Do nơi thật tánh [mà nói] thì sự sanh ra,
tồn tại,
biến đổi,
hoại diệt thảy đều là thường. [Nhưng] vì trong từng khoảnh khắc luôn
tiếp nối nhau diệt mất nên không thể nói là thường. Vì Đại Niết-bàn này có
công năng trừ dứt [các pháp ấy], nên gọi [chúng] là
vô thường.
“Thiện nam tử! Các
pháp hữu lậu khi chưa sanh ra vốn sẵn có tánh sanh, nên sự sanh mới có thể sanh ra. Các pháp
vô lậu vốn không có tánh sanh, nên sự
sanh không thể sanh ra. Cũng như lửa sẵn có tánh [cháy], gặp đủ
điều kiện ắt sẽ bùng cháy. Mắt sẵn có
tánh thấy, nhân có đủ các
điều kiện như
hình sắc, ánh sáng,
tâm thức nên [có sự] thấy.
“Pháp sanh ra của
chúng sanh cũng là như vậy, do sẵn có tánh [sanh], gặp đủ [các
điều kiện]
nhân duyên,
nghiệp lực,
cha mẹ hòa hợp, liền có sự sanh ra.”
Lúc ấy,
Bồ Tát ma-ha-tát
Lưu Ly Quang cùng tám mươi bốn ngàn vị
Bồ Tát ma-ha-tát
nghe pháp ấy rồi liền vọt lên
hư không, cao bằng bảy cây đa-la,[39]
cung kính chấp tay bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Chúng con nhờ ơn
Như Lai ân cần dạy bảo, nhân nơi kinh Đại Niết-bàn mà lần đầu tiên nhận hiểu được
ý nghĩa nghe được những điều không [thể] nghe, lại cũng giúp cho tám mươi bốn ngàn vị
Bồ Tát ma-ha-tát hiểu sâu được sự sanh, không sanh... của các pháp.
“Bạch Thế Tôn! Nay con đã
hiểu rõ, trừ dứt mọi sự
nghi ngờ. Nhưng trong hội này còn có một vị
Bồ Tát tên là
Vô Úy muốn thưa hỏi, xin Phật rủ lòng thương
cho phép vị ấy được thưa hỏi.”
Lúc ấy,
đức Thế Tôn bảo
Bồ Tát Vô Úy: “Thiện nam tử! Ông cứ
tùy ý chất vấn, ta sẽ vì ông mà
phân biệt giảng thuyết.”
Bấy giờ,
Bồ Tát Vô Úy cùng với tám mươi bốn ngàn vị
Bồ Tát đều từ chỗ ngồi
đứng dậy, chỉnh trang
y phục, rồi quỳ xuống
chắp tay bạch Phật: “Bạch Thế Tôn!
Chúng sanh ở cõi này
cần phải thực hiện những
nghiệp lành nào để được sanh về
cõi Phật Bất Động kia?
Bồ Tát ở cõi này làm thế nào để được
thành tựu trí tuệ, thành bậc oai dũng
vượt trội trong
loài người; có
oai đức lớn,
tu tập đầy đủ các hạnh,
tâm trí sáng suốt nhanh lẹ, vừa nghe qua liền có thể hiểu rõ?”
Đức Thế Tôn liền nói kệ đáp rằng:
Không giết hại
chúng sanh,
Giữ theo mọi
giới cấm,
Tin pháp Phật nhiệm mầu,
Ắt sanh cõi
Bất Động.
Không cướp đoạt tiền tài,
Thường
bố thí khắp cả,
Xây chùa khắp bốn phương,[40]
Ắt sanh cõi
Bất Động.
Không
dan díu vợ người,
Không tham dâm vợ mình.
Cúng dường bậc
trì giới,
Ắt sanh cõi
Bất Động.
Chẳng vì mình, vì người,
Mưu
cầu lợi,
khủng bố.
Chỉ nói lời
chân thật,
Ắt sanh cõi
Bất Động.
Chớ nghịch hại người lành,
Lìa xa mọi kẻ ác,
Thường nói lời
hòa hợp,
Ắt sanh cõi
Bất Động.
Như các vị
Bồ Tát,
Dứt bỏ
lời nói độc,
Chỉ nói lời dễ nghe,
Ắt sanh cõi
Bất Động.
Ngay cả lúc đùa vui,
Cũng nói khi
thích hợp,
Nói năng thường
thận trọng,
Ắt sanh cõi
Bất Động.
Thấy người được
tài lợi,
Lòng cũng mừng vui theo,
Không khởi lòng
ganh ghét,
Ắt sanh cõi
Bất Động.
Chẳng gây sự phiền giận,
Thường khởi lòng
thương yêu,
Chẳng
tìm cách làm ác,
Ắt sanh cõi
Bất Động.
Tà kiến phủ nhận thí,
Không
cha mẹ,
xưa nay.
Chẳng thấy biết như vậy,
Ắt sanh cõi
Bất Động.
Đào giếng trên đường vắng,
Trồng cây trái rừng sâu,[41]
Cúng dường người
khất thực,
Ắt sanh cõi
Bất Động.
Cúng dường Phật, Pháp, Tăng,
Một nén hương,
ngọn đèn,
Hoặc chỉ một cành hoa,
Ắt sanh cõi
Bất Động.
Dù chỉ do
sợ hãi,
Hoặc
cầu lợi, cầu phước,
Mà sao chép kinh này,
Ắt sanh cõi
Bất Động.
Nếu vì cầu
phúc lộc,
Dù chỉ trong một ngày,
Tụng
đọc kinh điển này,
Ắt sanh cõi
Bất Động.
Nếu vì đạo
Vô thượng,
Trong suốt một ngày đêm,
Thọ trì tám
trai giới,
Ắt sanh cõi
Bất Động.
Những kẻ phạm
cấm giới,
Hoặc chê bai
Đại thừa,
Chớ chung đụng, gần gũi,
Ắt sanh cõi
Bất Động.
Bố thí người bệnh tật,
Dù chỉ một trái cây,
Vui vẻ mà thăm nom,
Ắt sanh cõi
Bất Động.
Không đoạt
của bố thí,[42]
Khéo giữ vật
cúng Phật,
Quét dọn nơi chùa tháp,
Ắt sanh cõi
Bất Động.
Tạo tượng và tháp Phật,
Dù nhỏ như ngón tay,
Thường khởi lòng
hoan hỷ,
Ắt sanh cõi
Bất Động.
Nếu vì
kinh điển này,
Mang
thân thể, tài vật,
Cúng dường người
thuyết pháp,
Ắt sanh cõi
Bất Động.
Nếu nghe rồi sao chép,
Thọ trì và tụng đọc,
Nghĩa sâu kín Phật dạy,
Ắt sanh cõi
Bất Động.
Lúc ấy,
Bồ Tát Vô Úy bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Nay con đã biết được những
nghiệp duyên tốt đẹp để sanh về cõi
Bất Động.
“Bồ Tát
Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương vì
thương xót khắp cả
chúng sanh nên đã có lời thưa hỏi. Nếu
Như Lai giảng thuyết việc ấy ắt có thể làm
lợi ích,
an lạc cho lồi người và
chư thiên cùng các loài a-tu-la, càn-thát-bà, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già.”
Bấy giờ,
đức Thế Tôn liền bảo
Bồ Tát Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương: “Lành thay,
lành thay! Thiện nam tử! Đối với việc này ông nên
hết lòng lắng nghe. Nay ta sẽ vì ông mà
phân biệt giảng thuyết. Có những
trường hợp: vì có
nhân duyên nên chưa đến [là] không đến; vì có
nhân duyên nên đến [cũng là] không đến; vì có
nhân duyên nên không đến [cũng là] đến; vì có
nhân duyên nên đến [là] đến.
“Do
nhân duyên gì mà chưa đến [là] không đến?
Thiện nam tử! Nói không đến đó là nói kẻ
phàm phu chưa đến được Đại Niết-bàn vì có những sự
tham dục,
sân khuể,
ngu si; vì các nghiệp thân, miệng chẳng
trong sạch; vì nhận lãnh hết thảy những vật
bất tịnh, phạm bốn tội nặng, chê bai
phỉ báng kinh Phương đẳng, làm kẻ nhất-xiển-đề dứt
mất lòng tin, phạm vào
năm tội nghịch. Vì những nghĩa ấy nên [họ] chưa đến [là] không đến.
“Thiện nam tử! Do
nhân duyên gì mà không đến [cũng là] đến? Không đến đó gọi là Đại Niết-bàn. Vì nghĩa gì mà [nói là] đến [được Đại Niết-bàn]? Đó là vì đã dứt hẳn
tham dục,
sân khuể,
ngu si và những
nghiệp ác của thân, của miệng; vì không nhận lãnh hết thảy những vật
bất tịnh; vì không phạm vào bốn tội nặng; vì không chê bai
phỉ báng kinh Phương đẳng; vì không làm kẻ nhất-xiển-đề đoạn dứt
niềm tin; vì không tạo
năm tội nghịch. Vì những nghĩa ấy nên gọi là không đến [cũng là] đến.
“Hàng Tu-đà-hoàn tuy chưa đến nhưng
trải qua tám
vạn kiếp thì đến; hàng Tư-đà-hàm
trải qua sáu
vạn kiếp thì đến; hàng A-na-hàm
trải qua bốn
vạn kiếp thì đến; hàng A-la-hán
trải qua hai
vạn kiếp thì đến; hàng
Phật Bích-chi trải qua một
vạn kiếp thì đến. Vì nghĩa ấy nên gọi là không đến [cũng là] đến.
“Thiện nam tử! Vì
nhân duyên gì mà đến [cũng là] không đến? [Chỗ] đến đó gọi là
hai mươi lăm cảnh giới hiện hữu. Tất cả
chúng sanh thường bị
vô lượng phiền não trói buộc,
che lấp, không ra khỏi được sự
luân chuyển đến đi trong các
cảnh giới ấy, như cái bánh xe quay tròn mãi, nên gọi đó là [chỗ] đến. Hàng
Thanh văn,
Duyên giác và các vị
Bồ Tát đều đã
vĩnh viễn dứt trừ [sự
luân chuyển trong các cõi ấy] nên gọi là không đến. Nhưng vì muốn
hóa độ chúng sanh nên
thị hiện vào trong đó, cũng gọi là đến. [Vì nghĩa ấy nên nói rằng đến cũng là không đến.]
“Thiện nam tử! Vì
nhân duyên gì mà đến [là] đến? [Chỗ] đến đó tức là
hai mươi lăm cảnh giới hiện hữu. Hết thảy
phàm phu, từ Tu-đà-hoàn
cho đến A-na-hàm, vì
nhân duyên phiền não nên gọi rằng đến [là] đến [chỗ ấy].
“Thiện nam tử! [Về
ý nghĩa]
nghe được những điều không [thể] nghe cũng là như vậy. Có các
trường hợp không nghe [cũng là] nghe, không nghe [là] không nghe, nghe [cũng là] không nghe và nghe [là] nghe.
“Thế nào là không nghe [cũng là] nghe?
Thiện nam tử! Không nghe đó, gọi là Đại Niết-bàn. Vì sao [nói là] không nghe? Vì không phải
pháp hữu vi, vì không phải
âm thanh, vì không thể
thuyết giảng. [Nhưng] vì sao cũng là nghe? Vì
nghe được các danh xưng [của Đại Niết-bàn] như là thường, lạc, ngã, tịnh. Vì nghĩa ấy nên gọi rằng không nghe [cũng là] nghe.”
Lúc ấy,
Bồ Tát ma-ha-tát
Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương
bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Như Phật có nói, Đại Niết-bàn không thể
nghe được, vì sao lại nói rằng thường, lạc, ngã, tịnh là có thể nghe được?
“Vì sao vậy? Thế Tôn! Người dứt
trừ phiền não gọi là
đạt được Niết-bàn, chưa dứt trừ thì gọi là không
đạt được [Niết-bàn]. Vì nghĩa ấy nên tánh của Niết-bàn trước vốn là không mà sau thành có. Nếu pháp
thế gian trước vốn là không mà nay thành có ắt phải gọi là
vô thường.
Ví như các loại bình chứa... trước vốn là không, sau lại thành có, đã có rồi sau lại [hư hoại] thành không, nên gọi là
vô thường. Niết-bàn nếu cũng như thế thì sao lại nói là thường, lạc, ngã, tịnh?
“Lại nữa, bạch Thế Tôn! Thường thì hết thảy những việc do
nhân duyên tu tập [
trang nghiêm] mà thành đều gọi là
vô thường. Niết-bàn nếu cũng như thế thì lẽ ra là
vô thường. Là những
nhân duyên gì [
thành tựu Niết-bàn]? Đó là
ba mươi bảy phẩm trợ đạo, sáu pháp ba-la-mật,
bốn tâm vô lượng; là pháp
quán tưởng tướng xương trắng, là pháp quán đếm
hơi thở, là
sáu niệm xứ, là phân tích chia chẻ
sáu đại...[43] Những
pháp như vậy đều là
nhân duyên tạo thành Niết-bàn, cho nên [Niết-bàn] gọi là
vô thường.
“Lại nữa, bạch Thế Tôn! Sự
hiện hữu gọi là
vô thường. Nếu như Niết-bàn là
hiện hữu, thì lẽ ra phải là
vô thường. Như trước đây Phật có dạy trong kinh A-hàm: ‘Hàng
Thanh văn,
Duyên giác, các
đức Phật Thế Tôn đều có Niết-bàn.’
Do nơi nghĩa ấy nên [Niết-bàn] gọi là
vô thường.
“Lại nữa, bạch Thế Tôn! Các pháp có thể nhìn thấy được gọi là
vô thường. Như trước đây Phật có dạy: ‘Người nào thấy được Niết-bàn ắt đoạn trừ hết thảy
phiền não.’
“Lại nữa, bạch Thế Tôn!
Ví như hư không, đối với hết thảy
chúng sanh đều
bình đẳng không
chướng ngại, nên gọi là thường. Nếu Niết-bàn là thường và
bình đẳng, vì sao
chúng sanh lại có kẻ được, người không được? Niết-bàn nếu là như thế, đối với
chúng sanh không
bình đẳng như nhau, ắt không thể gọi là thường.
“Thế Tôn!
Ví như có trăm người cùng
oán hận một người. Nếu kẻ bị
oán hận ấy bị hại, ắt có nhiều người được vui. Nếu như Niết-bàn là
pháp bình đẳng thì khi một người
đạt được, lẽ ra cũng có nhiều người được; khi một người dứt trừ những sự
trói buộc, lẽ ra cũng có nhiều người được dứt trừ.
Nếu không phải như vậy, làm sao gọi là thường?
“Ví như có người
cung kính cúng dường,
tôn trọng,
ca ngợi vị
quốc vương hay vương tử,
cha mẹ,
sư trưởng... người ấy ắt được sự
lợi dưỡng. [Việc] như vậy không gọi là thường. Niết-bàn cũng giống như vậy nên không gọi là thường. Vì sao vậy? Như Phật trước đây trong kinh A-hàm có dạy A-nan rằng: “Nếu ai thường
cung kính Niết-bàn thì người ấy dứt trừ được
phiền não trói buộc,
thọ hưởng niềm vui
vô lượng.’
Do nơi nghĩa ấy nên không gọi là thường.
“Bạch Thế Tôn! Nếu trong Niết-bàn có những danh xưng như thường, lạc, ngã, tịnh thì không gọi là thường. Còn
như không có [những danh xưng ấy] thì [Niết-bàn] làm sao có thể thuyết giảng?”
Lúc ấy,
đức Thế Tôn bảo
Bồ Tát ma-ha-tát
Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương: “Thực thể của Niết-bàn chẳng phải trước là không mà sau thành có. Nếu
thực thể của Niết-bàn là trước không sau có thì ắt không phải pháp
vô lậu thường trụ. Dù có Phật hay không có Phật thì tánh và tướng [của Niết-bàn] vẫn là
thường trụ, chỉ vì
chúng sanh bị
phiền não che lấp nên không thấy được Niết-bàn, liền nói là không có. Hàng
Bồ Tát ma-ha-tát dùng giới, định, tuệ,
chuyên cần tu sửa trong tâm, khi dứt hết
phiền não rồi liền thấy được Niết-bàn. [Vì thế] nên biết rằng Niết-bàn là
pháp thường trụ, chẳng phải là trước vốn không mà sau thành có; vì thế nên gọi [Niết-bàn] là thường.
“Thiện nam tử!
Ví như dưới giếng nước trong căn nhà tối, có đủ
bảy báu. Người ta cũng biết là có, nhưng vì tối nên không nhìn thấy. Người khôn ngoan khéo biết
phương cách liền thắp lên
ngọn đèn lớn,
mang đến soi sáng, thấy được tất cả. Người ấy đối với việc đó không hề nghĩ rằng: ‘Nước và
bảy món báu trước là không mà nay thành có.’
“Niết-bàn cũng như thế, vốn luôn sẵn có, chẳng phải
đến nay mới có. Vì
phiền não tối tăm nên
chúng sanh không thấy. Bậc
Như Lai trí tuệ lớn lao khéo dùng
phương tiện, thắp lên
ngọn đèn trí tuệ, khiến cho các vị
Bồ Tát thấy được Niết-bàn, thường, lạc, ngã, tịnh. Vì thế, người có
trí tuệ đối với Niết-bàn không nên nói rằng trước vốn là không mà nay mới có.
“Thiện nam tử! Ông nói rằng do
nhân duyên tu tập [
trang nghiêm] mà được
thành tựu Niết-bàn, nên [Niết-bàn] là
vô thường. Nghĩa ấy không đúng. Vì sao vậy?
“Thiện nam tử!
Thực thể của Niết-bàn là chẳng phải sanh ra, chẳng phải
xuất hiện, chẳng phải
chân thật, chẳng phải
hư dối; không do
sự tạo tác các nghiệp mà sanh, [nên] không phải là
pháp hữu lậu,
hữu vi.
“Niết-bàn cũng không phải nghe, không phải thấy; không sa đọa, không chết mất; không phải tướng riêng biệt, cũng không phải tướng tương đồng. Niết-bàn cũng không đi qua, không
trở lại; không phải
quá khứ, tương lai hay
hiện tại; không phải
duy nhất cũng không phải nhiều; không dài, không ngắn, không tròn, không vuông,
không sắc nhọn, không tà lệch; không phải có tướng, cũng không phải không có tướng; không phải tên gọi, không phải
hình sắc; không phải nhân, không phải quả; không phải ta và vật của ta.
“Vì những nghĩa ấy nên Niết-bàn là thường còn không hề
biến chuyển, thay đổi. [Nhưng] phải dùng sự
tu tập các pháp lành trong
vô lượng a-tăng-kỳ kiếp để
trang nghiêm tự thân rồi sau mới thấy được Niết-bàn.
“Thiện nam tử!
Ví như dưới lòng đất có [mạch] nước đủ tám vị[44] nhưng
chúng sanh chẳng ai lấy được. Người có
trí tuệ liền ra công đào
xuyên qua đất, lấy được [mạch] nước ấy. Niết-bàn cũng giống như thế.
“Ví như người mắt mù không thấy được
mặt trời,
mặt trăng. Nhờ thầy thuốc
điều trị rồi liền thấy được. Nhưng
mặt trời,
mặt trăng ấy không phải trước vốn là không mà nay thành có. Niết-bàn
cũng thế, từ trước vẫn tự sẵn có, không phải
đến nay mới có.
“Thiện nam tử!
Ví như người có tội, bị trói giữ trong ngục tù, lâu lắm mới được thả ra. Khi
trở về nhà liền thấy được
cha mẹ, anh em,
vợ con,
quyến thuộc. [Những
cha mẹ, anh em... đó
thật không phải trước vốn là không mà nay thành có.] Niết-bàn cũng là như thế.
“Thiện nam tử! Ông nói rằng Niết-bàn là do
nhân duyên mà có được nên lẽ ra phải là
vô thường. Điều này cũng không đúng. Vì sao vậy?
“Thiện nam tử! Có năm loại
nguyên nhân. Những gì là năm? Một là
nguyên nhân sanh ra, hai là
nguyên nhân hòa hợp, ba là
nguyên nhân tồn tại, bốn là
nguyên nhân tăng trưởng, năm là
nguyên nhân bên ngoài.
“Thế nào là
nguyên nhân sanh ra?
Nguyên nhân sanh ra tức là các thứ nghiệp
phiền não [trong tâm],
các loại hạt giống cây cỏ bên ngoài. Những thứ ấy gọi là
nguyên nhân sanh ra.
“Thế nào là
nguyên nhân hòa hợp? Như tâm thiện với tâm thiện cùng
hòa hợp;
tâm bất thiện với
tâm bất thiện cùng
hòa hợp, tâm
vô ký với tâm
vô ký cùng
hòa hợp. Đó gọi là
nguyên nhân hòa hợp.
“Thế nào là
nguyên nhân tồn tại? Như nhờ có những cây cột chống giữ bên dưới nên mái nhà không sập; núi sông, cây cối, nhờ có mặt đất chống giữ nên mới đứng vững; trong thân
chúng sanh có
bốn đại với
vô lượng phiền não nên mới
tồn tại. Đó gọi là
nguyên nhân tồn tại.
“Thế nào là
nguyên nhân tăng trưởng? Như nhờ có các
điều kiện quần áo,
thức ăn uống... nên
chúng sanh mới
tăng trưởng. Như các
hạt giống ngoài trời nếu không bị lửa thiêu cháy, không bị chim ăn mất... thì mới được
tăng trưởng. Như các vị sa-môn, bà-la-môn nhờ nương theo
hòa thượng,
thiện tri thức mà được
tăng trưởng. Như con nhờ
cha mẹ mà được
tăng trưởng. Đó gọi là
nguyên nhân tăng trưởng.
“Thế nào là
nguyên nhân [khác] từ bên ngoài?
Ví như nhờ có
thần chú mà
ma quỷ, chất độc đều không thể làm hại; như nhờ vị
quốc vương mà không có giặc cướp; như hạt nảy mầm nhờ các
điều kiện: đất, nước, độ ẩm, không khí...
“Như để làm ra món bơ sữa thì
cần phải có nước, sự khuấy đảo, công người làm, đó là
nguyên nhân [khác] bên ngoài. Như ánh sáng,
hình sắc... là
nguyên nhân bên ngoài của
nhãn thức.
Như tinh huyết
cha mẹ là
nguyên nhân bên ngoài của
chúng sanh. Như các
điều kiện thời tiết đều gọi là
nguyên nhân bên ngoài.
“Thiện nam tử!
Thực thể của Niết-bàn chẳng phải do năm loại
nguyên nhân như
vậy mà thành, sao lại nói rằng Niết-bàn là vô thường?
“Thiện nam tử! Lại có hai loại
nguyên nhân, một là
nguyên nhân tạo thành, hai là
nguyên nhân làm rõ. Như các dụng cụ vòng, dây... của người thợ làm đồ gốm, đó gọi là
nguyên nhân tạo thành. Như đèn, đuốc...
soi sáng những vật trong
chỗ tối, đó gọi là
nguyên nhân làm rõ.
“Thiện nam tử! Đại Niết-bàn không do
nhân tạo thành mà có, chỉ do nhân làm rõ [để thấy được]. Nhân làm rõ Niết-bàn là
ba mươi bảy pháp trợ đạo, sáu pháp ba-la-mật... Đó gọi là
nguyên nhân làm rõ, [vì nhân đó mà thấy được Niết-bàn.]
“Thiện nam tử!
Bố thí là nhân Niết-bàn, chẳng phải là nhân Đại Niết-bàn.
Pháp Bố thí ba-la-mật mới được gọi là nhân Đại Niết-bàn. Ba mươi bảy phẩm là nhân Niết-bàn, chẳng phải là nhân Đại Niết-bàn.
Vô lượng vô số pháp trợ Bồ-đề mới được gọi là nhân Đại Niết-bàn.”
KINH ĐẠI BÁT NIẾT-BÀN
HẾT QUYỂN HAI MƯƠI MỐT
KINH ĐẠI BÁT NIẾT-BÀN
QUYỂN HAI MƯƠI HAI
PHẨM BỒ TÁT QUANG MINH BIẾN CHIẾU CAO QUÝ ĐỨC VƯƠNG
Phẩm thứ mười – Phần hai
Bấy giờ,
Bồ Tát ma-ha-tát
Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương
bạch Phật: “Thế Tôn!
Bố thí thế nào không được gọi là
Bố thí ba-la-mật?
Bố thí thế nào được gọi là
Bố thí ba-la-mật?
Tương tự cho đến Bát-nhã ba-la-mật,[45] thế nào không được gọi là Bát-nhã ba-la-mật? Thế nào được gọi là Bát-nhã ba-la-mật? Thế nào gọi là Niết-bàn? Thế nào gọi là Đại Niết-bàn?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Hàng
Bồ Tát ma-ha-tát
tu hành kinh Phương đẳng Đại Bát Niết-bàn không nghe đến
bố thí, không thấy có
bố thí, không nghe đến
Bố thí ba-la-mật, không thấy có
Bố thí ba-la-mật,
cho đến không nghe Bát-nhã, không thấy có Bát-nhã, không nghe
Bát-nhã ba-la-mật, không thấy có
Bát-nhã ba-la-mật; không nghe đến Niết-bàn, không thấy có Niết-bàn, không nghe đến Đại Niết-bàn, không thấy có Đại Niết-bàn.
“Bồ Tát ma-ha-tát
tu hành Đại Niết-bàn, thấy biết
pháp giới,
hiểu rõ tướng
chân thật vốn là không, không có vật
sở hữu, không có các tướng
tri giác hòa hợp;
đạt đến chỗ thấy được các tướng
vô lậu,
tướng không tạo tác, tướng
như ảo hóa, tướng như hơi nắng nóng, như cảnh thành
biến hóa mà có, tướng rỗng không.
“Khi
Bồ Tát thấy được những tướng như
vậy thì không còn có tham, sân, si; không nghe, không thấy. Đó gọi là tướng
chân thật của
Bồ Tát ma-ha-tát.
“Bồ Tát trụ yên nơi tướng
chân thật liền tự biết
phân biệt: đây là
bố thí, đây là
Bố thí ba-la-mật,
cho đến đây là Bát-nhã, đây là
Bát-nhã ba-la-mật; đây là Niết-bàn, đây là Đại Niết-bàn...
“Thiện nam tử! Thế nào là
bố thí, không phải [
Bố thí] ba-la-mật? Thấy có người đến xin rồi sau mới cho, đó gọi là
bố thí, không phải [
Bố thí] ba-la-mật. Nếu người không đến xin mà tự mình
mở rộng lòng cho, đó gọi là
Bố thí Ba-la-mật.
“Nếu thường
bố thí theo
thời gian [có
gián đoạn], đó cũng gọi là
bố thí, không phải [
Bố thí] ba-la-mật. Như
tu tập trong tâm lúc nào cũng
bố thí, đó gọi là
Bố thí Ba-la-mật.
“Nếu
bố thí cho người khác rồi sanh lòng tiếc nuối, đó gọi là
bố thí, không phải là [
Bố thí] ba-la-mật.
Bố thí rồi không hề tiếc nuối, đó gọi là
Bố thí ba-la-mật.
“Hàng
Bồ Tát ma-ha-tát quán xét rằng giữ lấy tài vật thì sanh ra bốn điều lo sợ: một là sợ vua quan thu mất, hai là sợ giặc cướp
lấy mất, ba là sợ nước lụt cuốn mất, bốn là sợ nạn lửa thiêu mất. [Quán xét như vậy rồi] liền
hoan hỷ bố thí cho kẻ khác, đó gọi là
Bố thí ba-la-mật.
“Nếu
bố thí mà mong cầu được
báo đáp thì gọi là
bố thí, không phải [
Bố thí] ba-la-mật.
Bố thí không mong cầu
báo đáp, đó gọi là
Bố thí Ba-la-mật.
“Nếu
bố thí vì sự khiếp sợ, vì cầu được
danh tiếng,
lợi dưỡng, vì cầu
cho phép nhà truyền nối chẳng dứt, vì mong cầu năm món dục ở
cõi trời, hoặc vì lòng
kiêu mạn, vì muốn hơn kẻ khác, vì tình
quen biết, vì cầu được
báo đáp... [những cách
bố thí như vậy] đều chỉ giống như sự đổi chác nơi chợ búa mà thôi![46]
“Thiện nam tử! Như người trồng cây là vì muốn có bóng mát, vì muốn được
hoa quả, hoặc để có cây gỗ. Nếu người
tu hành bố thí theo những cách như
vậy thì gọi là
bố thí, không phải là [
Bố thí] ba-la-mật.
“Bồ Tát ma-ha-tát
tu hành pháp Đại Niết-bàn này không thấy có người
bố thí, không thấy có người thọ nhận [vật
bố thí], không thấy có
tài vật bố thí; không thấy có thời điểm
thích hợp hay không
thích hợp; không thấy [người nhận
bố thí] là
phước điền hay không phải
phước điền; không thấy có nhân, không thấy có duyên, không thấy có
quả báo; không thấy có người tạo tác, không thấy có kẻ thọ nhận; không thấy là nhiều, không thấy là ít; không thấy là
trong sạch hay không
trong sạch; không khinh thường người thọ nhận, không khinh
thường thân mình hay tài vật; không thấy có người thấy hay người không thấy; chẳng
phân biệt mình và người khác; chỉ vì
pháp thường trụ
Phương đẳng Đại Bát Niết-bàn nên
tu hành bố thí.
Vì lợi ích hết thảy
chúng sanh nên
thực hành bố thí. Vì dứt
trừ phiền não của tất cả
chúng sanh nên
thực hành bố thí. Vì
chúng sanh nên
thực hành việc
bố thí mà không thấy có kẻ thọ nhận, có người
bố thí và
tài vật bố thí.
“Thiện nam tử! Như người rơi xuống biển sâu, ôm lấy
xác chết mà được
thoát nạn.
Bồ Tát ma-ha-tát
tu pháp Đại Niết-bàn
thực hành việc
bố thí cũng vậy, giống như người ôm lấy
xác chết kia.
“Thiện nam tử! Như người bị nhốt trong ngục kín, cửa nẻo
kiên cố, chỉ có một lỗ trống nơi nhà xí, liền chui theo lỗ ấy mà thoát ra, không còn
bị giam cầm.
Bồ Tát ma-ha-tát
tu pháp Đại Niết-bàn
thực hành việc
bố thí cũng vậy, [giống như người chui theo lỗ trống ở nhà xí kia.]
“Thiện nam tử! Như người thuộc dòng
quý tộc,
gặp nạn khủng bố cấp bách, không có chỗ nương cậy, phải nương theo kẻ hạ tiện dòng chiên-đà-la.
Bồ Tát ma-ha-tát
tu pháp Đại Niết-bàn
thực hành việc
bố thí cũng vậy, [giống như người
quý tộc nương theo kẻ hạ tiện kia].
“Thiện nam tử! Như người có bệnh, vì muốn dứt
bệnh khổ, được an vui, nên phải uống loại thuốc nhơ nhớp.
Bồ Tát ma-ha-tát
tu pháp Đại Niết-bàn
thực hành việc
bố thí cũng vậy, [giống như người bệnh phải uống loại thuốc nhơ nhớp kia].
“Thiện nam tử! Như người bà-la-môn gặp lúc cơm gạo đắt đỏ, vì sự sống nên phải
ăn thịt chó.
Bồ Tát ma-ha-tát
tu pháp Đại Niết-bàn
thực hành việc
bố thí cũng vậy, [giống như người bà-la-môn bất đắc dĩ phải
ăn thịt chó kia].
“Thiện nam tử! Trong Đại Niết-bàn, những việc như vậy
từ vô lượng kiếp tới nay, không [thể] nghe mà được nghe. Về
giới luật và
Trì giới ba-la-mật,
cho đến bát-nhã và
Bát-nhã ba-la-mật, ta đã giảng rộng trong
kinh Hoa nghiêm.[47]
“Thiện nam tử! Thế nào là
Bồ Tát ma-ha-tát
tu hành pháp Đại Niết-bàn được nghe những điều không [thể] nghe?
Mười hai bộ kinh,
nghĩa lý thâm thúy,
xưa nay chưa từng nghe, nay nhân nơi kinh này mà được nghe đầy đủ. Trước đây dù có được nghe cũng chỉ được nghe tên kinh mà thôi, nay ở kinh Đại Niết-bàn này mới được nghe
ý nghĩa. Hàng
Thanh văn và
Duyên giác chỉ nghe tên gọi
Mười hai bộ kinh chứ không được nghe
nghĩa lý, nay ở nơi kinh này được nghe đầy đủ. Đó gọi là không [thể] nghe mà được nghe.
“Thiện nam tử! Tất cả hàng
Thanh văn,
Duyên giác đều chưa từng nghe trong kinh nói rằng Phật có những đức thường, lạc, ngã, tịnh, không dứt bỏ tất cả mà
nhập diệt; rằng
Tam bảo và tánh Phật không có tướng khác biệt; rằng những kẻ phạm bốn tội nặng,
phỉ báng kinh Phương đẳng, tạo
năm tội nghịch và những kẻ nhất-xiển-đề, thảy đều có tánh Phật. Nay ở nơi kinh này được nghe đủ những điều ấy. Đó gọi là không [thể] nghe mà được nghe.”[48]
Lúc ấy,
Đại Bồ Tát Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương
bạch Phật: “Thế Tôn! Nếu những kẻ
phạm giới cấm nặng,
phỉ báng kinh Phương đẳng, tạo
năm tội nghịch và những kẻ nhất-xiển-đề đều có tánh Phật, vì sao cũng phải đọa vào địa ngục?
“Bạch Thế Tôn! Nếu những kẻ ấy có tánh Phật, vì sao lại nói rằng họ không có thường, lạc, ngã, tịnh?
“Bạch Thế Tôn! Nếu như dứt mất căn lành mới gọi là nhất-xiển-đề, vậy khi dứt mất căn lành thì tánh Phật sẵn có sao không dứt mất? Nếu tánh Phật bị dứt mất, vì sao lại nói [tánh Phật] là thường, lạc, ngã, tịnh? Như tánh Phật không bị dứt mất, vì sao lại gọi đó là nhất-xiển-đề?
“Bạch Thế Tôn! Phạm vào
bốn giới cấm nặng gọi là không
nhất định.[49]
Phỉ báng kinh Phương đẳng, tạo
năm tội nghịch và những kẻ nhất-xiển-đề, thảy đều là không
nhất định. Những kẻ như thế nếu là
nhất định thì làm sao được
thành tựu A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề? Bậc
chứng đắc các
quả vị Tu-đà-hoàn
cho đến quả vị Phật Bích-chi[50] cũng đều là không
nhất định. Nếu bậc Tu-đà-hoàn
cho đến Bích-chi Phật là
nhất định, thì lẽ ra không thể
thành tựu A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.
“Bạch Thế Tôn! Nếu kẻ phạm bốn tội trọng là không
nhất định, thì từ bậc Tu-đà-hoàn
cho đến Phật Bích-chi cũng là không
nhất định. [Nếu những
quả vị này] đã là không
nhất định như vậy, thì
chư Phật Như Lai cũng là không
nhất định. Nếu chư Phật là không
nhất định, thì
thể tánh của Niết-bàn cũng là không
nhất định;
cho đến tất cả pháp cũng là không
nhất định. Vì sao không
nhất định lại gọi là nhất-xiển-đề? Nếu trừ dứt [tánh] nhất-xiển-đề ắt sẽ
thành Phật đạo.
Chư Phật Như Lai lẽ ra cũng vậy, nhập Niết-bàn rồi cũng nên trở ra, chẳng nhập Niết-bàn [
mãi mãi]. Nếu là như vậy, tánh của Niết-bàn ắt là không
nhất định. Vì không
nhất định nên phải biết là không có thường, lạc, ngã, tịnh. Vì sao lại nói rằng hạng nhất-xiển-đề rồi sẽ
chứng đắc Niết-bàn?”
Bấy giờ,
đức Thế Tôn bảo
Đại Bồ Tát Quang Minh Biến Chiếu Cao Quí Đức Vương: “Lành thay,
lành thay! Thiện nam tử! Vì muốn
lợi ích cho
vô lượng chúng sanh, khiến cho họ được sự an vui; vì
lòng từ niệm
thương xót thế gian; vì muốn
tăng trưởng sự
phát tâm Bồ-đề của các vị
Bồ Tát nên ông mới thưa hỏi như vậy.
“Thiện nam tử! Ông đã thân cận với
vô lượng chư
Phật Thế Tôn trong
quá khứ; đã đối trước chư Phật ấy trồng các căn lành, đã
thành tựu công đức Bồ-đề từ lâu; đã
hàng phục chúng ma khiến cho phải thối lui và tan rã; đã
giáo hóa vô lượng,
vô biên chúng sanh khiến cho tất cả đều
đạt đến A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Từ lâu ông đã
thông đạt kho tàng
giáo pháp sâu kín
thăm thẳm của
chư Phật Như Lai. Ông đã từng thưa hỏi
nghĩa lý sâu kín
vi diệu này với
vô số chư
Phật Thế Tôn trong
quá khứ, nhiều như
số cát sông Hằng. Ta nhìn khắp trong
thế gian, dù là
loài người,
chư thiên, sa-môn hay bà-la-môn, hoặc
thiên ma hay
Phạm thiên, cũng không thấy ai có khả năng thưa hỏi
Như Lai nghĩa lý như vậy!
“Nay ông hãy
thành tâm lắng nghe cho kỹ! Lắng nghe cho kỹ! Ta sẽ vì ông mà
phân biệt giảng rõ.
“Thiện nam tử! Những kẻ nhất-xiển-đề cũng không phải là
nhất định. Nếu là
nhất định thì họ chẳng bao giờ có thể
chứng đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Vì không
nhất định nên họ mới có thể
chứng đắc [
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề].
“Như ông hỏi rằng: Tánh Phật không dứt mất, vì sao kẻ nhất-xiển-đề dứt mất căn lành?
Thiện nam tử! Căn lành có hai loại, một là ở trong, hai là ở ngoài. Tánh Phật là chẳng ở trong, chẳng ở ngoài. Vì nghĩa ấy nên tánh Phật không dứt mất. [Căn lành] lại có hai loại, một là
hữu lậu, hai là
vô lậu. Tánh Phật chẳng phải
hữu lậu, chẳng phải
vô lậu nên không dứt mất. [Căn lành] lại có hai loại: một là thường, hai là
vô thường. Tánh Phật chẳng phải thường, chẳng phải
vô thường nên không dứt mất. Nếu là dứt mất, ắt phải [có thể] có lại.
Nếu không thể có lại thì gọi là không dứt mất. Nếu dứt mất rồi [có thể] có lại thì gọi là nhất-xiển-đề.
“Những kẻ phạm bốn tội nặng cũng là không
nhất định. Nếu là
nhất định thì họ không bao giờ có thể
chứng đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Những kẻ
phỉ báng kinh Phương đẳng cũng là không
nhất định. Nếu là
nhất định thì những kẻ
phỉ báng Chánh pháp không bao giờ có thể
chứng đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Những kẻ tạo
năm tội nghịch cũng là không
nhất định. Nếu là
nhất định thì họ không bao giờ có thể
chứng đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.
“Sắc và tướng của sắc, hai thứ ấy đều là không
nhất định. Các tướng của mùi hương, vị nếm, sự xúc chạm, tướng sanh ra
cho đến tướng
vô minh, các tướng của ấm, nhập, giới,
hai mươi lăm cảnh giới hiện hữu, bốn cách sanh,[51]
cho đến tất cả pháp cũng đều là không
nhất định.
“Thiện nam tử!
Ví như nhà
ảo thuật ở giữa
công chúng hóa hiện ra
bốn loại quân binh: quân dùng xe, quân đánh bộ, quân dùng voi, quân cưỡi ngựa. Người ấy cũng hóa ra mọi thứ xâu chuỗi trang sức; hóa ra thành ấp, làng xóm,
núi rừng, cây cối, ao, suối, sông, giếng... Trong số người xem có những trẻ con chưa
đủ trí khôn, thấy vậy đều cho là thật, nhưng người trí đều biết rằng đó chỉ là chuyện
hư dối, do nhà
ảo thuật kia dùng kỹ xảo mà che mắt, dối gạt người xem đó thôi.
“Thiện nam tử! Hết thảy
phàm phu cho đến hàng
Thanh văn và
Phật Bích-chi cũng là như vậy. Họ thấy tất cả các pháp đều có tướng
nhất định; nhưng chư Phật,
Bồ Tát đối với tất cả các pháp đều không thấy có tướng
nhất định.
“Thiện nam tử!
Ví như trẻ con, vào mùa hè nhìn thấy hơi nắng nóng bốc lên [lung linh] liền tưởng đó là nước. Người trí đối với hơi nắng nóng đó không bao giờ có
ý tưởng cho rằng đó thật là nước, chẳng qua chỉ là những
ảnh tượng hư dối do mắt nhìn thấy mà thôi, không phải thật là nước.
“Hết thảy
phàm phu,
Thanh văn,
Duyên giác nhìn thấy tất cả các pháp cũng giống như đứa trẻ con kia, đều cho đó là thật. Chư Phật,
Bồ Tát đối với tất cả các pháp đều không thấy có tướng
nhất định.
“Thiện nam tử!
Ví như trong khe núi, nhân có
âm thanh phát ra liền có
tiếng vang dội lại. Trẻ con nghe
tiếng vang đó cho là
âm thanh thật. Người trí biết rằng đó không phải tướng thật
nhất định, chỉ là tướng
hư dối của
âm thanh do tai nghe như
vậy mà thôi.
“Thiện nam tử! Hết thảy
phàm phu,
Thanh văn,
Duyên giác đối với tất cả các pháp cũng giống như đứa trẻ kia, đều thấy có tướng
nhất định. Chư
Bồ Tát hiểu rõ các pháp đều không có tướng
nhất định, thấy được các tướng
vô thường, rỗng không
vắng lặng, không
sanh không diệt. Vì nghĩa ấy, các vị
Đại Bồ Tát thấy tất cả pháp đều là tướng
vô thường.
“Thiện nam tử! Thật cũng có tướng
nhất định. Vì sao là nhất định? [Vì có] thường, lạc, ngã, tịnh. Những tướng ấy ở đâu? Đó là nói [nơi
cảnh giới] Niết-bàn.
“Thiện nam tử! Quả Tu-đà-hoàn cũng là không
nhất định. Vì không
nhất định nên
trải qua tám
vạn kiếp sẽ được tâm
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.
“Quả Tư-đà-hàm cũng là không
nhất định. Vì không
nhất định nên
trải qua sáu
vạn kiếp sẽ được tâm
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.
“Quả A-na-hàm cũng là không
nhất định. Vì không
nhất định nên
trải qua bốn
vạn kiếp sẽ được tâm
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.
“Quả A-la-hán cũng là không
nhất định. Vì không
nhất định nên
trải qua hai
vạn kiếp sẽ được tâm
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.
“Quả
Phật Bích-chi cũng là không
nhất định. Vì không
nhất định nên
trải qua một
vạn kiếp sẽ được tâm
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.
“Thiện nam tử! Nay
đức Như Lai ở tại thành Câu-thi-na, giữa hai cây sa-la mọc sóng đôi
thị hiện nằm trên giường
sư tử sắp nhập Niết-bàn, khiến cho những
đệ tử chưa
đắc quả A-la-hán và những người họ Lực-sĩ thảy đều sanh lòng đau buồn
khổ não; lại cũng khiến cho
chư thiên,
nhân loại và các loài a-tu-la, càn-thát-bà, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già đều thiết lễ
cúng dường long trọng, muốn dùng một ngàn khúc vải lụa mịn mà quấn quanh thân Phật, dùng
bảy báu làm quan tài chứa đầy dầu thơm, dùng những cây
gỗ thơm đốt lửa để thiêu cháy hết. Nhưng sẽ có hai khúc vải lụa không bị thiêu cháy, một khúc vải lụa quấn [trong cùng sát] quanh thân Phật và một khúc vải lụa quấn ở ngoài cùng. Lại sẽ vì
chúng sanh mà
phân chia xá-lợi của Phật ra làm tám phần. Khi ấy, tất cả hàng
đệ tử Thanh văn của Phật đều nói: ‘Như Lai đã nhập Niết-bàn.’
“Nên biết rằng
Như Lai cũng không
nhất định là đã nhập Niết-bàn. Vì sao vậy? Vì
Như Lai là
thường trụ, không hề
biến đổi. Vì nghĩa ấy nên sự nhập Niết-bàn của
Như Lai cũng là không
nhất định.
“Thiện nam tử! Nên biết rằng
Như Lai cũng là không
nhất định.
Như Lai chẳng thuộc hàng
chư thiên. Vì sao vậy? Có bốn loại
chư thiên: một là
chư thiên ở
thế gian. Hai là sanh về các
cõi trời thành
chư thiên. Ba là
tu hành thanh tịnh thành chư thiên. Bốn là hiểu
nghĩa chân thật thành
chư thiên.
“Chư thiên ở
thế gian, đó là các vị vua chúa.
Chư thiên sanh ở các
cõi trời, đó là những
chúng sanh được sanh về các
cõi trời từ
Tứ thiên vương cho đến cõi trời Phi hữu tưởng phi
vô tưởng.
Tu hành thanh tịnh thành chư thiên, đó là những vị
chứng đắc từ
quả vị Tu-đà-hoàn
cho đến quả vị Phật Bích-chi. Hiểu
nghĩa chân thật được thành
chư thiên, đó là các vị
Đại Bồ Tát ở hàng
Thập trụ.
“Vì nghĩa gì mà các vị
Bồ Tát Thập trụ được gọi là
chư thiên hiểu nghĩa? Vì các vị thấu
hiểu rõ ràng
ý nghĩa của các pháp. Thế nào là ý nghĩa? Là thấy rõ hết thảy các pháp [
rốt ráo] đều là
nghĩa không.
“Thiện nam tử!
Như Lai chẳng phải vua chúa, cũng chẳng phải sanh ở
cõi trời Tứ thiên vương cho đến cõi trời Phi hữu tưởng phi
vô tưởng, cũng chẳng phải Tu-đà-hoàn
cho đến Phật Bích-chi, chẳng phải hàng
Bồ Tát Thập trụ. Vì nghĩa ấy,
Như Lai chẳng thuộc hàng
chư thiên.
“Nhưng
chúng sanh cũng
xưng tụng Phật là bậc
Thiên Trung Thiên.[52] Do đó,
Như Lai tuy chẳng phải
chư thiên cũng chẳng phải không là
chư thiên; chẳng phải
loài người cũng chẳng phải không là
loài người; chẳng phải quỷ cũng chẳng phải không là quỷ; chẳng phải [
chúng sanh ở các
cảnh giới]
địa ngục,
súc sanh,
ngạ quỷ cũng chẳng phải không là [
chúng sanh ở các
cảnh giới]
địa ngục,
súc sanh,
ngạ quỷ; chẳng phải
chúng sanh cũng chẳng phải không là
chúng sanh; chẳng phải pháp cũng chẳng phải không là pháp; chẳng phải sắc cũng chẳng phải không là sắc; chẳng phải cao cũng chẳng phải không cao; chẳng phải thấp cũng chẳng phải không thấp; chẳng phải tướng cũng chẳng phải không là tướng; chẳng phải tâm cũng chẳng phải không là tâm; chẳng phải
hữu lậu cũng chẳng phải
vô lậu; chẳng phải
hữu vi cũng chẳng phải
vô vi; chẳng phải thường, chẳng phải
vô thường; chẳng phải
huyễn ảo cũng chẳng phải không
huyễn ảo; chẳng phải danh xưng cũng chẳng phải không là danh xưng; chẳng phải định cũng chẳng phải
không định; chẳng phải có cũng chẳng phải không có; chẳng phải không cũng chẳng phải
không không; chẳng phải thuyết, chẳng phải không thuyết; chẳng phải
Như Lai, cũng chẳng phải không là
Như Lai. Vì nghĩa ấy,
Như Lai là không
nhất định.
“Thiện nam tử! Vì sao
Như Lai không phải là
chư thiên ở thế gian?
Chư thiên ở
thế gian tức là các vị vua chúa.
Đức Như lai từ vô lượng kiếp lâu xa trước đây đã xả bỏ ngôi vị vua chúa nên không phải là vua. Nhưng ngài cũng chẳng phải không là vua, vì ngài thật là con vua Tịnh-phạn, sanh tại thành Ca-tỳ-la.
“Như Lai chẳng phải
chư thiên sanh nơi các
cõi trời, vì từ lâu ngài đã
lìa bỏ các
cảnh giới hiện hữu. Ngài cũng chẳng phải không là
chư thiên sanh nơi
cõi trời. Vì sao vậy? Vì ngài từng [sanh] lên cung trời Đâu-suất, từ đó rồi mới xuống cõi Diêm-phù-đề. Cho nên
Như Lai cũng chẳng phải không là
chư thiên sanh nơi
cõi trời.
“Ngài cũng chẳng phải do [
tu hành]
thanh tịnh mà thành
chư thiên. Vì sao vậy?
Như Lai chẳng phải Tu-đà-hoàn,
cho đến chẳng phải
Phật Bích-chi. Cho nên
Như Lai chẳng phải do [
tu hành]
thanh tịnh mà thành
chư thiên. Ngài cũng chẳng phải không do [
tu hành]
thanh tịnh mà thành
chư thiên. Vì sao vậy? Vì
tám pháp thế gian không thể
ô nhiễm được ngài, như
hoa sen không nhiễm bùn nhơ. Cho nên
Như Lai chẳng phải không do [
tu hành]
thanh tịnh mà thành
chư thiên.
“Như Lai cũng chẳng phải do hiểu
nghĩa chân thật mà thành
chư thiên. Vì sao vậy? Vì
Như Lai chẳng phải là hàng
Bồ Tát Thập trụ, nên
Như Lai chẳng phải là do hiểu
nghĩa chân thật mà thành
chư thiên. Ngài cũng chẳng phải không do hiểu
nghĩa chân thật mà thành
chư thiên. Vì sao vậy? Vì
Như Lai thường tu
Mười tám nghĩa không.[53] Cho nên
Như Lai chẳng phải không do hiểu
nghĩa chân thật mà thành
chư thiên.
“Như Lai chẳng phải [thuộc loài] người. Vì sao vậy? Vì
từ vô lượng kiếp lâu xa trước đây
Như Lai đã lìa khỏi
cõi người, cho nên ngài chẳng phải [thuộc về loài] người. Ngài cũng chẳng phải không thuộc
loài người. Vì sao vậy? Vì ngài có sanh ra tại thành Ca-tỳ-la-vệ, nên cũng chẳng phải không [thuộc loài] người.
“Như Lai chẳng phải là quỷ. Vì sao vậy? Vì ngài không làm hại hết thảy
chúng sanh, cho nên ngài chẳng phải là quỷ. Ngài cũng chẳng phải không là quỷ. Vì sao vậy? Vì ngài cũng dùng
hình tượng quỷ để
giáo hóa chúng sanh, nên ngài chẳng phải không là quỷ.
“Như Lai cũng chẳng phải [
chúng sanh trong các
cảnh giới]
địa ngục,
súc sanh,
ngạ quỷ. Vì sao vậy? Vì
Như Lai từ lâu đã
lìa bỏ các nghiệp xấu ác, cho nên chẳng phải [
chúng sanh trong các
cảnh giới]
địa ngục,
súc sanh,
ngạ quỷ. Ngài cũng chẳng phải không là [
chúng sanh trong các
cảnh giới]
địa ngục,
súc sanh,
ngạ quỷ. Vì sao vậy? Vì
Như Lai cũng
thị hiện thọ sanh trong
ba đường ác này để
giáo hóa chúng sanh, cho nên ngài chẳng phải không là [
chúng sanh trong các
cảnh giới]
địa ngục,
súc sanh,
ngạ quỷ.
“Như Lai cũng chẳng phải
chúng sanh. Vì sao vậy? Vì từ lâu ngài đã lìa xa tánh
chúng sanh, nên chẳng phải là
chúng sanh. Ngài cũng chẳng phải không là
chúng sanh. Vì sao vậy? Vì có khi ngài
diễn thuyết trong
hình tướng chúng sanh, cho nên chẳng phải không là
chúng sanh.
“Như Lai chẳng phải pháp. Vì sao vậy? Vì các pháp mỗi mỗi đều có tướng khác biệt.
Như Lai không phải thế, chỉ có một tướng
duy nhất mà thôi, nên ngài chẳng phải pháp. Ngài cũng chẳng phải không là pháp. Vì sao vậy? Vì
Như Lai là cõi pháp, nên chẳng phải là không phải pháp.
“Như Lai chẳng phải sắc. Vì sao vậy? Vì ngài không bị
chi phối bởi
mười sắc nhập,[54] nên chẳng phải sắc. Ngài cũng chẳng phải không là sắc. Vì sao vậy? Vì thân Phật có đủ
ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, nên chẳng phải không phải sắc.
“Như Lai chẳng phải cao. Vì sao vậy? Vì đoạn trừ các sắc nên chẳng phải cao.
Như Lai cũng chẳng phải không cao. Vì sao vậy? Vì hết thảy
thế gian không ai có thể nhìn thấy được tướng đỉnh đầu của ngài, cho nên chẳng phải không cao.
“Như Lai chẳng phải thấp. Vì sao vậy? Vì từ lâu ngài đã lìa xa sự
trói buộc của lòng
kiêu mạn nên chẳng phải thấp.
Như Lai cũng chẳng phải không thấp. Vì sao vậy? [Có lần] vì
trưởng giả Cồ-sư-la[55] mà ngài
hiện ra thân hình chỉ có một thước,[56] nên cũng chẳng phải không thấp.
“Như Lai chẳng phải tướng. Vì sao vậy? Vì từ lâu ngài đã lìa xa tướng của các tướng, nên chẳng phải tướng.
Như Lai cũng chẳng phải không là tướng. Vì sao vậy? Vì ngài khéo rõ biết các tướng, cho nên cũng chẳng phải không là tướng.
“Như Lai chẳng phải tâm. Vì sao vậy? Vì là tướng như
hư không nên chẳng phải tâm.
Như Lai cũng chẳng phải không là tâm. Vì sao vậy? Vì ngài có
tâm pháp Mười sức, lại có thể biết được tâm ý của hết thảy
chúng sanh nên chẳng phải không là tâm.
“Như Lai chẳng phải
hữu vi. Vì sao vậy? Vì
Như Lai là thường, lạc, ngã, tịnh nên chẳng phải
hữu vi.
Như Lai cũng chẳng phải
vô vi. Vì sao vậy? Vì ngài có đến, có đi, có ngồi, có nằm, có
thị hiện Niết-bàn nên cũng chẳng phải
vô vi.
“Như Lai chẳng phải thường tồn. Vì sao vậy? Vì thân ngài có nhiều phần
hợp lại nên chẳng phải là thường. Thế nào là chẳng phải thường? Là có sự
nhận biết.
Pháp thường thì không có sự
nhận biết, giống như
hư không.
Như Lai có sự
nhận biết nên chẳng phải thường. Thế nào là chẳng phải thường? Vì có
lời nói.
Pháp thường thì không có
lời nói, cũng giống như
hư không.
Như Lai có
lời nói nên chẳng phải là thường.
“Vì có tên họ nên gọi là
vô thường;
pháp không có tên họ mới gọi là thường.
Hư không là thường nên không có tên họ.
Như Lai có tên họ, thuộc
dòng họ Cồ-đàm, nên là
vô thường. Vì có
cha mẹ sanh ra nên gọi là
vô thường; không có
cha mẹ mới gọi là thường. Vì
hư không là thường nên không có
cha mẹ sanh ra. Phật có
cha mẹ, nên là
vô thường.
“Có đi, đứng, nằm, ngồi nên gọi là
vô thường; không có những việc đi, đứng, nằm, ngồi mới gọi là thường. Vì
hư không là thường nên không có đi, đứng, nằm, ngồi. Phật có đi, đứng, nằm, ngồi, nên là
vô thường.
“Pháp
thường trụ không có nơi chốn,
phương hướng. Vì
hư không là thường nên không có nơi chốn,
phương hướng.
Như Lai xuất thế tại miền
Trung Thiên Trúc, đến cư trú nơi thành Xá-bà-đề, hoặc thành
Vương Xá, nên là
vô thường. Vì những nghĩa ấy nên
Như Lai chẳng phải là thường.
“Như Lai cũng chẳng phải
vô thường. Vì sao vậy? Vì đã dứt trừ
vĩnh viễn sự sanh ra. Pháp có sanh ra là
vô thường,
pháp không sanh ra mới là thường.
Như Lai vốn không sanh ra, nên là thường.
“Pháp thường không có họ tên, pháp có họ tên gọi là
vô thường.
Như Lai vốn không sanh ra, không có họ tên. Vì không sanh ra, không có họ tên, nên là thường.
“Pháp thường thì có khắp
mọi nơi, giống như
hư không, không đâu là không có.
Như Lai cũng như thế, ở khắp
mọi nơi, cho nên là thường.
“Pháp
vô thường thì nói rằng chỗ này có, chỗ kia không.
Như Lai chẳng phải thế, không thể nói rằng chỗ này là có, chỗ kia là không, cho nên là thường.
“Pháp
vô thường thì có lúc là có, có lúc là không.
Như Lai chẳng phải như thế, cho nên là thường.
“Pháp
thường trụ không có danh, không có sắc.[57] Vì
hư không là thường nên không có danh, không có sắc.
Như Lai cũng thế, không có danh, không có sắc, cho nên là thường.
“Pháp
thường trụ không có nhân, không có quả. Vì
hư không là thường cho nên không có nhân, không có quả.
Như Lai cũng thế, không có nhân, không có quả, cho nên là thường.
“Pháp
thường trụ không bị
chi phối bởi
ba đời:
quá khứ,
hiện tại và
vị lai.
Như Lai cũng thế, không bị
chi phối bởi
ba đời, cho nên là thường.
“Như Lai chẳng phải hư huyễn. Vì sao vậy? Vì ngài đã dứt trừ
vĩnh viễn hết thảy các tâm
hư dối, cho nên chẳng phải hư huyễn.
Như Lai cũng chẳng phải không là hư huyễn. Vì sao vậy? Có khi
Như Lai phân một thân này thành
vô số thân; rồi
vô số thân lại
trở về thành một thân, xuyên thẳng qua núi đồi, vách đá, không có gì
chướng ngại; hoặc đi trên mặt nước giống như
đất liền; đi xuyên vào đất như vào trong nước; đi trên
hư không như trên mặt đất; từ nơi thân ngài phát ra khói lửa như đám cháy lớn; hoặc làm ra mây mưa sấm động,
âm thanh khiến người khiếp sợ; hoặc hóa ra thành ấp, làng xóm, nhà cửa, núi sông, cây cối; hoặc
hiện thân to lớn, hoặc
hiện thân nhỏ bé, hoặc hiện làm đàn ông, đàn bà, trẻ con... Vì thế nên
Như Lai cũng chẳng phải là không hư huyễn.
“Như Lai không phải là
nhất định. Vì sao vậy? Vì
Như Lai ở thành Câu-thi-na này,
thị hiện nhập Niết-bàn giữa hai cây sa-la mọc sóng đôi, cho nên không phải là
nhất định.
Như Lai cũng chẳng phải không
nhất định. Vì sao vậy? Vì
Như Lai là thường, lạc, ngã, tịnh nên cũng chẳng phải không
nhất định.[58]
“Như Lai chẳng phải
hữu lậu. Vì sao vậy? Vì
Như Lai đã dứt ba món
lậu hoặc, nên ngài chẳng phải
hữu lậu. Ba món
lậu hoặc đó là: Trừ
vô minh ra thì tất cả
phiền não trong
Dục giới gọi chung là
dục lậu. Trừ
vô minh ra thì tất cả
phiền não trong
Sắc giới và
Vô sắc giới gọi chung là
hữu lậu.
Vô minh trong
ba cõi Dục giới,
Sắc giới và
Vô sắc giới gọi là
vô minh lậu.
Như Lai đã
vĩnh viễn dứt trừ ba món
lậu hoặc ấy nên chẳng phải là
hữu lậu.
“Lại nữa, hết thảy
phàm phu không thấy được
hữu lậu. Vì sao
phàm phu không thấy hữu lậu? Vì hết thảy
phàm phu đối với đời
vị lai đều có lòng nghi: ‘Trong đời
vị lai, ta sẽ được thân chăng? Hay chẳng được thân?
Trong đời quá khứ thân vốn đã sẵn có hay chăng? Hay vốn chẳng có?
Trong đời hiện tại, thân này thật có hay chăng? Hay là
không thật có? Nếu thật có
bản ngã, thì đó là sắc chăng? Chẳng phải sắc chăng? Vừa là sắc, vừa là chẳng phải sắc chăng? Hay là chẳng phải sắc cũng không chẳng phải sắc? Hay là tưởng chăng? Hay chẳng phải tưởng chăng? Hay vừa là tưởng, vừa là chẳng phải tưởng? Hay là chẳng phải tưởng cũng không chẳng phải tưởng? Hay thân này
phụ thuộc những đối tượng bên ngoài chăng? Hay là không
phụ thuộc những đối tượng bên ngoài? Hay vừa
phụ thuộc vừa không phụ thuộc? Hay là không
phụ thuộc cũng chẳng phải không phụ thuộc? Hay là có mạng sống nhưng không có thân chăng? Hay là có thân nhưng không có mạng sống chăng? Hay là vừa có thân, vừa có mạng sống? Hay là không có thân cũng không có mạng sống? Thân cùng với mạng sống có thường chăng? Hay là vô thường? Hay là vừa thường vừa vô thường? Hay là chẳng phải thường, cũng chẳng phải vô thường? Thân và mạng sống được tạo thành một cách
tự do tùy ý chăng? Hay do những
điều kiện bên ngoài tạo thành? Không có nhân mà tạo ra chăng? Hay do tánh của
thế gian tạo ra? Do bụi bặm tạo ra chăng? Do pháp hoặc chẳng phải pháp tạo ra chăng? Do
thần thức tạo ra chăng? Do
phiền não tạo ra chăng? Do
cha mẹ tạo ra chăng?
Bản ngã trụ nơi tâm chăng? Trụ nơi mắt chăng? Ở khắp trong thân chăng? Từ đâu mà đến? Rồi sẽ đi về đâu? Ai là người sanh ra? Ai là người chết đi?
Trong đời quá khứ ta là người thuộc dòng bà-la-môn chăng? Thuộc dòng Sát-lợi chăng? Thuộc dòng Tỳ-xá chăng? Thuộc dòng Thủ-đà[59] chăng? Về đời
vị lai, ta sẽ làm người thuộc dòng tộc nào? Vào đời
quá khứ, thân ta đây là nam chăng? Hay là nữ chăng? Hay là
súc sanh chăng? Nếu ta làm việc giết hại thì có tội chăng? Hay là không có tội?
Cho đến uống rượu là có tội chăng?[60] Hay là không có tội? Mọi
hành vi là do ta tự làm chăng? Hay là do những
điều kiện bên ngoài tạo thành?
Bản ngã này thọ nhận
nghiệp báo chăng? Hay là thân này thọ nhận nghiệp báo?’
“Những chỗ thấy biết
nghi hoặc như thế tạo thành
vô lượng phiền não che lấp trong tâm
chúng sanh. Do những chỗ thấy biết
nghi hoặc như thế mà sanh ra sáu thứ tâm: tâm kể chắc là có
bản ngã; tâm kể chắc là không có ngã; tâm thấy rằng
bản ngã là ngã; tâm thấy rằng
bản ngã là
vô ngã; tâm thấy rằng
vô ngã là ngã; và tâm thấy rằng
bản ngã tạo tác,
bản ngã lãnh chịu,
bản ngã nhận biết. Những tâm như thế gọi là
tà kiến.
Như Lai đã
vĩnh viễn nhổ bật
vô số cội gốc của những chỗ thấy biết
lậu hoặc như vậy. Cho nên
Như Lai chẳng phải
hữu lậu.
“Thiện nam tử!
Đại Bồ Tát ở nơi Đại Niết-bàn
tu tập Thánh hạnh cũng
vĩnh viễn dứt trừ được những
lậu hoặc như thế.
Chư Phật Như Lai thường tu
Thánh hạnh cho nên không có
lậu hoặc.
“Thiện nam tử! Những kẻ
phàm phu không
chế ngự được năm căn[61] nên có ba sự
lậu hoặc,[62] lôi kéo họ
đi vào những
cảnh giới bất thiện.
“Thiện nam tử!
Ví như con ngựa dữ sẵn tánh hung hăng,
ngỗ nghịch, có thể khiến cho người cưỡi phải gặp hiểm nguy,
tai nạn. Người không khéo
chế ngự năm căn cũng vậy, phải lìa xa
con đường tốt là Niết-bàn,
đi vào những nơi xấu ác.
“Ví như con voi dữ chưa được
điều phục, nếu có ai cưỡi lên thì không thể
tùy ý điều khiển được, phải lìa xa chỗ thành ấp, đến nơi
hoang vắng. Người không khéo
chế ngự năm căn cũng vậy, phải lìa xa thành ấp là Niết-bàn, đến những nơi
hoang vắng là chốn
sanh tử này.
“Thiện nam tử!
Ví như kẻ nịnh thần xúi giục vua làm việc ác. Năm căn cũng giống như nịnh thần, thường xúi giục
chúng sanh làm
vô số việc ác.
“Thiện nam tử!
Ví như đứa con xấu ác chẳng nghe theo lời dạy của
cha mẹ và các bậc
sư trưởng, ắt không có việc ác nào không làm. Người không
điều phục năm căn cũng vậy, chẳng nghe theo lời
tốt lành của bậc
sư trưởng dạy bảo, nên không việc ác nào không làm.
“Thiện nam tử! Kẻ
phàm phu không
chế ngự năm căn thường phải chịu những sự tàn hại của [các
cảnh giới]
địa ngục,
súc sanh,
ngạ quỷ, cũng giống như giặc cướp hung ác làm hại người
hiền lành.
“Thiện nam tử! Kẻ
phàm phu không
chế ngự năm căn, buông thả
chạy theo năm trần, giống như
mục đồng chẳng khéo giữ trâu, để giẫm hại vào lúa mạ của người khác. Kẻ
phàm phu không
chế ngự năm căn thường phải ở trong
Ba cõi, lãnh chịu nhiều
khổ não.
“Thiện nam tử!
Đại Bồ Tát khi
tu tập Đại Niết-bàn,
thực hành Thánh hạnh, thường khéo
điều phục và
giữ gìn,
chế ngự năm căn, chán sợ những sự
tham dục,
sân khuể,
ngu si,
kiêu mạn, tật đố, vì muốn
đạt được hết thảy mọi pháp lành.
“Thiện nam tử! Nếu người khéo biết
giữ gìn năm căn thì
chế ngự được tâm. Nếu
chế ngự được tâm thì
chế ngự được năm căn.
Ví như người phò vua thì
bảo vệ đất nước.
Bảo vệ đất nước là
phò tá cho vua.
Đại Bồ Tát cũng vậy, nếu nghe kinh Đại Niết-bàn này thì được
trí tuệ.
Đạt được trí tuệ thì được sự niệm tưởng
chuyên nhất. Nếu như năm căn
tán loạn, nhờ vào niệm [
chuyên nhất] có thể khiến cho dừng lại. Vì sao vậy? Vì có niệm là có
trí tuệ.
“Thiện nam tử! Như người
chăn trâu giỏi, nếu trâu bỏ chạy sang đông, sang tây mà ăn lúa mạ của người khác, liền chặn giữ lại, không để làm hư hại của người.
Đại Bồ Tát cũng vậy, nhờ có niệm và
trí tuệ làm
nhân duyên nên
giữ gìn,
chế ngự được năm căn, không để
tán loạn.
Đại Bồ Tát có niệm và
trí tuệ không thấy tướng của mình, không thấy tướng những vật của mình, không thấy có
chúng sanh cùng những vật
thọ dụng; thấy hết thảy các pháp đều cùng một tướng
pháp tánh, từ đó sanh ra các tướng đất, đá, ngói, sỏi...
Ví như nhà cửa là do các duyên
hợp lại mà sanh chứ không có tánh
nhất định; thấy
chúng sanh là do
bốn đại và
năm ấm hợp thành, xét cho cùng không có tánh
nhất định.
“Vì không có tánh
nhất định nên
Bồ Tát ở trong các
pháp không sanh tâm tham đắm,
vướng mắc. Hết thảy
phàm phu vì thấy có
chúng sanh nên
sanh khởi phiền não.
Đại Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết-bàn có được niệm và
trí tuệ nên đối với
chúng sanh không sanh lòng tham đắm,
vướng mắc. Lại nữa,
Đại Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết-bàn không
vướng mắc nơi tướng
chúng sanh,
tùy ý tạo ra đủ mọi tướng pháp.
“Thiện nam tử!
Ví như người họa sĩ dùng đủ các màu vẽ nên mọi
hình tượng, hoặc nam, hoặc nữ, hoặc trâu, hoặc ngựa. Kẻ
phàm phu ngu si nhìn thấy liền sanh ra các tướng nam, nữ .v.v... Người họa sĩ thì biết rõ trong đó không hề có nam hay nữ.
“Đại
Bồ Tát cũng vậy, đối với các tướng khác nhau của pháp đều quán là một tướng, chẳng bao giờ sanh ra tướng
chúng sanh. Vì sao vậy? Vì có niệm và
trí tuệ.
“Đại
Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết-bàn, khi nhìn thấy mỹ nữ
xinh đẹp cũng chẳng bao giờ sanh lòng tham đắm,
vướng mắc. Vì sao vậy? Vì khéo quán xét
hình tướng.
“Thiện nam tử!
Đại Bồ Tát biết pháp
năm dục[63] không có gì vui,
liên tục đổi thay chẳng phút tạm dừng. Người mê đắm
năm dục như
con chó gặm khúc xương khô,[64] như người
cầm lửa đi ngược gió,[65] như con
rắn độc nằm trong rương,[66] như những thứ có được trong
giấc mộng;[67] như trái cây bên đường có nhiều người tranh nhau hái, lại cũng như miếng thịt, cả bầy chim tranh nhau;[68] như bọt nổi trên mặt nước, như dấu vết vẽ
lên mặt nước;[69] như đường chỉ dọc dệt xong, như người tử tù bị đưa ra chợ;[70] như vật tạm mượn chẳng dùng được lâu.
Bồ Tát quán xét các dục như vậy, có rất nhiều sự
xấu xa,
tai hại, lầm lỗi.
“Lại nữa,
Đại Bồ Tát quán xét thấy các
chúng sanh do nơi các
nhân duyên hình sắc,
âm thanh, mùi hương, vị nếm, sự xúc chạm[71] nên từ
vô số kiếp trước cho đến nay thường chịu
khổ não. Nếu lấy xương của mỗi
chúng sanh trong một kiếp chất lại sẽ thành đống to như núi Tỳ-phú-la[72] ở thành
Vương Xá; lượng sữa đã bú nhiều như nước trong bốn biển, lượng máu từ thân chảy ra lại gấp nhiều lần so với nước trong bốn biển, lượng nước mắt đã khóc vì
cha mẹ, anh em,
vợ con,
quyến thuộc qua đời cũng gấp nhiều lần so với nước trong bốn biển; nếu lấy hết cây cỏ trên mặt đất để làm thành những thẻ đếm dài bốn tấc, rồi dùng để tính đếm số
cha mẹ đã qua cũng không
thể tính hết; những nỗi khổ đã phải
chịu đựng từ vô lượng kiếp
cho đến nay hoặc trong các
cảnh giới địa ngục,
súc sanh,
ngạ quỷ là không thể kể xiết. [
Ví như] vò trái đất này cho thành trái táo vẫn là dễ hơn nhiều so với việc dứt hết sanh tử!
Đại Bồ Tát quán xét
sâu xa như vậy, thấy rằng hết thảy
chúng sanh đều do
nhân duyên là các mối
tham dục mà phải chịu
vô số khổ não.
Bồ Tát do quán xét kỹ những nỗi khổ trong
sanh tử như thế nên không đánh mất niệm và
trí tuệ.
“Thiện nam tử!
Ví như có một đám đông
tụ tập đầy
trong khoảng đất hai mươi lăm dặm. Nhà vua truyền cho một bề tôi rằng: ‘Khanh hãy mang một bát đựng đầy dầu đi qua giữa đám đông ấy, đừng cho nghiêng đổ. Nếu để rớt một giọt dầu sẽ
bị giết.’ Vua lại sai một người khác cầm đao
theo sau đe dọa. Bề tôi ấy
vâng lệnh vua,
hết lòng giữ vững bát dầu trong khi đi qua đám đông, dù nhìn thấy năm
tà dục thích ý nhưng lòng luôn tự nghĩ rằng: ‘Nếu ta buông thả,
vướng mắc vào các
tà dục ấy thì sẽ làm rơi [hoặc nghiêng đổ] bát dầu đang cầm, ắt không giữ được toàn tính mạng!’
“Người ấy do
nhân duyên sợ sệt mà không để rơi dù chỉ một giọt dầu!
Đại Bồ Tát cũng vậy, ở trong chốn
sanh tử chẳng để mất niệm và
trí tuệ. Vì chẳng để mất [niệm và
trí tuệ] nên nhìn thấy
năm dục cũng không sanh lòng tham đắm
vướng mắc. Dù thấy sắc
trong sạch cũng không cho đó là tướng sắc,
chỉ quán xét là tướng khổ.
Cho đến đối với tướng của thức cũng vậy,[73] chẳng khởi tướng sanh, chẳng khởi tướng diệt, chẳng khởi tướng
nguyên nhân,
chỉ quán xét tướng
hòa hợp.
“Khi ấy, năm căn của
Bồ Tát đều
thanh tịnh. Nhờ năm căn
thanh tịnh nên
giữ gìn căn bản của giới được
trọn vẹn. Hết thảy
phàm phu do năm căn không
thanh tịnh nên không thể khéo
giữ gìn, gọi là các căn có
lậu hoặc.
Bồ Tát vĩnh viễn dứt trừ nên gọi là không có
lậu hoặc.
Đức Như Lai đã vượt ra khỏi,
vĩnh viễn dứt trừ cội gốc [của
lậu hoặc] nên không phải là
hữu lậu.
“Thiện nam tử! Lại có
trường hợp lìa bỏ lậu hoặc. Vì muốn được món
cam lộ vô thượng là
quả vị Phật nên
Bồ Tát lìa bỏ lậu hoặc xấu ác. Thế nào là lìa bỏ?
Nếu có thể tu hành kinh Đại Niết-bàn, sao chép,
thọ trì, tụng đọc,
giảng thuyết, suy ngẫm
nghĩa kinh, đó gọi là
lìa bỏ.
“Vì sao vậy?
Thiện nam tử! Ta
hoàn toàn không thấy trong
Mười hai bộ kinh [có một kinh nào khác] có thể giúp
lìa bỏ lậu hoặc xấu ác như
kinh Phương đẳng Đại Niết-bàn này.
“Thiện nam tử!
Ví như bậc thầy hiền thiện dạy dỗ các
đệ tử. Trong số các
đệ tử ấy, có những người nghe theo
lời dạy của thầy thì trong lòng
không sinh khởi điều xấu ác.
Đại Bồ Tát tu tập kinh điển vi diệu Đại Niết-bàn cũng giống như vậy, trong lòng
không sinh khởi điều xấu ác.
“Thiện nam tử!
Ví như ở
thế gian có câu
thần chú rất
linh nghiệm. Như ai được nghe qua
một lần thì
trong vòng bảy năm sau đó hết thảy
các loại thuốc độc,
rắn độc đều không thể làm hại. Nếu ai
đọc tụng thần chú ấy thì
trọn đời không gặp phải những điều xấu ác.
“Thiện nam tử! Kinh Đại Niết-bàn này cũng vậy. Nếu có
chúng sanh nào chỉ được nghe qua
một lần thì
trong vòng bảy
kiếp sau đó không phải rơi vào các đường ác. Nếu có ai sao chép, tụng đọc,
giảng thuyết, suy ngẫm
nghĩa kinh, ắt sẽ
chứng đắc quả
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, được thấy tánh Phật, cũng như vị
Thánh vương kia được món
cam lộ.
“Thiện nam tử! Kinh Đại Niết-bàn này có
vô lượng công đức như vậy.
“Thiện nam tử! Nếu có ai sao chép kinh này, tụng đọc,
giảng thuyết, vì người khác mà nói rộng,
suy xét nghĩa kinh, nên biết rằng người ấy thật là
đệ tử Phật, khéo
vâng theo lời Phật dạy. Ta luôn nhìn thấy người ấy, nhớ nghĩ đến người ấy, người ấy cũng biết rõ rằng ta chẳng nhập Niết-bàn. Người như vậy dù ở nơi nào, hoặc thành ấp, xóm làng, hoặc rừng núi, nơi
hoang vắng, trong nhà cửa, vườn ruộng, hay lầu các, cung điện, ta cũng đều có ở nơi đó,
thường trụ không dời chuyển. Ta đối với người ấy thường làm người thọ nhận sự cúng thí, hoặc
hiện thân tỳ-kheo, tỳ-kheo ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, bà-la-môn, Phạm-chí[74] hay kẻ bần cùng đi
xin ăn.
“Làm sao khiến cho người ấy biết rằng
Như Lai thọ nhận những vật người ấy cúng thí?
“Thiện nam tử! Người ấy hoặc khi
nằm mộng trong đêm thấy
hình tượng Phật, hoặc thấy các
hình tượng chư thiên, sa-môn,
quốc vương,
thánh vương, chúa
sư tử,
hoa sen, hoa ưu-đàm; hoặc thấy những
hình ảnh như núi lớn, nước biển cả,
mặt trời,
mặt trăng, hoặc thấy voi trắng, ngựa bạch; hoặc thấy
cha mẹ, thấy được hoa, quả, vàng, bạc,
lưu ly,
pha lê.v.v...
các loại vật báu, hoặc năm món ăn chế biến từ sữa.[75] Khi ấy liền biết được là
Như Lai đã thọ nhận đồ cúng thí của mình. Khi
tỉnh dậy liền thấy [trong lòng]
vui sướng,
dần dần có được mọi thứ
cần dùng, lòng không nghĩ đến những việc xấu ác, luôn
ưa thích việc
tu tập các pháp lành.
“Thiện nam tử! Kinh Đại Niết-bàn này có thể
thành tựu vô lượng vô biên công đức như vậy, không thể nghĩ bàn.
“Thiện nam tử! Nay ông nên tin nhận lời ta. Nếu có kẻ nam, người nữ nào
phát khởi lòng lành muốn được nhìn thấy Phật, muốn
cung kính Phật, muốn
thể nhập tánh pháp để thấy Phật, muốn
đạt được Không định, muốn thấy tướng
chân thật, muốn được
tu tập phép định
Thủ lăng nghiêm, phép định
Sư tử vương, muốn phá trừ
tám thứ ma –
Tám thứ ma đó là: ma
phiền não, ma
năm ấm, ma chết, ma
trời Tha hóa tự tại và [những sự]
vô thường,
vô ngã, vô lạc, vô tịnh –; hoặc muốn được những sự
vui thích trong hai
cõi trời, người, thì khi thấy có ai
thọ trì kinh Đại Niết-bàn này, sao chép, tụng đọc, vì người khác
giảng thuyết,
suy xét nghĩa kinh, nên
đến gần gũi, nương dựa theo người ấy, thưa hỏi và nhận lời
dạy bảo, lại
cúng dường cung kính,
tôn trọng,
xưng tán người ấy; vì người ấy mà rửa tay, rửa chân,
sắp đặt giường chiếu,
cung cấp đủ bốn thứ
cần dùng[76] không để
thiếu thốn. Nếu người ấy từ xa đến, nên
cung kính nghênh tiếp từ xa, ngoài khoảng mười do-tuần. Vì kinh này mà nên mang những đồ vật
quý trọng dâng hiến.
Như không có gì để dâng hiến thì nên tự bán cả thân mình. Vì sao vậy? Vì kinh này còn khó gặp hơn cả hoa ưu-đàm!
“Thiện nam tử! Ta nhớ lại vào thuở
quá khứ, cách nay
vô lượng vô biên na-do-tha[77] kiếp.
Thuở ấy,
thế giới tên gọi là Ta-bà, có
đức Phật Thế Tôn hiệu là Thích-ca-Mâu-ni,
Như Lai,
Ứng cúng,
Chánh biến tri,
Minh hạnh túc,
Thiện thệ,
Thế gian giải,
Vô thượng sĩ Điều ngự trượng phu,
Thiên nhân sư,
Phật Thế Tôn, vì
đại chúng mà
tuyên thuyết kinh Đại Niết-bàn này.
“Khi ấy ta nhờ theo những người bạn tốt mà được nghe nói lại rằng
đức Phật ấy sẽ vì
đại chúng thuyết kinh Đại Niết-bàn. Nghe như vậy rồi, lòng ta lấy làm
hoan hỷ, muốn dâng lễ
cúng dường, nhưng đang trong cảnh nghèo túng không có vật chi
sở hữu, liền muốn tự bán thân mình.
Thật không may là chẳng có ai mua cả! Trên đường
trở về nhà ta gặp một người, bèn hỏi người ấy: ‘Tôi muốn bán thân, ông có thể mua chăng?’
“Người ấy đáp: ‘Nhà tôi có một việc không ai làm nổi, nếu ông có thể làm thì tôi sẽ mua ông.’
“Ta liền hỏi: ‘Ông có việc gì mà không ai làm nổi?’
“Người ấy đáp: ‘Tôi có bệnh ác nghiệt, thầy thuốc dặn mỗi ngày phải ăn ba lượng[78] thịt người. Nếu ông có thể mỗi ngày lấy ba lượng thịt nơi thân mà
cung cấp cho tôi thì nay tôi sẽ trao cho ông năm
đồng tiền vàng.’
“Ta nghe vậy rồi lấy làm
hoan hỷ trong lòng, liền đáp ngay: ‘Ông hãy trao tiền cho tôi, hẹn trong bảy ngày tôi làm xong công việc sẽ
trở lại gặp ông.’
“Người ấy đáp: ‘Bảy ngày thì không được, hãy
thỏa thuận thế này: Tôi để cho ông một ngày.’
“Thiện nam tử! Khi ấy ta liền nhận tiền rồi tìm ngay đến chỗ Phật, cúi đầu
lễ kính sát dưới
chân Phật, đem hết những gì mình có mà
phụng hiến; sau đó mới
thành tâm lắng nghe và thọ nhận kinh này. Lúc bấy giờ ta thật
ngu si tăm tối, tuy được nghe kinh nhưng chỉ có thể
thọ trì được một
bài kệ này mà thôi:
Như Lai chứng Niết-bàn,
Trừ dứt
vòng sanh tử;
Nếu ai
hết lòng nghe,
Được vui chẳng thể lường.
“Thọ nhận
bài kệ này rồi, ta
trở về tìm đến nhà của người bị bệnh kia.
“Thiện nam tử! Khi ấy tuy mỗi ngày ta đều cắt xẻo cho người ấy ba lượng thịt trên thân mình, nhưng nhờ
nhân duyên nhớ tưởng
bài kệ trong kinh nên không lấy làm
đau đớn, không một ngày nào
bỏ sót,
cho đến trọn cả một tháng.
“Thiện nam tử! Nhờ
nhân duyên ấy nên bệnh của người kia được khỏi; mà thân ta cũng
bình phục không có thương tích gì. Bấy giờ, ta thấy
thân thể được
bình phục hoàn toàn, khỏe mạnh như trước, liền
phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.
“Sức [niệm tưởng] một
bài kệ [trong kinh] còn được như vậy, huống chi việc
thọ trì,
đọc tụng trọn đủ bộ kinh? Bởi thấy kinh này có
lợi ích như vậy nên ta lại
phát tâm rộng lớn hơn, nguyện
trong đời vị lai sẽ
thành Phật đạo, hiệu là
Thích-ca Mâu-ni.
“Thiện nam tử! Nhờ sức
nhân duyên của một
bài kệ ấy, cho nên ngày nay ta ở giữa
đại chúng, vì hàng trời người mà
tuyên thuyết trọn vẹn [kinh này].
“Thiện nam tử! Do
nhân duyên ấy nên Đại Niết-bàn này là không thể nghĩ bàn;
thành tựu vô lượng vô biên công đức,
quả thật là kho tàng rất sâu kín của
chư Phật Như Lai. Vì nghĩa ấy, người có thể
thọ trì kinh này sẽ trừ bỏ, lìa xa mọi
lậu hoặc xấu ác.
Nói xấu ác tức là [những chỗ] như có voi dữ, ngựa dữ, trâu dữ, chó dữ,
rắn độc,
gai góc và đất đai
độc hại, vách núi chơi vơi, đồi cao dốc hiểm, xoáy nước hung bạo, hoặc có những người ác,
cõi ác, thành ác, nhà ác, bạn ác... Những điều như vậy, nếu là nhân sanh ra
lậu hoặc thì
Bồ Tát liền
lìa bỏ;
nếu không thì
Bồ Tát không lìa xa. Nếu những điều ấy làm tăng thêm
lậu hoặc thì
Bồ Tát liền
lìa bỏ,
nếu không thì
Bồ Tát không lìa xa. Nếu những điều ấy tạo thành việc xấu ác,
Bồ Tát liền
lìa bỏ;
nếu có thể tạo thành
việc lành thì
Bồ Tát không lìa xa.
“Thế nào lìa xa? [Đó là nói việc] không cầm dao gậy,
thường dùng phương tiện là
trí tuệ chân chánh mà lìa xa [những thứ ấy], nên gọi là lìa xa nhờ
trí tuệ chân chánh. Vì muốn
sanh khởi các pháp lành nên lìa xa các pháp xấu ác.
“Đại
Bồ Tát tự quán xét [tướng trạng] thân mình như ghẻ độc, như ung nhọt, như kẻ oán thù, như mũi tên đâm vào thân. Đó là nơi các nỗi khổ lớn đều
tụ họp, là cội gốc của hết thảy mọi sự
thiện ác.
“Tuy xét nghĩ đến thân này là
bất tịnh như vậy, nhưng
Bồ Tát vẫn chăm sóc
nuôi dưỡng. Vì sao vậy? Không phải vì
tham tiếc cái thân, mà vì các pháp lành; vì Niết-bàn, chẳng vì
sanh tử; vì thường, lạc, ngã, tịnh, chẳng vì
vô thường, vô lạc,
vô ngã, vô tịnh; vì đạo Bồ-đề, chẳng vì đạo trong
ba cõi; vì một thừa
duy nhất [là
Phật thừa], chẳng vì
ba thừa [
phương tiện]; vì thân
vi diệu có
ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, thậm chí chẳng vì thân ở
cõi trời Phi hữu tưởng phi
vô tưởng; vì làm đấng
Pháp luân vương, chẳng vì làm
Chuyển luân vương.
“Thiện nam tử!
Bồ Tát ma-ha-tát thường nên
gìn giữ,
bảo vệ thân này. Vì sao vậy? Nếu chẳng
giữ gìn,
bảo vệ thân này thì không giữ được mạng sống. Nếu mạng sống không giữ được thì không thể sao chép kinh này,
thọ trì, tụng đọc, vì người khác giảng rộng,
suy xét nghĩa kinh. Vì thế,
Bồ Tát nên khéo
giữ gìn,
bảo vệ thân thể. Vì nghĩa ấy,
Bồ Tát lìa xa hết thảy các
lậu hoặc xấu ác.
“Thiện nam tử! Như người muốn qua sông phải khéo
giữ gìn,
bảo vệ thuyền bè; kẻ sắp đi xa phải khéo
bảo vệ ngựa hay; người làm ruộng gieo giống phải khéo
giữ gìn phân bón; như vì trị độc phải khéo giữ con
rắn độc; như người vì
của cải phải nuôi giữ kẻ chiên-đà-la; như vì trừ bọn giặc cướp phải
nuôi dưỡng các
dũng sĩ tráng kiện; lại cũng như kẻ bị lạnh thích giữ ngọn lửa; như kẻ bệnh hủi phải tìm món thuốc độc;
Đại Bồ Tát cũng vậy, tuy thấy rõ thân này
chất chứa đầy dẫy
vô số những điều
bất tịnh, nhưng vì muốn
thọ trì kinh Đại Niết-bàn nên phải khéo
giữ gìn nuôi dưỡng, không để cho có sự mỏi mệt,
thiếu thốn.
“Vị
Đại Bồ Tát quán xét con voi dữ và bạn xấu đều chẳng khác gì nhau. Vì sao vậy? Vì cả hai đều làm hại thân mình.
Đại Bồ Tát đối với voi dữ không có lòng khiếp sợ, nhưng đối với bạn xấu lại sanh lòng
sợ hãi. Vì sao vậy? Loài voi dữ chỉ làm hại
thân thể, chẳng làm hại được tâm mình; người bạn xấu làm hại đến cả thân và tâm. Loài voi dữ chỉ làm hại được một thân trong kiếp này; người bạn xấu làm hại cả
vô số thân lành,
vô số tâm lành. Loài voi dữ chỉ có thể
phá hoại thân thể hôi thối
bất tịnh này thôi; người bạn xấu có thể làm hại cả thân
trong sạch và tâm
trong sạch. Loài voi dữ chỉ có thể
phá hoại thân xương thịt này thôi; người bạn xấu có thể
phá hoại cả
pháp thân. Bị voi dữ giết chết không rơi vào
ba đường ác; bị người bạn xấu hại chết ắt phải rơi vào
ba đường ác. Loài voi dữ chỉ là
kẻ thù của thân xác mà thôi; người bạn xấu là
kẻ thù của các pháp lành. Vì thế nên
Bồ Tát thường lìa xa những bạn xấu.
“Kẻ
phàm phu chẳng
lìa bỏ những
lậu hoặc ấy nên sanh ra
lậu hoặc.
Bồ Tát lìa bỏ nên không sanh ra
lậu hoặc. Vị
Bồ Tát như vậy còn không có
lậu hoặc, huống chi là đức Như Lai? Cho nên
Như Lai chẳng phải là
hữu lậu.
“Thế nào là gần gũi với lậu hoặc? Hết thảy
phàm phu đều nhận giữ lấy
y phục,
thức ăn, giường ghế, thuốc thang. Vì sự
vui sướng của
thân tâm nên mong cầu những thứ như vậy, làm
mọi việc xấu ác, không biết chỗ
lỗi lầm, phải
luân hồi trong
ba đường ác. Vì thế nên gọi là
lậu hoặc.
“Đại
Bồ Tát thấy rõ sự
lỗi lầm như vậy nên lìa xa. Khi cần
y phục liền nhận lấy
y phục, chẳng phải vì thân mình, chỉ là vì pháp; chẳng nuôi lớn lòng
kiêu mạn, tâm thường khiêm nhượng,
hạ mình; chẳng vì sự trang điểm
xinh đẹp, chỉ vì
hổ thẹn, vì tránh sự nóng lạnh, vì
ngăn cản gió độc, mưa dữ, trùng độc, muỗi mòng, ruồi nhặng, rắn rết, bò cạp [mà nhận lấy
y phục].
“Bồ Tát tuy nhận lãnh các
thức ăn uống nhưng lòng không tham đắm; chẳng vì thân mình, thường vì
Chánh pháp; chẳng vì
da thịt, chỉ vì
chúng sanh; chẳng vì lòng
kiêu mạn, chỉ vì
sức khỏe; chẳng vì tâm oán hại, chỉ vì đỡ đói. Dù được món
ăn ngon cũng không có lòng tham đắm.
“Bồ Tát khi nhận lãnh chỗ ở cũng vậy, chẳng để trong lòng có sự
trói buộc của
tham lam,
kiêu mạn; lấy đó làm căn nhà Bồ-đề để ngăn dứt giặc
phiền não; vì che chắn gió độc, mưa dữ mà nhận lãnh chỗ ở.
“Bồ Tát cầu được thuốc thang, trong lòng cũng không
tham lam,
kiêu mạn; chỉ vì
Chánh pháp, chẳng phải vì mạng sống mà muốn sống lâu.
“Thiện nam tử!
Ví như người có ung nhọt, dùng bột cám rang xốp đắp lên, lấy vải bó lại. Vì
máu mủ chảy ra nên phải dùng bột cám rang xốp đắp lên để rút khô; vì muốn cho nhọt lành nên dùng thuốc rắc lên; vì tránh gió độc nên ở trong nhà kín.
“Đại
Bồ Tát cũng vậy, quán xét thân là ung nhọt nên phải dùng
y phục che kín; vì
chín lỗ nơi thân chảy ra chất dơ nhớp nên phải cần món ăn
thức uống; vì có gió độc, mưa dữ nên nhận lãnh chỗ trú ngụ; vì
bốn thứ độc[79] phát ra nên phải tìm cầu thuốc thang.
Bồ Tát nhận lãnh bốn món
cúng dường[80] là vì đạo Bồ-đề, không vì mạng sống.
“Vì sao vậy?
Đại Bồ Tát suy xét rằng: ‘Nếu ta không nhận bốn món
cúng dường này,
thân thể ắt phải
hao mòn, diệt mất, không được bền chắc. Nếu thân này không được bền chắc, ắt
không nhẫn chịu được khổ.
Nếu không nhẫn chịu được khổ, ắt không thể
tu tập vô lượng pháp lành. Nếu ta
không nhẫn chịu được các nỗi khổ thì đối với những
cảm thọ khổ liền sanh lòng giận tức; đối với những
cảm thọ vui liền sanh lòng tham đắm,
vướng mắc. Nếu cầu sự vui không được ắt sanh ra
vô minh.’
“Vì thế nên
phàm phu đối với bốn món
cúng dường sanh ra
lậu hoặc.
Đại Bồ Tát có thể quán xét
sâu xa nên không sanh ra
lậu hoặc. [Vì thế,]
Bồ Tát còn được gọi là
vô lậu, làm sao
Như Lai có thể là hữu lậu? Vì thế mà
Như Lai không gọi là
hữu lậu.”
KINH ĐẠI BÁT NIẾT-BÀN
HẾT QUYỂN HAI MƯƠI HAI
KINH ĐẠI BÁT NIẾT-BÀN
QUYỂN HAI MƯƠI BA
PHẨM BỒ TÁT QUANG MINH BIẾN CHIẾU CAO QUÝ ĐỨC VƯƠNG
Phẩm thứ mười – Phần ba
Lại nữa,
thiện nam tử! Hết thảy
phàm phu tuy khéo
giữ gìn,
bảo vệ thân tâm, nhưng vẫn còn sanh ra
ba loại tư tưởng xấu ác.[81] Vì
nhân duyên ấy nên dù có dứt trừ được
phiền não, sanh lên
cõi trời Phi tưởng phi phi tưởng, rồi sau cũng vẫn rơi
trở lại trong
ba đường ác.[82]
“Thiện nam tử!
Ví như có người
vượt qua biển cả, đã gần
đến bờ bên kia nhưng bị chìm xuống nước mà chết. Những kẻ
phàm phu cũng như vậy, họ vừa sắp vượt ra khỏi
Ba cõi nhưng phải rơi
trở lại trong
ba đường ác. Vì sao vậy? Vì họ không có những
tư tưởng hiền thiện. Những gì là
tư tưởng hiền thiện? Đó là
sáu chỗ niệm tưởng.[83] Kẻ
phàm phu tâm thiện
yếu ớt,
tâm bất thiện mãnh liệt. Vì tâm thiện
yếu ớt, nên
tâm trí tuệ mỏng manh. Vì
tâm trí tuệ mỏng manh nên các
lậu hoặc tăng trưởng.
“Đại
Bồ Tát có mắt tuệ
thanh tịnh, thấy rõ
lỗi lầm của
ba loại tư tưởng xấu ác, biết rằng ba loại
tư tưởng xấu ấy gây nhiều
tai hại, thường khiến
chúng sanh trở thành oán nghịch với
Ba thừa. Do
nhân duyên là
ba loại tư tưởng xấu ác mà khiến cho
vô lượng chúng sanh phàm phu không thấy được tánh Phật. Trong
vô lượng kiếp sanh lòng
điên đảo, cho rằng
Phật Thế Tôn không có thường, lạc, ngã, chỉ
duy nhất có tịnh; rằng
Như Lai dứt bỏ hết tất cả mà nhập Niết-bàn.
“Hết thảy
chúng sanh đều không có thường, lạc, ngã, tịnh, nhưng vì lòng
điên đảo nên nói rằng có thường, lạc, ngã, tịnh.
Thật không có
Ba thừa, nhưng vì lòng
điên đảo nên nói có
Ba thừa. Thật có một
đạo chân thật không hư dối, nhưng vì lòng
điên đảo nên nói rằng không có.
“Chư Phật và
Bồ Tát thường
quở trách ba loại tư tưởng xấu ác này. Chúng thường gây hại cho
bản thân hoặc cũng gây hại người khác. Nếu có
ba loại tư tưởng xấu ác này thì hết thảy các việc ác thường theo đó mà sinh ra.
Ba loại tư tưởng xấu ác này là ba sợi dây
liên kết trói buộc chúng sanh trong vòng sanh tử không bờ bến.
Đại Bồ Tát thường
quán sát như vậy về
ba loại tư tưởng xấu ác.
“Nếu có lúc gặp những
nhân duyên nên
sanh khởi dục giác,
Bồ Tát chỉ
lặng lẽ không chấp nhận.
Ví như người sạch sẽ,
tinh khiết, ắt không nhận lấy các thứ phẩn dơ; như hòn sắt nóng chẳng có ai cầm lấy; như người thuộc dòng bà-la-môn không
ăn thịt bò;[84] như người đã ăn no không ăn món ăn dở; như vua
Chuyển luân không cùng ngồi với bọn chiên-đà-la;
Bồ Tát cũng như vậy, khinh ghét
ba loại tư tưởng xấu ác,
không chấp nhận, không [sinh lòng]
ưa thích.
“Vì sao vậy? Vì
Bồ Tát suy xét rằng: ‘Chúng sanh đều biết ta là thửa ruộng tốt để họ gieo trồng phước lành, làm sao ta lại
chấp nhận các pháp xấu ác này? Nếu ta
chấp nhận các
tư tưởng xấu ác, ắt không thể làm
ruộng phước tốt đẹp cho
chúng sanh. Tuy ta không tự xưng là
ruộng phước tốt, nhưng
chúng sanh nhìn thấy
hình tướng [của ta] liền nói rằng ta là
ruộng phước tốt. Nay nếu ta
sanh khởi những
tư tưởng xấu ác như vậy tức là dối gạt hết thảy
chúng sanh.
“Thuở xưa, ta vì làm chuyện dối gạt mà phải
trải qua vô lượng kiếp lưu chuyển trong
sanh tử, rơi vào
ba đường ác. Nếu ta đem tâm xấu ác mà thọ nhận sự
tín thí của người, tất cả
chư thiên và các vị tiên đã đạt năm
thần thông ắt sẽ rõ biết mà
quở trách. Nếu ta
sinh khởi tư tưởng xấu ác mà thọ nhận sự
tín thí của người thì sẽ khiến cho
quả báo của người cúng thí phải
giảm bớt, hoặc chẳng được
quả báo gì cả. Nếu ta đem tâm xấu ác mà thọ nhận vật cúng thí của đàn-việt, ắt ta sẽ thành kẻ oán thù của người cúng thí. Tất cả những người cúng thí đối với ta thường sanh lòng yêu kính như con đẻ, làm sao ta lại dối gạt họ mà sanh lòng thù oán?
“Vì sao [nói là] sanh lòng thù oán? Vì ta làm cho họ không được
quả báo, hoặc chỉ được chút ít
quả báo mà thôi.
“Ta thường tự xưng là người
xuất gia. Người
xuất gia thì không nên khởi lòng xấu ác; nếu khởi lòng xấu ác thì chẳng phải [người]
xuất gia. Người
xuất gia thì
lời nói phải
phù hợp với
việc làm; nếu
lời nói và
việc làm không
phù hợp nhau ắt không phải [người]
xuất gia. Ta đã dứt bỏ
cha mẹ, anh em,
vợ con,
quyến thuộc, bạn bè...
xuất gia tu học đạo, chính là lúc
tu tập các
tư tưởng hiền thiện, không phải lúc
tu tập các
tư tưởng bất thiện.
“Ví như có người ra biển tìm
châu báu nhưng chẳng lấy
châu báu thật, chỉ lấy toàn
thủy tinh; lại cũng như người
từ bỏ nơi có
âm nhạc vi diệu mà đến chơi chỗ có phẩn dơ; như kẻ dứt bỏ người con gái cao quý mà
tư thông với con hầu gái; như kẻ vất bỏ chậu vàng mà dùng chậu sành; như người vất bỏ món
cam lộ mà dùng món thuốc độc; như người bỏ vị
lương y tài giỏi và
thân thiết từ lâu mà theo thầy thuốc có oán thù, xấu ác để xin thuốc uống. Ta cũng như vậy, nếu khởi lòng xấu ác tức là
lìa bỏ món
pháp vị cam lộ của bậc
đại sư Như Lai Thế Tôn mà dùng đủ mọi thứ
tư tưởng xấu ác của bọn oán thù là ma!
“Thân người khó được như hoa ưu-đàm, mà nay ta đã được.
Đức Như Lai khó gặp hơn cả hoa ưu-đàm, mà nay ta đã gặp.
Pháp bảo thanh tịnh khó được nghe, mà nay ta đã được nghe. Thật [
hy hữu] chẳng khác nào con
rùa mù gặp bộng cây nổi.[85]
“Đời người
trôi qua nhanh chóng, nhanh hơn cả thác nước đổ xuống từ trên núi cao, chẳng lúc nào ngừng. Ngày nay tuy còn, ngày mai không dám chắc, vì sao lại buông thả tâm mình để rơi vào các pháp xấu ác? Tuổi xuân
tráng kiện không dừng lại, đang qua nhanh như ngựa chạy, sao có thể
dựa vào đó mà sanh lòng kiêu mạn?
“Ví như bọn
ác quỷ luôn rình rập
tìm kiếm lỗi lầm của người,
ác ma bốn đại cũng vậy, thường rình rập
tìm kiếm những chỗ
sai lầm của ta, sao ta lại để cho các
tư tưởng xấu ác sanh khởi?
Ví như căn nhà
mục nát sắp sụp đổ, mạng sống của ta cũng vậy, vì sao lại khởi lòng xấu ác?
“Ta mang danh là sa-môn, tức là người rõ biết các
tri giác hiền thiện. Như nay ta
sanh khởi những
tư tưởng bất thiện, sao đáng gọi là sa-môn? Ta mang danh là người
xuất gia, tức là người
tu tập đạo lành. Như nay ta làm điều ác, sao đáng gọi là [người] xuất gia? Ta mang danh là bà-la-môn chân chánh, tức là người
tu tập hạnh
thanh tịnh. Như nay ta khởi
tư tưởng xấu ác tức là điều
bất tịnh, sao đáng gọi là bà-la-môn? Ta cũng mang danh thuộc dòng tộc lớn là Sát-lợi, tức là người có thể dẹp trừ những
kẻ thù địch. Như nay ta không thể dẹp trừ
kẻ thù địch là những điều xấu ác, sao đáng gọi là thuộc dòng tộc Sát-lợi? Ta mang danh là tỳ-kheo, tức là người phá
trừ phiền não. Như nay ta không phá
trừ phiền não là
tư tưởng xấu ác, sao đáng gọi là Tỳ-kheo?
“Ở đời có sáu điều khó gặp, khó được. Nay ta đã được rồi, vì sao lại để cho những
tư tưởng xấu ác
tồn tại trong lòng? Những gì là sáu điều khó gặp, khó được? Một là khó gặp lúc Phật ra đời. Hai là khó được nghe
Chánh pháp. Ba là khó
sanh khởi tâm lành. Bốn là khó được sanh ra giữa nơi
văn minh hội tụ.[86] Năm là khó được thân người. Sáu là khó được đầy đủ các
giác quan. Sáu việc ấy là khó được, nay ta đều đã được,
vì vậy không nên
sanh khởi các
tư tưởng xấu ác.
“Bồ Tát khi ấy
tu hành kinh Đại Niết-bàn này, thường
chuyên cần quán sát các tâm xấu ác như vậy. Hết thảy
phàm phu vì không thấy được sự nguy hại của các tâm xấu ác như vậy cho nên
chấp nhận tùy theo ba loại tư tưởng xấu ác, đó gọi là nhận lấy
lậu hoặc.
Bồ Tát thấy rõ những sự nguy hại ấy nên không nhận chịu, không
vướng mắc,
buông bỏ không nắm giữ,
y theo Tám thánh đạo mà
loại bỏ, dứt trừ các
tư tưởng xấu ác. Vì thế,
Bồ Tát còn không nhận lấy
lậu hoặc, sao lại nói là
Như Lai có lậu hoặc? Do nghĩa ấy nên
Như Lai Thế Tôn không phải là
hữu lậu.[87]
“Lại nữa,
thiện nam tử! Kẻ
phàm phu khi gặp những sự
khổ não nơi
thân tâm liền khởi lên mọi điều xấu ác.
Do nơi thân có bệnh hay tâm có bệnh mà khiến cho thân, khẩu, ý của
chúng sanh làm đủ
mọi việc xấu ác. Do làm ác nên phải
luân hồi trong
ba đường ác, chịu đủ mọi sự khổ. Vì sao vậy? Vì kẻ
phàm phu không có niệm và
trí tuệ. Do đó mà sanh ra đủ mọi
lậu hoặc. Đó gọi là
niệm lậu.
“Đại
Bồ Tát thường tự
suy xét rằng: ‘Từ xưa
đến nay,
trải qua vô số kiếp, vì
thân tâm này ta đã tạo mọi
nghiệp ác. Bởi
nhân duyên ấy, ta
lưu chuyển sanh tử, ở trong
ba đường ác, chịu đủ các nổi khổ,
xa cách con đường chân chánh
Ba thừa.’
“Bởi
nhân duyên ấy,
Bồ Tát đối với
thân tâm mình sanh ra rất sợ sệt, liền
lìa bỏ mọi việc ác, noi theo đường lành.
“Thiện nam tử!
Ví như có vị vua đem
bốn con rắn độc nhốt trong một cái lồng, rồi sai một người
trông nom nuôi dưỡng, mỗi khi ngủ dậy lại tắm rửa, kỳ cọ thân mình cho rắn. Vua ra lệnh rằng: ‘Nếu ngươi chọc giận một con rắn, ta sẽ mang ngươi ra hành hình giữa chợ.’
“Bấy giờ, nghe lệnh vua như thế, người ấy sợ quá liền bỏ lồng rắn mà
chạy trốn. Vua liền sai năm tên chiên-đà-la cầm đao rượt theo. Người ấy ngoái lại thấy phía sau có năm người rượt đuổi, liền ra sức chạy nhanh. Năm tên chiên-đà-la dùng mưu chước xấu, giấu kín
khí giới rồi
bí mật sai một người
giả vờ thân thiện,
đến gần nói với người ấy rằng: ‘Ông nên
quay trở lại.’
“Người ấy chẳng tin lời, chạy vào trốn trong một xóm nhà. Khi vào xóm rồi, hé nhìn ở các nhà đều không thấy người. Người ấy
xem qua các đồ chứa, đều không thấy có gì trong đó cả. Tìm không thấy người, cũng không thấy có
vật dụng gì, người ấy liền ngồi bệt xuống đất.
“Bỗng nghe giữa không trung có tiếng rằng: ‘Hỡi ôi, chàng trai kia! Xóm nhà này trống vắng, không có dân cư. Đêm nay sẽ có sáu tên giặc cướp đến đây. Nếu ông gặp bọn cướp ấy ắt là không sống được. Ông biết làm sao thoát được?’
“Bấy giờ, người ấy càng thêm sợ sệt, liền bỏ nơi ấy mà đi. Trên đường, gặp một con sông nước chảy xiết, lại không có thuyền bè. Vì
sợ hãi, người ấy liền
thu nhặt nhiều thứ cỏ cây kết thành một chiếc bè, rồi
suy nghĩ rằng: ‘Nếu ta ở lại đây, ắt sẽ bị hại bởi
rắn độc, năm tên chiên-đà-la, một kẻ
giả vờ thân thiện, cùng với bọn sáu tên giặc cướp. Nếu ta qua sông này mà chiếc bè không
đủ sức chịu đựng, ắt phải
chết chìm. Nhưng ta thà
chết chìm chứ không để bị hại bởi
rắn độc và bọn giặc cướp kia.’
“Người ấy liền đẩy bè cỏ xuống nước, nương mình trên bè, tay ôm, chân đạp, rẽ nước mà qua sông. Khi tới
bờ bên kia, người ấy được
an ổn, không còn
tai họa, tâm ý
vui sướng nhẹ nhàng, mọi nỗi
sợ hãi không còn nữa!
“Đại
Bồ Tát được nghe và
thọ trì kinh Đại Niết-bàn, quán xét thân này như cái lồng nhốt
bốn con rắn độc là
bốn đại: đất, nước, lửa, gió.
Rắn độc có bốn cách gây độc cho người: lấy mắt nhìn gây độc, thân đụng chạm gây độc, phun nọc gây độc và dùng răng cắn gây độc. Tất cả
chúng sanh vì gặp bốn cách gây độc ấy nên phải
mất mạng.
Bốn đại của
chúng sanh cũng vậy: hoặc nhìn thấy là xấu ác, hoặc đụng chạm là xấu ác, hoặc
hơi thở là xấu ác, hoặc
cắn xé là xấu ác. Vì những
nhân duyên ấy mà lìa xa mọi điều lành.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Đại Bồ Tát quán xét
bốn con rắn độc có bốn
chủng tánh: sát-lợi, bà-la-môn, tỳ-xá, thủ-đà. Rắn
bốn đại cũng vậy, có bốn tánh chất: tánh bền chắc, tánh ẩm ướt, tánh nóng ấm, tánh chuyển động. Cho nên
Bồ Tát quán xét
bốn đại với bốn
rắn độc là đồng tánh chất.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Bồ Tát ma-ha-tát quán xét
bốn đại như bốn
rắn độc. Vì sao quán xét
bốn đại là bốn rắn độc? Vì
rắn độc thường rình rập để tìm lúc
thuận tiện hại người. Chúng biết lúc nào nên nhìn để gây độc, lúc nào nên đụng chạm, lúc nào nên phun nọc và lúc nào nên mổ cắn.
Rắn độc bốn đại cũng vậy, thường rình rập
chúng sanh để tìm chỗ
thiếu sót,
yếu kém mà gây hại.
“Người bị
rắn độc giết hại không đọa vào
ba đường ác, nhưng nếu bị
bốn đại giết hại thì
chắc chắn phải đọa vào
ba đường ác, không còn
nghi ngờ gì nữa.
“Bốn con
rắn độc ấy dù được người chăm sóc
nuôi dưỡng nhưng vẫn muốn giết hại người.
Bốn đại cũng thế, dù được sự
cung cấp [
nuôi dưỡng] của người nhưng vẫn thường xúi giục người làm mọi điều ác.
“Trong bốn
rắn độc ấy, nếu có một con bị chọc giận, nó có thể giết người. Tánh chất của
bốn đại cũng vậy, nếu có một đại
bộc phát cũng có thể hại người.
“Bốn
rắn độc ấy tuy ở cùng nhau nhưng chẳng
đồng lòng với nhau.
Rắn độc bốn đại cũng vậy, tuy ở cùng một nơi nhưng là bốn tánh khác nhau.
“Bốn
rắn độc ấy, dù có
cung kính cũng khó mà gần gũi.
Rắn độc bốn đại cũng vậy, dù có
cung kính cũng khó gần gũi.
“Khi bốn
rắn độc ấy hại người, nếu có vị sa-môn hay bà-la-môn nào dùng
chú thuật hay thuốc thang thì có thể chữa trị được.
Bốn đại nếu hại người, dù có
thần chú hay thuốc hay của các vị sa-môn hoặc bà-la-môn cũng không thể chữa trị.
“Như người đang vui, nghe hơi hôi hám
đáng ghét của bốn
rắn độc liền
tức thời lìa xa. Chư Phật và
Bồ Tát cũng vậy, nghe hơi hôi hám của
bốn đại liền
tức thời lìa xa.
“Bấy giờ,
Bồ Tát lại
suy nghĩ rằng: ‘Rắn độc
bốn đại thật rất đáng sợ!’ Liền quay lưng mà tránh xa,
chuyên tâm tu tập Tám thánh đạo.
“Năm tên chiên-đà-la kia tức là
năm ấm.[88] Vì sao
Bồ Tát quán xét
năm ấm như chiên-đà-la? Chiên-đà-la thường khiến cho những người
thương yêu nhau phải chia lìa, những người oán ghét phải gặp gỡ nhau.
Năm ấm cũng thế, khiến cho
con người ham muốn gần gũi những pháp
bất thiện, lìa xa hết thảy mọi pháp thuần thiện.
“Lại nữa,
thiện nam tử! Những kẻ chiên-đà-la tự trang bị đủ mọi thứ
khí giới, như đao, như thuẫn, như cung tên, áo giáp, giáo mác... để có thể hại người.
Năm ấm cũng tự trang bị
kiên cố bằng các
phiền não, làm hại những kẻ
ngu si phải
chìm đắm trong
Ba cõi.
“Thiện nam tử! Những kẻ chiên-đà-la bắt được người có tội liền làm hại.
Năm ấm cũng vậy, có thể làm hại những người có
lỗi lầm phiền não.
Vì lẽ ấy,
Bồ Tát quán xét
sâu xa năm ấm cũng như chiên-đà-la.
“Lại nữa,
Bồ Tát quán sát năm ấm như chiên-đà-la, vì chiên-đà-la chẳng có lòng
thương xót, làm hại cả kẻ oán lẫn người thân.
Năm ấm cũng vậy, không có lòng
thương xót, làm hại cả người thiện lẫn kẻ ác.
“Như chiên-đà-la
quấy rối tất cả
mọi người.
Năm ấm cũng vậy,
thường dùng các
phiền não mà
quấy rối tất cả
chúng sanh trong
sanh tử. Cho nên
Bồ Tát quán xét
năm ấm như chiên-đà-la.
“Lại nữa,
Bồ Tát quán sát năm ấm như chiên-đà-la, vì chiên-đà-la thường ôm lòng gây hại.
Năm ấm cũng vậy, thường
chất chứa trong lòng những
phiền não trói buộc gây hại.
“Như một người không có chân để chạy, không có đao kiếm, gậy gộc, không có kẻ
đi theo bảo vệ, nên biết rằng người ấy ắt sẽ bị kẻ chiên-đà-la giết hại.
Chúng sanh cũng vậy,
nếu không có chân để chạy, không có đao kiếm, không có kẻ
đi theo bảo vệ thì sẽ phải bị
năm ấm làm hại. Chân đó là
giới luật, đao kiếm đó là
trí tuệ, kẻ
đi theo bảo vệ tức là các vị
thiện tri thức, bạn tốt. Vì không có ba điều ấy nên mới bị
năm ấm làm hại. Vì thế,
Bồ Tát quán xét
năm ấm như chiên-đà-la.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Đại Bồ Tát quán xét
năm ấm còn
đáng sợ hơn cả chiên-đà-la. Vì sao vậy?
Chúng sanh bị năm kẻ chiên-đà-la giết hại không phải đọa vào
địa ngục, nhưng nếu bị
năm ấm giết hại thì ắt phải đọa vào
địa ngục. Vì nghĩa ấy nên
Bồ Tát quán sát năm ấm còn
đáng sợ hơn cả chiên-đà-la. Quán xét như vậy rồi,
Bồ Tát bèn lập nguyện rằng: ‘Ta thà
trọn đời ở gần kẻ chiên-đà-la chứ không gần gũi
năm ấm dù chỉ trong
phút chốc.’
“Chiên-đà-la chỉ có thể làm hại người
ngu si ở
Dục giới mà thôi; còn giặc
năm ấm có thể làm hại
chúng sanh phàm phu khắp trong
Ba cõi:
Dục giới,
Sắc giới và
Vô sắc giới.
“Chiên-đà-la chỉ có thể làm hại người có tội mà thôi; còn giặc
năm ấm không
phân biệt chúng sanh là có tội hay không có tội, đều làm hại tất cả.
“Chiên-đà-la không làm hại những người già yếu,
phụ nữ, trẻ con; còn giặc
năm ấm không
phân biệt chúng sanh nào là già yếu, trẻ con hay
phụ nữ, đều làm hại tất cả.
“Cho nên
Bồ Tát quán xét
sâu xa thấy
năm ấm còn
đáng sợ hơn cả chiên-đà-la. Vì thế,
Bồ Tát phát nguyện rằng: ‘Ta thà
trọn đời ở gần kẻ chiên-đà-la chứ không gần gũi với
năm ấm dù chỉ trong
phút chốc.’
“Lại nữa,
thiện nam tử! Chiên-đà-la chỉ làm hại người khác mà thôi, chẳng bao giờ tự hại mình. Giặc
năm ấm làm hại cả mình và người khác,
đáng sợ hơn cả chiên-đà-la.
“Kẻ chiên-đà-la có thể dùng lời khéo léo,
tiền của, vật quý mua chuộc để cầu được thoát.
Năm ấm chẳng phải vậy, không thể gượng dùng lời khéo léo dẫn dụ, hoặc
tiền của, vật quý để cầu được thoát.
“Kẻ chiên-đà-la không phải trong bốn thời đều luôn giết hại.
Năm ấm chẳng phải vậy, trong từng khoảnh khắc vẫn thường làm hại
chúng sanh.
“Kẻ chiên-đà-la chỉ ở tại một nơi mà thôi nên có thể
trốn tránh đi
nơi khác.
Năm ấm chẳng phải vậy, khắp nơi đều có nên không thể nào
trốn tránh được.
“Kẻ chiên-đà-la tuy làm hại người, nhưng đã hại rồi thì không đuổi theo.
Năm ấm chẳng phải vậy, đã giết hại
chúng sanh rồi lại còn bám theo
mãi mãi không rời.
“Cho nên
Bồ Tát thà
trọn đời [phải] ở gần kẻ chiên-đà-la chứ cũng không gần gũi với
năm ấm, dù chỉ trong
phút chốc.
“Người có
trí tuệ dùng
phương tiện khéo léo mà
thoát khỏi năm ấm.
Phương tiện khéo léo đó tức là
Tám Thánh đạo, Sáu Ba-la-mật,
Bốn tâm vô lượng. Nhờ
phương tiện ấy mà
được giải thoát,
thân tâm chẳng bị
năm ấm làm hại. Vì sao vậy? Vì thân như
kim cang, tâm như
hư không, nên khó bị hư hoại.
“Do những nghĩa ấy,
Bồ Tát quán xét các ấm gây ra đủ mọi pháp
bất thiện, sanh ra nỗi sợ lớn, bèn lo
tu tập Tám Thánh đạo. Cũng giống như người bỏ trốn kia, vì sợ
bốn con rắn độc, năm kẻ chiên-đà-la nên băng đường mà chạy đi, không dám quay đầu nhìn lại.
“Kẻ
thù oán giả vờ thân thiện kia tức là
tham ái.
Đại Bồ Tát quán xét
sâu xa sự
trói buộc của
tham ái giống như
kẻ thù oán
giả vờ thân thiện. Nếu rõ biết
sự thật thì kẻ ấy chẳng làm gì được;
nếu không rõ biết thì sẽ bị hại.
Tham ái cũng vậy. Nếu biết được tánh thật của
tham ái thì
chúng sanh không còn bị
luân chuyển trong biển khổ
sanh tử;
nếu không biết được tánh thật của
tham ái thì phải
luân hồi trong sáu nẻo, chịu đủ mọi nỗi khổ. Vì sao vậy? Vì
tham ái là bệnh, rất khó
buông bỏ xa lìa, cũng như
kẻ thù oán
giả vờ thân thiện, rất khó lìa xa.
“Kẻ
thù oán giả vờ thân thiện thường rình rập tìm chỗ
thuận tiện để khiến cho những người
thương yêu nhau phải chia lìa, những người oán ghét phải gặp gỡ nhau.
Tham ái cũng vậy, khiến cho người ta
xa cách hết thảy pháp lành, gần gũi hết thảy các pháp
bất thiện. Vì nghĩa ấy nên
Bồ Tát quán xét
sâu xa thấy
tham ái như
kẻ thù oán
giả vờ thân thiện, vì [khiến cho người ta] thấy [cũng như] không thấy, nghe [cũng như] không nghe. Như kẻ
phàm phu tuy có
trí tuệ thấy được
lỗi lầm của
sanh tử, nhưng vì sự
ngu si che lấp nên cũng cũng
như không thấy. Hàng
Thanh văn,
Duyên giác cũng vậy, tuy thấy [cũng như] không thấy, tuy nghe [cũng như] không nghe. Vì sao vậy? Vì có tâm
tham ái.
“Thế nào là vì có tâm tham ái? Vì thấy chỗ
lỗi lầm của
sanh tử nhưng không thể nhanh chóng
đạt đến quả vị A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Do nghĩa ấy,
Đại Bồ Tát quán xét sự
trói buộc của
tham ái giống như
kẻ thù oán
giả vờ thân thiện.
“Thế nào là biểu hiện của
kẻ thù oán
giả vờ thân thiện?
Kẻ thù oán là không
chân thật nhưng
giả vờ ra vẻ
chân thật; không thể gần gũi nhưng
giả vờ ra vẻ gần gũi; thật là
bất thiện nhưng
giả vờ ra vẻ hiền thiện;
thật không có lòng
thương yêu nhưng
giả vờ ra vẻ
thương yêu. Vì sao vậy? Vì muốn rình rập tìm chỗ
thuận tiện để làm hại.
“Tham ái cũng vậy, thường đối với
chúng sanh giả vờ ra vẻ
chân thật,
giả vờ ra vẻ gần gũi,
giả vờ ra vẻ hiền thiện,
giả vờ ra vẻ
thương yêu, thường dối gạt tất cả
chúng sanh, khiến họ
luân hồi sanh tử. Vì nghĩa ấy,
Bồ Tát quán xét
tham ái như
kẻ thù oán
giả vờ thân thiện.
“Với
kẻ thù oán
giả vờ thân thiện, ta chỉ thấy được
hành vi và
lời nói, không thấy được trong lòng nên bị dối gạt.
Tham ái cũng vậy, chỉ là
hư dối,
thật không có được, nên có thể dối gạt tất cả
chúng sanh.
“Kẻ
thù oán giả vờ thân thiện thì có lúc khởi đầu, có lúc
kết thúc, nên dễ lìa xa.
Tham ái không phải vậy, không có khởi đầu, không có
kết thúc, nên rất khó
xa lìa.
“Kẻ
thù oán giả vờ thân thiện khi ở xa thì khó rõ biết, nhưng khi ở gần mình thì dễ biết được.
Tham ái không phải vậy, dù khi ở gần cũng khó rõ biết, huống chi là lúc ở xa?
“Vì những lẽ ấy nên
Bồ Tát quán xét
tham ái còn
đáng sợ hơn cả kẻ
giả vờ thân thiện. Vì sự
trói buộc của
tham ái, tất cả
chúng sanh đều
xa cách Đại Niết-bàn, gần gũi
sanh tử;
xa cách thường, lạc, ngã, tịnh, gần gũi
vô thường, khổ,
vô ngã,
bất tịnh. Cho nên ở nhiều nơi trong các kinh, Phật đều có dạy về ba sự nhơ nhớp là
tham ái,
sân hận và
si mê.
Chúng sanh đối với những sự việc trong
hiện tại, do
vô minh che lấp nên không thấy được những
lỗi lầm nguy hại, không thể
buông bỏ,
xa lìa.
“Tham ái như kẻ oán
giả vờ thân thiện, chẳng bao giờ làm hại được người có trí. Vì thế,
Bồ Tát quán xét
sâu xa tham ái, sanh ra nỗi sợ lớn, bèn lo
tu tập Tám Thánh đạo. Cũng như người bỏ trốn kia vì sợ
bốn con rắn độc, năm tên chiên-đà-la và kẻ
giả vờ thân thiện nên băng đường mà chạy đi không dám quay lại.
“Xóm nhà trống không kia tức là
sáu nhập.[89]
Đại Bồ Tát quán xét
sáu nhập bên trong là trống trơn,
thật không có gì, như xóm nhà trống không. Như kẻ hoảng sợ kia, khi vào xóm nhà rồi chẳng thấy có người dân nào cả, tìm xem hết mọi thứ đồ chứa cũng chẳng thấy có món
vật dụng gì.
Bồ Tát cũng vậy, quán xét kỹ
sáu nhập không thấy có gì cả, không thấy có
chúng sanh, không thấy có một vật gì là thật! Vì thế,
Bồ Tát quán xét
sáu nhập bên trong không có gì cả, như xóm nhà trống không.
“Thiện nam tử! Xóm nhà trống không kia, bọn giặc cướp từ xa trông đến không hề có
ý nghĩ rằng đó là trống không. Những kẻ
phàm phu cũng vậy, đối với cái xóm nhà
sáu nhập không hề có
ý nghĩ rằng đó là trống không. Vì không thể nghĩ rằng
sáu nhập là trống không nên phải
luân hồi sanh tử, chịu
vô số nỗi khổ.
“Thiện nam tử! Khi bọn giặc cướp đến nơi rồi liền
sanh khởi ý tưởng đó là trống không.
Bồ Tát cũng vậy, quán xét
sáu nhập thường sanh
ý tưởng cho là trống không. Vì sanh
ý tưởng trống không nên không bị
sanh tử luân hồi, không phải chịu khổ.
Bồ Tát đối với
sáu nhập ấy thường không
điên đảo. Vì không
điên đảo nên chẳng còn
trở lại sanh tử luân hồi.
“Lại nữa,
thiện nam tử! Như có giặc cướp vào trú trong xóm nhà trống không ấy sẽ được
yên ổn. Giặc
phiền não cũng vậy, vào trú trong
sáu nhập sẽ được
yên ổn. Như giặc cướp trú nơi xóm nhà trống không thì lòng không sợ sệt. Giặc
phiền não cũng vậy, trú nơi
sáu nhập cũng không còn sợ sệt.
“Như xóm nhà trống không kia chính là chỗ trú ngụ của
sư tử, cọp, sói và mọi giống
thú dữ.
Sáu nhập bên trong cũng vậy, chính là chỗ trú ngụ của tất cả bọn
thú dữ phiền não xấu ác. Cho nên
Bồ Tát quán xét
sâu xa thấy
sáu nhập là trống không, không có gì cả, chỉ là chỗ trú ngụ của tất cả những điều
bất thiện.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Đại Bồ Tát quán xét
sáu nhập bên trong là trống không, không có gì cả, như xóm nhà trống không kia. Vì sao vậy? Vì là
hư dối không
chân thật. Xóm nhà trống không kia thật là trống không, không có gì, [người không
hiểu biết] lại sanh ra
ý tưởng cho là thật có;
thật không có gì là vui, lại sanh ra
ý tưởng cho là vui;
thật không có người ở, lại sanh ra
ý tưởng là có người.
Sáu nhập bên trong cũng vậy, vốn là trống không, không có gì cả, [người không
hiểu biết] lại sanh ra
ý tưởng cho là thật có;
thật không có gì là vui, lại sanh ra
ý tưởng cho là vui;
thật không có người ở, lại sanh ra
ý tưởng là có người. Chỉ người trí mới biết rõ như vậy,
đạt đến sự
chân thật.
“Lại nữa,
thiện nam tử! Như xóm nhà trống không kia cũng có lúc có người, có lúc vắng người.
Sáu nhập không như vậy, lúc nào cũng là không. Vì sao vậy? Vì tánh [của chúng] thường là không. Đó là chỗ biết của người trí, chẳng phải do mắt thấy. Cho nên
Bồ Tát quán xét
sáu nhập bên trong chứa nhiều oán thù
tai hại, liền lo
tu tập Tám Thánh đạo không lúc nào dừng, như người kia vì sợ
bốn con rắn độc, năm tên chiên-đà-la, một kẻ
giả vờ thân thiện và sáu tên giặc cướp mà hoảng hốt bỏ
chạy theo con đường lớn.
“Sáu tên giặc cướp kia tức là
sáu trần bên ngoài.[90]
Đại Bồ Tát quán xét
sáu trần ấy như sáu tên giặc cướp. Vì sao vậy? Vì có thể cướp giật tất cả các pháp lành. Như sáu tên giặc cướp có thể cướp giật
của cải và vật quý của tất cả
mọi người. Giặc cướp
sáu trần này cũng vậy, có thể cướp giật những điều lành
quý báu của tất cả
chúng sanh.
“Như sáu tên giặc cướp nếu vào trong nhà người ắt có thể cướp giật
tài sản hiện có trong nhà, không
phân biệt là tốt hay xấu, khiến cho người rất
giàu có bỗng chốc hóa ra nghèo túng. Giặc cướp
sáu trần cũng vậy, nếu thiệp nhập với sáu căn ắt có thể cướp giật tất cả pháp lành. Pháp lành mất hết thì trở nên ngèo túng
trơ trọi, làm kẻ nhất-xiển-đề. Cho nên
Bồ Tát quán xét kỹ thấy
sáu trần cũng như sáu tên giặc cướp.
“Lại nữa,
thiện nam tử! Như sáu tên giặc cướp khi muốn cướp của người
cần phải có kẻ nội ứng.
Nếu không có kẻ nội ứng, ắt chúng phải
quay về. Giặc cướp
sáu trần cũng vậy, nếu muốn cướp đoạt pháp lành
cần phải nhân nơi bên trong có sự thấy biết của
chúng sanh,[91] như các tướng thường, lạc, ngã, tịnh,
chấp hữu. Nếu bên trong không có những tướng ấy, giặc cướp
sáu trần không thể cướp giật hết thảy pháp lành. Người có trí thì bên trong không có những tướng như vậy, còn kẻ
phàm phu ắt là phải có, nên
sáu trần thường đến cướp đoạt
của cải là pháp lành. Vì không khéo léo
giữ gìn nên bị cướp mất. Sự
giữ gìn đó gọi là
trí tuệ. Người có
trí tuệ khéo léo
đề phòng và
gìn giữ nên không bị cướp. Cho nên
Bồ Tát quán xét
sáu trần cũng như sáu tên giặc cướp,
thật không khác nhau.
“Lại nữa,
thiện nam tử! Như sáu tên giặc cướp có thể làm cho
thân tâm người dân
khổ não. Giặc cướp
sáu trần cũng vậy, thường làm cho
thân tâm chúng sanh khổ não.
“Sáu tên giặc cướp chỉ cướp được
tài sản hiện có của người ta mà thôi, nhưng giặc cướp
sáu trần thường cướp đoạt
tài sản là điều lành của
chúng sanh trong cả
ba đời.[92]
“Sáu tên giặc cướp kia, khi đêm tối lấy làm
vui vẻ. Giặc cướp
sáu trần cũng vậy, ở trong sự tăm tối của
vô minh lấy làm
vui vẻ.
“Sáu tên giặc cướp kia, chỉ có vua quan mới
ngăn cản được chúng. Giặc cướp
sáu trần cũng vậy, chỉ có Phật và
Bồ Tát mới ngăn dừng được chúng.
“Sáu tên giặc cướp kia, khi muốn cướp đoạt thì không
phân biệt dòng họ, người đoan chánh hay thông triết, nghe nhiều,
học rộng hay sang quý, hèn hạ. Giặc cướp
sáu trần cũng vậy, khi muốn cướp đoạt pháp lành thì cũng không
phân biệt từ người đoan chánh
cho đến kẻ hèn hạ.
Sáu tên giặc cướp kia, dù vua quan có chặt đứt tay chân cũng không thể khiến cho bọn chúng dứt bỏ lòng giặc cướp. Giặc cướp
sáu trần cũng vậy, dù các vị Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm[93] có chặt đứt tay chân của chúng cũng không thể làm cho chúng
từ bỏ không cướp đoạt pháp lành.
“Như người khỏe mạnh, uy dũng mới có thể khuất phục sáu tên giặc cướp. Chư Phật và
Bồ Tát cũng vậy, các ngài mới có
đủ khả năng khuất phục bọn giặc cướp
sáu trần.
“Ví như người có
thân tộc đông đảo, bè phái vững mạnh, ắt không bị bọn sáu tên giặc kia cướp giật.
Chúng sanh cũng thế, nếu có đủ bạn tốt,
thiện tri thức thì không bị bọn giặc
sáu trần cướp đoạt.
“Sáu tên giặc kia nếu thấy được
tài sản của người ta liền có thể trộm cướp. Giặc
sáu trần không phải vậy, hoặc thấy, hoặc biết, hoặc nghe, hoặc ngửi, hoặc xúc chạm, hoặc
nhận biết, thảy đều có thể cướp đoạt.
“Sáu tên giặc kia chỉ có thể cướp đoạt
tài sản của người ở
Dục giới mà thôi, không thể cướp đoạt ở các cõi
Sắc giới và
Vô sắc giới. Giặc cướp
sáu trần không phải vậy, chúng có thể cướp đoạt tất cả
của báu là pháp lành trong
Ba cõi.
“Cho nên
Bồ Tát quán xét
sáu trần còn
đáng sợ hơn cả sáu tên giặc cướp kia. Quán xét như vậy rồi liền
tu tập Tám Thánh đạo, thẳng tiến không thối lui; cũng như người kia vì sợ
bốn con rắn độc, năm tên chiên-đà-la, một kẻ
giả vờ thân thiện và sáu tên giặc cướp mà vội bỏ xóm nhà không người, băng đường chạy đi.
“Trên đường gặp một dòng sông, đó là
phiền não. Vì sao
Bồ Tát quán xét
phiền não như dòng sông lớn? Như dòng sông nước chảy xiết có thể cuốn trôi cả con voi tơ đang sung sức. Dòng sông
phiền não chảy xiết cũng vậy, có thể cuốn trôi cả hàng
Duyên giác. Cho nên
Bồ Tát quán xét
sâu xa thấy
phiền não cũng như dòng sông chảy xiết.
“Nước sâu khó dò tới đáy nên gọi là sông, bờ xa không vượt sang được nên gọi là lớn. Trong dòng nước lại có đủ mọi thứ cá dữ. Sông lớn
phiền não cũng vậy, chỉ có Phật và
Bồ Tát mới dò được tận đáy, nên gọi là rất sâu; chỉ có Phật và
Bồ Tát mới sang được tới
bờ bên kia, nên gọi là rộng lớn. Thường làm hại tất cả
chúng sanh ngu si, nên gọi là cá dữ. Vì thế
Bồ Tát quán xét
phiền não như dòng sông lớn [có nhiều cá dữ].
“Như nước sông lớn có thể làm
tăng trưởng tất cả cỏ cây, rừng rậm. Sông lớn
phiền não cũng vậy, có thể làm
tăng trưởng chúng sanh trong
hai mươi lăm cảnh giới hiện hữu.[94] Cho nên
Bồ Tát quán xét
phiền não cũng như dòng sông lớn.
“Ví như có người rơi xuống dòng nước sông lớn, không có gì là
hổ thẹn.
Chúng sanh cũng thế, chìm trong dòng sông
phiền não không hề
hổ thẹn. Như người rơi xuống sông, chưa chìm tới đáy đã
mất mạng rồi.
Chúng sanh trong dòng sông
phiền não cũng vậy, chưa chìm tới đáy đã phải xoay vòng
luân chuyển trong
hai mươi lăm cảnh giới hiện hữu.
“Nói đáy sông đó là chỉ cho
tướng Không. Nên biết rằng, nếu ai không
tu tập tướng Không này thì không thể ra khỏi
hai mươi lăm cảnh giới hiện hữu. Vì tất cả
chúng sanh không khéo
tu tập lẽ Không,
Vô tướng, nên thường bị dòng sông
phiền não cuốn trôi,
nhận chìm.
“Như dòng sông lớn kia chỉ có thể làm hại xác thân, không thể
nhận chìm hết thảy pháp lành. Dòng sông lớn
phiền não không phải vậy, vì có thể làm hư hoại hết thảy các pháp lành của thân và tâm.
“Dòng sông hung hãn kia cũng chỉ cuốn trôi,
nhận chìm người trong
cõi Dục giới. Dòng sông lớn
phiền não có thể cuốn trôi,
nhận chìm cả
loài người và
chư thiên trong
Ba cõi.
“Như dòng sông lớn ở
thế gian, có thể ôm phao nổi mà đạp chân sang
đến bờ bên kia. Với dòng sông lớn
phiền não, chỉ có
Bồ Tát nhờ nơi sáu pháp ba-la-mật mới có thể
vượt qua được.
“Như nước sông lớn thật khó mà lội được sang
bờ bên kia. Sông lớn
phiền não cũng vậy, thật khó mà vượt sang
đến bờ bên kia.
“Vì sao nói rằng khó vượt sang được?
Cho đến các vị
Đại Bồ Tát đạt
địa vị Mười trụ vẫn còn chưa thể
rốt ráo vượt sang, chỉ có chư Phật mới
rốt ráo vượt sang mà thôi. Vì thế nên nói rằng khó vượt sang được.
“Ví như có một người bị dòng sông cuốn trôi, không thể
tu tập chút pháp lành nào.
Chúng sanh cũng vậy, bị dòng sông
phiền não cuốn trôi, nhấn chìm, cũng không thể
tu tập được pháp lành.
“Như người rớt xuống sông, bị nước cuốn trôi, người
đủ sức mạnh có thể cứu vớt lên được. Nhưng người bị chìm trong dòng sông
phiền não, làm nhất-xiển-đề thì dù là
Thanh văn,
Duyên giác cho đến chư Phật cũng không thể cứu vớt được.
“Vào thuở
kiếp tận sẽ có bảy
mặt trời cùng chiếu xuống dòng sông lớn ở
thế gian, khiến cho khô cạn. Sông lớn
phiền não không phải như vậy, hàng
Thanh văn,
Duyên giác tuy
tu tập Bảy giác chi[95] cũng không thể làm cho khô cạn được. Vì thế,
Bồ Tát quán xét các
phiền não giống như dòng sông hung bạo.
“Ví như người kia vì sợ
bốn con rắn độc, năm tên chiên-đà-la, một kẻ
giả vờ thân thiện và sáu tên giặc cướp mà rời bỏ xóm nhà trống không để theo đường
chạy trốn. Khi đến bờ sông liền kết cỏ làm bè qua sông.
Bồ Tát cũng vậy, vì sợ
rắn độc là
bốn đại, chiên-đà-la là
năm ấm, kẻ
giả vờ thân thiện là
tham ái, xóm nhà trống không là
sáu nhập, giặc cướp là
sáu trần, liền chạy tới bờ sông
phiền não,
tu tập giới, định, tuệ,
giải thoát,
giải thoát tri kiến, sáu ba-la-mật,
ba mươi bảy phẩm trợ đạo, dùng đó làm thuyền bè để nương theo mà
vượt qua sông lớn
phiền não, đến được
bờ bên kia là
cảnh giới Niết-bàn an vui.
“Vị
Bồ Tát tu hành Đại Niết-bàn có
suy nghĩ rằng: ‘Nếu ta
không nhẫn chịu được những nỗi khổ của thân, của tâm như thế này, ắt không thể giúp cho tất cả
chúng sanh vượt qua được dòng sông
phiền não.’
Suy nghĩ như vậy, nên dù có những nỗi
khổ não trong
thân tâm, [vị
Bồ Tát] cũng
lặng lẽ nhẫn chịu. Vì nhẫn chịu được nên không sanh ra
lậu hoặc.
“Vị
Bồ Tát như vậy còn không có các
lậu hoặc, huống chi
đức Phật Như Lai làm sao có lậu hoặc? Cho nên chư Phật không thể gọi là
hữu lậu.
“Vì sao
Như Lai cũng không phải vô lậu? Vì
đức Như Lai thường hành đạo trong cõi
hữu lậu, tức là
hai mươi lăm cảnh giới hiện hữu. Vì thế nên hàng
Thanh văn và những kẻ
phàm phu nói rằng Phật là
hữu lậu; nhưng
chư Phật Như Lai chân thật là
vô lậu.
“Thiện nam tử! Do những
nhân duyên ấy nên
chư Phật Như Lai không hề có tướng
nhất định.
“Thiện nam tử! Vì thế nên kẻ phạm
bốn giới cấm nặng,
phỉ báng kinh Phương đẳng cùng với kẻ nhất-xiển-đề, thảy đều là không
nhất định.”
Lúc ấy,
Đại Bồ Tát Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương
bạch Phật: “Đúng vậy, đúng vậy! Quả như
lời Phật dạy, hết thảy các pháp đều là không
nhất định. Vì lẽ không
nhất định ấy, nên biết rằng
Như Lai không phải dứt bỏ hết tất cả mà nhập Niết-bàn.
“Như trước đây Phật có dạy: ‘Đại
Bồ Tát tu hành Đại Niết-bàn
nghe được những điều không [thể] nghe: có Niết-bàn, có Đại Niết-bàn.’ [Bạch Thế Tôn!] Thế nào là Niết-bàn? Thế nào là Đại Niết-bàn?”
Bấy giờ, Phật
ngợi khen Đại Bồ Tát Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương: “Lành thay,
lành thay! Thiện nam tử! Chỉ có
Bồ Tát nào đã được niệm
tổng trì mới có thể thưa hỏi như vậy.
“Thiện nam tử! Như người đời nói có biển, có biển lớn; có sông, có sông lớn; có núi, có núi lớn; có cõi đất, có cõi đất lớn; có thành, có
đại thành; có
chúng sanh, có
đại chúng sanh; có
tiểu vương, có
đại vương; có
chư thiên, có
đại thiên; có đạo, có
đại đạo. Niết-bàn
cũng thế, có Niết-bàn, có Đại Niết-bàn.
“Thế nào là Niết-bàn?
Thiện nam tử! Như có người đang đói, nếu được chút cơm ăn thì cho là
vui sướng. Sự
vui sướng như vậy cũng gọi là Niết-bàn. Như người bệnh được khỏi thì cho là
vui sướng. Sự
vui sướng như vậy cũng gọi là Niết-bàn. Như người đang sợ sệt gặp chỗ nương dựa, ắt được
vui sướng. Sự
vui sướng như vậy cũng gọi là Niết-bàn. Như người nghèo túng được vật bằng
bảy báu, ắt được
vui sướng. Sự
vui sướng như vậy cũng gọi là Niết-bàn. Như người
quán tưởng bộ xương, dứt lòng
tham muốn, ắt được an vui. Sự an vui như vậy cũng gọi là Niết-bàn.
“Niết-bàn như vậy không gọi là Đại Niết-bàn. Vì sao vậy? Vì có được là do
đói khát, do bệnh tật, do sợ sệt, do nghèo túng, do tham đắm
vướng mắc, nên gọi là Niết-bàn, không phải Đại Niết-bàn.
“Thiện nam tử! Như kẻ
phàm phu và hàng
Thanh văn, hoặc
do nơi pháp
thế gian,
hoặc nhân nơi
Thánh đạo mà dứt trừ được
phiền não trói buộc ở
Dục giới, ắt sẽ được an vui. Sự an vui như vậy cũng gọi là Niết-bàn, không gọi là Đại Niết-bàn.
“Nếu có thể dứt được
phiền não trói buộc từ cảnh
Sơ thiền cho đến cảnh
Phi tưởng phi phi tưởng ắt được an vui. Sự an vui như vậy cũng gọi là Niết-bàn, không gọi là Đại Niết-bàn. Vì sao vậy? Vì còn có
tập khí[96] [làm]
sanh khởi phiền não trở lại.
“Thế nào là
phiền não tập khí? Hàng
Thanh văn,
Duyên giác đều có những
thói quen phiền não, như là những
ý niệm: thân của ta,
y phục của ta; ta đi, ta lại, ta nói, ta nghe;
chư Phật Như Lai nhập Niết-bàn, tánh của Niết-bàn là
vô ngã, vô lạc, chỉ có
thường hằng thanh tịnh mà thôi. [Những
ý niệm sai lầm] như thế gọi là
phiền não tập khí.
“[Hoặc có những
ý niệm như là:] Phật, Pháp, Tăng là những tướng khác biệt nhau,
Như Lai rốt cùng dứt bỏ tất cả mà nhập Niết-bàn, chỗ
chứng đắc Niết-bàn của hàng
Thanh văn,
Duyên giác với
chư Phật Như Lai không có gì khác biệt. Do có những
ý niệm [
sai lầm] như thế nên chỗ
chứng đắc của hàng
Nhị thừa[97] không phải là Đại Niết-bàn.
“Vì sao vậy? Vì không có thường, lạc, ngã, tịnh. Có thường, lạc, ngã, tịnh mới được gọi là Đại Niết-bàn.
“Thiện nam tử!
Ví như nơi có thể dung chứa [tất cả] các dòng nước nên gọi là biển lớn. [Cũng vậy,] nơi mà hàng
Thanh văn,
Duyên giác,
Bồ Tát và
chư Phật Như Lai đều
đạt đến thì gọi là Đại Niết-bàn.
Bốn cảnh giới thiền,[98]
Ba pháp Tam-muội,[99] Tám bội xả,[100]
Tám pháp thắng xứ,[101]
Mười pháp nhất thiết xứ,[102] nơi nào có thể dung chứa
vô số các
thiện pháp như
vậy thì gọi là Đại Niết-bàn.
“Thiện nam tử!
Ví như có dòng sông mà con voi tơ khỏe nhất cũng không thể lặn tới đáy, ắt phải gọi là sông lớn. Hàng
Thanh văn,
Duyên giác,
cho đến Bồ Tát đã
đạt đến địa vị Mười trụ nhưng không thấy tánh Phật, chỉ gọi là Niết-bàn, không phải Đại Niết-bàn. Nếu ai có thể thấy
rõ ràng tánh Phật, ắt phải được gọi là Đại Niết-bàn. Như dòng sông lớn chỉ có voi chúa mới lặn được thấu đáy. Voi chúa ấy chính là chư Phật, mới có khả năng thấu suốt Đại Niết-bàn.
“Thiện nam tử! Nếu như voi chúa
dũng kiện[103] cùng với các vị thần bát-kiện-đà,[104] các
đại lực sĩ cùng leo lên một ngọn núi,
trải qua thời gian rất lâu vẫn không tới được đỉnh núi, như vậy mới gọi là núi lớn. Nếu như các voi chúa
dũng kiện, các
đại lực sĩ là
Thanh văn,
Duyên giác và chư
Bồ Tát đều không thể thấy được,
cảnh giới ấy mới được gọi là Đại Niết-bàn.
“Lại nữa,
thiện nam tử! Nơi vị
tiểu vương cư trú gọi là tiểu thành. Nơi vị
Chuyển luân Thánh vương cư trú mới gọi là
đại thành. Nơi an trụ của tám vạn, sáu vạn, bốn vạn, hai vạn, một vạn
Thanh văn,
Duyên giác gọi là Niết-bàn. Nơi an trụ của bậc
Thánh vương là
Vô thượng Pháp vương mới được gọi là Đại Bát Niết-bàn. Do những nghĩa ấy nên gọi là Đại Bát Niết-bàn.
“Thiện nam tử! Như có người nhìn thấy
bốn loại quân binh[105] mà không sanh lòng sợ sệt, nên biết rằng người ấy đáng gọi là bậc
đại nhân. Nếu người nào đối với các
cảnh giới xấu ác,
phiền não,
nghiệp ác không sanh lòng sợ sệt mà có thể ở trong đó để rộng độ
chúng sanh, nên biết rằng người ấy thật
chứng đắc Đại Niết-bàn.
“Nếu ai biết
cúng dường cha mẹ,
cung kính sa-môn, bà-la-môn, biết
tu tập giữ gìn pháp lành, nói ra lời
thành thật, không có sự dối gạt, khinh miệt, có thể nhẫn chịu mọi sự xấu ác, rộng lòng
bố thí cho kẻ
nghèo đói, người ấy đáng gọi là bậc
đại trượng phu.
Bồ Tát cũng vậy, có
lòng từ bi lớn,
thương xót tất cả, lòng
thương yêu chúng sanh như các bậc
cha mẹ, có thể đưa
chúng sanh vượt qua sông
sanh tử, chỉ bày cho tất cả
chúng sanh đạo chân thật
duy nhất. Như vậy gọi là Đại Bát Niết-bàn.
“Thiện nam tử! Đại, đó gọi là không thể nghĩ bàn. Không thể nghĩ bàn, nên là chỗ mà tất cả
chúng sanh không
đủ sức tin. Như thế gọi là Đại Bát Niết-bàn.
“Vì là
cảnh giới chỉ có Phật và
Bồ Tát mới thấy được nên gọi là Đại Niết-bàn. Vì
nhân duyên gì lại gọi là đại? Vì phải có
vô lượng nhân duyên rồi mới
đạt được nên gọi là đại.
“Thiện nam tử! Như người
thế gian, việc gì phải có nhiều
nhân duyên mới
đạt được thì gọi là đại. Niết-bàn cũng vậy, vì phải có nhiều
nhân duyên mới
đạt được nên gọi là đại.
“Vì sao lại gọi là Đại Niết-bàn? Vì có
đại ngã nên gọi là Đại Niết-bàn. Niết-bàn không có ngã, vì được
hoàn toàn tự tại tùy ý nên gọi là
đại ngã. Thế nào gọi là
hoàn toàn tự tại? Vì có
tám đức tự tại, nên gọi là
đại ngã.[106] Những gì là tám [
đức tự tại]?
“Thứ nhất, có thể dùng một thân mà
thị hiện nhiều thân. Số thân lớn hoặc nhỏ nhiều như số
hạt bụi nhỏ, đầy khắp
vô lượng thế giới trong
mười phương.
“Thân
Như Lai thật ra chẳng phải nhiều như số
hạt bụi nhỏ, nhờ được
hoàn toàn tự tại nên [có thể]
hiện ra số thân nhiều như số
hạt bụi nhỏ. Sự
hoàn toàn tự tại tùy ý như vậy gọi là
đại ngã.
“Thứ hai, có thể dùng một thân nhỏ như
hạt bụi mà
thị hiện [lớn lên] choán đầy cõi
thế giới Tam thiên đại thiên.
Thân
Như Lai thật ra không [lớn lên] choán đầy cõi
thế giới Tam thiên đại thiên. Nhưng vì sao vậy? Vì không có sự ngăn ngại, và chính là nhờ được
hoàn toàn tự tại mà [có thể
thị hiện lớn lên] choán đầy khắp cõi
thế giới Tam thiên đại thiên. Sự
hoàn toàn tự tại như vậy gọi là
đại ngã.
“Thứ ba, có thể dùng cái thân rộng lớn choán đầy khắp cõi
thế giới Tam thiên đại thiên này mà nhẹ nhàng bay trên
hư không,
vượt qua các cõi
thế giới của chư Phật nhiều như số cát hai mươi con
sông Hằng, không có
sự chướng ngại nào cả.
“Thân
Như Lai thật ra không có nặng nhẹ, nhưng do được
hoàn toàn tự tại nên có thể
hóa hiện thành nhẹ hay nặng. Sự
hoàn toàn tự tại như vậy gọi là
đại ngã.
“Thứ tư, do sự
tự tại mà được
tự tại. Thế nào là tự tại?
Như Lai đạt đến sự
nhất tâm, trụ yên không
xao động. Tâm ấy có thể
thị hiện hóa ra
vô số hình loại, mỗi hình loại đều khiến cho có
tâm thức. Có khi
Như Lai tạo ra một sự việc mà khiến cho tất cả
chúng sanh đều
thành tựu đầy đủ. Thân
Như Lai thường trụ ở một cõi mà khiến cho tất cả
chúng sanh ở các cõi khác đều nhìn thấy được. Sự
hoàn toàn tự tại như vậy gọi là
đại ngã.
“Thứ năm,
do nơi căn
tự tại. Thế nào gọi là căn tự tại? Mỗi một căn của
Như Lai đều có thể nhìn thấy
hình sắc, nghe
âm thanh, ngửi mùi, nếm vị, xúc chạm, biết pháp. Cả sáu căn của
Như Lai lại cũng không thấy
hình sắc, không nghe
âm thanh, không ngửi mùi, không nếm vị, không xúc chạm, không biết pháp. Vì
hoàn toàn tự tại nên khiến cho các căn đều được
tự tại. Sự
hoàn toàn tự tại như vậy gọi là
đại ngã.
“Thứ sáu, do
hoàn toàn tự tại nên
chứng đắc tất cả các pháp. Trong tâm
Như Lai cũng không hề có
ý tưởng chứng đắc. Vì sao vậy? Vì không có chỗ
chứng đắc. Nếu là có mới gọi là
chứng đắc.
Thật không gì là có, làm sao gọi là chứng đắc? Nếu
Như Lai có
ý tưởng cho là có
chứng đắc, ắt chư Phật
không thật chứng đắc Niết-bàn. Vì không có chỗ
chứng đắc nên mới gọi là
chứng đắc Niết-bàn. Vì
hoàn toàn tự tại nên
chứng đắc tất cả các pháp. Vì
chứng đắc [tất cả] các pháp nên gọi là
đại ngã.
“Thứ bảy,
do nơi sự
giảng thuyết tự tại nên
Như Lai [có thể]
giảng thuyết rộng
ý nghĩa của một
bài kệ mà
trải qua vô lượng kiếp cũng không hết nghĩa. Như là nói về giới, hoặc nói về định, hoặc về
bố thí, hoặc về
trí tuệ.
Như Lai trong lúc ấy chẳng hề
sanh khởi ý niệm rằng có người
thuyết giảng, có người nghe, cũng không
sanh khởi ý tưởng là có
bài kệ.
“Người đời lấy
hình thức bốn câu gọi là một
bài kệ.
Như Lai vì
tùy thuận thế gian nên
thuyết giảng gọi là kệ. Nhưng tánh thật của tất cả các pháp cũng không có sự
giảng thuyết. Vì được
hoàn toàn tự tại nên
Như Lai giảng thuyết. Vì
giảng thuyết nên gọi là
đại ngã.
“Thứ tám,
Như Lai biến hiện khắp cả
mọi nơi, giống như
hư không. Tánh của
hư không là không thể nhìn thấy được.
Như Lai cũng thế, không thể nhìn thấy được. Nhưng nhờ sự
tự tại nên khiến cho tất cả [
chúng sanh] đều nhìn thấy. Sự
hoàn toàn tự tại như vậy nên gọi là
đại ngã.
“Đại ngã như vậy gọi là Đại Niết-bàn. Do những nghĩa ấy nên gọi là Đại Niết-bàn.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Ví như kho tàng
châu báu có nhiều vật quý hiếm, đầy đủ hàng trăm loại nên gọi là kho tàng lớn. Kho tàng rất
sâu xa uyên áo của
chư Phật Như Lai cũng vậy, có nhiều sự vật
lạ kỳ, đầy đủ không
thiếu sót, nên gọi là Đại Niết-bàn.
“Lại nữa,
thiện nam tử! Sự vật không có
giới hạn mới gọi là đại. Niết-bàn không có
giới hạn nên gọi là đại.
“Lại nữa,
thiện nam tử! Vì có niềm
vui sướng lớn lao nên gọi là Đại Niết-bàn. Niết-bàn
thật không có vui. Vì có đủ bốn niềm vui [lớn lao] nên gọi là Đại Niết-bàn.
“Những gì là bốn niềm vui [lớn lao]?
“Thứ nhất là dứt trừ sự vui.
Nếu không dứt trừ sự vui ắt gọi là khổ.[107] Nếu có khổ thì không gọi là niềm vui lớn lao. Nhờ dứt trừ sự vui nên không có khổ. Không
khổ không vui mới gọi là niềm vui lớn lao.
“Tánh của Niết-bàn là không khổ,
không vui. Cho nên Niết-bàn gọi là niềm vui lớn lao. Vì nghĩa ấy nên gọi là Đại Niết-bàn.
“Lại nữa,
thiện nam tử! Vui có hai loại: một là sự vui của
phàm phu, hai là niềm vui của chư Phật. Sự vui của
phàm phu là
vô thường,
bại hoại, nên
không thật là vui. Chư Phật thường vui, không có sự
biến chuyển thay đổi nên gọi là niềm vui lớn lao.
“Lại nữa,
thiện nam tử! Có ba loại
cảm thọ, một là
cảm thọ khổ, hai là
cảm thọ vui, ba là
cảm thọ không
khổ không vui.
“Cảm thọ không
khổ không vui của
phàm phu [thật ra] cũng chính là [
cảm thọ] khổ. Niết-bàn tuy cũng là không
khổ không vui, nhưng gọi là niềm vui lớn lao. Vì là niềm vui lớn lao nên gọi là Đại Niết-bàn.
“Thứ hai là vì
hết sức tĩnh lặng nên gọi là niềm vui lớn lao. Tánh của Niết-bàn là
hết sức tĩnh lặng. Vì sao vậy? Vì lìa xa tất cả các pháp rối rắm
ồn ào. Vì là
hết sức tĩnh lặng nên gọi là Đại Niết-bàn.
“Thứ ba là vì rõ biết tất cả nên gọi là niềm vui lớn lao.
Nếu không phải là rõ biết tất cả thì không gọi là niềm vui lớn lao. Vì
chư Phật Như Lai rõ biết tất cả nên gọi là niềm vui lớn lao. Vì có niềm vui lớn lao nên gọi là Đại Niết-bàn.
“Thứ tư là vì thân không hư hoại nên gọi là niềm vui lớn lao. Nếu thân có sự hư hoại, ắt không gọi là vui. Thân
Như Lai [bền chắc] như
kim cang, không thể hư hoại, chẳng phải thân
phiền não, chẳng phải thân
vô thường, cho nên gọi là niềm vui lớn lao. Vì có niềm vui lớn lao nên gọi là Đại Niết-bàn.
“Thiện nam tử! Những tên gọi ở
thế gian, hoặc có
nhân duyên, hoặc không có
nhân duyên.
“Những
trường hợp có
nhân duyên là như tên ông Xá-lợi-phất. Vì mẹ tên là Xá-lợi, nhân theo mẹ mà đặt tên nên gọi là Xá-lợi-phất; hoặc
như đạo nhân Ma-du-la sanh ở Ma-du-la, nhân theo nơi [sanh] ấy mà đặt tên nên gọi là
đạo nhân Ma-du-la; hoặc như Mục-kiền-liên, Mục-kiền-liên là họ, nhân theo họ mà đặt tên nên gọi là Mục-kiền-liên; hoặc như ta sanh trong
dòng họ Cồ-đàm, nhân theo họ mà đặt tên nên gọi ta là Cồ-đàm; hoặc như bà
đưa tin Tỳ-xá-khư,[108] Tỳ-xá-khư là tên một ngôi sao, nhân theo tên sao mà đặt tên nên gọi là Tỳ-xá-khư; hoặc như người có sáu ngón tay, nhân theo sáu ngón tay ấy mà gọi tên là Lục chỉ; hoặc như những danh
xưng Phật nô là tôi tớ của Phật, Thiên nô là tôi tớ của
chư thiên, đều là nhân nơi Phật, nơi
chư thiên mà có; hoặc như những loài từ chỗ ẩm ướt mà sanh ra, người ta bèn gọi là
thấp sanh;
hoặc nhân theo tiếng kêu của các giống vật mà đặt tên như ca-ca-la,[109] cứu-cứu-la,[110] đát-đát-la...[111] Những tên gọi như vậy đều là do
nhân duyên mà có.
“Những
trường hợp không do
nhân duyên là như các tên gọi
hoa sen, đất, nước, lửa, gió,
hư không... Như tên gọi mạn-đà-bà có
hai nghĩa, một là chỉ cung điện, hai là chỉ việc uống nước. Chỉ riêng cung điện, không nói việc uống nước cũng gọi là mạn-đà-bà. Như tên gọi tát-bà-xa-đa nghĩa là cái dù che con rắn,[112] thật chẳng phải là cái dù che rắn. Đó gọi là không có
nguyên nhân mà gượng ép đặt thành tên. Như tên gọi để-la-bà-di có nghĩa là ăn dầu, nhưng
thật không có việc ăn ăn dầu, gượng ép đặt tên gọi là ăn dầu. Đó gọi là không có
nhân duyên mà gượng ép đặt thành tên gọi.
“Thiện nam tử! Đại Niết-bàn này cũng là như vậy, không có
nhân duyên, chỉ gượng ép đặt thành tên gọi.
“Thiện nam tử!
Ví như hư không, chẳng phải nhân nơi khoảng không nhỏ mà gọi là
đại không. Niết-bàn cũng vậy, chẳng phải nhân nơi tướng nhỏ nhặt mà gọi là Đại Niết-bàn.
“Thiện nam tử!
Ví như sự vật không thể cân lường, không thể nghĩ bàn nên gọi là đại. Niết-bàn cũng vậy, vì không thể cân lường, không thể nghĩ bàn nên được gọi là Đại Niết-bàn. Vì
thanh tịnh thuần khiết nên gọi là Đại Niết-bàn.
“Thiện nam tử! Thế nào là
thanh tịnh thuần khiết?
Thanh tịnh có bốn loại.
“Những gì là bốn?
“Thứ nhất,
hai mươi lăm cảnh giới hiện hữu gọi là không
thanh tịnh, vì có thể dứt trừ
mãi mãi nên được gọi là
thanh tịnh.
Thanh tịnh tức Niết-bàn. Niết-bàn như vậy cũng được gọi là
hiện hữu. Nhưng Niết-bàn ấy thật chẳng phải là
hiện hữu.
Chư Phật Như Lai vì
tùy thuận thế tục nên nói rằng Niết-bàn
hiện hữu.
Ví như người đời, chẳng phải cha gọi là cha, chẳng phải mẹ gọi là mẹ, thật chẳng phải
cha mẹ mà gọi là
cha mẹ. Niết-bàn cũng như thế, vì
tùy thuận thế tục nên nói rằng chư Phật có Đại Niết-bàn.
“Thứ hai là do nghiệp
thanh tịnh. Tất cả
phàm phu, vì nghiệp không
thanh tịnh nên không có Niết-bàn.
Chư Phật Như Lai vì nghiệp
thanh tịnh nên gọi là
thanh tịnh thuần khiết. Vì
thanh tịnh thuần khiết nên gọi là Đại Niết-bàn.
“Thứ ba là do
thân thanh tịnh. Nếu thân
vô thường thì gọi là không
thanh tịnh. Thân
Như Lai thường tồn nên gọi là
thanh tịnh thuần khiết. Vì
thanh tịnh thuần khiết nên gọi là Đại Niết-bàn.
“Thứ tư là do
tâm thanh tịnh. Nếu tâm có
lậu hoặc ắt gọi là không
thanh tịnh.
Tâm Phật không có
lậu hoặc nên gọi là
thanh tịnh thuần khiết. Vì
thanh tịnh thuần khiết nên gọi là Đại Niết-bàn.
“Thiện nam tử! Như vậy gọi là
thiện nam tử,
thiện nữ nhân tu tập và
hành trì theo kinh Đại Bát Niết-bàn này được
thành tựu đầy đủ phần
công đức thứ nhất.”[113]
KINH ĐẠI BÁT NIẾT-BÀN
HẾT QUYỂN HAI MƯƠI BA
KINH ĐẠI BÁT NIẾT-BÀN
QUYỂN HAI MƯƠI BỐN[114]
PHẨM BỒ TÁT QUANG MINH BIẾN CHIẾU CAO QUÝ ĐỨC VƯƠNG
Phẩm thứ mười – Phần bốn
Lại nữa,
thiện nam tử! Thế nào là
Đại Bồ Tát tu tập hành trì kinh Đại Niết-bàn
thành tựu đầy đủ
công đức thứ nhì? [115]
“Thiện nam tử!
Đại Bồ Tát tu tập hành trì kinh Đại Niết-bàn, những chỗ trước đây không
chứng đắc thì nay
chứng đắc, trước đây không nhìn thấy thì nay được thấy, trước đây không nghe thì nay được nghe, trước đây không đến thì nay
đạt đến, trước đây không biết thì nay được biết.
“Sao gọi là chỗ trước đây không
chứng đắc thì nay chứng đắc? Như nói về
thần thông, trước đây không
chứng đắc thì nay
chứng đắc.
“Thần thông có hai loại, một là nội thông, hai là ngoại thông. Ngoại thông là những
thần thông mà
ngoại đạo cũng có. Nội thông là những
thần thông chỉ có trong
đạo Phật, lại phân thành hai loại. Một là
thần thông của hàng
Nhị thừa, hai là
thần thông của hàng
Bồ Tát.
“Bồ Tát
tu tập hành trì kinh Đại Niết-bàn
chứng đắc những
thần thông mà hàng
Thanh văn và
Phật Bích-chi đều không có được.
“Vì sao nói là
Thanh văn và
Phật Bích-chi không cùng có được? Hàng
Nhị thừa khi hiện
thần thông biến hóa, mỗi một tâm chỉ
hóa hiện được một phép, không
hóa hiện được nhiều.
Bồ Tát không phải vậy, chỉ trong một tâm có thể
hóa hiện đầy đủ các thân trong Năm đường.[116] Vì sao vậy? Vì có được
thế lực của kinh Đại Niết-bàn này. Đó gọi là chỗ trước đây không
chứng đắc thì nay
chứng đắc.
“Lại nữa, sao gọi là chỗ trước đây không
chứng đắc thì nay chứng đắc? Như nói về thân được
tự tại, tâm được
tự tại. Vì sao vậy?
Thân tâm của tất cả
phàm phu đều không được
tự tại: hoặc tâm
tùy theo thân, hoặc thân
tùy theo tâm.
“Thế nào là tâm
tùy theo thân?
Ví như người say rượu, trong thân có rượu. Khi ấy thân chuyển động thì tâm cũng theo đó mà động. Lại như thân mỏi mệt thì tâm cũng theo đó mà mỏi mệt. Như thế gọi là tâm
tùy theo thân.
“Lại như đứa trẻ thơ,
thân thể bé nhỏ, tâm cũng theo đó mà nhỏ. Người
trưởng thành rồi thân lớn, tâm cũng theo đó mà lớn. Lại như có người
thân thể thô nhám, tâm thường nghĩ nhớ,
ao ước có được loại thuốc mỡ để thoa trên thân cho được trơn láng. Như thế gọi là tâm
tùy theo thân.
“Thế nào là thân
tùy theo tâm? Như nói về những việc đến, đi, ngồi, nằm,
tu hành bố thí,
trì giới,
nhẫn nhục,
tinh tấn... Người
sầu não thì
thân thể gầy yếu tiều tụy, người
vui vẻ thì
thân thể mập mạp tươi nhuận; người hốt hoảng thì
thân thể run rẩy, người
chú tâm nghe
thuyết pháp thì
thân thể vui nhẹ,
thoải mái; người
đau thương khóc lóc thì nước mắt tuôn trào. Như thế gọi là thân
tùy theo tâm.
“Bồ Tát không phải vậy, đối với thân và tâm đều được
tự tại. Như thế gọi là chỗ trước đây không
chứng đắc thì nay
chứng đắc.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Đại Bồ Tát hóa hiện thân tướng như
hạt bụi nhỏ, dùng những thân như bụi nhỏ ấy mà có
thể hiện đến khắp
vô lượng vô biên cõi
thế giới Phật nhiều như cát
sông Hằng, không có gì
chướng ngại, nhưng trong tâm vẫn thường
an định không hề
xao động. Như thế gọi là
tâm không tùy theo thân. Như thế gọi là chỗ trước đây không
chứng đắc thì nay
chứng đắc.
“Thế nào là chỗ trước đây không đến mà nay đạt đến? Chỗ mà tất cả
Thanh văn và
Phật Bích-chi đều không
thể đạt đến,
Bồ Tát có
thể đạt đến. Vì thế gọi là chỗ trước đây không đến mà nay
đạt đến.
“Tất cả hàng
Thanh văn và
Phật Bích-chi tuy dùng
thần thông cũng không thể biến thân như
hạt bụi cực nhỏ mà hiện đến khắp
vô lượng thế giới Phật nhiều như cát
sông Hằng. Hàng
Thanh văn và
Duyên giác, khi thân động thì tâm cũng theo đó mà động.
Bồ Tát không phải thế, tuy
tâm không hề
xao động nhưng thân biến hiện đến khắp
mọi nơi. Như thế gọi là
Bồ Tát tâm không tùy theo thân.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Bồ Tát hóa thân lớn như cõi
thế giới Tam thiên đại thiên, rồi dùng thân to lớn ấy
đi vào trong thân nhỏ bé như
hạt bụi, nhưng lúc bấy giờ
tâm không theo đó mà nhỏ lại. Hàng
Thanh văn,
Duyên giác tuy có thể
hóa thân lớn như cõi
thế giới Tam thiên đại thiên, nhưng không thể dùng thân to lớn như vậy
đi vào trong thân nhỏ bé như
hạt bụi. Việc như thế còn không thể làm được, huống chi lại có thể giữ cho
tâm không tùy động theo thân? Như thế gọi là
Bồ Tát tâm không tùy theo thân.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Đại Bồ Tát dùng một
âm thanh có thể khiến cho
chúng sanh trong khắp cõi
thế giới Tam thiên đại thiên đều
nghe được, nhưng trong
tâm không hề nghĩ rằng mình khiến cho
âm thanh ấy vang đến các
thế giới, làm cho các
chúng sanh chưa từng nghe mà nay được nghe.
Bồ Tát từ trước cũng không hề nói rằng: ‘Ta làm cho
chúng sanh từ trước chưa nghe nay được nghe.’
“Nếu người nói rằng: ‘Nhờ sự
thuyết pháp của ta nên
chúng sanh chưa nghe nay được nghe.’ Nên biết rằng người ấy không thể
chứng đắc quả
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Vì sao vậy? Vì nếu nghĩ rằng: ‘Ta vì những
chúng sanh chưa được nghe mà thuyết pháp’, thì tâm như vậy chính là tâm
sanh tử. Tâm ấy đã dứt mất nơi tất cả các vị
Bồ Tát. Vì nghĩa ấy nên
thân tâm của
Đại Bồ Tát chẳng
tùy theo nhau.
“Thiện nam tử!
Thân tâm của tất cả
phàm phu đều
tùy theo nhau.
Bồ Tát không phải vậy. Vì
hóa độ chúng sanh nên tuy
hiện thân nhỏ bé nhưng
tâm không vì thế mà nhỏ bé. Vì sao vậy? Vì
tâm tánh của chư
Bồ Tát thường rộng lớn. Tuy
hóa hiện thân to lớn nhưng tâm cũng không theo đó mà lớn.
“Thế nào là thân to lớn? Là thân lớn như cõi
thế giới Tam thiên đại thiên. Thế nào là tâm nhỏ? Là
việc làm như đứa trẻ con. Do những nghĩa trên nên
Bồ Tát tâm chẳng
tùy theo thân.
“Đại
Bồ Tát trải qua vô số kiếp đã
xa lìa việc uống rượu, nhưng tâm vẫn
xao động;
tâm không đau thương khổ não nhưng thân vẫn
rơi lệ;
thật không hoảng hốt nhưng thân vẫn run rẩy. Vì những nghĩa ấy, nên biết rằng
thân tâm của
Bồ Tát tự tại, không
tùy theo nhau.
Đại Bồ Tát chỉ
hóa hiện một thân nhưng mỗi
chúng sanh đều nhìn thấy khác nhau.
“Lại nữa,
thiện nam tử! Thế nào là
Đại Bồ Tát tu tập hành trì kinh Đại Niết-bàn, chỗ trước đây không nghe thì nay được nghe?
Đại Bồ Tát trước hết dùng tướng trạng của các
âm thanh như tiếng voi, tiếng ngựa, tiếng xe, tiếng người, tiếng tù và, tiếng trống, tiếng
các loại tiêu, sáo... tiếng ca hát, tiếng cười đùa... mà
tu tập. Nhờ
tu tập nên có thể
nghe được âm thanh ở các
cảnh giới địa ngục trong
vô lượng thế giới Tam thiên Đại thiên. Lại
tiếp tục tu tập nên được
nhĩ căn khác lạ, khác với
thiên nhĩ của hàng
Thanh văn,
Duyên giác. Vì sao vậy? Chỗ được
nhĩ căn thanh tịnh của hàng
Nhị thừa nếu nương theo
bốn đại thanh tịnh mầu nhiệm của
Sơ thiền thì chỉ
nghe được âm thanh trong
cảnh giới Sơ thiền mà thôi, không
nghe được âm thanh trong
cảnh giới Nhị thiền.
Cho đến Tứ thiền cũng là như vậy. Tuy có thể
nhất thời nghe được âm thanh trong cõi
thế giới Tam thiên đại thiên, nhưng không thể
nghe được âm thanh trong
vô lượng vô biên thế giới nhiều như
số cát sông Hằng. Vì nghĩa ấy nên chỗ được
nhĩ căn của
Bồ Tát khác với chỗ được
nhĩ căn của hàng
Thanh văn,
Duyên giác. Vì nghĩa ấy nên chỗ trước đây không nghe thì nay [
tu tập kinh Đại Bát Niết-bàn này rồi sẽ] được nghe.
“Tuy nghe
âm thanh nhưng trong
tâm không hề có tướng nghe
âm thanh, không khởi các tướng
hiện hữu, thường, lạc, ngã, tịnh, tướng
tự chủ, tướng nương theo, tướng tạo tác, tướng
nguyên nhân, tướng
nhất định, tướng kết quả. Vì nghĩa ấy nên những chỗ trước đây các vị
Bồ Tát không nghe thì nay được nghe.”
Bấy giờ,
Đại Bồ Tát Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương
bạch Phật: “Nếu
Như Lai dạy rằng không khởi các tướng
nhất định, tướng kết quả thì nghĩa ấy không đúng. Vì sao vậy? Trước đây
Như Lai có dạy: ‘Nếu ai
nghe được một câu, một chữ trong kinh Đại Niết-bàn này thì
nhất định sẽ được
thành tựu quả
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Vì sao nay
Như Lai lại nói rằng không
nhất định, không kết quả? Nếu [
quả thật sẽ] được
thành tựu A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề thì đó tức là tướng
nhất định, là tướng kết quả. Vì sao nói rằng không [có các tướng]
nhất định, tướng kết quả?
Do nơi việc nghe
tiếng xấu ác nên sanh lòng xấu ác. Vì sanh lòng xấu ác, ắt phải rơi vào
ba đường ác. Nếu rơi vào
ba đường ác thì đó chính là [tướng]
nhất định, là [tướng] kết quả. Vì sao lại nói rằng không [có tướng]
nhất định, không [có tướng] kết quả?”
Lúc ấy,
đức Như Lai ngợi khen [
Bồ Tát Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương]: “Lành thay,
lành thay! Thiện nam tử, ông khéo có thể thưa hỏi được lời như thế!
Giả sử chư Phật dạy rằng các
âm thanh có tướng
nhất định, có tướng kết quả, ắt đó không phải là tướng của chư
Phật Thế Tôn, chính là tướng của
Ma vương, tướng
sanh tử, tướng
xa cách Niết-bàn.
“Vì sao vậy? Chỗ
diễn thuyết của tất cả chư Phật đều không có tướng
nhất định, tướng kết quả.
“Thiện nam tử!
Ví như trong lưỡi đao sáng
phản chiếu khuôn mặt người, dựng đứng lưỡi đao thì thấy mặt dài, đặt nằm ngang thì thấy mặt rộng. Nếu có tướng
nhất định, vì sao có việc dựng đứng lưỡi đao thì thấy mặt dài, đặt nằm ngang thì thấy mặt rộng? Vì nghĩa ấy, chỗ
diễn thuyết của chư
Phật Thế Tôn đều không có tướng
nhất định, không có tướng kết quả.
“Thiện nam tử! Niết-bàn thật chẳng phải là kết quả của
âm thanh. Nếu như Niết-bàn là kết quả của
âm thanh thì Niết-bàn không phải
pháp thường tồn.
“Thiện nam tử!
Ví như ở
thế gian, do có
nguyên nhân mà sanh ra sự vật. Có nhân ắt có quả, không nhân thì
không quả. Vì nhân là
vô thường nên quả cũng là
vô thường. Vì sao vậy? Vì
nhân tạo thành quả, quả cũng tạo
thành nhân. Vì nghĩa ấy nên tất cả các pháp đều không có tướng
nhất định. Nếu như Niết-bàn do nhân mà sanh, thì nhân là
vô thường nên quả cũng phải
vô thường.
“Nhưng Niết-bàn chẳng phải do nhân sanh, nên
bản thể của Niết-bàn không phải là kết quả, vì thế nên thường tồn.
“Thiện nam tử! Vì nghĩa ấy nên
bản thể của Niết-bàn là không
nhất định, không kết quả.
“Thiện nam tử! Nhưng Niết-bàn đó cũng có thể nói là
nhất định, cũng có thể nói là kết quả. Thế nào là nhất định? Niết-bàn của tất cả chư Phật đều thường, lạc, ngã, tịnh, cho nên là
nhất định; đều không có sanh, già, hư hoại, cho nên là
nhất định. Những kẻ nhất-xiển-đề, phạm bốn
trọng cấm,
phỉ báng kinh Phương đẳng, tạo
năm tội nghịch, [nếu]
buông bỏ tâm ấy thì
nhất định sẽ
chứng đắc Niết-bàn, cho nên là
nhất định.
“Thiện nam tử! Như ông vừa nói, nếu người nào được nghe
Phật thuyết giảng một câu, một chữ trong kinh Đại Niết-bàn này, sẽ được
thành tựu quả
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Đối với nghĩa ấy ông chưa thật
hiểu rõ. Hãy lắng nghe cho kỹ, ta sẽ vì ông mà
phân biệt giảng nói rõ hơn.
“Thiện nam tử! Như có
thiện nam tử,
thiện nữ nhân nào
nghe được một chữ, một câu trong kinh Đại Niết-bàn này mà không khởi
thành tướng chữ nghĩa văn tự, không khởi
thành tướng [được] nghe, không khởi
thành tướng Phật, không khởi
thành tướng thuyết giảng,
ý nghĩa như vậy gọi là tướng
vô tướng. Do tướng
vô tướng nên được
thành tựu quả
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.
“Thiện nam tử! Như ông có nói, vì nghe
âm thanh xấu ác nên rơi vào
ba đường ác. Nghĩa này không đúng. Vì sao vậy? Không phải do
âm thanh xấu ác mà rơi vào
ba đường ác. Nên biết rằng kết quả ấy là do tâm xấu ác.
Vì sao vậy? Có nhiều người tuy nghe
âm thanh xấu ác nhưng trong tâm chẳng
sanh khởi điều xấu ác. Cho nên phải biết rằng
âm thanh xấu ác không phải
nguyên nhân sanh vào
ba đường ác. Đó là
chúng sanh do
phiền não trói buộc, tâm xấu ác phát triển thêm nhiều nên phải sanh vào
ba đường ác, thật chẳng phải do
âm thanh xấu ác.
“Nếu như
âm thanh có tướng
nhất định thì tất cả những người nghe lẽ ra đều phải sanh tâm xấu ác. Nhưng có người sanh tâm xấu ác, có người lại không sanh tâm xấu ác, vậy nên phải biết rằng
âm thanh không có tướng
nhất định. Vì không có tướng
nhất định nên cũng nhân nơi đó mà có người không sanh tâm xấu ác.”
[
Lúc ấy,
Bồ Tát Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương lại thưa hỏi:] “Bạch Thế Tôn! Nếu
âm thanh là không
nhất định, vì sao
Bồ Tát trước đây không nghe mà nay được nghe?”
[Phật dạy:] “Thiện nam tử!
Âm thanh không có tướng
nhất định, chỗ trước đây không nghe, nay khiến cho các
Bồ Tát được nghe. Vì nghĩa ấy nên ta dạy rằng: ‘Chỗ trước đây không nghe mà nay được nghe.’
“Thiện nam tử! Sao gọi là chỗ trước đây không thấy mà nay được thấy?
“Thiện nam tử!
Đại Bồ Tát tu tập kinh điển vi diệu Đại Niết-bàn, trước hết dùng các tướng của ánh sáng như là
mặt trời,
mặt trăng,
tinh tú, đèn đuốc, ánh sáng của
các loại minh châu,
dược thảo... mà
tu tập. Nhờ
tu tập nên
đạt được nhãn căn khác lạ, khác với chỗ
đạt được của hàng
Thanh văn,
Duyên giác.
“Thế nào là khác? Chỗ
đạt được thiên nhãn thanh tịnh của hàng
Nhị thừa nếu
dựa vào nhãn căn bốn đại ở
Dục giới thì không thấy được
cảnh giới Sơ thiền. Nếu
dựa vào Sơ thiền thì không thấy được những
cảnh giới cao hơn. Thậm chí không thể tự thấy được con mắt của mình. Nếu muốn nhìn thấy nhiều thì tối đa cũng chỉ được hết cõi
thế giới Tam thiên đại thiên.
“Đại
Bồ Tát không tu
thiên nhãn, nhìn thấy những
thân tướng hình sắc tốt đẹp đều là tướng xương trắng. Tuy nhìn thấy tướng
hình sắc của các
thế giới phương khác nhiều như cát
sông Hằng, nhưng không khởi tướng
hình sắc, không khởi tướng thường tồn, tướng
hiện hữu, tướng sự vật, tướng
danh tự... [
Bồ Tát] khởi tướng
nhân duyên,[117] không khởi tướng thấy, không cho rằng con mắt này là tướng
thanh tịnh vi diệu. Chỉ thấy có tướng
nhân duyên và chẳng phải
nhân duyên mà thôi.
“Thế nào là nhân duyên?
Hình sắc là
nhân duyên của con mắt. Nếu như
hình sắc không phải
nhân duyên thì tất cả
phàm phu lẽ ra không
sanh khởi tướng thấy sắc. Vì nghĩa ấy nên gọi
hình sắc là
nhân duyên.
“Nói chẳng phải
nhân duyên, đó là
Đại Bồ Tát tuy cũng nhìn thấy nhưng không
sanh khởi tướng sắc, nên chẳng phải
nhân duyên. Vì nghĩa ấy nên
thiên nhãn thanh tịnh mà
Bồ Tát đạt được khác với chỗ
đạt được của hàng
Thanh văn,
Duyên giác. Do nghĩa ấy mà trong cùng một lúc
Bồ Tát có thể nhìn thấy khắp các
thế giới của chư
Phật hiện tại trong
mười phương. Đó gọi là
Bồ Tát trước kia không thấy mà nay được thấy.
“Cũng vì nghĩa ấy,
Bồ Tát có thể nhìn thấy đến những
hạt bụi nhỏ mà
Thanh văn,
Duyên giác không thể nhìn thấy. Cũng vì nghĩa ấy, tuy tự thấy được mắt mình nhưng không hề khởi tướng thấy, chỉ thấy tướng
vô thường, thấy rõ thân
phàm phu chất chứa ba mươi sáu thứ,[118] đầy dẫy những sự
bất tịnh, cũng [
rõ ràng] như nhìn trái a-ma-lặc đặt trong lòng bàn tay. Vì nghĩa ấy nên trước đây không thấy mà nay được thấy.
“Nếu
Bồ Tát nhìn thấy tướng
hình sắc của mỗi
chúng sanh liền biết ngay được
căn cơ của người ấy là
Đại thừa hay
Tiểu thừa.
Bồ Tát chạm vào
y phục của
chúng sanh cũng biết được những
căn tánh khác biệt, hoặc thiện, hoặc ác. Vì nghĩa ấy nên có chỗ trước đây không biết mà nay được biết. Một khi nhìn thấy thì [những điều] trước kia không biết nay liền được biết. Do biết như vậy nên trước kia không thấy mà nay được thấy.
“Lại nữa,
thiện nam tử! Sao gọi là chỗ trước đây
Bồ Tát không biết mà nay được biết?
Đại Bồ Tát tuy rõ biết các tâm tham, sân, si của
phàm phu nhưng không hề khởi các tướng tâm cùng
tâm sở,[119] không khởi tướng
chúng sanh cùng tướng sự vật;
tu tập theo
Đệ nhất nghĩa[120] nên thấy được tất cả rốt cùng đều là
tướng không.
“Vì sao vậy? Vì tất cả
Bồ Tát thường khéo
tu tập tánh không,
tướng không. Nhờ
tu tập pháp không nên chỗ trước đây không biết mà nay được biết.
“Thế nào là biết? Đó là biết rằng
không thật có ta và vật của ta; biết rằng tất cả
chúng sanh đều có tánh Phật. Vì có tánh Phật nên những kẻ nhất-xiển-đề nếu
buông bỏ tâm [nhất-xiển-đề] thì
nhất định sẽ được
thành tựu quả
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Những điều như vậy đều là chỗ mà hàng
Thanh văn,
Duyên giác không thể biết được,
Bồ Tát có thể biết. Vì nghĩa ấy nên chỗ trước đây không biết mà nay được biết.
“Lại nữa,
thiện nam tử! Thế nào là chỗ trước đây không biết mà nay được biết?
Đại Bồ Tát tu tập kinh điển vi diệu Đại Niết-bàn nhớ lại được đời
quá khứ của tất cả
chúng sanh, như sanh ra trong
dòng họ nào, hoặc
cha mẹ, anh em,
vợ con,
quyến thuộc, bạn bè,
kẻ thù oán... Chỉ trong khoảnh khắc của một
ý niệm liền
đạt được trí tuệ hết sức khác lạ, khác với
trí tuệ của hàng
Thanh văn,
Duyên giác.
“Thế nào là khác lạ? Chỗ được
trí tuệ của hàng
Thanh văn,
Duyên giác là nhớ biết được đời
quá khứ của
chúng sanh như
dòng họ,
cha mẹ...
cho đến kẻ thù oán, nhưng có khởi các tướng
dòng họ...
cho đến tướng
kẻ thù oán.
Bồ Tát không phải vậy, tuy nhớ biết
dòng họ,
cha mẹ...
cho đến kẻ thù oán
trong đời quá khứ nhưng chẳng hề khởi những tướng
dòng họ, tướng
cha mẹ,
cho đến tướng kẻ oán thù, [chỉ] thường khởi tướng pháp, tướng rỗng không
vắng lặng. Như thế gọi là chỗ trước đây
Bồ Tát không biết mà nay được biết.
“Lại nữa,
thiện nam tử! Thế nào là chỗ trước đây không biết mà nay được biết?
Đại Bồ Tát tu tập kinh điển vi diệu Đại Niết-bàn
chứng đắc Tha tâm trí khác với chỗ
chứng đắc của hàng
Thanh văn,
Duyên giác. Thế nào là khác? Hàng
Thanh văn,
Duyên giác dùng trí
trong một niệm tưởng biết được tâm ý của
con người thì không thể biết được tâm ý ở các
cảnh giới địa ngục,
súc sanh,
ngạ quỷ,
chư thiên.
Bồ Tát không phải vậy,
trong một niệm tưởng có thể biết được khắp tâm ý của
chúng sanh trong
sáu đường.[121] Đó gọi là chỗ trước đây
Bồ Tát không biết mà nay được biết.
“Lại nữa,
thiện nam tử! Lại còn chỗ biết khác lạ nữa:
Đại Bồ Tát chỉ
trong một niệm tưởng biết được tâm của Tu-đà-hoàn,
từ tâm khởi đầu
tuần tự cho đến đủ
mười sáu tâm.[122] Vì nghĩa ấy nên chỗ trước đây không biết mà nay được biết.
“Như vậy là
Bồ Tát tu tập Đại Niết-bàn
thành tựu đầy đủ
công đức thứ nhì.
“Lại nữa,
thiện nam tử! Thế nào là
Đại Bồ Tát tu tập Đại Niết-bàn
thành tựu đầy đủ
công đức thứ ba?
“Thiện nam tử!
Đại Bồ Tát tu tập Đại Niết-bàn
buông xả tâm từ và
đạt được tâm từ. Khi
đạt được tâm từ, không phải do
nhân duyên.
“Thế nào là
buông xả tâm từ và
đạt được tâm từ?
Thiện nam tử!
Tâm từ của
phàm phu thuộc về
Thế đế,[123]
Đại Bồ Tát buông xả tâm từ đó,
đạt được tâm từ thuộc về
Đệ nhất nghĩa.[124]
Tâm từ Đệ nhất nghĩa đó không phải do
nhân duyên mà có được.
“Lại nữa, thế nào là
buông xả tâm từ và
đạt được tâm từ?
Tâm từ nếu có thể buông xả, gọi là
tâm từ của
phàm phu.
Tâm từ nếu có thể đạt được, tức là
tâm từ của
Bồ Tát không do
nhân duyên mà có.
Buông xả tâm từ của kẻ nhất-xiển-đề,
tâm từ của kẻ phạm bốn
trọng cấm,
tâm từ của kẻ
phỉ báng kinh Phương đẳng,
tâm từ của kẻ tạo
năm tội nghịch;
đạt được tâm từ thương xót,
tâm từ của
Như Lai,
tâm từ của
đức Thế Tôn,
tâm từ không do
nhân duyên mà có.
“Sao lại gọi là
buông xả tâm từ và
đạt được tâm từ?
Buông xả tâm từ của kẻ tật khuyết
nam căn,[125]
tâm từ của những kẻ không có giới tính hoặc lưỡng tính,[126]
tâm từ của
nữ nhân,
tâm từ của những hạng người đồ tể, thợ săn, chăn nuôi gà, heo... Cũng
buông xả tâm từ của hàng
Thanh văn,
Duyên giác;
đạt được tâm từ của hàng
Bồ Tát không do
nhân duyên, không thấy có
tâm từ của mình, không thấy có
tâm từ của người khác; không thấy có việc
trì giới, không thấy có sự
phá giới. Tuy tự thấy có lòng
thương xót nhưng không thấy có
chúng sanh. Tuy biết có những
cảm thọ khổ nhưng không thấy có người nhận chịu [khổ]. Vì sao vậy? Vì
tu tập nghĩa lý chân thật đệ nhất. Đó gọi là
Bồ Tát tu tập Đại Niết-bàn
thành tựu đầy đủ
công đức thứ ba.
“Lại nữa,
thiện nam tử! Thế nào là
Đại Bồ Tát tu tập Đại Niết-bàn
thành tựu đầy đủ
công đức thứ tư?
“Thiện nam tử!
Đại Bồ Tát tu tập Đại Niết-bàn
thành tựu đầy đủ
công đức thứ tư có mười điều. Những gì là mười?
“Thứ nhất, cội gốc sâu vững khó có thể bị lay chuyển. Thứ hai, đối với tự thân
sanh khởi tư tưởng quyết định. Thứ ba,
không quán xét
phân biệt phước điền[127] với chẳng phải
phước điền. Thứ tư là
tu tập thanh tịnh cõi Phật. Thứ năm là diệt mất
hữu dư.[128] Thứ sáu là dứt trừ
nghiệp duyên. Thứ bảy là
tu tập thân thanh tịnh. Thứ tám là rõ biết các duyên. Thứ chín là lìa khỏi mọi sự
thù oán đối nghịch. Thứ mười là dứt trừ cả hai bên.
“Thế nào là cội gốc sâu vững khó có thể bị lay chuyển? Cội gốc ở đây là nói đức
tánh không phóng dật.[129] Không
phóng dật là cội gốc của điều gì? Đó là nói cội gốc của quả
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.
“Thiện nam tử! Cội gốc các điều lành của tất cả chư Phật đều là không
phóng dật. Nhờ không
phóng dật mà các căn lành khác
dần dần tăng trưởng. Vì có thể làm
tăng trưởng các căn lành, cho nên đức không
phóng dật là cao trổi hơn hết trong mọi điều lành.
“Thiện nam tử! Như
dấu chân voi là lớn nhất trong các
dấu chân.
Pháp không phóng dật cũng vậy, là cao trổi hơn hết trong mọi pháp lành.
“Thiện nam tử! Như ánh sáng
mặt trời là hơn hết trong các thứ ánh sáng.
Pháp không phóng dật cũng vậy, là cao trổi hơn hết trong mọi pháp lành.
“Thiện nam tử! Như vị
Chuyển luân Thánh vương là cao trổi hơn hết trong các vị vua.
Pháp không phóng dật cũng vậy, là cao trổi hơn hết trong mọi pháp lành.
“Thiện nam tử! Như
bốn con sông lớn[130] là hơn hết trong tất cả các dòng sông.
Pháp không phóng dật cũng vậy, là cao trổi hơn hết trong mọi pháp lành.
“Thiện nam tử! Như núi chúa Tu-di là cao nhất trong các núi.
Pháp không phóng dật cũng vậy, là cao trổi hơn hết trong mọi pháp lành.
“Thiện nam tử! Như
hoa sen xanh là hơn hết trong các loài hoa sống
dưới nước.
Pháp không phóng dật cũng vậy, là cao trổi hơn hết trong mọi pháp lành.
“Thiện nam tử! Như hoa bà-lợi-sư[131] là cao trổi hơn hết trong các loài hoa sống trên đất.
Pháp không phóng dật cũng vậy, là cao trổi hơn hết trong mọi pháp lành.
“Thiện nam tử! Như
sư tử là cao trổi hơn hết trong loài thú.
Pháp không phóng dật cũng vậy, là cao trổi hơn hết trong mọi pháp lành.
“Thiện nam tử! Như
chim kim sí[132] là hơn hết trong loài chim.
Pháp không phóng dật cũng vậy, là cao trổi hơn hết trong mọi pháp lành.
“Thiện nam tử! Như
thân hình vị La-hầu, vua của loài a-tu-la là to lớn nhất trong các
thân hình to lớn.
Pháp không phóng dật cũng vậy, là cao trổi hơn hết trong mọi pháp lành.
“Thiện nam tử! Như
đức Như Lai là cao trổi hơn hết trong tất cả
chúng sanh, dù là loài hai chân, bốn chân, nhiều chân hay không có chân.
Pháp không phóng dật cũng vậy, là cao trổi hơn hết trong mọi pháp lành.
“Thiện nam tử! Như
tăng chúng của Phật là cao trổi hơn hết trong các
chúng hội.
Pháp không phóng dật cũng vậy, là cao trổi hơn hết trong mọi pháp lành.
“Thiện nam tử!
Như pháp Đại Niết-bàn là cao trổi hơn hết trong pháp Phật.
Pháp không phóng dật cũng vậy, là cao trổi hơn hết trong mọi pháp lành.
“Thiện nam tử! Vì nghĩa ấy nên cội gốc không
phóng dật là sâu vững,
chắc chắn, rất khó nhổ bật.
“Thế nào là nhờ không
phóng dật mà được tăng trưởng? Đó là nói về các căn lành như
đức tin,
trì giới,
bố thí,
trí tuệ,
nhẫn nhục, nghe biết,
tinh tấn, nhớ nghĩ,
định tâm,
thiện tri thức. Các căn lành này nhờ không
phóng dật mà được
tăng trưởng. Nhờ
tăng trưởng nên sâu vững,
chắc chắn, khó bị lay chuyển.
“Vì những nghĩa ấy nên gọi là
Đại Bồ Tát tu tập Đại Niết-bàn được cội gốc sâu vững rất khó lay chuyển.
“Thế nào là đối với tự thân
sanh khởi tư tưởng quyết định? Đối với
thân thể sanh khởi tâm
quyết định rằng: ‘Thân này của ta hôm nay,
trong đời vị lai chắc chắn sẽ là công cụ để
đạt đến A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.’ Đối với tâm cũng
sanh khởi tâm
quyết định rằng: ‘[Ta quyết] không
khởi tâm nhỏ hẹp, không
khởi tâm biến đổi, không
khởi tâm Thanh văn,
tâm Phật Bích-chi, không
khởi tâm ma cùng tâm tự vui thú, tâm
ưa thích sanh tử; [ta quyết] thường vì
chúng sanh cầu được
tâm từ bi.’ Đó gọi là
Bồ Tát đối với tự thân
sanh khởi tâm
quyết định rằng: ‘Trong đời
vị lai nguyện sẽ là món khí cụ để
đạt đến A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.’ Do những nghĩa ấy nên
Đại Bồ Tát tu tập Đại Niết-bàn đối với tự thân
sanh khởi tư tưởng quyết định.
“Thế nào là
Bồ Tát không quán xét
phân biệt phước điền với chẳng phải phước điền? Thế nào là phước điền? Từ những người
ngoại đạo giữ giới[133] lên đến chư Phật, đều gọi là
phước điền. Nếu khởi lên
ý nghĩ rằng: ‘Những người như thế này mới là
phước điền chân thật’, nên biết rằng
tâm tưởng như vậy là nhỏ hẹp.
“Đại
Bồ Tát quán xét hết thảy
vô lượng chúng sanh không đâu không là
phước điền. Vì sao vậy? Vì khéo
tu tập niệm tưởng khác biệt.[134] Người khéo
tu tập niệm tưởng khác biệt quán xét
chúng sanh không thấy có việc
giữ giới cùng
phá giới, thường quán xét chỗ
giảng thuyết của chư
Phật Thế Tôn: ‘Việc
bố thí tuy phân làm bốn
trường hợp nhưng tất cả đều được
quả báo thanh tịnh.’
Bốn
trường hợp bố thí đó là gì? Thứ nhất là người cho
thanh tịnh, người nhận không
thanh tịnh. Thứ hai là người
cho không thanh tịnh, người nhận
thanh tịnh. Thứ ba là người cho và người nhận đều
thanh tịnh. Thứ tư là người cho và người nhận đều không
thanh tịnh.
“Sao gọi là người cho
thanh tịnh, người nhận không thanh tịnh? [Đó là
trường hợp] người
bố thí có đủ
giới hạnh, nghe nhiều,
trí tuệ, rõ biết là có việc
bố thí và
quả báo của việc
bố thí; nhưng người thọ nhận lại
phá giới,
hoàn toàn đắm vào
tà kiến, cho rằng không có việc
bố thí và
quả báo của việc
bố thí. Như thế gọi là người cho
thanh tịnh, người nhận không
thanh tịnh.
“Sao gọi là người
cho không thanh tịnh, người nhận thanh tịnh? [Đó là
trường hợp] người
bố thí phá giới,
hoàn toàn đắm vào
tà kiến, cho rằng không có việc
bố thí và
quả báo của việc
bố thí; nhưng người nhận thì
giữ giới, nghe nhiều,
trí tuệ, rõ biết là có việc
bố thí và
quả báo của việc
bố thí. Như thế gọi là người
cho không thanh tịnh, người nhận
thanh tịnh.
“Sao gọi là người cho và người nhận đều thanh tịnh? [Đó là
trường hợp] người
bố thí và người nhận
bố thí đều có
giữ giới, nghe nhiều,
trí tuệ, đều rõ biết là có việc
bố thí và
quả báo của việc
bố thí. Như thế gọi là người cho và người nhận đều
thanh tịnh.
“Sao gọi là người cho và người nhận đều không thanh tịnh? [Đó là
trường hợp] người
bố thí và người nhận
bố thí đều
phá giới,
tà kiến, cho rằng không có việc
bố thí và
quả báo của việc
bố thí. Như thế gọi là người cho và người nhận đều không
thanh tịnh.”
[
Bồ Tát Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương liền thưa hỏi: “Bạch Thế Tôn!] Nếu là như vậy, vì sao lại nói rằng được
quả báo thanh tịnh?”
[Phật dạy:] “Vì [
quán chiếu thật tánh] không [thấy] có việc
bố thí, không [thấy] có
quả báo, nên gọi là
thanh tịnh.
“Thiện nam tử! Nếu có người [
quán chiếu thật tánh] không thấy có việc
bố thí cùng với
quả báo của việc
bố thí, nên biết rằng người ấy không phải là
phá giới, không phải
hoàn toàn đắm vào
tà kiến. Nếu
y theo pháp
Thanh văn mà nói rằng ‘không thấy có việc
bố thí và
quả báo của việc bố thí’ thì gọi là
phá giới,
tà kiến; [nhưng] nếu
y theo kinh Đại Niết-bàn này mà không thấy có việc
bố thí và
quả báo của việc
bố thí thì gọi là
giữ giới, là
chánh kiến.
“Đại
Bồ Tát có niệm tưởng khác biệt, do sự
tu tập nên không thấy
chúng sanh có
trì giới,
phá giới; không có kẻ
bố thí, người nhận
bố thí và
quả báo của việc
bố thí. Do đó được gọi là
giữ giới, là
chánh kiến.
“Do những nghĩa ấy nên
Đại Bồ Tát không quán xét
phân biệt phước điền với chẳng phải
phước điền.
“Thế nào là
tu tập thanh tịnh cõi Phật?
“Đại
Bồ Tát tu tập kinh điển vi diệu Đại Niết-bàn vì cầu quả
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề,
hóa độ chúng sanh nên
lìa bỏ tâm giết hại. Lại đem căn lành ấy mà chia sẻ với tất cả
chúng sanh, nguyện cho
chúng sanh được tuổi thọ
lâu dài, có
sức mạnh và oai thế, được
thần thông lớn. Nhờ oai lực của
nhân duyên thệ nguyện như vậy, khi
Bồ Tát thành Phật trong đời vị lai, tất cả
chúng sanh trong
cõi Phật ấy đều được tuổi thọ
lâu dài, có
sức mạnh và oai thế, được
thần thông lớn.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Đại Bồ Tát tu tập kinh điển vi diệu Đại Niết-bàn, vì cầu quả
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề,
hóa độ chúng sanh nên
lìa bỏ tâm
trộm cắp. Lại đem căn lành ấy mà chia sẻ với tất cả
chúng sanh, nguyện cho mặt đất nơi các
cõi Phật đều thuần bằng
bảy báu,
chúng sanh được
giàu có,
sung túc, chỗ mong cầu đều được
như ý. Nhờ oai lực của
nhân duyên thệ nguyện như vậy, khi
Bồ Tát thành Phật trong đời vị lai,
cõi Phật ấy thuần bằng
bảy báu,
chúng sanh được
giàu có,
sung túc, chỗ mong cầu đều được
như ý.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Đại Bồ Tát tu tập kinh điển vi diệu Đại Niết-bàn, vì cầu quả
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề,
hóa độ chúng sanh nên
lìa bỏ tâm
dâm dục. Lại đem căn lành ấy mà chia sẻ với tất cả
chúng sanh, nguyện cho tất cả
chúng sanh trong các
cõi Phật đều không có tâm
tham dục,
sân khuể,
ngu si, cũng không có những nỗi khổ vì
đói khát. Nhờ oai lực của
nhân duyên thệ nguyện như vậy, khi
Bồ Tát thành Phật trong đời vị lai,
chúng sanh trong
cõi Phật ấy thảy đều lìa xa tâm
tham dục,
sân khuể,
ngu si, cũng không có những nỗi khổ vì
đói khát.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Đại Bồ Tát tu tập kinh điển vi diệu Đại Niết-bàn, vì cầu quả
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề,
hóa độ chúng sanh nên
lìa bỏ tâm
nói dối. Lại đem căn lành ấy mà chia sẻ với tất cả
chúng sanh, nguyện cho nơi các
cõi Phật thường có nhiều cây cối trổ hoa, kết trái, tỏa hương thơm, tất cả
chúng sanh đều được tiếng nói có
âm thanh vi diệu. Nhờ oai lực của
nhân duyên thệ nguyện như vậy, khi
Bồ Tát thành Phật trong đời vị lai,
cõi Phật ấy
thường có nhiều cây cối trổ hoa, kết trái, tỏa hương thơm, tất cả
chúng sanh nơi cõi ấy đều được tiếng nói có
âm thanh hết sức vi diệu thanh tịnh.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Đại Bồ Tát tu tập kinh điển vi diệu Đại Niết-bàn, vì cầu quả
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề,
hóa độ chúng sanh nên
lìa bỏ tâm nói lời hai lưỡi. Lại đem căn lành ấy mà chia sẻ với tất cả
chúng sanh, nguyện cho tất cả
chúng sanh trong các
cõi Phật thường cùng nhau sống
hòa hợp,
giảng thuyết Chánh pháp. Nhờ oai lực của
nhân duyên thệ nguyện như vậy, khi
Bồ Tát thành Phật trong đời vị lai, tất cả
chúng sanh trong
cõi Phật ấy đều cùng nhau sống
hòa hợp,
giảng thuyết bàn luận những lẽ cốt yếu trong
Chánh pháp.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Đại Bồ Tát tu tập kinh điển vi diệu Đại Niết-bàn, vì cầu quả
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề,
hóa độ chúng sanh nên
lìa bỏ tâm nói lời
độc ác. Lại đem căn lành ấy mà chia sẻ với tất cả
chúng sanh, nguyện cho mặt đất ở các
cõi Phật đều bằng phẳng như lòng bàn tay, không có những thứ cát, sỏi, ngói, đá,
gai góc, mũi nhọn;
chúng sanh trong các cõi ấy đều có
tâm bình đẳng. Nhờ oai lực của
nhân duyên thệ nguyện như vậy, khi
Bồ Tát thành Phật trong đời vị lai,
cõi Phật ấy có mặt đất bằng phẳng như lòng bàn tay, không có những thứ cát, sỏi, ngói, đá, gai gốc, mũi nhọn;
chúng sanh đều có
tâm bình đẳng.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Đại Bồ Tát tu tập kinh điển vi diệu Đại Niết-bàn, vì cầu quả
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề,
hóa độ chúng sanh nên
lìa bỏ tâm nói lời
vô nghĩa. Lại đem căn lành ấy mà chia sẻ với tất cả
chúng sanh, nguyện cho tất cả
chúng sanh trong các
cõi Phật đều không có
khổ não. Nhờ oai lực của
nhân duyên thệ nguyện như vậy, khi
Bồ Tát thành Phật trong đời vị lai, tất cả
chúng sanh trong
cõi Phật ấy đều không có
khổ não.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Đại Bồ Tát tu tập kinh điển vi diệu Đại Niết-bàn, vì cầu quả
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề,
hóa độ chúng sanh nên
lìa bỏ tâm
tham lam,
ganh ghét tật đố. Lại đem căn lành ấy mà chia sẻ với tất cả
chúng sanh, nguyện cho tất cả
chúng sanh trong các
cõi Phật đều không có
tham lam, tật đố,
não hại,
tà kiến. Nhờ oai lực của
nhân duyên thệ nguyện như vậy, khi
Bồ Tát thành Phật trong đời vị lai, tất cả
chúng sanh trong
cõi Phật ấy đều không có
tham lam, tật đố,
não hại,
tà kiến.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Đại Bồ Tát tu tập kinh điển vi diệu Đại Niết-bàn, vì cầu quả
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề,
hóa độ chúng sanh nên
lìa bỏ tâm
não hại. Lại đem căn lành ấy mà chia sẻ với tất cả
chúng sanh, nguyện cho tất cả
chúng sanh trong các
cõi Phật đều cùng nhau
tu tập tâm
đại từ,
đại bi,
đạt được địa vị Nhất tử.[135] Nhờ oai lực của
nhân duyên thệ nguyện như vậy, khi
Bồ Tát thành Phật trong đời vị lai, tất cả
chúng sanh trong
cõi Phật ấy đều cùng nhau
tu tập tâm
đại từ,
đại bi,
đạt được địa vị Nhất tử.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Đại Bồ Tát tu tập kinh điển vi diệu Đại Niết-bàn, vì cầu quả
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề,
hóa độ chúng sanh nên
lìa bỏ tâm
tà kiến. Lại đem căn lành ấy mà chia sẻ với tất cả
chúng sanh, nguyện cho tất cả
chúng sanh trong các
cõi Phật đều
đạt được pháp Đại
Bát-nhã ba-la-mật. Nhờ oai lực của
nhân duyên thệ nguyện như vậy, khi
Bồ Tát thành Phật trong đời vị lai, tất cả
chúng sanh trong
cõi Phật ấy đều được
thọ trì pháp Đại
Bát-nhã ba-la-mật.
“Như thế gọi là
Bồ Tát tu tập thanh tịnh cõi Phật.
“Thế nào là
Đại Bồ Tát diệt mất hữu dư?
Hữu dư có ba loại. Thứ nhất là
quả báo còn lại của
phiền não, thứ hai là
nghiệp báo còn lại, thứ ba là
chấp hữu còn lại.
“Thiện nam tử! Sao gọi là
quả báo còn lại của phiền não? Như có những
chúng sanh quen thói
tham dục. Khi
quả báo đến kỳ phải đọa vào
địa ngục. Đến khi ra khỏi
địa ngục lại phải thọ thân
súc sanh, như các loài chim
bồ câu, se sẻ, uyên ương, két, chim
cộng mạng,[136] chim xá-lợi, thanh tước... hoặc cá, rùa, khỉ, hươu, nai... Nếu được thân người lại phải chịu khuyết tật
nam căn, hoặc thọ thân nữ, hoặc bán nam bán nữ, hoặc không có giới tính, hoặc làm
phụ nữ dâm loạn... Nếu được
xuất gia, lại phạm vào
trọng giới thứ nhất.[137] Đó gọi là
quả báo còn sót lại.
“Lại nữa,
thiện nam tử! Như có
chúng sanh đắm sâu trong
sân khuể nặng nề. Khi
quả báo đến kỳ phải đọa vào
địa ngục. Đến khi ra khỏi
địa ngục lại phải thọ thân
súc sanh, như các loài
rắn độc có đủ bốn cách gây độc là: mắt nhìn gây độc, đụng chạm gây độc, miệng cắn gây độc, phun nọc gây độc; hoặc sanh làm
sư tử, cọp, sói, beo, gấu, mèo, chồn, chim ưng, diều hâu... Nếu được thân người lại phạm đủ 16 điều xấu ác trong
luật nghi.[138] Nếu được
xuất gia lại phạm vào
trọng giới thứ hai.[139] Đó gọi là
quả báo còn sót lại.
“Lại nữa,
thiện nam tử! Như có những kẻ quen tập tánh
ngu si. Khi
quả báo đến kỳ phải đọa vào
địa ngục. Đến khi ra khỏi
địa ngục lại phải thọ thân
súc sanh, như các loài voi, heo, dê, trâu, bọ chét, chí, rận, muỗi, mòng, kiến... Nếu được thân người lại phải chịu tật nguyền như điếc, đui, ngọng, câm, bệnh già, lưng còng, lưng gù... thiếu khuyết các căn không thể
xuất gia. Nếu được
xuất gia thì các căn
tối tăm,
ngu độn,
vui thích mà phạm vào các trọng giới, thậm chí [chỉ vì
mối lợi] rất ít ỏi.[140] Đó gọi là
quả báo còn sót lại.
“Lại nữa,
thiện nam tử! Như có những kẻ tập quen tánh
kiêu căng, ngạo mạn. Khi
quả báo đến kỳ phải đọa vào
địa ngục. Đến khi ra khỏi
địa ngục lại phải thọ thân
súc sanh, như các loài giòi phẩn, hoặc lạc đà, lừa, chó, ngựa... Nếu được sanh làm người phải chịu
thân phận nô tỳ, nghèo túng, ăn xin... Nếu được
xuất gia lại thường bị
chúng sanh khinh khi,
chê trách, phạm vào
trọng giới thứ tư.[141] Đó gọi là
quả báo còn sót lại.
“Những điều như trên gọi là
quả báo còn sót lại của
phiền não. Những
quả báo còn sót lại như vậy,
Đại Bồ Tát nhờ
tu tập [
kinh điển] Đại Niết-bàn nên diệt hết tất cả.
“Thế nào là
nghiệp báo còn sót lại? Đó là nói
nghiệp báo của tất cả
phàm phu, nghiệp của tất cả hàng
Thanh văn. Như vị Tu-đà-hoàn chịu nghiệp còn bảy lần thọ sanh; vị Tư-đà-hàm chịu nghiệp còn hai lần thọ sanh; vị A-na-hàm chịu nghiệp còn
một lần thọ sanh ở
Sắc giới. Như vậy gọi là
nghiệp báo còn lại.
“Những
nghiệp báo còn sót lại như vậy,
Đại Bồ Tát nhờ có thể
tu tập [
kinh điển] Đại Niết-bàn nên dứt trừ được tất cả.
“Thế nào là
chấp hữu còn sót lại? Vị A-la-hán
chứng đắc quả A-la-hán, vị
Phật Bích-chi chứng đắc quả
Phật Bích-chi. [Tuy cả hai
trường hợp đều là] không còn
nghiệp báo, không còn
phiền não, nhưng lại
chuyển hóa thành hai quả [khác nhau]. Như thế gọi là
chấp hữu còn sót lại.
“Ba
pháp hữu dư vừa kể trên,
Đại Bồ Tát nhờ
tu tập kinh điển Đại thừa Đại Niết-bàn nên
diệt trừ được tất cả. Như thế gọi là
Đại Bồ Tát diệt mất
hữu dư.
“Thế nào là
Bồ Tát tu thân thanh tịnh?[142]
Đại Bồ Tát tu tập giới không giết hại [
tuần tự] khởi đủ năm loại tâm, đó là [tâm] bậc thấp, [tâm] bậc vừa, [tâm] bậc cao, [tâm] bậc cao vừa và [tâm] bậc rất cao.
Cho đến việc
tu tập theo
Chánh kiến cũng giống như vậy.[143]
“Năm mươi tâm
tu tập này gọi là
phát tâm ban đầu. Khi
tu tập trọn vẹn các pháp lành, mỗi tâm như vậy đều
trở thành tâm
quyết định, tức
thành tựu đủ năm mươi tâm nữa.
“Một trăm tâm như trên gọi là đầy đủ một trăm
phước đức. Đầy đủ trăm
phước đức thì
thành tựu được một tướng tốt. Cứ như
vậy mà dần dần thành tựu đầy đủ
ba mươi hai tướng tốt, gọi là
thân thanh tịnh.
“Bồ Tát lại
tu tập thêm tám mươi vẻ đẹp nơi thân, vì
thế gian có những
chúng sanh thờ phụng tám mươi vị thần.
“Tám mươi vị thần là những vị nào? Đó là mười hai vị thần
mặt trời, mười hai vị
Đại thiên, năm vị
tinh tú lớn, thần
Bắc đẩu, các vị trời như Mã thiên,
Hành đạo thiên, Bà-la-đọa-bạt-xà thiên,
Công đức thiên, cùng với hai mươi tám vì sao, các vị thần đất, thần gió, thần nước, thần lửa,
Phạm thiên, Lâu-đà thiên, Nhân-đề thiên, Câu-ma-la thiên, Bát tý thiên, Ma-hê-thủ-la thiên, Bán-xà-la thiên,
Quỷ tử mẫu thiên, Bốn vị
Thiên vương,
Tạo thư thiên, Bà-tẩu thiên. Đó gọi là tám mươi vị thần.
“Vì những
chúng sanh ấy nên
Bồ Tát tu tập tám mươi vẻ đẹp để tự
trang nghiêm thân mình. Như vậy gọi là
thân thanh tịnh của
Bồ Tát.
“Vì sao vậy? Vì có nhiều
chúng sanh tin theo tám mươi vị
thiên thần ấy, nên
Bồ Tát tu tám mươi vẻ đẹp, dù
Bồ Tát chẳng động thân nhưng có thể khiến cho các
chúng sanh kia
tùy theo lòng tin mà thảy đều nhìn thấy vị thần của họ. Thấy được rồi bèn đem lòng
tôn kính, thảy đều
phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Vì nghĩa ấy nên
Đại Bồ Tát tu tập để làm
thanh tịnh thân.
“Thiện nam tử!
Ví như có người muốn thỉnh vị
đại vương,
cần phải trang hoàng, dọn dẹp nhà cửa
hết sức sạch sẽ, sắm sửa đủ mọi món ăn
thức uống ngon lành, rồi vua mới ngự đến theo
lời mời thỉnh.
Đại Bồ Tát cũng vậy, muốn thỉnh vị
Pháp luân vương A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, trước phải
tu thân cho thật
thanh tịnh rồi vị
Pháp vương Vô thượng mới đến ngự. Vì nghĩa ấy,
Đại Bồ Tát cần phải tu tập thân thanh tịnh.
“Thiện nam tử!
Ví như có người muốn uống
cam lộ, trước hết phải giữ thân cho
thanh tịnh.
Đại Bồ Tát cũng vậy, muốn uống chất
cam lộ pháp vị
vô thượng là
Bát-nhã Ba-la-mật thì trước hết phải dùng tám mươi vẻ đẹp để làm cho thân được
thanh tịnh.
“Thiện nam tử!
Ví như dùng những đồ chứa
tốt đẹp bằng
vàng bạc đựng nước sạch thì cả trong lẫn ngoài đều sạch.
Thân thanh tịnh của
Đại Bồ Tát cũng vậy, dùng chứa nước
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề thì cả trong lẫn ngoài đều sạch.
“Thiện nam tử! Như loại áo lụa trắng ở Ba-la-nại rất dễ nhuộm màu. Vì sao vậy? Vì trắng tinh sạch sẽ.
Đại Bồ Tát cũng vậy, nhờ
thân thanh tịnh nên mau
chứng đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Vì nghĩa ấy,
Đại Bồ Tát tu tập để làm cho
thanh tịnh thân.
“Thế nào là
Bồ Tát rõ biết các duyên?
Đại Bồ Tát không thấy có tướng của sắc, không thấy có duyên của sắc, không thấy có thể của sắc, không thấy có sự sanh ra của sắc, không thấy có sự diệt mất của sắc, không thấy có một tướng
duy nhất, không thấy có nhiều tướng khác nhau, không thấy có kẻ thấy, không thấy có
tướng mạo, không thấy có người nhận chịu.
“Vì sao vậy? Vì
hiểu rõ nhân duyên. Đối với tất cả các pháp cũng đều giống như với sắc. Đó gọi là
Bồ Tát rõ biết các duyên.
“Thế nào là
Bồ Tát lìa bỏ mọi
thù oán đối nghịch? Tất cả
phiền não chính là
thù oán đối nghịch của
Bồ Tát.
Đại Bồ Tát thường lìa xa
phiền não, cho nên gọi là
Bồ Tát lìa bỏ mọi
thù oán đối nghịch.
“Hàng
Bồ Tát trụ ở
địa vị thứ năm[144] trở xuống không xem các
phiền não là
thù oán đối nghịch. Vì sao vậy? Vì nhân nơi
phiền não,
Bồ Tát mới có thọ sanh. Nhờ có thọ sanh mới có thể
tuần tự giáo hóa chúng sanh. Vì nghĩa ấy nên chẳng gọi
phiền não là oán.[145] Vậy những gì là thù oán? Đó là nói việc
phỉ báng kinh Phương đẳng.
Bồ Tát tùy duyên thọ sanh, chẳng sợ các
cảnh giới địa ngục,
súc sanh,
ngạ quỷ, chỉ sợ việc
phỉ báng kinh Phương đẳng. Tất cả
Bồ Tát đều có
kẻ thù oán là
tám thứ ma.[146] Lìa xa
tám thứ ma ấy tức là lìa khỏi
kẻ thù oán. Đó gọi là
Bồ Tát lìa bỏ mọi
thù oán đối nghịch.
“Thế nào là
Bồ Tát dứt trừ cả hai bên? Hai bên đó là
hai mươi lăm cảnh giới hiện hữu và
phiền não tham ái.
Bồ Tát thường lìa xa
hai mươi lăm cảnh giới hiện hữu và
phiền não tham ái, đó gọi là
Bồ Tát dứt trừ hai bên.
“[Như vừa nói trên] đó là
Đại Bồ Tát tu tập Đại Niết-bàn
thành tựu đầy đủ
công đức thứ tư.”
Bấy giờ,
Đại Bồ Tát Quang Minh Biến Chiếu Cao Quí Đức Vương
bạch Phật: “Như Phật có dạy, nếu
Bồ Tát tu tập Đại Niết-bàn sẽ được đủ mười việc
công đức như vừa nói. Vì sao
đức Như Lai chỉ tu được chín việc mà không
tu tập cõi Phật thanh tịnh?[147]”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Thuở xưa ta cũng thường
tu tập đủ mười việc ấy. Tất cả các vị
Bồ Tát và
Như Lai, không có ai là không
tu tập đủ mười việc ấy. Nếu như cõi
thế giới đầy dẫy mọi sự
bất tịnh mà chư
Phật Thế Tôn lại
xuất hiện trong đó thì là việc
hoàn toàn vô lý.
“Thiện nam tử! Nay ông chớ nên nói rằng chư Phật ra đời ở cõi
thế giới không
thanh tịnh. Nên biết rằng
tâm niệm như thế là
bất thiện, là hẹp hòi, là kém cỏi. Nay ông nên biết rằng ta
thật không có ra đời ở cõi Diêm-phù-đề này.
“Ví như có người nói rằng riêng ở
thế giới này mới có
mặt trời,
mặt trăng, các
thế giới phương khác không có.
Lời nói như vậy thật là
vô nghĩa. Nếu
Bồ Tát nói rằng
cõi Phật này là uế trược, xấu ác,
bất tịnh, các
cõi Phật ở phương khác là
thanh tịnh,
trang nghiêm tráng lệ. Như vậy cũng là
lời nói vô nghĩa.
“Thiện nam tử! Từ
thế giới Ta-bà này đi về phương tây,
vượt qua số
cõi Phật nhiều như số cát của bốn mươi hai con
sông Hằng, có
một thế giới tên là
Vô Thắng. Vì sao cõi ấy có tên là Vô Thắng? Vì những sự
trang nghiêm tráng lệ của
thế giới ấy đều
bình đẳng, không có gì khác biệt so với
thế giới An Lạc[148] ở phương tây, lại cũng giống như
thế giới Mãn Nguyệt ở phương đông.
Ta ra đời ở
thế giới ấy, nhưng vì
giáo hóa chúng sanh nên
thị hiện chuyển bánh xe pháp ở cõi Diêm-phù-đề này. Cũng không chỉ riêng một thân ta
hiện ra ở cõi này
chuyển bánh xe pháp, mà tất cả chư Phật cũng đều
chuyển bánh xe pháp ở cõi này. Vì nghĩa ấy nên tất cả chư
Phật Thế Tôn không có vị nào là không
tu hành đủ mười việc như trên.
“Thiện nam tử! Vì có lời
thệ nguyện nên trong tương lai
Bồ Tát Từ Thị[149] sẽ khiến cho
thế giới này
trở nên thanh tịnh trang nghiêm. Vì nghĩa ấy nên tất cả
thế giới của chư Phật đều là
trang nghiêm thanh tịnh.
“Lại nữa,
thiện nam tử! Thế nào là
Đại Bồ Tát tu tập kinh điển vi diệu Đại Niết-bàn
thành tựu đầy đủ
công đức thứ năm?
“Thiện nam tử!
Đại Bồ Tát tu tập kinh Đại Niết-bàn
thành tựu đầy đủ
công đức thứ năm có năm việc.
“Những gì là năm? Thứ nhất, các căn đều đầy đủ. Thứ hai, không sanh ra ở những nơi xa xôi hẻo lánh.[150] Thứ ba, được
chư thiên yêu mến, nhớ nghĩ đến. Thứ tư, thường được sự
cung kính của hàng
thiên ma, sa-môn, sát-lợi, bà-la-môn. Thứ năm,
chứng đắc Túc mạng trí.[151]
Bồ Tát nhờ sức
nhân duyên của kinh Đại Niết-bàn nên có đầy đủ năm việc
công đức như vậy.”
Bồ Tát Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương lại thưa hỏi: “Như Phật có dạy, nếu ai
tu tập bố thí sẽ được đầy đủ năm việc
công đức. Nay vì sao lại nói rằng nhân nơi [
kinh điển] Đại Niết-bàn mà được năm việc như vậy?”
Phật dạy: “Lành thay,
lành thay! Thiện nam tử! Những việc như vậy có
ý nghĩa khác nhau. Nay ta sẽ vì ông mà
phân biệt giảng thuyết.
“Tính chất của năm việc
công đức do tu
bố thí là không cố định, không thường tồn, không
thanh tịnh, không cao trổi, không khác lạ. Vì thế đó không phải là
vô lậu, không thể làm
lợi ích, an vui,
thương xót tất cả
chúng sanh.
“Nếu nương theo kinh Đại Niết-bàn này mà được năm việc
công đức thì đó là cố định, thường tồn,
thanh tịnh, cao trổi, khác lạ. Như thế là
vô lậu, nên có thể làm
lợi ích, an vui,
thương xót tất cả
chúng sanh.
“Thiện nam tử! Người tu
bố thí thì được lìa khỏi sự
đói khát. Kinh Đại Niết-bàn có thể khiến cho
chúng sanh lìa khỏi bệnh khát khao
tham ái trong
hai mươi lăm cảnh giới hiện hữu.
“Nhân duyên
bố thí khiến cho
sanh tử tiếp nối không dứt. Kinh Đại Niết-bàn có thể khiến cho
sanh tử dứt mất, không còn
tiếp nối.
“Do nhân là
bố thí nên thọ nhận các pháp
phàm phu. Do nhân là kinh Đại Niết-bàn nên được làm
Bồ Tát.
“Nhân duyên
bố thí có thể dứt được mọi sự
khổ não vì nghèo túng. Kinh Đại Niết-bàn có thể dứt được tất cả mọi sự
thiếu thốn pháp lành.
“Nhân duyên
bố thí tạo nên số phận,
quả báo. Nhân nơi kinh Đại Niết-bàn mà
chứng đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề thì không còn số phận, không còn
quả báo.
“Như thế gọi là
Đại Bồ Tát tu tập kinh diển
vi diệu Đại Niết-bàn
thành tựu đầy đủ
công đức thứ năm.
“Lại nữa,
thiện nam tử! Thế nào là
Bồ Tát tu tập kinh điển vi diệu Đại Niết-bàn
thành tựu đầy đủ
công đức thứ sáu?
“Đại
Bồ Tát tu tập Đại Niết-bàn được pháp Tam-muội
Kim cang. Trụ yên trong pháp Tam-muội ấy có thể phá trừ tất cả các pháp, thấy được tất cả các pháp đều là
vô thường, đều là tướng chuyển động, là
nhân duyên của sự sợ sệt,
bệnh khổ, trộm cướp,
liên tục hoại diệt trong từng niệm tưởng, không có gì là
chân thật. Tất cả đều là
cảnh giới của ma, không một tướng nào thật có thể nhìn thấy.
“Đại
Bồ Tát trụ yên trong pháp Tam-muội ấy, tuy làm việc
bố thí cho
chúng sanh nhưng không thấy thật có một
chúng sanh nào. Vì
chúng sanh mà
tinh cần tu tập các
pháp Trì giới Ba-la-mật cho đến Bát-nhã Ba-la-mật cũng đều như vậy.[152] Nếu
Bồ Tát thấy có một
chúng sanh nào thì không thể
rốt ráo thành tựu trọn vẹn pháp Bố thí Ba-la-mật,
cho đến không thể
thành tựu trọn vẹn pháp
Bát-nhã Ba-la-mật.
“Thiện nam tử!
Ví như chất
kim cang đem đối chọi với vật khác thì không vật nào không tan nát, nhưng chất
kim cang thì không
tổn hại chút nào. Pháp Tam-muội
Kim cang cũng vậy, đem so với các pháp khác thì
không pháp nào không tan rã, nhưng pháp Tam-muội này không
tổn hại chút nào.
“Thiện nam tử! Như
kim cang là quý nhất trong các
vật báu. Pháp Tam-muội
Kim cang mà
Bồ Tát đạt được cũng vậy, là bậc nhất trong các pháp Tam-muội. Vì sao vậy? Khi
Đại Bồ Tát tu tập pháp Tam-muội ấy, tất cả các pháp Tam-muội khác đều theo về.
“Thiện nam tử! Như các vị
tiểu vương đều theo về quy
thuận Chuyển luân
Thánh vương; tất cả các pháp Tam-muội cũng vậy, thảy đều theo về quy thuận pháp Tam-muội
Kim cang.
“Thiện nam tử!
Ví như có kẻ là
thù địch của cả nước, làm cho
mọi người đều căm ghét và lo sợ. Nếu có người giết chết kẻ ấy, thì
mọi người không ai là không
ca ngợi công lao ấy. Pháp Tam-muội
Kim cang cũng vậy,
Bồ Tát tu tập pháp Tam-muội ấy có thể phá tan tất cả những điều
thù oán đối nghịch của
chúng sanh, cho nên thường được sự
tôn kính của tất cả các pháp Tam-muội khác.
“Thiện nam tử!
Ví như có kẻ
sức lực mạnh mẽ,
cường tráng không ai địch nổi. Sau lại có người
đủ sức khuất phục kẻ ấy. Nên biết rằng người này sẽ được người đời khen ngợi. Pháp Tam-muội
Kim cang cũng vậy, có
đủ sức tồi phục những pháp khó tồi phục. Vì nghĩa ấy nên tất cả các tam-muội khác đều theo về quy thuận.
“Thiện nam tử!
Ví như có người tắm trong biển lớn, nên biết là người ấy đã dùng nước của các dòng sông, suối, khe rạch...
Đại Bồ Tát cũng vậy, khi
tu tập pháp Tam-muội
Kim cang này, nên biết rằng đó là đã
tu tập tất cả các pháp Tam-muội khác.
“Thiện nam tử! Như ở
Hương sơn có một dòng suối tên là A-na-bà-đạp-đa.[153] Nước suối ấy có đủ tám vị, người uống vào thì không có các
bệnh khổ. Pháp Tam-muội
Kim cang cũng vậy, có đủ Tám
chánh đạo,
Bồ Tát tu tập pháp này dứt trừ các thứ bệnh nặng ung nhọt
phiền não.
“Thiện nam tử! Như người
cúng dường vị Ma-hê-thủ-la,[154] nên biết rằng đó là đã
cúng dường tất cả
chư thiên. Pháp Tam-muội
Kim cang cũng vậy, nếu ai
tu tập pháp ấy, nên biết rằng đó là đã
tu tập tất cả các pháp Tam-muội khác.
“Thiện nam tử! Nếu
Bồ Tát nào trụ yên trong pháp Tam-muội
Kim cang, sẽ thấy rõ được tất cả các pháp, không có
chướng ngại, cũng như nhìn trái a-ma-lặc để trong lòng bàn tay.
Bồ Tát tuy thấy rõ được như vậy nhưng không hề khởi lên
ý tưởng thấy tất cả các pháp.
“Thiện nam tử!
Ví như người ngồi nơi ngã tư đường, thấy rõ được những người đi đường qua lại. Pháp Tam-muội
Kim cang cũng vậy, thấy rõ được những sự sanh, diệt,
hiện ra, mất đi của tất cả các pháp.
“Thiện nam tử!
Ví như người lên đỉnh núi cao, nhìn ra các hướng đều thấy sáng rõ. Ngọn núi Tam-muội
Kim cang cũng vậy,
Bồ Tát lên đỉnh núi ấy nhìn ra các pháp đều thấy sáng rõ.
“Thiện nam tử!
Ví như trong tháng xuân, trời đổ mưa lành, những giọt mưa đan khít
với nhau không có kẽ hở, nhưng người có mắt sáng vẫn nhìn thấy được
rõ ràng.
Bồ Tát cũng vậy;
tu tập pháp định Kim cang, được mắt
thanh tịnh, nhìn xa về các
thế giới ở phương đông, trong đó như có các
thế giới hình thành hay
hoại diệt đều thấy rõ, không có
chướng ngại.
Cho đến nhìn khắp
mười phương cũng đều như vậy.
“Thiện nam tử! Như khi bảy
mặt trời cùng lúc hiện ra từ núi Càn-đà, những cây cối rừng rậm ở núi ấy thảy đều khô rụi.
Bồ Tát tu tập pháp Tam-muội
Kim cang cũng vậy, hết thảy những cây cối
phiền não đều
tức thời diệt mất.
“Thiện nam tử!
Ví như chất
kim cang, tuy có thể phá vỡ được tất cả
mọi vật, nhưng chẳng bao giờ sanh
ý tưởng rằng: ‘Ta có thể phá vỡ.’ Pháp Tam-muội
Kim cang cũng vậy,
Bồ Tát tu tập rồi có thể phá
trừ phiền não, nhưng chẳng hề sanh ra
ý tưởng rằng: ‘Ta có thể phá trừ mọi
phiền não trói buộc.’
“Thiện nam tử!
Ví như mặt đất có thể giữ vững
vạn vật, nhưng chẳng hề sanh ra
ý tưởng rằng: ‘Sức ta có thể giữ vững
mọi vật.’ Ngọn lửa cũng chẳng hề sanh ra
ý tưởng rằng: ‘Ta có thể đốt cháy
mọi vật.’ Nước cũng chẳng hề sanh ra
ý tưởng rằng: ‘Ta có thể làm ướt tất cả.’ Gió cũng chẳng hề sanh ra
ý tưởng rằng: ‘Ta có thể làm lay động
mọi vật.’
Hư không cũng chẳng hề sanh ra
ý tưởng rằng: ‘Ta có thể dung chứa tất cả.’ Niết-bàn lại cũng chẳng hề sanh ra
ý tưởng rằng: ‘Ta khiến cho
chúng sanh được
diệt độ.’ Pháp Tam-muội
Kim cang cũng vậy, tuy có
thể diệt trừ tất cả
phiền não, nhưng chưa từng có
tâm niệm rằng: ‘Ta có
thể diệt trừ phiền não.’
“Nếu
Bồ Tát trụ yên nơi pháp Tam-muội
Kim cang, chỉ trong một
ý niệm có thể
biến hóa ra thân như Phật, số nhiều đến
vô lượng, hiện đầy khắp các
thế giới của chư Phật trong
mười phương nhiều như
số cát sông Hằng. Tuy
Bồ Tát ấy
biến hóa như vậy nhưng trong
tâm không hề có
ý tưởng kiêu căng, ngạo mạn. Vì sao vậy?
Bồ Tát luôn nghĩ rằng: ‘Ai là người có phép định này, có thể
thực hiện việc
biến hóa như thế này? Duy chỉ có
Bồ Tát trụ yên nơi pháp Tam-muội
Kim cang này mới có thể làm được như thế.’
Đại Bồ Tát trụ yên nơi pháp Tam-muội
Kim cang, chỉ trong một
ý niệm có
thể hiện đến khắp các
thế giới của chư Phật trong
mười phương, nhiều như
số cát sông Hằng, rồi
trở về chỗ cũ. Tuy có
năng lực như vậy, nhưng
Bồ Tát cũng chẳng nghĩ rằng: ‘Ta có thể làm như vậy.’ Vì sao vậy? Vì đó là nhờ sức
nhân duyên của pháp Tam-muội này.
“Đại
Bồ Tát trụ yên nơi pháp Tam-muội
Kim cang này, trong một
ý niệm có thể dứt
trừ phiền não của
chúng sanh trong các
thế giới mười phương nhiều như
số cát sông Hằng, nhưng trong lòng không hề có
ý tưởng là [mình đã] dứt
trừ phiền não của
chúng sanh. Vì sao vậy? Vì đó là nhờ sức
nhân duyên của pháp Tam-muội này.
“Bồ Tát trụ yên ở pháp Tam-muội
Kim cang này, chỉ dùng một
âm thanh để
diễn thuyết, nhưng tất cả
chúng sanh thuộc mọi loài đều nghe hiểu được
rõ ràng; chỉ
thị hiện một thứ
hình sắc nhưng tất cả
chúng sanh đều nhìn thấy đủ mọi tướng
hình sắc; chỉ trụ yên một chỗ, thân không dời chuyển nhưng có thể khiến cho
chúng sanh ở các phương khác nhau đều nhìn thấy được; chỉ
diễn thuyết một pháp
duy nhất, hoặc thuyết về các giới,[155] hoặc về các nhập,[156] nhưng tất cả
chúng sanh đều
tùy theo chỗ hiểu mà được nghe.
“Bồ Tát trụ yên ở Tam-muội này, tuy nhìn thấy
chúng sanh nhưng không hề có tướng
chúng sanh. Tuy nhìn thấy kẻ nam người nữ nhưng không hề có tướng nam, tướng nữ. Tuy nhìn thấy sắc nhưng không có tướng sắc,
cho đến nhìn thấy thức[157] cũng không có tướng thức. Tuy thấy ngày và đêm nhưng không có tướng ngày và đêm. Tuy thấy tất cả, nhưng không có tất cả tướng. Tuy thấy tất cả các mối
phiền não trói buộc nhưng không có tất cả tướng
phiền não. Tuy thấy
Tám Thánh đạo nhưng không có tướng
Tám Thánh đạo. Tuy thấy Bồ-đề nhưng không có tướng Bồ-đề. Tuy thấy Niết-bàn nhưng không có tướng Niết-bàn. Vì sao vậy?
Thiện nam tử! Vì tất cả các pháp vốn không có tướng. Nhờ sức của pháp tam-muội này,
Bồ Tát thấy tất cả các
pháp như thật, vốn là không có tướng.
“Vì sao gọi là pháp Tam-muội Kim cang?
Thiện nam tử!
Ví như kim cang ở giữa
ánh sáng ban ngày thì màu
sắc không nhất định. Pháp Tam-muội
Kim cang cũng vậy, ở giữa
đại chúng không có màu sắc
nhất định. Cho nên gọi là Tam-muội
Kim cang.
“Thiện nam tử!
Ví như kim cang, tất cả người đời không thể định
giá trị. Pháp Tam-muội
Kim cang cũng vậy, tất cả
loài người và
chư thiên đều không thể
ước lượng biết được
công đức của nó. Cho nên gọi là Tam-muội
Kim cang.
“Thiện nam tử!
Ví như người nghèo được
của quý là
kim cang, ắt lìa xa cảnh nghèo túng khốn khổ, tà độc của
ác quỷ.
Đại Bồ Tát cũng vậy,
đạt được pháp tam-muội này ắt có thể lìa xa các khổ
phiền não, các tà độc của ma. Cho nên lại gọi là Tam-muội
Kim cang.
“Đó gọi là
Bồ Tát tu tập Đại Niết-bàn
thành tựu đầy đủ
công đức thứ sáu.”
KINH ĐẠI BÁT NIẾT-BÀN
HẾT QUYỂN HAI MƯƠI BỐN
[1] Theo Nam bản thì từ đây cũng bắt đầu phẩm Anh nhi hạnh, nhưng là phẩm thứ 21.
[2] Anh nhi: trẻ thơ, đứa trẻ sanh ra còn hồn nhiên chưa biết gì.
[3] Tức là cõi trời Đao-lợi (Đao-lợi thiên).
[4] Năm hạnh: tức là nhắc lại năm hạnh mà Phật giảng thuyết trong kinh này: 1. Thánh hạnh, 2. Phạm hạnh, 3. Thiên hạnh (dẫn chú kinh Hoa nghiêm), 4. Anh nhi hạnh, 5. Bệnh hạnh.
[5] Theo Nam bản thì từ đây bắt đầu quyển 19, phẩm Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương Bồ Tát thứ 22, phần 1.
[6] Chỉ riêng công đức thứ nhất này được trình bày suốt trong 3 quyển, từ quyển 21 đến cuối quyển 23.
[7] Nguyên bản ở đây dùng “bất văn”, nghĩa là “không nghe”, nhưng theo ý nghĩa được diễn giảng về sau thì chúng tôi hiểu đây là “không thể nghe”, tức là những điều “không thể giảng thuyết” (bất khả thuyết), là những ý nghĩa vượt ra khỏi phạm trù diễn đạt của ngôn ngữ thế gian.
[8] Tức là năm ấm: sắc, thọ, tưởng, hành và thức.
[9] Tức là 12 nhập, do sáu căn thiệp nhập với sáu trần.
[10] Tức là 18 giới, do sáu căn ở trong, sáu trần ở ngoài với sáu thức ở giữa.
[11] Luận Tỳ-đà, cũng đọc là Vi-đà, Phệ-đà, một bộ luận rất cổ của đạo Bà-la-môn, có từ trước thời đức Phật.
[12] Luận Tỳ-già-la, cũng đọc là Tỳ-da-yết-thích-nam hay Tỳ-hà-yết-lợi-nã, Hán dịch là Thanh minh ký luận, cũng là tên chỉ chung các bộ luận về ngữ học của thế tục.
[13] Luận Vệ-thế-sư , cũng đọc là Tỳ-thế-sư hay Phệ-thế-sử, Hán dịch là Thắng luận, một trong các bộ luận rất nổi tiếng của ngoại đạo thời đức Phật.
[14] Luận Ca-tỳ-la, cũng đọc là Ca-tỳ-lê hay Kiếp-tỳ-la, Hán dịch nghĩa là Hoàng đầu hay Xích sắc, đúng ra là tên của vị luận sư ngoại đạo đã chế tác bộ luận căn bản của phái Số luận, còn có tên là Tăng-khư luận, nêu lên ý nghĩa nhị thập ngũ đế. Ở đây lấy tên người làm tên bộ luận.
[15] Tỳ-phật-lược(Vaipulya), cũng đọc là Tỳ-phú-la, xếp thứ mười trong 12 bộ kinh, dịch nghĩa là kinh Phương quảng, lấy nghĩa “phương chánh quảng đại” (ngay thẳng chân chánh và rộng lớn). Xem chú giải về 12 bộ kinh ở trang 217, Tập 1.
[16] Đây nói tóm cả sáu pháp ba-la-mật: 1. Bố thí Ba-la-mật 2. Trì giới Ba-la-mật 3. Nhẫn nhục Ba-la-mật 4. Tinh tấn Ba-la-mật 5. Thiền định Ba-la-mật 6. Trí tuệ Ba-la-mật
[17] Tức là hai đức Pháp không ngăn ngại và Nghĩa không ngăn ngại, trong bốn đức không ngăn ngại của Bồ Tát được giảng rõ ở Tập 3. Hai đức còn lại là Lời lẽ không ngăn ngại và Vui thích thuyết diễn không ngăn ngại. Xin xem lại phần này bắt đầu từ trang 418 của Tập 3.
[18] Cách nói “là sắc... ... cho đến là thức...” nghĩa là nói tóm về cả sáu căn và sáu thức. Ở đây nói sự nghi hoặc về tính tồn tại độc lập của căn, thức hay bản ngã.
[19] Tức cõi trời Phi tưởng phi phi tưởng, là cõi trời thứ tư thuộc Sắc giới, là cõi trời cao nhất trong Tam giới, cũng gọi là cõi trời Hữu đỉnh (Hữu đỉnh thiên).
[20] Vị trời Tự tại (Tự tại thiên), phiên âm là Ma-hê-thủ-la, là vị thiên chủ ở cảnh trời cao nhất thuộc Sắc giới, cũng là cao nhất trong Tam giới, cũng gọi là Đại tự tại thiên. Ngoại đạo cho rằng chính vị này tạo tác ra hết thảy chúng sanh trong ba cõi.
[21] Đoạn trước có nói là Thanh văn và Phật Bích-chi, ở đây gọi là Duyên giác, vì hai tên gọi này là một. Bích-chi hay Bích-chi-ca là phiên âm từ tiếng Phạn là Pratyeka, còn Duyên giác là dịch nghĩa, vị này chứng ngộ do quán lý nhân duyên nên gọi là “duyên giác”.
[22] Đây nói tóm lược các chuyến đi ra ngoài thành của thái tử Tất-đạt-đa, kể đầy đủ trong các chuyến đi này thì ngài đã gặp một người già yếu, một người bệnh, một người chết và cuối cùng là một vị sa-môn sống cuộc sống không nhà. Thông qua đó ngài thấy rõ được rằng những nỗi khổ “sanh, lão, bệnh, tử” luôn bao trùm lên cuộc sống của tất cả mọi chúng sanh, và chỉ có con đường xuất thế mới có thể cứu thoát chúng sanh ra khỏi vòng sanh tử.
[23] Uất-đà-già, cũng đọc là Uất-đầu Lam-phất, Uất-đà-la La-ma tử hay Uất-đà La-già, Ốt-đạt Lạc-ca, Ưu-đà-la La-ma tử... đều chỉ là những cách đọc khác nhau để chỉ cùng một người, Hán dịch nghĩa là Mãnh Hỷ hay Cực Hỷ, là một trong các vị tiên nhân mà đức Phật đã tìm đến để hỏi đạo. Vị này tu thiền đã chứng đắc cảnh giới Phi tưởng định, được năm phép thần thông.
[24] A-la-la, cũng đọc là A-lam, A-lam-ca-lam hay Ca-la-ma, Hán dịch nghĩa là Tự đản hay Giải đãi, là vị tiên nhân mà đức Phật đã đến hỏi đạo trước tiên. Đức Phật đã ở lại chỗ vị này nhiều tháng, sau đó không hài lòng với giáo pháp do ông truyền dạy nên mới từ giã mà tìm đến chỗ ông Uất-đà-già. Khi Phật thành đạo, có ý muốn hóa độ các vị này trước hết, nhưng khi ấy thì các ông đều đã qua đời.
[25] Khoảng thời gian tu khổ hạnh này, Phật ở trong một khu rừng gọi là rừng Khổ hạnh (Khổ hạnh lâm), thuộc địa phận xứ Ưu-lâu-tần-loa, ngày nay nằm về phía đông của thôn Mục-chi-lân-đà, cho đến thời gian gần đây vẫn còn tồn tại một vùng cây rậm rạp ở đó.
[26] Sông A-lợi-bạt-đề. Các kinh sách khác đều gọi đây là sông Ni-liên-thiền, cũng đọc là Ni-liên-thiền-na. Đức Phật sau khi từ bỏ pháp tu khổ hạnh đã xuống tắm ở sông này. Kinh Quá khứ hiện tại nhân quả, quyển 3, quyển 4 kể rằng khi ngài xuống sông tắm rửa xong thì do thân thể quá suy nhược nên không thể lên được, liền có chư thiên xuất hiện nâng đỡ ngài lên, sau đó mới thọ nhận bát sữa cúng dường của nàng Nan-đà-ba-la.
[27] Ma Ba-tuần, cũng đọc là Ba-tuần-du hay Ba-ty-diện, Hán dịch nghĩa là Sát giả hay Ác giả, là tên gọi của Ma vương.
[28] Ba-la-nại (Vraṇasi), là địa danh thuộc miền Trung Ấn Độ cổ, nơi có khu vườn Lộc uyển mà đức Phật thuyết pháp lần đầu tiên.
[29] Năm vị tỳ-kheo: là nhóm ông Kiều-trần-như, trước có cùng đức Phật tu khổ hạnh trong rừng, sau vì thấy Phật từ bỏ cách tu khổ hạnh nên cho rằng ngài đã thối chí, liền bỏ đi nơi khác. Do nhân duyên này nên đức Phật hóa độ cho năm vị này trước nhất. Đó là các ông: Kiều-trần-như, Át-bệ, Thập-lực Ca-diếp, Ma-nam Câu-ly và Bạc-đề.
[30] Nguyên bản Hán văn dùng “diệt nhất-xiển-đề”, ở đây phải hiểu là diệt tâm nhất-xiển-đề, tức là tâm bất tín, không có lòng tin nơi Tam bảo, nơi nhân quả.
[31] Nguyên bản dùng do-diên, là cách phiên âm khác của do-tuần.
[32] Bốn món báu: vàng, bạc, lưu ly, pha lê.
[33] Cảnh thiền thứ ba (đệ tam thiền): người tu thiền khi đạt đến cảnh thiền thứ ba thì thần thức vào ba cảnh giới là Thiểu tịnh thiên, Vô lượng tịnh thiên và Biến tịnh thiên, đều thuộc Sắc giới.
[34] Nước có đủ tám vị: cũng gọi là nước có tám công đức.
[35] Cảnh thiền thứ hai (đệ nhị thiền): người tu thiền khi đạt đến cảnh thiền thứ hai thì thần thức vào ba cảnh giới là Thiểu quang thiên, Vô lượng quang thiên, Quang âm thiên, đều thuộc Sắc giới.
[36] Trọng cấm: chỉ bốn trọng cấm, gồm giết hại, trộm cắp, dâm dục và nói dối.
[37] Năm tội nghịch: chỉ các tội giết cha, giết mẹ, giết A-la-hán, phá hòa hợp tăng và làm thân Phật chảy máu.
[38] Không định: phép thiền định quán sát thấy thật tánh của tất cả các pháp đều là không, không thật có tự tánh.
[39] Đa-la: tên cây phiên âm từ Phạn ngữ là tla, tên khoa học là borassus flabelliformis, mọc phổ biến ở Ấn Độ, Myanma, rỵ Lanka và một số vùng nhiệt đới thuộc châu Phi. Sách Tuệ uyển âm nghĩa nói rằng người xưa ước lệ chiều cao cây này là 10 trượng (tức 100 thước cổ) để làm đơn vị đo chiều cao. Nếu vậy thì ngang tầm một cây đa-la là khoảng hơn 30 mét, bảy cây là khoảng 210 mét.
[40] Nguyên bản Hán văn là “tạo chiêu đề tăng phường”. Danh từ chiêu đề viết đủ là chiêu-đấu-đề-xá, có nghĩa là bốn phương. Vì thế, chiêu đề tăng phường chỉ chung tất cả những nơi chư tăng cư trú khắp bốn phương.
[41] Đào giếng trên đường vắng, trồng cây trái rừng sâu: Do lòng vị tha nên làm các việc ấy, để khách đi đường vắng có giếng nước uống đỡ khát, người đi qua rừng sâu có trái cây ăn đỡ đói.
[42] Không đoạt của bố thí: nguyên bản Hán văn dùng “bất phạm tăng-man vật”. Danh từ tăng-man được dịch âm từ tiếng Phạn. Từ điển Đinh Phúc Bảo dẫn Giới sớ, quyển 2, tập thượng, ghi rõ danh từ này dịch nghĩa là “đối diện vật thí”, nhưng không thấy ghi nguyên ngữ. Như vậy, hiểu theo nghĩa này là “tài sản được bố thí trong hiện tại”. Các bản trước đây đều hiểu chữ tăng trong tăng-man là chỉ chư tăng, vì câu tiếp theo nói đến Phật. Nhưng như vậy thì chữ man (mái tóc mượt) ở đây hoàn toàn không có nghĩa.
[43] Sáu đại: sáu chất lớn, gồm tứ đại: địa, thủy, hỏa, phong, thêm vào hai đại nữa là không và thức. Theo vũ trụ quan này thì tất cả các sự vật hữu tình, vô tình đều do nơi sáu đại này tạo thành.
[44] Nước có tám vị, hay tám công đức, đó là: 1. Trừng tịnh: lắng gạn trong sạch; 2. Thanh lãnh: trong trẻo mát lạnh; 3. Cam mỹ: mùi vị ngon ngọt; 4. Khinh nhuyễn: nhẹ nhàng mềm mại; 5. Nhuận trạch: thấm nhuần tươi mát; 6. An hòa: yên ổn hòa nhã; 7. Trừ được đói khát và vô số khổ não; 8. Trưởng dưỡng thân tứ đại, tăng trưởng các thiện căn.
[45] Tương tự cho đến Bát-nhã ba-la-mật: Câu này nói tóm lại, có nghĩa là thưa hỏi tương tự như vậy về cả sáu pháp ba-la-mật, từ Bố thí ba-la-mật, Trì giới ba-la-mật, Tinh tấn ba-la-mật, Nhẫn nhục ba-la-mật, Thiền định ba-la-mật cho đến Bát-nhã ba-la-mật.
[46] Vì đưa cái này ra để mong có được cái kia nên chỉ là sự đổi chác, trao đổi.
[47] Nguyên bản dùng “Tạp hoa kinh”, là tên gọi khác của kinh Hoa nghiêm.
[48] Theo Nam bản thì từ đây dứt quyển 19, bắt đầu quyển 20, phần thứ hai của phẩm Cao Quý Đức Vương Bồ Tát (Cao Quý Đức Vương Bồ Tát phẩm chi nhị).
[49] Nhất định: ở đây dùng để chỉ một tình trạng, trạng thái cố định, nghĩa là xác định chắc chắn như vậy và mãi mãi không thể thay đổi. Trong các đoạn tiếp theo đây, từ này cũng được dùng với nghĩa như vậy.
[50] Quả Tu-đà-hoàn cho đến quả Bích-chi Phật: chỉ chung tất cả các quả vị của Nhị thừa.
[51] Bốn cách sanh (tứ sanh): chỉ bốn phương cách, bốn hình thức mà tất cả chúng sanh theo đó được sanh ra. Một là sanh ra từ bào thai (thai sanh), hai là sanh ra từ trứng (noãn sanh), ba là sanh ra từ sự ẩm ướt (thấp sanh) và bốn là do sự biến hóa mà sanh ra (hóa sanh).
[52] Thiên Trung Thiên: bậc cao quý nhất trong hàng chư thiên.
[53] Theo Đại thừa nghĩa chương (quyển 4) và Trí độ luận (quyển 20, quyển 31 và quyển 46) thì 18 nghĩa không gồm có: 1. Nội không, 2. Ngoại không, 3. Nội ngoại không, 4. Không không, 5. Đại không, 6. Đệ nhất nghĩa không, 7. Hữu vi không, 8. Vô vi không, 9. Tất cánh không, 10. Vô thủy không, 11. Tán không, 12. Tánh không, 13. Tự tánh không, 14. Chư pháp không. 15. Bất khả đắc không, 16. Vô pháp không, 17. Hữu pháp không, 18. Vô pháp hữu pháp không.
[54] Mười sắc nhập (Thập sắc nhập): bao gồm nhãn nhập, nhĩ nhập, tỉ nhập, thiệt nhập, thân nhập, sắc nhập, thanh nhập, hương nhập, vị nhập và xúc nhập. Nói một cách khái quát là các phạm vi thiệp nhập giữa năm căn và năm trần, nên không bao gồm ý căn và pháp trần.
[55] Cồ-sư-la: phiên âm từ Phạn ngữ là Ghoşira, cũng đọc là Cụ-sử-la Cù-tư-la hay Cù-sử-la, dịch nghĩa là Mỹ âm hay Diệu âm thanh.
[56] Bản Hán văn dùng “tam xích”, nghĩa là 3 thước, nhưng mỗi thước cổ chỉ hơn 3 tấc, nên 3 thước tương đương với khoảng 1 thước (mét) ngày nay mà thôi.
[57] Danh và sắc là hai yếu tố tạo thành chúng sanh. Sắc là những phần nhìn thấy được, sờ mó được, như các bộ phận thân thể; danh là những phần không thể nhìn thấy được, như tinh thần, cảm giác...
[58] Vì có đủ các yếu tố thường, lạc, ngã, tịnh là thường tồn bất biến nên không thể nói là không nhất định.
[59] Bà-la-môn, Sát-lợi (hay Sát-đế-lợi) Tỳ-xá (hay Tỳ-xá-da), Thủ-đà (hay Thủ-đà-la): Bốn giai cấp trong hệ thống phân biệt của xã hội Ấn Độ đã có từ trước thời đức Phật. Bà-la-môn chỉ chung các tu sĩ, giữ quyền cúng tế và thực hành các lễ nghi tôn giáo cho cả cộng đồng. Sát-lợi chỉ giai cấp nắm quyền cai trị, gồm vua chúa, tướng lãnh, quan chức... Tỳ-xá chỉ chung những người buôn bán, thương nhân, cũng gọi là Trưởng giả. Thủ-đà là giai cấp thấp hèn, nghèo khó.
[60] Đây chỉ kể ra từ việc giết hại cho đến uống rượu, là ý tóm gọn cả năm giới cấm căn bản, bao gồm giết hại, trộm cắp, tà dâm, nói dối và uống rượu.
[61] Năm căn: chỉ mắt, tai, mũi, lưỡi và thân. Năm căn nếu buông thả không chế ngự sẽ có khuynh hướng chạy theo năm trần là hình sắc, âm thanh, mùi thơm, vị nếm, sự xúc chạm. Những khoái cảm do năm căn tiếp xúc với năm trần tạo ra luôn thôi thúc chúng sanh tạo tác vô số ác nghiệp. Sự thiệp nhập giữa căn và trần như vậy tạo thành Mười sắc nhập, lôi cuốn chúng sanh xoay chuyển mãi trong luân hồi.
[62] Ba sự lậu hoặc: tức dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu vừa nói ở phần trước.
[63] Năm dục (ngũ dục): năm sự vui sướng, khoái lạc có được khi năm giác quan tiếp xúc với những đối tượng ưa thích, như mắt được ngắm những hình sắc thích ý, tai được nghe những âm thanh êm dịu, mũi được ngửi mùi hương ưa thích...
[64] Con chó gặm khúc xương khô: chỉ có cảm giác thích ý, khoái trá, mà thật ra là chẳng ăn được gì vào bụng cả. Ví dụ này cho thấy sự thỏa mãn năm giác quan thật ra chẳng giúp ích gì cho chúng ta ngoài việc tạo ra cảm giác hài lòng, thích ý. Vì chẳng giúp ích gì nên chúng hoàn toàn không thể nuôi dưỡng thân tâm chúng ta.
[65] Người cầm lửa đi ngược gió: như mối nguy hiểm đang chực chờ, vì bất cứ lúc nào cũng có thể bị lửa táp vào thân.
[66] Con rắn độc nằm trong rương: cũng là chỉ mối nguy hiểm đang chờ người, vì chỉ cần mở rương là sẽ bị rắn cắn. Cả hai ví dụ tiếp nhau này cho thấy người mê đắm trong năm dục chỉ là vì không ý thức được những mối nguy hại mà chúng mang đến cho mình.
[67] Những thứ có được trong giấc mộng: chỉ là hư ảo, nhưng vẫn tạo cho chúng ta cảm giác sung sướng, hài lòng, đến khi tỉnh thức mới biết là chẳng có gì cả. Năm dục trong cuộc sống của chúng ta cũng là như vậy.
[68] Tuy năm dục không có giá trị thật nhưng hết thảy chúng sanh đều mê đắm, tranh giành lẫn nhau, vì chúng mà khởi nên mọi sự lỗi lầm.
[69] Những ví dụ này cho thấy sự hư huyễn, không thật có của năm dục.
[70] Những ví dụ này cho thấy tính tạm bợ, không tồn tại lâu dài của năm dục. Đường chỉ dọc dệt xong thì không còn dệt nữa, người tù bị đưa ra chợ là đã đến lúc thọ hình, không còn kéo dài được nữa.
[71] Hình sắc, âm thanh, mùi hương, vị nếm, sự xúc chạm: Tức là năm đối tượng của năm giác quan, gồm mắt, tai, mũi, lưỡi và thân.
[72] Núi Tỳ-phú-la (Vipula): Tên núi này có nghĩa là rộng lớn (quảng đại), thường được dùng để ví với những gì rất to lớn, không thể hình dung hết, không thể đo lường được (bất khả trắc lượng).
[73] Cho đến tướng của thức cũng vậy: Ở đây hàm ý tóm gọn cả năm uẩn là sắc, thọ, tưởng, hành và thức, đều quán xét tương tự như vậy.
[74] Phạm-chí: danh từ này cũng được dùng để chỉ chung cho tất cả những tu sĩ ngoại đạo, cũng dịch là Tịnh hạnh giả, nghĩa là người tu tập giữ gìn hạnh thanh tịnh.
[75] Nguyên bản Hán văn dùng Ngũ chủng ngưu vị, chỉ năm món ăn lấy từ con bò cái, tức là sữa và các món được chế biến từ sữa, cụ thể gồm: sữa, kem sữa, bơ sống, bơ chín và đề-hồ.
[76] Bốn thứ cần dùng, tức là bốn nhu cầu tối thiểu của người tu hành, bao gồm: y phục, thức ăn uống, chỗ nằm ngồi và thuốc men trị bệnh.
[77] Na-do-tha: con số đo lường rất lớn, có nơi nói là một vạn ức, lại có nơi nói là một ngàn ức, hoặc một ngàn vạn ức. Chúng ta chỉ cần hiểu là sự tượng trưng cho một con số rất lớn.
[78] Theo đơn vị đo lường xưa thì mỗi cân có 16 lượng.
[79] Bốn thứ độc: chỉ Bốn đại (Tứ đại) gồm đất, nước, gió và lửa, được xem là các yếu tố cấu thành vật chất. Vì bốn đại do duyên hợp, không thường tồn, là cội gốc của khổ đau nên người tu hành xem đó là bốn thứ độc, cũng gọi là Bốn con rắn độc (Tứ độc xà).
[80] Bốn món cúng dường: chỉ việc cúng dường bốn nhu cầu thiết yếu, gồm thức ăn uống, y phục, chỗ ngủ nghỉ và thuốc thang.
[81] Ba loại tư tưởng xấu ác: Nguyên bản Hán văn dùng “ác giác”. Sách Đại thừa nghĩa chương có lời giải thích rằng: “Tà tâm tư tưởng danh chi vi giác; vi chánh lý cố xưng vi ác.” (Tâm ý, tư tưởng tà vạy gọi là giác; trái nghịch lẽ chân chánh nên gọi là xấu ác.) Vì thế chúng tôi dịch là “tư tưởng xấu ác”. Ba loại tư tưởng xấu ác được đề cập ở đây là: dục giác, tức tư tưởng tham dục, sanh ra sự ham muốn; hai là sân giác, tức tư tưởng nóng giận, bực tức; ba là hại giác, tức tư tưởng muốn xâm hại kẻ khác. Đối với những việc hài lòng thích ý thì sanh lòng tham đắm nên có dục giác; đối với những việc không ưa thích, trái ý thì sanh ra bực tức, ghét giận nên có sân giác; đối với những kẻ làm trái ý mình thì sanh tâm muốn làm hại, nên có hại giác. Kinh Vô lượng thọ, quyển thượng, dạy rằng hết thảy phàm phu đều có đủ ba loại tư tưởng xấu ác này.
[82] Ba nẻo ác (Tam ác đạo), cũng gọi là Tam đồ: 1. Địa ngục (Hỏa đồ): cảnh giới bị lửa thiêu đốt một cách mãnh liệt. 2. Súc sanh (Huyết đồ): cảnh giới súc sanh, thường bị người giết hại để ăn thịt, hoặc tự ăn thịt lẫn nhau. 3. Ngạ quỷ (Đao đồ): cảnh giới quỷ đói, thường xuyên đói khát mà còn bị bức bách, xua đuổi hoặc hành hạ bằng những khí cụ như đao, kiếm, trượng...
[83] Sáu chỗ niệm tưởng (Lục niệm xứ). 1. Niệm Phật, 2. Niệm Pháp, 3. Niệm Tăng, 4. Niệm giới, 5. Niệm Thí, 6. Niệm Thiên.
[84] Theo tín ngưỡng bà-la-môn thì bò là loại linh vật, nên người theo đạo bà-la-môn không bao giờ ăn thịt bò.
[85] Con rùa mù gặp bộng cây nổi: ví dụ để chỉ những điều rất khó xảy ra. Có con rùa mù ở giữa biển, cứ 100 năm mới nổi lên một lần, lại có khúc cây có lỗ bộng, cứ 100 năm mới trôi ngang qua chỗ con rùa một lần. Nếu có khi nào con rùa tình cờ nổi lên đúng vào lúc khúc cây trôi qua, lại đúng vào chỗ bộng cây để chui vào (vì rùa mù không nhìn thấy) thì thật là chuyện cực kỳ hiếm có.
[86] Nguyên bản Hán văn dùng “trung quốc” với ý nghĩa đối lại với những nơi “biên địa hạ tiện”, tức là những vùng xa xôi, hẻo lánh, xa cách nếp sống văn minh tiến bộ. Vì thế, “trung quốc” được hiểu là ở giữa những nơi văn minh tiến bộ, được thụ hưởng lợi thế của nền văn hóa, văn minh tiến bộ của con người .
[87] Theo Nam bản thì từ đây hết quyển 20, bắt đầu quyển 21, phẩm Bồ Tát Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương, phần thứ 3 (Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương Bồ Tát phẩm chi tam).
[88] Năm ấm (ngũ ấm): Tức là sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm và thức ấm. Cũng gọi là năm uẩn (ngũ uẩn).
[89] Sáu nhập (lục nhập): ở đây chỉ sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý), tức là sáu nhập bên trong (nội lục nhập). Còn có sáu nhập bên ngoài (ngoại lục nhập) tức là sáu trần (hình sắc, âm thanh, mùi hương, vị nếm, sự xúc chạm và các pháp). Sáu căn bên trong thiệp nhập với sáu trần bên ngoài sanh ra sáu thức, nên gọi là nhập.
[90] Sáu trần (Lục trần): hình sắc, âm thanh, mùi hương, vị nếm, sự xúc chạm và các pháp.
[91] Sự thấy biết của chúng sanh (chúng sanh tri kiến): sự thấy biết không chân thật, sai lệch, khiến cho chúng sanh phải chìm đắm trong sanh tử, trái lại với sự thấy biết chân thật của bậc giác ngộ (Phật tri kiến). Sự thấy biết sai lệch này cũng gọi là điên đảo (điên đảo kiến).
[92] Ba đời: quá khứ, hiện tại và tương lai.
[93] Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm: ba quả vị Tiểu thừa thấp hơn quả vị A-la-hán.
[94] Hai mươi lăm cảnh giới hiện hữu (nhị thập ngũ hữu): Chỉ tất cả những cảnh giới trong Ba cõi.
[95] Bảy giác chi (Thất giác chi): cũng gọi là Bảy phần Bồ-đề (Thất Bồ-đề phần), vì đây là những yếu tố tạo thành sự giác ngộ. Bảy giác chi bao gồm: Niệm giác chi, Trạch Pháp giác chi, Tinh tấn giác chi, Hỷ giác chi, Khinh an giác chi, Định giác chi và Xả giác chi.
[96] Tập khí: những tập quán, thói quen xấu được tích lũy qua một thời gian dài, thậm chí là trong rất nhiều đời nhiều kiếp quá khứ, nên thường rất khó nhận ra.
[97] Nhị thừa: chỉ Thanh văn thừa và Duyên giác thừa.
[98] Bốn cảnh giới thiền: từ Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền đến Tứ thiền.
[99] Ba pháp Tam-muội: cũng gọi là Tam định, Tam đẳng trì, Tam không. Gồm có: Không Tam-muội, Vô tướng Tam-muội và Vô nguyện Tam-muội.
[100] Tám bội xả: cũng gọi là Tám giải thoát.
[101] Tám pháp thắng xứ, hay tám phép quán tưởng, được kể ra như sau: 1. Nội hữu sắc tưởng quán ngoại sắc thiểu thắng xứ, 2. Nội hữu sắc tưởng quán ngoại sắc đa thắng xứ, 3. Nội vô sắc tưởng quán ngoại sắc thiểu thắng xứ, 4. Nội vô sắc tưởng quán ngoại sắc đa thắng xứ, 5. Thanh thắng xứ, 6. Hoàng thắng xứ, 7. Xích thắng xứ, 8. Bạch thắng xứ. Theo Trí độ luận thì bốn pháp sau (quán bốn màu xanh, vàng, đỏ, trắng) được thay bằng bốn đại (đất, nước, gió, lửa), nhưng nội dung không khác.
[102] Mười pháp nhất thiết xứ (Thập nhất thiết xứ, cũng gọi là Thập biến xứ): Hành giả quán mười pháp là: xanh, vàng, đỏ, trắng, đất, nước, gió, lửa, không và thức, thấy các pháp này châu biến khắp pháp giới, nên gọi là nhất thiết xứ.
[103] Voi chúa dũng kiện: nguyên bản Hán văn dùng ma-ha-na-già, Hán dịch là đại hương tượng, chỉ con voi sung sức, khỏe mạnh nhất trong đàn voi.
[104] Bát-kiện-đà, cũng đọc là bát-kiện-đề: tên gọi một loại thần có sức mạnh.
[105] Bốn thứ binh (Tứ chủng binh): Binh voi, binh ngựa, binh xe, binh bộ. Bốn thứ binh của các nhà vua thuở xưa.
[106] Nguyên bản Hán văn chỗ này chỉ nói là ngã (tắc danh vi ngã) nhưng hàm ý rõ ràng là đại ngã, vì trong văn cảnh tám đoạn theo sau đều dùng đại ngã. Để tránh sự nhầm lẫn với khái niệm ngã trong vô ngã vừa nói trên, nên ở đây chúng tôi vẫn dịch là đại ngã.
[107] Ở đây đang nói đến các niềm vui thế tục, của phàm phu. Về sự vui này, văn Quy Sơn cảnh sách nói rõ: “Vui chính là nguyên nhân của khổ.” (Lạc thị khổ nhân.)
[108] Tỳ-xá-khư là một vị ưu-bà-di (nữ cư sĩ) ở thành Xá-vệ. Đức Phật giao cho bà nhiệm vụ thông tin qua lại giữa các vị trong tăng đoàn tỳ-kheo và tỳ-kheo ni. Bà cũng là người đề đạt ý nguyện của các vị ưu-bà-di khác lên đức Phật.
[109] Ca-ca-la: con quạ, nhân theo tiếng kêu của quạ mà tiếng Phạn gọi là ca-ca-la.
[110] Cứu-cứu-la, cũng đọc là cưu-cưu-trá: con gà, nhân theo tiếng kêu của gà mà tiếng Phạn gọi là cứu-cứu-la.
[111] Đát-đát-la: tên khác chỉ con gà, vì nghe theo tiếng kêu mà đặt tên nên thành hai tên khác nhau. Huyền ứng âm nghĩa, quyển 2 viết: “Đát-đát-la, thị kê thanh dã.” (Đát-đát-la là tiếng kêu của con gà.). Tuệ Lâm âm nghĩa, quyển 26 viết: “Đát-đát-la, dụng thanh đắc danh.” (Đát-đát-la, dùng tiếng kêu mà đặt tên.) Theo cả hai sách này thì biết đát-đát-la đúng là tên gọi để chỉ con gà.
[112] Chỉ cái mang rắn khi phùng lớn ra.
[113] Công đức thứ nhất: Ở đầu quyển 21 Phật dạy rằng Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết-bàn này sẽ được mười công đức. Trong mười công đức ấy, công đức thứ nhất có năm điều: Một là những điều không [thể] nghe có thể được nghe. Hai là được nghe rồi có thể làm lợi ích. Ba là có thể trừ dứt lòng nghi hoặc. Bốn là tâm sáng suốt ngay thẳng không tà vạy. Năm là có thể biết được tạng sâu kín của Như Lai. Từ đầu quyển 21 cho đến hết quyển 23 này là giảng xong phần công đức thứ nhất.
[114] Theo Nam bản thì từ đây hết quyển 21, bắt đầu quyển 22, phẩm Bồ Tát Quang Minh Cao Quý Đức Vương, phần thứ tư (Quang Minh Cao Quý Đức Vương Bồ Tát phẩm chi tứ).
[115] Ở đầu quyển 21, Phật dạy rằng Bồ Tát tu hành Kinh Đại Niết-bàn sẽ được 10 công đức. Từ quyển 21 đến cuối quyển 23 đã giảng xong phần công đức thứ nhất. Quyển 24 này giảng giải từ công đức thứ nhì cho đến công đức thứ sáu.
[116] Năm đường: Tức năm cảnh giới thọ sanh của chúng sanh, bao gồm cõi trời, cõi người, cõi ngạ quỷ, cõi súc sanh và cõi địa ngục. Cũng tương tự như khi nói về Lục đạo, nhưng không có cảnh giới a-tu-la.
[117] Khởi tướng nhân duyên: thấy biết rằng hết thảy mọi hình sắc đều do nhân duyên hợp thành mà có.
[118] Ba mươi sáu thứ (Tam thập lục vật): Một cách liệt kê tượng trưng các chi tiết hợp thành thân người, bao gồm: 12 thứ ngoài thân: tóc, lông, móng, răng, dử ghèn, nước mắt, nước miếng, đàm dãi, phẩn, nước tiểu, cáu ghét, mồ hôi; 12 thứ trong thân: da, da non, máu, thịt, gân, mạch, xương, tủy, mỡ trong, mỡ ngoài, não, mạc; 12 cơ quan nội tạng: gan, mật, ruột, dạ dày, lách, cật, tim, phổi, sanh tạng (tam tiêu), thục tạng (bàng quang), đàm trắng, đàm đỏ.
[119] Tướng tâm và tâm sở: Tướng trạng của tâm và những hình thái cảm xúc, tâm trạng khác nhau. Nguyên bản dùng tâm số là một cách dùng cũ mà ngày nay đã được thay bằng tâm sở.
[120] Đệ nhất nghĩa: chân lý hay sự thật tuyệt đối, rốt ráo, để phân biệt với Thế đế, Tục đế hay sự thật tương đối. Khi ta nhìn thấy và mô tả sự vật theo hiện trạng của nó như được nhìn thấy, đó là sự thật tương đối. Bồ Tát quán xét thấy được bản thể tuyệt đối, rốt ráo của sự vật, đó là Đệ nhất nghĩa hay Đệ nhất nghĩa đế.
[121] Sáu đường: chỉ các cảnh giới chư thiên, a-tu-la, người, địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh.
[122] Mười sáu tâm (Thập lục tâm): Người mới vào địa vị kiến đạo (Thấy đạo), nhờ quán Tứ Thánh đế (Khổ, Tập, Diệt, Đạo) mà sanh ra mười sáu tâm, hợp thành bởi tám pháp nhẫn vô lậu và tám pháp trí vô lậu: 1. Khổ pháp nhẫn, 2. Khổ pháp trí, 3. Khổ loại nhẫn, 4. Khổ loại trí, 5. Tập pháp nhẫn, 6. Tập pháp trí, 7. Tập loại nhẫn, 8. Tập loại trí, 9. Diệt pháp nhẫn, 10. Diệt pháp trí, 11. Diệt loại nhẫn, 12. Diệt loại trí, 13. Đạo pháp nhẫn, 14. Đạo pháp trí, 15. Đạo loại nhẫn, 16. Đạo loại trí.
[123] Thế đế: sự thật được nhận biết trong thế gian, qua khả năng nhận biết của người thế gian, cũng gọi là Tục đế, hay sự thật tương đối.
[124] Đệ nhất nghĩa, hay Đệ nhất nghĩa đế: chỉ chân lý tuyệt đối, rốt ráo, thấu suốt bản thể của sự vật, tức là cách nhìn nhận sự vật qua trí tuệ giác ngộ.
[125] Tật khuyết nam căn: nguyên bản Hán văn dùng hoàng môn, chỉ chung những kẻ do tật khuyết nam căn (dương vật) nên không thể làm việc hành dâm, hoặc do có bệnh tật, hoặc do bị thiến...
[126] Vô căn, nhị căn: Không giới tính, chỉ người sanh ra không có cơ quan sanh dục (vô căn), lưỡng tính, chỉ người sanh ra có cả cơ quan sanh dục nam và nữ (nhị căn).
[127] Phước điền, nghĩa đen là ruộng phước, chỉ những bậc đức độ xứng đáng nhận sự cúng dường của người khác, vì như thế là tạo điều kiện để họ gieo trồng phước đức nên xem như đám ruộng phước.
[128] Hữu dư: còn tồn tại, vẫn còn sót lại, được dùng để chỉ hết thảy những sự vật và lý lẽ chưa đạt đến chỗ rốt ráo, cùng cực, cho nên đối nghĩa với vô dư.
[129] Phóng dật: buông thả, phóng túng, không giữ mình theo các pháp lành, cũng không có sự tinh tấn nỗ lực tu tập.
[130] Bốn con sông lớn (Tứ đại hà): thường được nhắc đến ở các ví dụ trong kinh điển, chỉ bốn con sông lớn nhất ở Ấn Độ, đều phát nguyên từ dãy núi Hy-mã-lạp, gồm có: sông Hằng, sông Tân-đầu, sông Tư-đà và sông Bác-xoa.
[131] Bà-lợi-sư, cũng đọc là bà-sư, bà-sư-ca hay bà-lợi-sư-ca, dịch nghĩa là vũ thời sanh hay hạ sanh, vì hoa này có vào mùa mưa hoặc mùa hạ. Hoa đẹp, màu trắng, rất thơm, tên khoa học là, mọc ở vùng Ấn Độ.
[132] Kim sí: loài chim lớn cánh vàng được nhắc đến trong thần thoại, dịch âm là ca-lâu-la. Loài chim này được mô tả như là chúa của các loài chim, thân hình rất to lớn, nên cũng gọi là kim sí điểu vương.
[133] Ngoại đạo giữ giới: Tuy những người này tu hành theo ngoại đạo, nhưng nhờ giữ giới nên vẫn có được đức độ, cũng xứng đáng nhận cúng dường, nên cũng là phước điền.
[134] Niệm tưởng khác biệt (dị niệm xứ): lìa bỏ những chỗ nhận thức phân biệt, chia chẻ, thấy biết đúng theo sự quán xét chân chánh, theo lý trung đạo. Niết-bàn kinh sớ viết: “Dị niệm xứ giả, dị ư nhị biên, chánh quán trung đạo.”
[135] Nhất tử địa: cũng gọi là Cực ái nhất tử địa, địa vị tu chứng khi Bồ Tát tu tập hạnh đại từ, đại bi, thương yêu tất cả chúng sanh đều như đứa con duy nhất của mình.
[136] Nguyên bản dùng kỳ-bà-kỳ-bà, tức là chim cộng mạng có nói đến trong kinh A-di-đà.
[137] Trọng giới thứ nhất: tức là giới sát, giết hại.
[138] Thập lục ác luật nghi, mười sáu việc xấu ác mà người học Phật phải tránh xa, bao gồm: 1. Vì lợi dưỡng mà nuôi dê con cho béo mập rồi đem bán, 2. Vì lợi dưỡng mà bán dê cho người ta giết hại, 3. Vì lợi dưỡng mà nuôi lợn con cho béo mập rồi đem bán, 4. Vì lợi dưỡng mà bán lợn cho người ta giết hại, 5. Vì lợi dưỡng mà nuôi trâu, bò con cho béo mập rồi đem bán, 6. Vì lợi dưỡng mà bán trâu, bò cho người ta giết hại. 7. Vì lợi dưỡng mà nuôi gà cho béo mập rồi đem bán, 8. Vì lợi dưỡng mà bán gà cho người ta giết hại. 9. Câu cá, 10. Đi săn, 11. Cướp đoạt, 12. Mò bắt các loài cua, ốc... 13. Giăng lưới bắt chim, 14. Nói lời hai lưỡi, nói lời ly gián, trêu chọc người khác, 15. Làm cai ngục, 16. Dùng chú thuật.
[139] Trọng giới thứ hai: tức là giới trộm cắp.
[140] Chỉ vì mối lợi rất ít ỏi: nguyên bản Hán văn dùng “hỷ phạm trọng giới nãi chí ngũ tiền”; trong Nam bản khắc là “hỷ phạm trọng giới nãi chí ti tiện”. Cụm từ “nãi chí ngũ tiền” có liên quan đến một khái niệm trong giới luật vào thời Phật mới chế định, chỉ một số tiền rất ít. Trong văn thọ giới có câu:... Phật chế cực thiểu nãi chí ngũ tiền nhược ngũ tiền trị.” (... Phật chế định mức độ nhỏ nhất, thậm chí chỉ là năm tiền, hoặc [vật có] giá trị tương đương năm tiền...) Đây là khi nói về giới không trộm cắp. Như vậy, hai chữ “ngũ tiền” không sai, nhưng Nam bản sửa lại là “ti tiện” có lẽ để cho dễ hiểu hơn. Chúng tôi chuyển dịch là “mối lợi ít ỏi” cũng là nhằm diễn tả khái niệm này theo cách dễ hiểu hơn. Mặt khác, cũng theo khái niệm vừa được nhắc đến thì người trộm cắp món vật có giá trị dưới năm tiền tuy cũng là phạm giới nhưng chưa xem là trọng giới. Vì thế ở đây không thể nói đến việc trộm cắp năm tiền, mà chỉ có thể là vì tham năm tiền, một số tiền rất ít ỏi, mà phạm vào các trọng giới. Đây cũng đúng là bản chất của người ngu si vậy.
[141] Trọng giới thứ tư: tức giới đại vọng ngữ, nghĩa là chưa chứng thánh quả mà nói dối rằng mình đã chứng quả.
[142] Ở đây không thấy nói đến phần thứ sáu là “Đoạn trừ nghiệp duyên”, như đã nêu trong mười phần công đức ở đoạn kinh văn trước.
[143] Cho đến ... tu tập theo Chánh kiến: Ở đây nói tóm việc tu tập Mười pháp lành (Thập thiện chánh pháp), kể đủ ra gồm có: 1. Không giết hại, 2. Không trộm cắp, 3. Không tà dâm, 4. Không nói dối, 5. Không nói lời ác độc, 6. Không nói lời hai lưỡi, đâm thọc, ly gián, 7. Không nói lời vô nghĩa, 8. Không tham lam, 9. Không sân khuể, 10. Không tà kiến. Bồ Tát tu tập mỗi một pháp lành này đều tuần tự khởi đủ 5 tâm, nên cả thảy 10 pháp có đủ 50 tâm.
[144] Bồ Tát trụ ở địa vị thứ năm (Ngũ trụ Bồ Tát): địa vị thứ năm trong Thập trụ của hàng Bồ Tát. Thập trụ chỉ mười địa vị tu chứng mà vị Bồ Tát lần lượt trải qua trước khi đạt được quả vị Phật, vì thế có thể xem như tương đương với Thập địa. Kinh luận đề cập đến mười địa vị này không hoàn toàn giống nhau, nhưng tựu trung đều là để tạm hình dung được con đường tu tập mà vị Bồ Tát phải trải qua. Địa vị thứ năm ở đây có thể là Phương tiện cụ túc trụ, tương đương với Cực nan thắng địa trong hệ thống Thập địa. Tuy có sự khác biệt về tên gọi, nhưng tất cả các kinh luận đều thống nhất trong cách mô tả về mười địa vị của Bồ Tát. Theo đó, từ địa vị thứ sáu trở lên, Bồ Tát không còn chịu sự ràng buộc của sanh tử, có thể hoàn toàn tự do tự tại trong việc hóa thân độ sanh tùy ý muốn.
[145] Ở đây, Bồ Tát từ địa vị thứ năm trở xuống chưa đạt được sự tự tại hóa sanh nên còn phải xem phiền não như một nhân duyên giúp mình có thể thực hiện công việc độ sanh. Từ địa vị thứ sáu trở lên, Bồ Tát hoàn toàn tự tại trong việc hóa thân độ sanh nên các ngài dứt bỏ hoàn toàn mọi phiền não. Vì thế mà đoạn trên có nói: Tất cả phiền não là thù oán đối nghịch của Bồ Tát.
[146] Tám thứ Ma (bát chủng ma, hay bát ma): đã nói ở quyển 22 (xem lại trang 404, 405), gồm có: ma phiền não, ma năm ấm, ma chết, ma trời Tha hóa tự tại và vô thường, vô ngã, vô lạc, vô tịnh. Bốn thứ ma: ma phiền não, ma năm ấm, ma chết, ma trời Tha hóa tự tại là ma não hại tất cả phàm phu; bốn thứ ma: vô thường, vô ngã, vô lạc, vô tịnh là ma não hại hàng Nhị thừa.
[147] Tu tập cõi Phật thanh tịnh: tức là phần thứ tư trong mười việc công đức vừa giảng trên. Bồ Tát Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương nêu ý này vì cho rằng cõi thế giới Ta-bà của đức Phật Thích-ca hiện nay là không thanh tịnh.
[148] Thế giới An Lạc: cũng gọi là Cực Lạc, là nơi có đức Phật A-di-đà.
[149] Bồ Tát Từ Thị: tức là Bồ Tát Di-lặc, do phiên âm từ tiếng Phạn là Maitreya. Bồ Tát Di-lặc được thọ ký là sẽ thành Phật ở thế giới Ta-bà này, tiếp theo sau Phật Thích-ca.
[150] Xa xôi hẻo lánh: nguyên bản Hán văn dùng biên địa, chỉ những vùng đất ở xa nơi trung tâm văn hiến (trung quốc). Vì thế nên những người sanh ra ở đây có nhiều bất lợi trong việc tu học: điều kiện vật chất thiếu thốn, điều kiện tu tập và hành trì cũng đều khó khăn, lại rất khó gặp được những vị thầy giỏi, bạn tốt. Đây được xem là một trong tám nạn, khiến chúng sanh khó tu học Phật pháp.
[151] Túc mạng trí, cũng chính là Túc mạng thông, một trong Ngũ thông, Lục thông. Người chứng đắc Túc mạng trí có thể biết được hết thảy những việc đời quá khứ của chính mình và của chúng sanh.
[152] Cho đến Bát-nhã ba-la-mật: Bát-nhã ba-la-mật cũng chính là Trí tuệ ba-la-mật. Đây nói tóm cả việc tu tập sáu pháp ba-la-mật, bao gồm: bố thí, trì giới, tinh tấn, nhẫn nhục, thiền định và trí tuệ.
[153] A-na-bà-đạp-đa: phiên âm từ tiếng Phạn là Anavatapta, cũng đọc là A-nậu-đạt, dịch nghĩa là Vô nhiệt hay Vô não nhiệt.
[154] Ma-hê-thủ-la, dịch nghĩa là Đại Tự tại thiên, tức là vị Thiên vương cao nhất trong hai cõi Dục giới và Sắc giới.
[155] Giới: chỉ 18 giới, gồm 6 căn ở trong, 6 trần ở ngoài và 6 thức ở giữa.
[156] Nhập: chỉ 12 nhập, gồm sáu căn thiệp nhập với sáu trần, sáu trần thiệp nhập với sáu căn.
[157] Từ sắc cho đến thức: chỉ năm ấm, tức là sắc, thọ, tưởng, hành và thức.QUYỂN HAI MƯƠI LĂM[158]
PHẨM BỒ TÁT QUANG MINH BIẾN CHIẾU CAO QUÝ ĐỨC VƯƠNG
Phẩm thứ mười – Phần năm
Lại nữa,
thiện nam tử!
Bồ Tát Ma-ha-tát
tu hành kinh điển vi diệu Đại Niết-bàn,
thành tựu trọn vẹn công đức thứ bảy như thế nào?
“Thiện nam tử!
Bồ Tát Ma-ha-tát
tu hành kinh điển vi diệu Đại Niết-bàn
khởi tâm suy xét rằng: ‘Pháp nào có thể làm nhân
thiết thực gần gũi dẫn đến Đại Niết-bàn?’ [
Suy xét như vậy rồi,]
Bồ Tát liền
nhận biết bốn pháp có thể làm nhân
đến gần Đại Niết-bàn.
“Nếu nói rằng siêng tu tất cả
khổ hạnh là
nhân duyên đến gần Đại Niết-bàn, nghĩa ấy không đúng. Vì sao vậy? Vì nếu lìa khỏi bốn pháp này mà được Niết-bàn là
hoàn toàn vô lý. Những gì là bốn pháp? Một là gần gũi các bậc
thiện tri thức, hai là
hết lòng nghe pháp, ba là
chú tâm suy xét và bốn là
y theo pháp
tu hành.
“Thiện nam tử!
Ví như có người thân mang nhiều bệnh, khi nóng khi lạnh,
suy nhược hao tổn, khí huyết chẳng thông, nhiễm tà trúng độc... liền tìm đến thầy thuốc giỏi. Thầy thuốc tùy bệnh mà chỉ dạy cách dùng thuốc. Người ấy
hết lòng lắng nghe và tin nhận lời chỉ dạy của thầy thuốc; theo đó
hòa hợp các vị thuốc và uống thuốc đúng
phương pháp. Uống thuốc rồi liền khỏi bệnh, thân được yên vui.
“Người có bệnh đó
ví như các vị
Bồ Tát. Vị thầy thuốc giỏi đó
ví như bậc
thiện tri thức. Lời chỉ dạy của thầy thuốc
ví như kinh Phương đẳng. Biết tin nhận lời dạy ấy cũng
ví như biết
suy xét nghĩa lý trong
kinh Phương đẳng.
Tùy theo lời dạy mà
hòa hợp các vị thuốc
ví như tu hành theo đúng
Ba mươi bảy pháp trợ đạo.[159] Bệnh được khỏi hẳn
ví như phiền não được dứt trừ. Thân được yên vui
ví như người
tu hành đạt đến Niết-bàn với thường, lạc, ngã, tịnh.
“Thiện nam tử!
Ví như một vị vua muốn tìm
phương pháp cai trị và
giáo hóa sao cho
nhân dân được yên vui; liền hỏi các
vị quan có
trí tuệ về
phương pháp ấy. Các quan liền đem
phương pháp trị nước của các vua trước đây mà trình bày. Vị vua ấy nghe rồi liền
hết lòng tin nhận và làm theo, trị nước đúng theo
phương pháp ấy, không còn những sự hờn oán đối nghịch. Nhờ đó
nhân dân được yên vui, không có
hoạn nạn.
“Thiện nam tử! Vị vua đó
ví như các vị
Bồ Tát. Các
vị quan có
trí tuệ ví như những bậc
thiện tri thức.
Phương pháp trị nước mà các quan trình bày với vua
ví như Mười hai bộ kinh.[160] Vua nghe rồi
hết lòng tin nhận và làm theo,
ví như các vị
Bồ Tát chú tâm suy xét ý nghĩa sâu xa kín đáo của
Mười hai bộ kinh. Theo đúng
phương pháp trị nước là
ví như các vị
Bồ Tát y theo Chánh pháp mà
tu hành, chẳng hạn như tu sáu pháp Ba-la-mật.[161] Nhờ
tu tập sáu pháp Ba-la-mật nên không còn những sự hờn oán đối nghịch,
ví như các vị
Bồ Tát đã dứt lìa quân giặc xấu ác là những
trói buộc phiền não.
Nhân dân được yên vui
ví như các vị
Bồ Tát đạt đến Niết-bàn với thường, lạc, ngã, tịnh.
“Thiện nam tử!
Ví như người mắc bệnh cùi, có vị
thiện tri thức bảo rằng: ‘Nếu ông đến được nơi ven núi Tu-di thì có thể khỏi bệnh. Vì sao vậy? Vì ở đó có một loại thuốc hay,
mùi vị như
cam lộ. Ai đã dùng thuốc ấy thì cho dù bệnh gì cũng được khỏi cả!’ Người ấy
hết lòng tin tưởng việc này, liền đi đến nơi ven núi Tu-di, tìm hái được và uống vị thuốc [
có mùi vị] như
cam lộ kia. Uống rồi liền khỏi bệnh, thân được yên vui.
“Người mắc bệnh cùi
ví như những kẻ
phàm phu. Vị
thiện tri thức kia
ví như các vị
Đại Bồ Tát.
Hết lòng tin nhận sự việc
ví như Bốn tâm vô lượng.[162] Núi Tu-di
ví như Tám Thánh đạo.
Mùi vị cam lộ ví như tánh Phật. Bệnh cùi được khỏi
ví như dứt lìa mọi
phiền não. Thân được yên vui
ví như đạt đến Niết-bàn với thường, lạc, ngã, tịnh.
“Thiện nam tử!
Ví như có người nuôi các
đệ tử đều
thông minh lanh lợi. Người ấy ngày đêm thường dạy dỗ không
mệt mỏi. Các vị
Bồ Tát cũng vậy, thường
giáo hóa tất cả
chúng sanh không hề
mệt mỏi, chán nản, dù cho có kẻ [
phát khởi lòng] tin hoặc không tin.
“Thiện nam tử! Những bậc
thiện tri thức là Phật,
Bồ Tát,
Phật Bích-chi,
Thanh văn và những người tin nhận
kinh Phương đẳng.
“Vì sao gọi đó là các bậc
thiện tri thức?
Thiện tri thức là bạn lành có
hiểu biết, là những người có thể dạy cho
chúng sanh lìa xa
Mười điều ác,[163]
tu hành Mười điều thiện.[164] Vì thế nên gọi là
thiện tri thức, nghĩa là có sự
hiểu biết tốt lành.
“Lại nữa,
thiện tri thức là những người
thuyết giảng đúng theo
Chánh pháp và
thực hành theo đúng như sự
thuyết giảng đó. Sao gọi là
thuyết giảng đúng theo
Chánh pháp và
thực hành theo đúng như sự thuyết giảng? Đó là tự mình không làm việc giết hại và dạy người khác đừng giết hại,
cho đến tự mình
thực hành Chánh kiến[165] và dạy người khác
thực hành Chánh kiến.
Nếu có thể được như vậy mới đáng gọi là bậc
thiện tri thức chân thật.
“Tự mình
tu đạo giác ngộ và cũng dạy cho người khác
tu hành giác ngộ. Vì nghĩa ấy nên gọi là bậc
thiện tri thức. Tự mình có thể
tu hành tín, giới,
bố thí,
đa văn,
trí tuệ, lại cũng có thể dạy người
tu hành tín, giới,
bố thí,
đa văn,
trí tuệ. Vì nghĩa ấy nên gọi là bậc
thiện tri thức.
“Thiện
tri thức là người có những pháp lành. Những gì là pháp lành? Đó là khi làm bất cứ việc gì đều chẳng cầu sự an vui cho riêng mình, mà luôn cầu sự an vui cho hết thảy
chúng sanh. Thấy người khác có sự
lỗi lầm cũng không thường nói ra chỗ khiếm khuyết của họ [để chê bai], chỉ thường nói ra toàn những việc
tốt lành [để khuyến khích]. Vì nghĩa ấy nên gọi là bậc
thiện tri thức.
“Thiện nam tử! Như
mặt trăng giữa không trung, từ mồng một
cho đến rằm cứ mỗi ngày một lớn hơn. Bậc
thiện tri thức cũng vậy, giúp cho những người
tu học dần dần lìa xa các pháp xấu ác,
tăng trưởng các pháp lành [mỗi ngày một lớn mạnh hơn].
“Thiện nam tử! Người chưa từng có giới, định, tuệ,
giải thoát,
giải thoát tri kiến, nếu gần gũi bậc
thiện tri thức liền được có; nếu đã có nhưng chưa đầy đủ, liền được
tăng trưởng thêm. Vì sao vậy? Đó là nhờ gần gũi với các bậc
thiện tri thức. Nhờ sự gần gũi ấy lại được
hiểu rõ nghĩa lý sâu xa của
Mười hai bộ kinh.
Nếu có thể nghe được nghĩa lý sâu xa của
Mười hai bộ kinh mới gọi là
nghe pháp.
“Nghe pháp [ở đây] tức là nghe những
kinh điển Phương đẳng Đại thừa.
Nghe được những
kinh điển Phương đẳng mới thật là
nghe pháp. Người thật
nghe pháp là lắng nghe và thọ nhận kinh Đại Niết-bàn. Từ trong kinh Đại Niết-bàn mà nghe biết rằng có tánh Phật, rằng
Như Lai rốt cùng không dứt bỏ tất cả mà nhập Niết-bàn.
Nghe được như vậy nên gọi là
hết lòng nghe pháp.[166]
“Hết lòng
nghe pháp, đó là nghe
Tám Thánh đạo. Vì
Tám Thánh đạo có thể
đoạn tuyệt tham dục,
sân khuể,
ngu si, cho nên nghe
Tám Thánh đạo gọi là
nghe Pháp.
“Nghe pháp, tức là [nghe về]
Mười một pháp không.[167]
Do nơi các
pháp không này mà đối với tất cả các pháp đều không tạo tác tướng trạng,
hình mạo.
“Nghe pháp, tức là từ chỗ
phát tâm ban đầu [rồi
tu tập]
cho đến chỗ
cứu cánh cuối cùng của tâm
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Vì nhân chỗ
phát tâm ban đầu mà [
tu tập dần dần]
đạt đến Đại Niết-bàn. Không phải chỉ nghe mà
đạt đến Đại Niết-bàn, chính nhờ sự
tu tập mới
đạt đến Đại Niết-bàn.
“Thiện nam tử!
Ví như người bệnh, tuy được
nghe lời chỉ dạy của thầy thuốc và nghe tên các vị thuốc, nhưng chẳng khỏi bệnh. Phải uống thuốc vào mới được khỏi bệnh. [Cũng vậy,] tuy có được
nghe pháp Mười hai nhân duyên sâu xa cũng không thể dứt trừ hết thảy
phiền não;
cần phải chú tâm suy xét kỹ lưỡng mới có thể dứt
trừ phiền não. Đó là pháp thứ ba trong bốn pháp làm
nhân duyên đạt đến Đại Niết-bàn: phải
chú tâm suy xét.
“Chú tâm
suy xét còn có
ý nghĩa gì khác nữa? Đó là
ba pháp Tam-muội:
Tam-muội Không,
Tam-muội Vô tác và
Tam-muội Vô tướng.
“Không, nghĩa là đối với
Hai mươi lăm cảnh giới hiện hữu không thấy có
cảnh giới nào là có thật.
Vô tác, nghĩa là đối với
Hai mươi lăm cảnh giới hiện hữu không có một sự
ước nguyện mong cầu nào cả.
Vô tướng, nghĩa là không có
mười tướng: tướng
hình sắc, tướng
âm thanh, tướng mùi hương, tướng vị nếm, tướng xúc chạm, tướng sanh ra, tướng
tồn tại, tướng diệt mất, tướng nam và tướng nữ.
“Tu tập
ba pháp Tam-muội như trên gọi là sự
chú tâm suy xét của hàng
Bồ Tát.
“Sao gọi là
y theo pháp mà tu hành? Đó là
tu hành các pháp ba-la-mật, từ
Bố thí cho đến Bát-nhã;[168] rõ biết tướng
chân thật của các ấm, nhập, giới; cũng rõ biết rằng các vị
Thanh văn,
Duyên giác và chư Phật đều theo cùng một đường mà nhập Niết-bàn. Pháp của Niết-bàn là thường, lạc, ngã, tịnh, không sanh, không già, không bệnh, không chết, không
đói khát, không
khổ não,
không thối chuyển, không diệt mất.
“Thiện nam tử! Hiểu được
ý nghĩa rất
sâu xa của Đại Niết-bàn thì biết rằng chư Phật rốt cùng không dứt bỏ tất cả mà nhập Niết-bàn.
“Thiện nam tử! Bậc
thiện tri thức chân thật nhất là chư
Bồ Tát và chư
Phật Thế Tôn. Vì sao vậy? Vì thường khéo dùng ba cách
điều phục giáo hóa chúng sanh. Ba cách ấy là gì? Một là [có khi] dùng toàn những lời dịu ngọt, hai là [có khi] dùng toàn những lời
quở trách và ba là [có khi lại] vừa dùng lời dịu ngọt vừa
quở trách. Vì nghĩa ấy nên
Bồ Tát và chư Phật là những bậc
thiện tri thức chân thật nhất!
“Lại nữa,
thiện nam tử! Phật và
Bồ Tát là những bậc đại
lương y nên xưng là
thiện tri thức. Vì sao vậy? Vì biết rõ bệnh, biết rõ thuốc, có thể tùy bệnh mà cho thuốc
thích hợp.
“Ví như vị
lương y thông thạo tám phép trị bệnh, trước hết phải
xem tướng trạng của bệnh. Có
ba tướng trạng khác nhau là phong, nhiệt và thủy. Người có bệnh phong thì cho dùng dầu váng sữa, người có bệnh nhiệt thì cho dùng đường phèn, người có bệnh thủy thì cho cho uống nước gừng. Vì rõ biết gốc bệnh nên cho dùng thuốc liền khỏi bệnh, được tôn xưng là
lương y.
“Chư Phật và
Bồ Tát cũng vậy, các ngài rõ biết bệnh của người
phàm phu có ba loại:
tham dục,
sân khuể và
ngu si. Những kẻ có bệnh
tham dục liền dạy họ phép
quán xương trắng.[169] Những kẻ có bệnh
sân khuể liền dạy cho họ phép
quán từ bi.[170] Những kẻ có bệnh
ngu si liền dạy cho họ phép
quán Mười hai nhân duyên.[171] Vì nghĩa ấy nên tôn xưng chư Phật và
Bồ Tát là
thiện tri thức.
“Thiện nam tử!
Ví như vị
đại thuyền sư,[172] có tài đưa người vượt biển nên được tôn xưng là
đại thuyền sư. Chư Phật và
Bồ Tát cũng vậy, các ngài
cứu độ chúng sanh vượt khỏi biển
sanh tử. Vì nghĩa ấy nên được tôn xưng là
thiện tri thức.
“Lại nữa,
thiện nam tử! Nhờ có chư Phật và
Bồ Tát nên
chúng sanh mới
tu hành đạt được đầy đủ các pháp lành
căn bản.
Thiện nam tử!
Ví như Tuyết sơn là cội nguồn
căn bản của đủ mọi thứ thuốc hay lạ
quý báu. Chư Phật và
Bồ Tát cũng vậy, là
căn bản của mọi điều lành. Vì nghĩa ấy nên được tôn xưng là
thiện tri thức.
“Thiện nam tử! Nơi
Tuyết sơn có loại thuốc quý rất thơm, gọi là Ta-ha. Ai gặp được loại thuốc ấy thì sống lâu, không có
bệnh khổ. Dầu gặp
bốn thứ độc[173] cũng không làm hại được. Ai chạm vào tới thuốc ấy thì tuổi thọ tăng thêm, sống đến một trăm hai mươi tuổi. Ai niệm tưởng thuốc ấy thì được
trí túc mạng.[174] Vì sao vậy? Đó là nhờ
thế lực của thuốc ấy. Chư Phật và
Bồ Tát cũng vậy. Những ai được gặp Phật và
Bồ Tát đều dứt trừ tất cả
phiền não. Dầu gặp bốn thứ ma[175] cũng không bị nhiễu loạn. Những ai được
tiếp xúc với Phật và
Bồ Tát thì
đời sống được dài lâu, vượt khỏi
sanh tử, không còn
thối chuyển, diệt mất.
Tiếp xúc ở đây có nghĩa là được ở bên Phật, được nghe và
lãnh thọ Chánh pháp nhiệm mầu. Những ai niệm tưởng chư Phật và
Bồ Tát đều sẽ
đạt được A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Vì nghĩa ấy nên tôn xưng chư Phật và
Bồ Tát là
thiện tri thức.
“Thiện nam tử! Như ở
Hương sơn có hồ A-na-bà-đạp-đa.[176] Từ nơi hồ ấy có bốn con sông cái chảy ra là
sông Hằng, sông Tân-đầu, sông Tư-đà và sông Bác-xoa. Người đời thường nói rằng những ai có tội mà tắm ở bốn sông ấy thì các tội đều
tiêu diệt. Nên biết rằng lời ấy là
hư dối, [vì việc tắm sông]
không thật trừ diệt được những
việc làm [xấu ác] đã qua. Những gì là thật? Chỉ có chư Phật và
Bồ Tát mới là thật. Vì sao vậy? Những ai thân cận chư Phật và
Bồ Tát ắt
trừ diệt được tất cả các
tội lỗi [trước đây]. Vì nghĩa ấy nên tôn xưng chư Phật và
Bồ Tát là
thiện tri thức.
“Lại nữa,
thiện nam tử!
Ví như trên mặt đất có những loại cây thuốc, rừng rậm, trăm giống lúa, mía đường,
hoa quả... Gặp lúc nắng hạn, hết thảy những thứ ấy đều khô cằn sắp chết. Các vị
long vương Nan-đà và Bạt-nan-đà
thương xót chúng sanh nên ra khỏi biển cả, đổ xuống trận mưa lành. Nhờ đó, hết thảy rừng rậm, lúa thóc, cỏ cây đều được tươi nhuận và
sống lại.
“Tất cả
chúng sanh cũng giống như thế, có bao nhiêu căn lành đều sắp diệt mất cả. Chư Phật và
Bồ Tát sanh lòng
đại từ bi, từ nơi biển
trí tuệ đổ xuống cơn mưa
cam lộ [là
Chánh pháp], giúp cho
chúng sanh được đầy đủ pháp
Thập thiện.[177] Vì nghĩa ấy nên tôn xưng chư Phật và
Bồ Tát là
thiện tri thức.
“Thiện nam tử!
Ví như vị
lương y thông thạo tám phép trị bệnh, khi gặp người bệnh không hề
quan tâm đến
dòng họ chủng tộc, không
phân biệt đẹp hay xấu, giàu hay nghèo... đều lo việc chữa trị ngay. Vì thế nên được tôn xưng là đại
lương y. Chư Phật và
Bồ Tát cũng vậy, khi
chúng sanh có bệnh
phiền não, các ngài chẳng
quan tâm đến
dòng họ chủng tộc, chẳng
phân biệt tốt xấu, giàu nghèo... đều vì tất cả mà khởi
lòng từ mẫn
thuyết pháp cho nghe.
Chúng sanh nghe rồi thì bệnh
phiền não được dứt trừ. Vì nghĩa ấy nên chư Phật và
Bồ Tát được tôn xưng là
thiện tri thức.
“Nhờ
nhân duyên gần gũi các bậc
thiện hữu như thế mà được
đến gần Đại Niết-bàn.
“Thế nào là
Bồ Tát nhờ
nhân duyên nghe pháp mà được
đến gần Đại Niết-bàn?
“Hết thảy
chúng sanh nhờ
nghe pháp mà đầy đủ
tín căn.[178] Nhờ có
tín căn nên
ưa thích thực hành bố thí,
trì giới,
nhẫn nhục,
tinh tấn,
thiền định,
trí tuệ;
chứng quả Tu-đà-hoàn
cho đến quả Phật. Vì thế nên biết rằng có được các pháp lành đều là nhờ
tác dụng của
nhân duyên nghe pháp.
“Thiện nam tử!
Ví như vị
trưởng giả chỉ có một người con
duy nhất, vì có việc buôn bán
cần thiết ở nước khác nên sai con đến đó. Ông chỉ rõ đường sá cho con, chỗ nào
thuận tiện, chỗ nào
hiểm trở, rồi lại răn dạy rằng: ‘Nếu gặp phải hạng đàn bà
dâm đãng thì phải
thận trọng không được gần gũi yêu mến. Nếu con yêu mến hạng người ấy thì phải táng thân
mất mạng và
tiêu tan hết cả
tiền của. Đối với những kẻ xấu ác cũng không được
giao du.’ Người con kính
vâng lời cha dạy,
thân tâm được
yên ổn, mang về rất nhiều
tiền của.
“Bồ Tát Ma-ha-tát vì
chúng sanh giảng giải pháp yếu cũng giống như vậy, chỉ rõ những
con đường thuận tiện hoặc
hiểm trở cho hết thảy
chúng sanh và
Bốn bộ chúng.[179] Nhờ
nghe pháp rồi, tất cả đều lìa xa các pháp xấu ác, được đầy đủ các pháp lành. Vì nghĩa ấy nên nhờ
nhân duyên nghe pháp mà được
đến gần Đại Niết-bàn.
“Thiện nam tử!
Ví như gương sáng soi vào thấy rõ mặt người. Việc
nghe pháp cũng như
gương sáng, soi vào đó ắt thấy rõ những
việc thiện ác, không chi ngăn ngại. Vì nghĩa ấy nên nhờ
nhân duyên nghe pháp mà được
đến gần Đại Niết-bàn.
“Thiện nam tử!
Ví như người khách buôn muốn đến nơi có
châu báu nhưng không biết đường đi. Có người liền
chỉ đường cho. Khách buôn theo lời
chỉ dẫn, đi đến nơi có
châu báu, tìm lấy được nhiều không kể xiết. Tất cả
chúng sanh cũng giống như vậy, muốn đến
cảnh giới tốt lành để được
vật báu là
đạo pháp, nhưng không biết đường sá khó dễ thế nào.
Bồ Tát liền chỉ dạy cho họ. Theo lời dạy ấy,
chúng sanh đến được
cảnh giới tốt lành, tìm được
vật báu là
Vô thượng Đại Niết-bàn. Vì nghĩa ấy nên nhờ
nhân duyên nghe pháp mà được
đến gần Đại Niết-bàn.
“Thiện nam tử!
Ví như con voi say cuồng ngây hung bạo muốn giết hại nhiều người. Có người nài voi dùng móc sắt lớn móc vào đầu, voi liền khuất phục, dứt bỏ lòng hung dữ. Tất cả
chúng sanh cũng vậy, bởi say vì
tham dục,
sân khuể,
ngu si nên muốn tạo nhiều việc ác. Chư
Bồ Tát dùng móc sắt lớn là việc
nghe pháp mà
điều phục, khiến họ trụ yên, không còn khởi lên những tâm xấu ác. Vì nghĩa ấy nên nhờ
nhân duyên nghe pháp mà được
đến gần Đại Niết-bàn.
“Vì thế nên trong tất cả các kinh ta thường dạy
đệ tử rằng, nếu
hết lòng lắng nghe và thọ nhận
Mười hai bộ kinh ắt sẽ lìa khỏi Năm sự che chướng,[180]
tu tập được
Bảy phần giác.[181] Nhờ
tu tập Bảy phần giác mà được
đến gần Đại Niết-bàn.
“Nhờ
nghe pháp mà hàng Tu-đà-hoàn lìa khỏi những sự sợ sệt. Vì sao vậy?
Trưởng giả Tu-đạt thân mang bệnh nặng, lòng
hết sức lo buồn sợ sệt, nghe Xá-lợi-phất dạy rằng hàng Tu-đà-hoàn có bốn
công đức,[182] mười loại ủy dụ;[183] nghe việc ấy rồi thì dứt lòng sợ sệt. Vì nghĩa ấy nên nhờ
nhân duyên nghe pháp mà được
đến gần Đại Niết-bàn. Vì sao vậy? Vì khai mở được con mắt pháp.
“Thế gian có ba hạng người, một là không có mắt, hai là chỉ có một mắt và ba là có đủ hai mắt. Người không có mắt
ví như người không được
nghe pháp. Người chỉ có một mắt
ví như người tuy tạm được
nghe pháp nhưng tâm chẳng trụ yên. Người có đủ hai mắt
ví như người
chuyên tâm lắng nghe và thọ nhận,
y theo chỗ đã nghe mà
thực hành. Nhờ
nghe pháp mà rõ biết được ba hạng người như vậy ở đời. Vì nghĩa ấy nên nhờ
nhân duyên nghe pháp mà được
đến gần Đại Niết-bàn.
“Thiện nam tử! Lúc trước ta ở thành Câu-thi-na. Khi ấy, Xá-lợi-phất thân mang
bệnh khổ, ta liền sai tỳ-kheo A-nan đến, vì ông ấy mà thuyết rộng
Chánh pháp.
Nghe pháp như vậy rồi, Xá-lợi-phất liền bảo bốn vị
đệ tử của mình rằng: ‘Các ông hãy dùng võng mà khiêng ta đến chỗ Phật. Ta muốn được nghe
Chánh pháp.’
“Bốn vị
đệ tử liền cùng nhau khiêng Xá-lợi-phất đến chỗ ta. [Xá-lợi-phất] được
nghe pháp rồi, nhờ
công năng mạnh mẽ của sự
nghe pháp nên
bệnh khổ liền nhẹ dứt, thân được
an ổn. Vì nghĩa ấy, nhờ
nhân duyên nghe pháp ắt được
đến gần Đại Niết-bàn.
“Thế nào là
Bồ Tát do
nhân duyên suy xét mà được
đến gần Đại Niết-bàn? Nhân việc
suy xét này mà tâm
được giải thoát. Vì sao vậy? Tất cả
chúng sanh thường bị
Năm dục[184]
trói buộc, nhờ có sự
suy xét mà
được giải thoát khỏi
Năm dục. Vì nghĩa ấy nên nhờ
nhân duyên suy xét mà được
đến gần Đại Niết-bàn.
“Lại nữa,
thiện nam tử! Tất cả
chúng sanh thường bị bốn pháp làm cho
điên đảo. Đó là cho rằng các
pháp thường tồn,
vui thích, thật có tự ngã và
thanh tịnh. Nhờ sự
suy xét mà thấy được rằng các pháp [vốn thật] đều là
vô thường, khổ,
vô ngã,
bất tịnh. Thấy được như vậy rồi,
bốn sự điên đảo kia liền dứt mất. Vì nghĩa ấy nên nhờ
nhân duyên suy xét mà được
đến gần Đại Niết-bàn.
“Lại nữa,
thiện nam tử! Tất cả các pháp đều có bốn tướng. Những gì là bốn? Một là tướng sanh ra, hai là tướng già yếu, ba là tướng
bệnh hoạn, và bốn là tướng diệt mất. Bốn tướng ấy khiến cho tất cả
chúng sanh, từ
phàm phu cho đến bậc Tu-đà-hoàn đều sanh ra nhiều
khổ não. Nếu ai biết
chú tâm suy xét kỹ thì dù gặp bốn tướng ấy cũng không sanh ra
khổ não. Vì nghĩa ấy nên nhờ
nhân duyên suy xét mà được
đến gần Đại Niết-bàn.
“Lại nữa,
thiện nam tử! Tất cả các pháp lành đều do sự
suy xét mà có. Vì sao vậy? Như có người
hết lòng nghe pháp trong
vô số kiếp, nhưng không
suy xét thì
cuối cùng cũng không
đạt được A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Vì nghĩa ấy nên nhờ
nhân duyên suy xét mà được
đến gần Đại Niết-bàn.
“Lại nữa,
thiện nam tử! Như có những
chúng sanh tin rằng Phật, Pháp, Tăng không hề
biến đổi nên sanh lòng
cung kính, nên biết rằng đó đều do
sức mạnh của
nhân duyên chú tâm suy xét, nhờ đó mà dứt trừ được tất cả
phiền não. Vì nghĩa ấy nên nhờ
nhân duyên suy xét mà được
đến gần Đại Niết-bàn.
“Thế nào là
Bồ Tát y theo pháp tu hành?
Thiện nam tử! Dứt bỏ các pháp xấu ác,
tu tập các pháp lành, đó gọi là
Bồ Tát y theo pháp
tu hành.
“Lại nữa, thế nào là
y theo pháp tu hành? Đối với tất cả các pháp đều thấy là rỗng không, không gì có thể
sở hữu, [tất cả đều] không thường tồn,
không vui thích,
không thật có tự ngã, không
thanh tịnh. Vì thấy rõ như vậy nên thà
xả bỏ thân mạng cũng quyết không phạm vào các
giới cấm. Đó gọi là
Bồ Tát y theo pháp
tu hành.
“Lại nữa, thế nào là
y theo pháp tu hành?
Tu hành có hai hạng, một là
chân thật, hai là không
chân thật. Hạng không
chân thật là không rõ biết tướng của Niết-bàn, tánh Phật,
Như Lai, Pháp, Tăng, tướng thật, tướng
hư không... Đó gọi là [
tu hành] không
chân thật. Thế nào là chân thật? Là rõ biết được tướng của Niết-bàn, tánh Phật,
Như Lai, Pháp, Tăng, tướng thật, tướng
hư không... Đó gọi là [
tu hành]
chân thật.
“Thế nào gọi là rõ biết tướng Niết-bàn? Tướng của Niết-bàn có tám biểu hiện. Những gì là tám? Một là dứt sạch, hai là tánh thiện, ba là thật có, bốn là chân chánh, năm là thường tồn, sáu là an vui, bảy là
chân ngã, tám là
thanh tịnh. Đó gọi là Niết-bàn.
“Niết-bàn lại có tám biểu hiện khác. Những gì là tám? Một là
giải thoát, hai là tánh thiện, ba là
không thật, bốn là không chân chánh, năm là không thường tồn, sáu là không an vui, bảy là không
chân ngã, tám là không
thanh tịnh.
“Niết-bàn lại có sáu biểu hiện khác: Một là
giải thoát, hai là tánh thiện, ba là
không thật, bốn là không chân chánh, năm là an vui, sáu là
thanh tịnh.
“Nếu có những
chúng sanh y theo đạo thế tục, dứt
trừ phiền não, Niết-bàn mà họ
đạt được sẽ có tám biểu hiện:
giải thoát,
không thật.v.v... Vì sao vậy? Vì không thường tồn. Do không thường tồn nên
không thật. Do
không thật nên không chân chánh. Tuy dứt
trừ phiền não lại khởi lên
phiền não, cho nên là không thường tồn, không an vui, không
chân ngã, không
thanh tịnh. Đó gọi là Niết-bàn với tám biểu hiện [từ
giải thoát cho đến không
thanh tịnh].
“Còn thế nào là sáu biểu hiện? Hàng
Thanh văn,
Duyên giác dứt
trừ phiền não cho nên gọi là
giải thoát, nhưng vì chưa
đạt được A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề nên gọi là
không thật. Do
không thật nên gọi là không chân chánh.
Trong đời vị lai sẽ
đạt được A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề nên gọi là
vô thường. Vì
đạt được Tám thánh đạo không còn
phiền não nên gọi là
thanh tịnh, an vui.
“Thiện nam tử! Nếu ai rõ biết như trên [vừa nói], đó là rõ biết Niết-bàn, không gọi là rõ biết tánh Phật,
Như Lai, Pháp, Tăng, tướng thật,
hư không.
“Thế nào là
Bồ Tát rõ biết tánh Phật? Tánh Phật có sáu biểu hiện. Những gì là sáu? Một là thường tồn, hai là
thanh tịnh, ba là đúng thật, bốn là hiền thiện, năm là thấy biết
hiện tiền, sáu là chân chánh.
“Lại có bảy biểu hiện: Một là có thể chứng biết, cùng với sáu biểu hiện như trên. Đó gọi là
Bồ Tát rõ biết tánh Phật.
“Thế nào là
Bồ Tát rõ biết tướng Như Lai?
Như Lai tức là tướng
tỉnh giác, tướng hiền thiện; là thường, lạc, ngã, tịnh,
giải thoát, chân chánh, thật có; là chỉ bày
đạo pháp có thể thấy được. Đó gọi là
Bồ Tát rõ biết tướng
Như Lai.
“Thế nào là
Bồ Tát rõ biết tướng của Pháp? Tướng của Pháp có thể là thiện hoặc
bất thiện, là thường hoặc
vô thường, là an vui hoặc không an vui, là ngã hoặc
vô ngã, là
thanh tịnh hoặc
bất tịnh, là biết hoặc không biết, là
giải thoát hoặc
không giải thoát, là chân chánh hoặc không chân chánh, là
tu hoặc không tu, là thầy hoặc chẳng phải thầy, là thật hoặc chẳng thật. Đó gọi là
Bồ Tát rõ biết tướng của Pháp.
“Thế nào là
Bồ Tát rõ biết tướng của Tăng? Tướng của Tăng nếu là thường, lạc, ngã, tịnh cũng là tướng của hàng
đệ tử, là tướng có thể thấy được, tuy hiền thiện, chân chánh nhưng là chẳng thật. Vì sao vậy? Vì tất cả
Thanh văn đều
đạt được đạo của Phật. Vì sao gọi là chân chánh? Vì tỏ ngộ được tánh của Pháp. Đó gọi là
Bồ Tát rõ biết tướng của Tăng.
“Thế nào là
Bồ Tát rõ biết tướng thật? Tướng thật có thể là thường hoặc
vô thường; là an vui hoặc không an vui; là ngã hoặc
vô ngã, là
thanh tịnh hoặc
bất tịnh; là thiện hoặc
bất thiện; là có hoặc là không; là Niết-bàn hoặc chẳng phải Niết-bàn; là
giải thoát hoặc
không giải thoát; là biết hoặc không biết; là dứt mất hoặc không dứt mất; là
chứng đắc hoặc không
chứng đắc; là
tu hoặc không tu; là thấy hoặc không thấy. Như thế gọi là tướng thật, chẳng phải các tướng Niết-bàn, tánh Phật,
Như Lai, Pháp, Tăng,
hư không.
“Đó gọi là
Bồ Tát nhờ
tu hành kinh Đại Niết-bàn này mà rõ biết những tướng khác biệt của Niết-bàn, tánh Phật,
Như Lai, Pháp, Tăng,
hư không.
“Thiện nam tử!
Bồ Tát Ma-ha-tát
tu hành kinh điển vi diệu Đại Niết-bàn chẳng thấy
hư không. Vì sao vậy? Phật và
Bồ Tát tuy có
năm thứ mắt nhưng chẳng thấy được
hư không. Chỉ có mắt tuệ mới thấy được. Chỗ mà mắt tuệ nhìn thấy là không một pháp nào có thể thấy mới gọi là thấy. Nếu
thật không có vật gì thì gọi là
hư không;
hư không như vậy mới gọi là thật. Vì là thật nên thường là không. Vì thường là không nên không có lạc, ngã, tịnh.
“Thiện nam tử! Không, gọi là không có pháp; không có pháp, gọi là không. Cũng như người
thế gian thấy không có vật gì thì gọi là không. Tánh của
hư không cũng giống như thế, vì không có gì cả nên gọi là
hư không.
“Thiện nam tử!
Chúng sanh và
hư không đều không có tánh thật. Vì sao vậy? Như có người nói: ‘Trừ hết những vật đang có thì tạo thành
hư không.’ Nhưng
hư không thật không thể tạo thành. Vì sao vậy? Vì
hư không là không có gì cả. Vì không có gì cả nên biết rằng không có cả cái không.
“Tánh của
hư không nếu có thể tạo thành thì phải gọi là
vô thường. Nếu là
vô thường thì chẳng gọi là
hư không.
“Thiện nam tử! Như người
thế gian nói rằng: ‘Hư
không không có
hình sắc, không ngăn ngại, thường không thay đổi.’ Vì thế nên người ta gọi tánh của
hư không là
đại thứ năm.[185]
“Thiện nam tử! Nhưng
hư không thật không có tánh, vì có ánh sáng nên gọi là
hư không, chứ
thật không có
hư không; cũng như
chân lý thế gian vốn
thật không có, nhưng vì
chúng sanh nên ta dạy là có
chân lý thế gian.
Thiện nam tử! Thể của Niết-bàn cũng giống như vậy, không có chỗ trụ. Chính ngay nơi chư Phật dứt sạch
phiền não thì gọi là Niết-bàn. Niết-bàn chính là thường tồn, an vui,
chân ngã,
thanh tịnh. Niết-bàn tuy là an vui nhưng chẳng phải cái
vui hưởng thụ, mà là cái vui
tịch diệt cao siêu
mầu nhiệm.
“Chư
Phật Như Lai có hai sự vui: Một là sự vui
tịch diệt, hai là sự vui rõ biết. Thể của tướng thật có ba sự vui: Một là sự
vui hưởng thụ, hai là sự vui
tịch diệt, ba là sự vui rõ biết. Tánh Phật có một sự vui là thấy biết
hiện tiền. Khi
chứng đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề gọi là sự vui
giác ngộ.”
Lúc ấy,
Bồ Tát Ma-ha-tát
Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương
bạch Phật: “Thế Tôn! Nếu nói chỗ dứt sạch
phiền não là Niết-bàn thì không hợp lý! Vì sao vậy? Ngày trước, lúc
Như Lai vừa mới
thành Phật, đi đến bên bờ sông Ni-liên-thiền; bấy giờ
Ma vương và
quyến thuộc đến chỗ Phật, nói rằng: ‘Thế Tôn! Đã đến lúc nhập Niết-bàn, sao ngài không nhập?’
Phật bảo Ma vương: ‘Nay ta chưa có những
đệ tử đa văn, khéo
giữ giới cấm,
thông minh lợi trí, có thể
giáo hóa chúng sanh, cho nên ta chưa nhập Niết-bàn.’
“Nếu nói rằng chỗ dứt sạch
phiền não là Niết-bàn, tại sao chư
Bồ Tát đã lìa khỏi
phiền não từ vô lượng kiếp lại không được xưng là Niết-bàn? Cũng đều là chỗ dứt sạch,
duyên cớ gì chỉ riêng xưng chư Phật là Niết-bàn, chư
Bồ Tát lại là không?
“Nếu dứt sạch
phiền não chẳng phải là Niết-bàn, vì sao
ngày xưa Như Lai bảo ông Bà-la-môn Sanh Danh rằng: ‘Thân ta hiện nay tức là Niết-bàn.’
“Lại khi
Như Lai ở tại thành Tỳ-xá-ly, Ma đến thưa rằng: ‘Ngày xưa vì chưa có những
đệ tử đa văn,
trì giới,
thông minh lợi trí, có thể
giáo hóa chúng sanh nên
Như Lai không nhập Niết-bàn. Nay đã có đủ rồi, tại sao ngài không nhập?’ Bấy giờ,
Như Lai liền bảo Ma rằng: ‘Nay ngươi chớ đem lòng
lo lắng cho là
chậm trễ, sau ba tháng nữa ta sẽ nhập Niết-bàn.’
“Thế Tôn! Nếu như sự
diệt độ không phải là Niết-bàn, vì sao
Như Lai tự đưa ra kỳ hạn ba tháng nữa sẽ nhập Niết-bàn?
“Thế Tôn! Nếu dứt sạch
phiền não là Niết-bàn thì
ngày xưa, lúc
Như Lai ở tại
đạo tràng dưới cội Bồ-đề vừa dứt sạch
phiền não, hẳn đã là Niết-bàn ngay khi ấy rồi, vì sao lại nói rằng còn ba tháng nữa sẽ nhập Niết-bàn?
“Thế Tôn! Nếu như khi ấy đã là Niết-bàn rồi, vì sao
mới đây ở thành Câu-thi-na này Phật lại bảo những người trong tộc họ Lực-sĩ rằng sau lúc nửa đêm sẽ nhập Niết-bàn?
Như Lai là
thành thật, vì sao nói ra những lời
hư dối như vậy?”
Bấy giờ,
đức Thế Tôn dạy
Đại Bồ Tát Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương rằng: “Thiện nam tử! Nếu nói rằng
Như Lai được tướng lưỡi rộng dài, nên biết đó là nhờ trong
vô lượng kiếp qua
Như Lai đã lìa xa những lời
hư dối. Những gì mà tất cả chư Phật và
Bồ Tát nói ra đều là
chân thật không hư dối!
“Thiện nam tử! Như ông vừa nói rằng,
ngày xưa Ma Ba-tuần có đến
thỉnh cầu ta nhập Niết-bàn.
Thiện nam tử! Nhưng
Ma vương ấy thật chẳng biết được tướng
nhất định của Niết-bàn. Vì sao vậy? Ba-tuần có ý cho rằng:
Nếu không giáo hóa chúng sanh, trụ yên
lặng lẽ thì đó là Niết-bàn.
“Thiện nam tử!
Ví như người đời thấy kẻ không nói năng, không làm gì cả, liền bảo rằng kẻ ấy chẳng khác gì người chết. Ma Ba-tuần cũng vậy, trong ý cho rằng nếu
Như Lai không giáo hóa
chúng sanh, lặng yên không thuyết dạy thì đó là
Như Lai đã nhập Niết-bàn.
“Thiện nam tử!
Như Lai không nói rằng Phật, Pháp và Tăng không có tướng khác biệt, chỉ dạy rằng hai
pháp thường trụ và
thanh tịnh là không khác biệt.
“Thiện nam tử!
Như Lai cũng không nói rằng Phật và tánh Phật, Niết-bàn không có tướng khác biệt, chỉ dạy rằng các
pháp thường hằng và
bất biến là không khác biệt.
“Thiện nam tử! Phật cũng không nói rằng Niết-bàn và tướng
chân thật không có khác biệt, chỉ dạy rằng các
pháp thường hiện hữu và
chân thật không
biến đổi là không khác biệt.
“Thiện nam tử!
Thuở ấy, những
đệ tử Thanh văn của ta khởi sự tranh cãi. Như những tỳ-kheo xấu ác ở Câu-thiểm-di[186] trái lời dạy của ta, phạm nhiều
giới cấm, thọ nhận những vật
bất tịnh, tham
cầu lợi dưỡng. Họ tự khoe khoang với hàng
cư sĩ rằng: ‘Ta
đắc quả vô lậu, là quả Tu-đà-hoàn...’ thậm chí nói rằng: ‘Ta
đắc quả A-la-hán.’ Họ
nói xấu và nhục mạ người khác, còn đối với Phật, Pháp, Tăng,
giới luật,
hòa thượng... lại chẳng sanh lòng
cung kính. Họ
công khai nói trước mặt ta rằng: ‘Những vật như thế này... Phật
cho phép chứa trữ; những vật như thế này... Phật không
cho phép chứa trữ.’ Ta có bảo họ rằng: ‘Những vật như vậy, thật ta không
cho phép chứa trữ.’ Nhưng họ cãi lại rằng: ‘Những vật như vậy, thật là Phật có
cho phép.’
“Những kẻ xấu ác đó không tin lời ta. Vì những kẻ ấy mà ta bảo Ma Ba-tuần rằng: ‘Ngươi chớ lo
chậm trễ, sau ba tháng nữa ta sẽ nhập Niết-bàn.’
“Thiện nam tử! Chính vì những tỳ-kheo xấu ác này mà các
đệ tử thọ học hàng
Thanh văn chẳng thấy được thân ta, chẳng
nghe được pháp ta, liền nói rằng: ‘Như Lai đã nhập Niết-bàn.’ Chỉ có hàng
Bồ Tát thấy được thân ta, thường
nghe pháp ta, nên không nói rằng ta nhập Niết-bàn. Tuy những
đệ tử Thanh văn nói rằng
Như Lai nhập Niết-bàn, nhưng ta
thật không nhập Niết-bàn.
“Thiện nam tử! Nếu trong các
đệ tử Thanh văn của ta, những ai nói rằng: ‘Như Lai đã nhập Niết-bàn’, nên biết rằng đó không phải
đệ tử của ta, mà là bè đảng của ma, là kẻ
tà kiến xấu ác, chẳng phải người
chánh kiến. Nếu những ai nói rằng: ‘Như Lai [thật] không nhập Niết-bàn’, nên biết rằng những người ấy là
đệ tử chân thật của ta, không phải bè đảng của ma; là người
chánh kiến, không phải kẻ
tà kiến xấu ác.
“Thiện nam tử! Ta
hoàn toàn không thấy trong số
đệ tử của ta có ai nói rằng: ‘Như Lai
không giáo hóa
chúng sanh, trụ yên
lặng lẽ, đó gọi là nhập Niết-bàn.’
“Thiện nam tử!
Ví như một vị
trưởng giả có nhiều con, phải đi phương xa. Khi chưa
trở về, những người con đều bảo rằng cha đã chết. Nhưng
trưởng giả ấy
thật không hề chết. Những người con ấy
điên đảo nghĩ rằng cha mình đã chết.
“Hàng
đệ tử Thanh văn của ta cũng vậy; vì không nhìn thấy ta liền bảo rằng: ‘Như Lai đã nhập Niết-bàn tại thành Câu-thi-na, giữa hai cây sa-la.’ Nhưng ta
thật không nhập Niết-bàn, chỉ là hàng
đệ tử Thanh văn tự có
ý nghĩ rằng ta nhập Niết-bàn.
“Thiện nam tử!
Ví như ngọn đèn sáng, có người che lại. Những kẻ không biết đều bảo rằng đèn đã tắt. Nhưng ngọn lửa trong đèn ấy
quả thật không tắt. Vì không biết nên sanh ra
ý nghĩ rằng đèn đã tắt.
“Hàng
đệ tử Thanh văn cũng vậy, tuy có mắt tuệ nhưng bị
phiền não che lấp khiến tâm
điên đảo chẳng thấy được thân
chân thật của Phật, nên sanh ra
ý nghĩ rằng
Phật diệt độ. Nhưng ta
quả thật chẳng hề
diệt độ.
“Thiện nam tử!
Ví như người sanh ra đã mù, không thấy được
mặt trời,
mặt trăng. Vì không thấy nên không biết được những tướng trạng ngày, đêm, sáng, tối. Vì không biết nên nói rằng
thật không có
mặt trời,
mặt trăng.
Sự thật là có
mặt trời,
mặt trăng nhưng người mù không thấy. Vì không thấy nên sanh ra
tư tưởng điên đảo, nói rằng không có
mặt trời,
mặt trăng.
“Hàng
đệ tử Thanh văn cũng vậy, giống như người sanh ra đã mù, không thấy được
Như Lai, liền nói rằng
Như Lai đã nhập Niết-bàn.
Như Lai thật không nhập Niết-bàn, chỉ vì
tư tưởng điên đảo nên sanh tâm như vậy.
“Thiện nam tử!
Ví như mây mù
che khuất mặt trời,
mặt trăng. Người ngu liền nói: ‘Không có
mặt trời,
mặt trăng.’ Nhưng
mặt trời,
mặt trăng là thật có, chỉ vì bị
che khuất nên
chúng sanh không thấy.
“Hàng
đệ tử Thanh văn cũng vậy, do
phiền não che khuất con mắt
trí tuệ nên không thấy được
Như Lai, liền nói rằng: ‘Như Lai đã
diệt độ.’
“Thiện nam tử!
Sự thật là
Như Lai thị hiện hạnh
Anh nhi,[187] chẳng phải
diệt độ.
“Thiện nam tử! Như ở Diêm-phù-đề, khi
mặt trời lặn thì
chúng sanh không còn thấy
mặt trời. Đó là vì núi non
che khuất, chứ
mặt trời thật không hề mất đi.
Chúng sanh không nhìn thấy liền sanh ra
ý nghĩ cho rằng
mặt trời lặn mất.
“Hàng
đệ tử Thanh văn cũng vậy, vì những núi non là
phiền não che khuất nên không thấy được thân Phật. Vì không thấy nên sanh ra
ý nghĩ cho rằng
Như Lai đã
diệt độ. Nhưng thật
Như Lai chẳng hề
diệt độ.
“Vì thế nên khi ở thành Tỳ-xá-ly
Phật bảo Ma Ba-tuần rằng: ‘Sau ba tháng nữa ta sẽ nhập Niết-bàn.’
“Thiện nam tử! Khi ấy
Như Lai thấy trước là sau ba tháng thì căn lành của
Bồ Tát Ca-diếp sẽ được
thành thục; lại cũng thấy ông Tu-bạt-đà-la[188] ở
Hương sơn, sau
mùa an cư sẽ đến chỗ Phật.
Vì vậy nên
Phật bảo Ma Ba-tuần rằng: ‘Sau ba tháng nữa ta sẽ nhập Niết-bàn.’
“Thiện nam tử! Khi ấy lại có 500 người trong tộc họ Lực-sĩ, sau ba tháng sẽ
phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Vì những người ấy nên
Phật bảo Ma Ba-tuần rằng: ‘Sau ba tháng nữa ta sẽ nhập Niết-bàn.’
“Thiện nam tử! Khi ấy nhóm ông Thuần-đà với 500 người họ Lê-xa[189] và cô Am-la sau ba tháng sẽ được
tâm đạo vô thượng và căn lành
thành thục. Vì những người ấy nên
Phật bảo Ma Ba-tuần rằng: ‘Sau ba tháng nữa ta sẽ nhập Niết-bàn.’
“Thiện nam tử! Ông Tu-na-sát-đa
thường thân cận với
ngoại đạo Ni-kiền-tử. Ta vì ông ấy
thuyết pháp trọn 12 năm nhưng ông ấy vẫn giữ
tà kiến, chẳng tin nhận
giáo pháp. Khi ấy ta biết rằng sau ba tháng nữa gốc rễ
tà kiến của ông ấy sẽ bị chặt đứt. Ta cũng vì ông ấy nên bảo Ma Ba-tuần rằng: ‘Sau ba tháng nữa ta sẽ nhập Niết-bàn.’
“Thiện nam tử! Do
nhân duyên gì mà lúc trước bên bờ sông Ni-liên ta bảo Ma Ba-tuần rằng: ‘Nay ta chưa có những
đệ tử nhiều
trí tuệ nên chưa vào Niết-bàn’?
“Khi ấy, ta muốn vì năm vị tỳ-kheo[190] mà
Chuyển Pháp luân ở thành Ba-la-nại. Kế đó, ta lại muốn vì năm vị tỳ-kheo nữa là: Da-xa, Phú-na, Tỳ-ma-la-xà, Kiều-phạm-ba-đề, Tu-bà-hầu [mà
giáo hóa]. Kế nữa, ta lại muốn vì nhóm ông
trưởng giả Úc-già năm mươi người [mà
giáo hóa]. Rồi ta lại muốn vì vua Tần-bà-sa-la nước Ma-già-đà với
vô số người và
chư thiên [mà
giáo hóa]. Tiếp đến ta lại muốn vì
Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp với
môn đồ của ông là 500 tỳ-kheo [mà
giáo hóa]. Kế đó, ta lại muốn vì hai anh em Na-đề Ca-diếp và Già-da Ca-diếp với 500
đệ tử của họ [mà
giáo hóa]. Rồi ta lại muốn vì Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên với 250 tỳ-kheo trong nhóm của họ mà
chuyển bánh xe Pháp nhiệm mầu. Vì [tất cả những điều đó] nên ta bảo
Ma vương Ba-tuần rằng ta không nhập Niết-bàn.
“Thiện nam tử! Có [những
trường hợp được] gọi là Niết-bàn nhưng không phải Đại Niết-bàn.
“Thế nào là Niết-bàn, không phải Đại Niết-bàn? Không thấy tánh Phật mà dứt
trừ phiền não, đó gọi là Niết-bàn, không phải Đại Niết-bàn. Vì không thấy tánh Phật nên là
vô thường,
vô ngã; chỉ có lạc (an vui) và tịnh (
thanh tịnh) mà thôi. Vì nghĩa ấy nên dù dứt
trừ phiền não cũng chưa được gọi là Đại Niết-bàn.
“Nếu thấy tánh Phật rồi dứt
trừ phiền não, đó gọi là Đại Niết-bàn. Nhờ thấy tánh Phật nên được [có đủ] thường, lạc, ngã, tịnh. Vì nghĩa này nên dứt
trừ phiền não rồi được xưng là Đại Niết-bàn.
“Thiện nam tử! Niết là
nghĩa không, bàn là nghĩa
phiền não.[191] Không có
phiền não gọi là Niết-bàn. Bàn lại có nghĩa là
che lấp; không
che lấp gọi là Niết-bàn. Bàn lại có nghĩa là đến đi; chẳng đến chẳng đi gọi là Niết-bàn. Bàn lại có nghĩa là chấp giữ;
không chấp giữ gọi là Niết-bàn. Bàn lại có nghĩa là không
nhất định;
quyết định không phân vân gọi là Niết-bàn. Bàn lại có nghĩa là cũ và mới; không cũ không mới gọi là Niết-bàn. Bàn lại có nghĩa là
chướng ngại; không có
chướng ngại gọi là Niết-bàn.
“Thiện nam tử! Hàng
đệ tử các phái
ngoại đạo Ưu-lâu-khư, Ca-tỳ-la nói rằng: ‘Bàn là
hình tướng; không có
hình tướng gọi là Niết-bàn.’
“Thiện nam tử! Bàn lại có nghĩa là
hiện hữu; không
hiện hữu gọi là Niết-bàn. Bàn lại có nghĩa là
hòa hợp [trộn lẫn]; không
hòa hợp [trộn lẫn] gọi là Niết-bàn. Bàn lại có nghĩa là
khổ não; không
khổ não gọi là Niết-bàn.
“Thiện nam tử! Dứt
trừ phiền não không gọi là Niết-bàn; không còn
sanh khởi phiền não mới gọi là Niết-bàn.
“Thiện nam tử!
Chư Phật Như Lai không
sanh khởi phiền não nên gọi là Niết-bàn. Có được
trí tuệ sáng suốt không ngăn ngại đối với các pháp, đó là
Như Lai.
Như Lai chẳng phải
phàm phu,
Thanh văn,
Duyên giác,
Bồ Tát, nên gọi là tánh Phật. Thân, tâm và
trí tuệ của
Như Lai hiện khắp
vô lượng vô biên vô số cõi
thế giới, không gì
chướng ngại được nên gọi là
hư không.
Như Lai thường trụ, không có
biến đổi, gọi là tướng thật. Vì nghĩa ấy nên
Như Lai rốt cùng
thật không nhập Niết-bàn.
“Như thế gọi là
Bồ Tát tu hành kinh điển vi diệu Đại Niết-bàn
thành tựu trọn vẹn công đức thứ bảy.
“Thiện nam tử! Thế nào là
Bồ Tát Ma-ha-tát
tu hành kinh điển vi diệu Đại Niết-bàn
thành tựu trọn vẹn công đức thức tám?
“Thiện nam tử!
Bồ Tát Ma-ha-tát
tu hành kinh Đại Niết-bàn dứt trừ năm việc, lìa xa năm việc,
thành tựu sáu việc,
tu tập năm việc,
gìn giữ một việc, thân cận bốn việc,
tin theo một lẽ thật, tâm khéo
giải thoát,
trí tuệ khéo
giải thoát.
“Thiện nam tử! Thế nào là
Bồ Tát dứt trừ năm việc? Đó là nói
năm ấm: sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Nói ấm đó là nghĩa gì? Là có thể khiến cho
chúng sanh phải
tiếp nối mãi mãi trong dòng
sanh tử, không vất bỏ được
gánh nặng, tan rã rồi
tụ họp,[192] cuốn mãi trong
ba đời[193] mà suy cầu chẳng thấy được
nghĩa lý gì cả! Do các nghĩa ấy nên gọi là ấm.
“Bồ Tát Ma-ha-tát tuy thấy
sắc ấm nhưng không thấy có tướng của
sắc ấm. Vì sao vậy? Vì ở trong mười loại sắc mà suy cầu
thể tánh đều không thấy có [gì thật] là
thế giới cả, nên gọi đó là ấm.
“Thọ có một trăm lẻ tám loại. [
Bồ Tát] tuy thấy
thọ ấm nhưng
hoàn toàn không có tướng của thọ. Vì sao vậy? Tuy có một trăm lẻ tám loại thọ nhưng xét theo lý đều không có sự
nhất định,
chân thật. Vì thế
Bồ Tát không thấy có
thọ ấm.
“Đối với các ấm tưởng, hành, thức cũng đều như vậy.
Bồ Tát Ma-ha-tát
quán sát sâu xa thấy
năm ấm chính là
căn bản sanh ra
phiền não. Vì nghĩa ấy nên dùng
phương tiện khiến phải dứt trừ
năm ấm.
“Thế nào là
Bồ Tát lìa xa năm việc? Đó là nói
năm kiến chấp. Những gì là năm? Một là
thân kiến, hai là
biên kiến, ba là
tà kiến, bốn là
giới cấm thủ kiến, năm là
kiến thủ kiến.[194] Do
năm kiến chấp sai lầm này mà sanh ra sáu mươi hai thứ
tà kiến.[195] Do các
tà kiến ấy mà dòng
sanh tử tiếp nối mãi không dứt. Vì thế nên
Bồ Tát thận trọng lìa xa
năm kiến chấp ấy.
“Thế nào là
Bồ Tát thành tựu sáu việc? Đó là nói
sáu chỗ niệm tưởng chân chánh.[196] Những gì là sáu? Một là
niệm Phật, hai là
niệm Pháp, ba là
niệm Tăng, bốn là
niệm thiên, năm là
niệm thí, sáu là
niệm giới. Đó gọi là
Bồ Tát thành tựu sáu việc.
“Thế nào là
Bồ Tát tu tập năm việc? Đó là nói năm phép định. Một là Tri định, hai là
Tịch định, ba là
Thân tâm thọ khoái lạc định, bốn là Vô lạc định, năm là
Thủ lăng nghiêm định.[197]
Tu tập năm phép
định tâm ấy,
chắc chắn sẽ
đạt đến gần Đại Niết-bàn. Vì thế nên
Bồ Tát chuyên tâm tu tập.
“Thế nào là
Bồ Tát gìn giữ một việc? Đó là nói [
gìn giữ] tâm Bồ-đề.
Bồ Tát Ma-ha-tát thường
chuyên tâm tinh cần bảo vệ,
gìn giữ tâm Bồ-đề như người đời
bảo vệ gìn giữ đứa con
duy nhất; lại cũng như người đã bị mù một mắt
bảo vệ giữ gìn con mắt còn lại; lại cũng như kẻ đi trong vùng hoang mạc
bảo vệ gìn giữ người
dẫn đường.
Bồ Tát luôn
bảo vệ gìn giữ tâm Bồ-đề như vậy. Nhờ
gìn giữ tâm Bồ-đề nên mới
đạt được A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Nhờ
đạt được A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề nên có đủ thường, lạc, ngã, tịnh, tức là
Vô thượng Đại Niết-bàn. Vì thế nên
Bồ Tát gìn giữ một việc này.
“Thế nào là
Bồ Tát thân cận bốn việc? Đó là nói
Bốn tâm vô lượng. Những gì là bốn? Một là
đại từ, hai là
đại bi, ba là
đại hỷ, bốn là
đại xả. Bốn tâm ấy có thể khiến cho
vô lượng vô biên chúng sanh đều
phát tâm Bồ-đề. Vì thế nên
Bồ Tát hết lòng thân cận bốn tâm ấy.
“Thế nào là
Bồ Tát tin theo một lẽ thật?
Bồ Tát biết rõ tất cả
chúng sanh đều
quay về một đường. Một đường đó tức là
Đại thừa. Nhưng vì
chúng sanh nên chư Phật và
Bồ Tát phân ra làm
Ba thừa. Vì thế nên
Bồ Tát tin theo [điều này] mà chẳng trái nghịch.
“Thế nào là tâm khéo
giải thoát của Bồ Tát? Đó là ba tâm tham, sân, si đều đã dứt trừ
vĩnh viễn. Đó gọi là
Bồ Tát có tâm khéo
giải thoát.
“Thế nào là
trí tuệ khéo
giải thoát của Bồ Tát?
Bồ Tát Ma-ha-tát đối với tất cả các pháp đều rõ biết không
chướng ngại. Đó gọi là
trí tuệ khéo
giải thoát của
Bồ Tát. Do
trí tuệ giải thoát ấy nên việc chưa nghe thì nay được nghe, việc chưa thấy thì nay được thấy, chỗ chưa đến thì nay được đến.”
Bấy giờ,
Bồ Tát Ma-ha-tát
Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương
bạch Phật: “Thế Tôn! Như Phật nói về
tâm giải thoát đó, nghĩa này không
hợp lý. Vì sao vậy? Vì tâm vốn không
trói buộc. Thế nào là không trói buộc?
Bản tánh của
tâm không bị
tham dục,
sân khuể,
ngu si trói buộc. Nếu tâm vốn đã không có sự
trói buộc, vì sao nói rằng tâm khéo giải thoát?
“Bạch Thế Tôn! Nếu
bản tánh của
tâm không bị
tham dục trói buộc thì do những
nhân duyên gì mà
trói buộc được?
Ví như người vắt sừng, vốn không có
tính chất của bầu vú, dù có
gắng sức mà vắt mãi cũng không do đâu mà có sữa! Nhưng nếu người ta vắt bầu vú thì không giống như vậy, dù không
gắng sức mà sữa vẫn ra nhiều. Tâm cũng như vậy, vốn không có tham, nay vì sao sao lại có? Nếu vốn không tham mà về sau có tham, thì chư Phật và
Bồ Tát vốn không có tướng tham, nay ắt cũng phải có!
“Bạch Thế Tôn!
Ví như người
phụ nữ vô sanh,[198] vốn không thể sanh con, dù mất nhiều công sức với
vô số nhân duyên cũng không thể sanh con. Tâm cũng như vậy, vốn không có tham, dù có nhiều
nhân duyên cũng không do đâu mà sanh ra.
“Bạch Thế Tôn!
Ví như cọ xát vào gỗ ướt không thể sanh ra lửa. Tâm cũng như vậy, dù cho cọ xát cố tìm
tham dục cũng không thể được. Vì sao
tham dục lại
trói buộc được tâm?
“Bạch Thế Tôn!
Ví như ép cát không thể chảy ra dầu. Tâm cũng như vậy, dù cho có ép cũng chẳng sanh ra tham. Nên biết rằng tham và tâm là hai lẽ khác nhau. Nếu như có sự tham cũng làm sao có thể
ô nhiễm được tâm?
“Bạch Thế Tôn!
Ví như có người đóng cọc vào không trung, không thể dính vào đó được. Đưa
tham dục vào tâm cũng vậy, dù có đủ mọi
nhân duyên cũng không thể làm cho
tham dục trói buộc được tâm.
“Bạch Thế Tôn! Nếu
tâm không tham gọi là
giải thoát, vì sao chư Phật và
Bồ Tát không nhổ ra gai nhọn trong không trung?[199]
“Bạch Thế Tôn! Tâm
quá khứ không gọi là
giải thoát; tâm
vị lai cũng
không giải thoát; tâm
hiện tại chẳng chung cùng với đạo. Vậy tâm
trong đời nào gọi là được giải thoát?
“Bạch Thế Tôn! Như
ngọn đèn trong
quá khứ không trừ được bóng tối;
ngọn đèn trong tương lai cũng không trừ được bóng tối;
ngọn đèn trong
hiện tại cũng không trừ được bóng tối. Vì sao vậy? Sáng và tối không thể cùng
hiện hữu. Tâm cũng như vậy. Vì sao nói rằng tâm được giải thoát?
“Bạch Thế Tôn!
Tham dục là thật có. Nếu
tham dục không có thì khi thấy
nữ sắc ắt không sanh tham dục! Do [nhìn thấy]
nữ sắc sanh ra
tham dục, nên biết rằng
tham dục thật có. Vì có
tham dục mới đọa vào
ba đường ác.
“Bạch Thế Tôn!
Ví như có người nhìn thấy hình vẽ
phụ nữ cũng sanh
tham dục. Vì sanh
tham dục nên phạm vào đủ mọi
tội lỗi. Nếu trong tâm vốn không có
tham dục, vì sao nhìn thấy hình vẽ lại sanh ra tham dục? Nếu
tâm không tham dục, vì sao
Như Lai nói rằng tâm
Bồ Tát được giải thoát? Nếu tâm có
tham dục, vì sao nhìn thấy
hình tướng rồi sau đó mới sanh ra
tham dục;
nếu không nhìn thấy
hình tướng thì không sanh tham dục? Hiện nay con nhìn thấy có
quả báo xấu ác, nên biết là thật có
tham dục. Đối với
sân khuể,
ngu si cũng giống như vậy.
“Bạch Thế Tôn!
Ví như chúng sanh mang tấm thân
vô ngã, nhưng kẻ
phàm phu sai lầm cho là thật có
bản ngã. Tuy có
tư tưởng chấp ngã nhưng không vì thế mà đọa vào
ba đường ác. Vì sao những kẻ
tham dục, đối với hình vẽ
không thật là
nữ nhân mà khởi lên
ý tưởng tham dục với
nữ nhân lại đọa vào ba đường ác?
“Bạch Thế Tôn! Vì như người ta cọ xát vào gỗ liền sanh ra lửa. Nhưng trong các duyên
liên quan đều không có tánh lửa. Vậy do
nhân duyên gì mà sanh ra được lửa?
“Bạch Thế Tôn!
Tham dục cũng như vậy. Trong
hình sắc không có tham, trong
âm thanh, mùi hương, vị nếm, sự xúc chạm và các pháp cũng không có tham. Vì sao từ nơi
hình sắc,
âm thanh, mùi hương, vị nếm, sự xúc chạm, các pháp lại sanh ra tham? Nếu trong các duyên ấy thảy đều không có tham, vì sao chỉ có
chúng sanh khởi sanh
tham dục, còn chư Phật,
Bồ Tát lại không khởi sanh?
“Bạch Thế Tôn! Tâm cũng là không
nhất định. Nếu tâm là
nhất định thì không có
tham dục,
sân khuể,
ngu si. Nếu tâm là không
nhất định, vì sao nói rằng tâm được giải thoát?
“Tham cũng là không
nhất định. Nếu tham là không
nhất định, vì sao
do nơi tham mà phải sanh vào ba đường ác? Người có tham và
cảnh giới [mà người ấy] sanh vào, cả hai đều không
nhất định. Vì sao vậy? Vì cả hai đều duyên với một sắc mà sanh ra tham, hoặc sanh ra sân, hoặc sanh ra si. Cho nên người có tham và
cảnh giới [mà người ấy] sanh vào, cả hai đều là không
nhất định. Nếu cả hai đều là không
nhất định, vì sao
Như Lai nói rằng
Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết-bàn này thì tâm được giải thoát?”
KINH ĐẠI BÁT NIẾT-BÀN
HẾT QUYỂN HAI MƯƠI LĂM
KINH ĐẠI BÁT NIẾT-BÀN
QUYỂN HAI MƯƠI SÁU
PHẨM BỒ TÁT QUANG MINH BIẾN CHIẾU CAO QUÝ ĐỨC VƯƠNG
Phẩm thứ mười – Phần sáu
Bấy giờ,
đức Thế Tôn bảo
Bồ Tát Ma-ha-tát
Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương: “Lành thay,
lành thay! Thiện nam tử!
Tâm không bị
tham dục trói buộc, cũng chẳng phải không bị
trói buộc; chẳng phải
giải thoát, chẳng phải
không giải thoát; chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải
hiện tại, chẳng phải
quá khứ, chẳng phải
vị lai. Vì sao vậy?
Thiện nam tử! Vì tất cả các pháp đều không có
tự tánh.
“Thiện nam tử! Có những kẻ
ngoại đạo nói rằng: ‘Nhân duyên hòa hiệp ắt có quả sanh.’
“Nếu trong các duyên vốn không có tánh sanh mà có thể sanh ra, thì
hư không chẳng có tánh sanh ắt cũng sanh ra quả! Nhưng
hư không chẳng sanh ra chi cả, vì đó chẳng phải là nhân.
“Bởi trong các duyên vốn sẵn có tánh quả, cho nên khi tập
hợp lại mới sanh được quả. Vì sao vậy? Như Đề-bà-đạt muốn đắp tường vách ắt phải lấy bùn đất chứ không lấy màu sắc; muốn vẽ tranh phải lấy màu sắc chứ không lấy cây cỏ; muốn may áo phải lấy chỉ tơ chứ không lấy bùn đất, cây gỗ; muốn xây phòng ốc phải lấy bùn đất chứ không lấy tơ sợi.
“Do sự chọn lấy như vậy nên biết rằng những vật được chọn đó đều có thể sanh quả [
tương ứng]. Vì có thể sanh quả [
tương ứng] nên biết rằng trong nhân đã sẵn có tánh rồi.
Nếu không do sẵn tánh thì một vật hẳn có thể sanh ra hết thảy các vật. Nếu là có thể chọn lấy, có thể làm nên, có thể tạo ra, nên biết rằng trong mỗi vật ấy đã sẵn có quả [
tương ứng] rồi.
Nếu không có quả [
tương ứng] thì người ta hẳn đã không chọn lấy, không làm nên, không tạo ra.
“Chỉ có
hư không là không chọn lấy, không tạo thành, cho nên có thể sanh ra hết thảy
vạn vật. Là vì có nhân. Như hạt ni-câu-đà sanh ra cây ni-câu-đà, trong sữa sẵn có nhân của đề-hồ, trong sợi tơ sẵn có nhân của tấm vải, trong đất sét sẵn có nhân của cái bình.
“Thiện nam tử! Tất cả
phàm phu mê tối vì
vô minh nên nói chắc rằng: ‘Hình sắc có nghĩa vướng chấp; tâm có tánh
tham muốn.’ Lại nói rằng: ‘Kẻ
phàm phu trong tâm có tánh tham, lại cũng có tánh
giải thoát. Khi gặp
nhân duyên tham thì tâm sanh tham; gặp
nhân duyên giải thoát thì
được giải thoát.’
“Tuy
lập luận như vậy nhưng
thật không hợp lý.
“Có những kẻ
phàm phu lại nói rằng: ‘Trong hết thảy các nhân đều không có quả.’
“Nhân có hai loại. Một là nhân
vi tế, hai là nhân thô lớn. Nhân
vi tế là thường, nhân thô lớn là
vô thường. Từ nhân
vi tế mà chuyển
thành nhân thô lớn; từ nhân thô lớn lại chuyển
thành quả. Vì nhân thô lớn là
vô thường nên quả cũng
vô thường.
“Thiện nam tử! Có những kẻ
phàm phu lại nói rằng: ‘Tâm không có nhân, tham cũng không có nhân, do
điều kiện môi trường
thích hợp nên sanh tâm tham.’
“Những kẻ như vậy vì không hiểu được
nhân duyên của tâm nên phải
luân hồi trong sáu nẻo, chịu đủ mọi cuộc
sanh tử.
“Thiện nam tử!
Ví như con chó bị buộc vào cây cột, suốt ngày đi quanh cột mà không thể lìa ra. Hết thảy
phàm phu cũng vậy, bị
vô minh xiềng xích, buộc vào cây cột
sanh tử, đi
quanh quẩn trong
hai mươi lăm cảnh giới hiện hữu mà không thể lìa ra khỏi.
“Thiện nam tử!
Ví như có người rơi xuống hố xí, vừa lên khỏi rồi lại rơi xuống nữa; hoặc như người vừa khỏi bệnh lại mắc phải mầm bệnh; hoặc như người đi đường gặp chỗ
hoang vắng, vừa qua khỏi rồi
quay trở lại; hoặc như người tắm rửa sạch sẽ rồi lại bôi bùn đất vào... Tất cả
phàm phu cũng vậy, họ đã
được giải thoát khỏi
cảnh giới Vô sở hữu, chỉ là chưa
thoát khỏi cảnh giới Phi
phi tưởng;[200] nhưng rồi quay lại sa vào
ba đường ác.
“Vì sao vậy? Hết thảy
phàm phu chỉ quán xét nơi quả mà
không quán xét
nhân duyên.
Ví như con chó đuổi theo cục đất chứ không đuổi theo người [ném đất]. Những kẻ
phàm phu cũng vậy! Họ
chỉ quán xét nơi quả mà
không quán xét
nhân duyên [đã góp phần tạo
thành quả]. Vì
không quán xét [
nhân duyên như vậy] nên từ
cảnh giới Phi tưởng họ phải
thối chuyển,
quay trở lại Ba nẻo ác.
“Thiện nam tử! Chư Phật,
Bồ Tát không bao giờ nói một cách
nhất định rằng trong nhân có quả hay trong
nhân không có quả; cũng không nói là vừa có vừa không có quả hoặc chẳng phải có cũng chẳng phải không có quả.
“Nếu ai nói chắc rằng trong nhân trước đã có quả, hoặc không có quả, hoặc vừa có vừa không có quả, hoặc chẳng phải có chẳng phải không có quả, nên biết rằng những kẻ ấy đều là bè đảng của ma, bị ma
trói buộc, tức là người có
tham ái. Người có
tham ái như vậy không thể dứt khỏi sự
trói buộc của
sanh tử, không biết được tướng của tâm và tướng
tham dục.
“Thiện nam tử! Chư Phật,
Bồ Tát chỉ bày rõ lý
trung đạo, [không rơi vào những
thiên kiến như trên]. Vì sao vậy? Tuy nói rằng các pháp chẳng phải có, chẳng phải không, nhưng không
nhất định. Vì lẽ gì? Vì nhân nơi con mắt, nhân nơi
hình sắc, nhân nơi ánh sáng, nhân nơi tâm người, nhân nơi
ý niệm mà thức được sanh ra. Thức này
chắc chắn không ở trong con mắt, trong
hình sắc, trong ánh sáng, trong tâm người, trong
ý niệm, cũng chẳng ở khoảng giữa [những thứ đó], cũng chẳng phải có, chẳng phải không. Từ nơi các duyên mà sanh nên gọi là có; không có
tự tánh nên gọi là không. Vì thế
Như Lai dạy rằng các pháp chẳng phải có, chẳng phải không.
“Thiện nam tử! Chư Phật,
Bồ Tát chẳng hề nói một cách
nhất định rằng tâm có tánh
thanh tịnh hoặc
bất tịnh, hoặc có cả tịnh và
bất tịnh, vì
tâm không có chỗ trụ. Do duyên mà có sanh
tham dục, nên nói là chẳng phải không; tánh tham vốn là không, nên nói là chẳng phải có.
“Thiện nam tử! Do
nhân duyên, tâm mới sanh tham; cũng do
nhân duyên, tâm
được giải thoát.
“Thiện nam tử! Có hai loại
nhân duyên, một loại
tùy theo sanh tử, một loại
tùy theo Đại Niết-bàn.
“Thiện nam tử! Bởi có
nhân duyên nên tâm và
tham dục cùng sanh, cùng diệt.
“Lại có
trường hợp tâm và
tham dục cùng sanh nhưng không cùng diệt.
“Lại có
trường hợp tâm và
tham dục không cùng sanh nhưng cùng diệt.
“Lại có
trường hợp tâm và
tham dục không cùng sanh cũng không cùng diệt.
“Thế nào là tâm và
tham dục cùng sanh, cùng diệt?
“Thiện nam tử! Như có những kẻ
phàm phu chưa trừ dứt tâm
tham dục,
dựa trên tâm
tham dục mà
tu tập. Đối với những kẻ ấy, tâm và
tham dục cùng sanh, cùng diệt. Đối với tất cả
chúng sanh chưa trừ dứt tâm tham thì tâm và
tham dục cùng sanh, cùng diệt. Như
chúng sanh ở
Dục giới, tất cả đều có mức
thiền sơ địa,[201] dù có tu hay không tu cũng thường được
thành tựu, khi gặp
nhân duyên liền
chứng đắc. Nói
nhân duyên tức là nói đến lúc có
hỏa tai.[202] Tất cả
phàm phu cũng vậy; dù có
tu hoặc không tu, đều là tâm và
tham dục cùng sanh, cùng diệt. Vì sao vậy? Vì chưa trừ dứt
tham dục.
“Thế nào là tâm và
tham dục cùng sanh nhưng không cùng diệt? Hàng
đệ tử Thanh văn do gặp
nhân duyên mà sanh
tham tâm dục. Vì sợ tâm
tham dục nên tu phép
quán xương trắng. Đó gọi là tâm và
tham dục cùng sanh nhưng không cùng diệt.[203]
“Lại có
trường hợp [khác] tâm và
tham dục cùng sanh nhưng không cùng diệt. Như hàng
Thanh văn khi chưa chứng
Bốn quả thánh,[204] nếu gặp
nhân duyên liền sanh tâm
tham dục. Sau khi chứng
Bốn quả thánh thì tâm
tham dục diệt mất. Đó gọi là tâm và
tham dục cùng sanh nhưng không cùng diệt.
“Khi
Bồ Tát Ma-ha-tát
chứng đắc Bất động địa[205] thì [cũng là
trường hợp] tâm và
tham dục cùng sanh nhưng không cùng diệt.
“Thế nào là tâm và
tham dục không cùng sanh nhưng cùng diệt? Như
Bồ Tát Ma-ha-tát đã trừ dứt tâm tham rồi, nhưng vì
chúng sanh nên
thị hiện có
tham dục. Nhờ
thị hiện như vậy giúp cho
vô lượng vô biên chúng sanh [có thể đến] thưa hỏi và thọ nhận pháp lành,
thành tựu trọn vẹn. Đó gọi là tâm và
tham dục không cùng sanh nhưng cùng diệt.
“Thế nào là tâm và
tham dục không cùng sanh, không cùng diệt? Đó là nói các vị A-la-hán,
Duyên giác, chư Phật và chư
Bồ Tát, trừ hàng
Bồ Tát ở
Bất động địa.
Trường hợp của các vị này gọi là tâm và
tham dục không cùng sanh, không cùng diệt. Vì nghĩa ấy, chư Phật,
Bồ Tát không nói một cách
nhất định rằng tánh của tâm vốn là tịnh hay vốn là
bất tịnh.
“Thiện nam tử! Tâm này không
hòa hợp với
phiền não là tham, lại cũng không
hòa hợp với sân, với si.
“Thiện nam tử!
Ví như mặt trời,
mặt trăng bị
che khuất bởi khói bụi, mây mù và
thân hình vị La-hầu.[206] Do
nhân duyên ấy,
chúng sanh không thấy được
mặt trời,
mặt trăng. Tuy không thấy được, nhưng tánh của
mặt trời,
mặt trăng không
hòa hợp với những thứ
che khuất ấy. Tâm cũng như vậy, do
nhân duyên mà sanh ra
phiền não là
tham dục. Tuy
chúng sanh cho rằng tâm hợp với tham, nhưng tánh của tâm
thật không hợp với tham. Nếu tâm tham tức là có tánh tham; nếu
tâm không tham tức là có
tánh không tham.
Tâm không tham thì không
thể tham; tâm
phiền não tham thì không
thể không tham.
“Thiện nam tử! Vì nghĩa ấy nên
phiền não tham dục không thể làm
ô nhiễm được tâm. Chư Phật,
Bồ Tát phá trừ
vĩnh viễn phiền não tham dục nên nói rằng tâm
được giải thoát. Tất cả
chúng sanh, do
nhân duyên mà sanh ra
phiền não tham dục; cũng do
nhân duyên mà [dứt
trừ phiền não tham dục,] tâm
được giải thoát.
“Thiện nam tử!
Ví như trên
Tuyết sơn có chỗ cao vút
hiểm trở,
con người và loài khỉ đều không đến được. Lại có chỗ loài khỉ đến được nhưng
con người không đến được. Lại cũng có chỗ
con người và loài khỉ đều đi đến được.
“Thiện nam tử! Ở nơi
con người và loài khỉ đều đến được, thợ săn thường lấy keo dính phết trên một tấm ván rồi dùng để bắt khỉ. Vì
ngu si, khỉ đi đến lấy tay sờ, liền bị
dính chặt tay vào đó. Vì muốn gỡ tay nên dùng chân đạp vào, liền bị dính cả chân. Vì muốn gỡ chân nên dùng miệng cắn vào, liền bị dính cả miệng. Như vậy, cả tay chân và miệng đều không thoát ra được. Khi ấy, thợ săn liền dùng gậy xỏ ngang qua, vác khỉ về nhà.
“Chỗ
hiểm trở trên
Tuyết sơn là
ví như chỗ
đạt được Chánh đạo của Phật,
Bồ Tát. Con khỉ
ví như kẻ
phàm phu. Thợ săn
ví như Ma Ba-tuần. Keo dính
ví như phiền não tham dục.
“Chỗ
con người và loài khỉ đều không đến được là
ví như phàm phu và
Ma vương Ba-tuần đều không đến được.
“Chỗ loài khỉ đến được,
con người không đến được là
ví như ngoại đạo có
trí tuệ,
các loại ác ma... tuy dùng
năm dục cũng không thể
trói buộc họ.
“Chỗ mà
con người và loài khỉ đều đến được là
ví như tất cả
phàm phu và Ma Ba-tuần thường ở trong chốn
sanh tử, không thể
tu hành. Những kẻ
phàm phu bị
năm dục trói buộc, khiến Ma Ba-tuần dễ dàng bắt lấy
mang đi, như thợ săn dùng keo dính mà bắt khỉ rồi mang về nhà.
“Thiện nam tử!
Ví như một vị
quốc vương sống ở nước mình,
thân tâm đều được an vui. Nếu đến nước khác ắt phải chịu mọi sự khổ. Tất cả
chúng sanh cũng vậy, nếu ở nơi
cảnh giới của họ, ắt được an vui; nếu đến
cảnh giới khác ắt gặp
ác ma, chịu các
khổ não.
Cảnh giới của họ là chỉ cho
Bốn niệm xứ;
cảnh giới khác là chỉ cho
năm dục.
“Thế nào gọi là
trói buộc với ma? Có những
chúng sanh đối với
vô thường lại thấy là thường, thường lại thấy là
vô thường; đối với khổ lại thấy là vui, đối với vui lại thấy là khổ; đối với
bất tịnh lại thấy là
thanh tịnh, đối với
thanh tịnh lại thấy là
bất tịnh; đối với
vô ngã thấy là ngã; đối với ngã thấy là
vô ngã;
không thật giải thoát lại
sai lầm thấy là
giải thoát; đối với
chân thật giải thoát lại thấy là
không giải thoát; chẳng phải
giáo pháp lại thấy là
giáo pháp; đối với
giáo pháp lại thấy là chẳng phải
giáo pháp. Những người như vậy gọi là
trói buộc với ma.
Trói buộc với ma thì
tâm không được
thanh tịnh.
“Lại nữa,
thiện nam tử! Nếu thấy rằng các pháp thật có tướng
nhất định, hoặc chung, hoặc riêng, nên biết rằng người ấy khi thấy sắc liền tạo ra tướng sắc;
cho đến thấy thức cũng tạo ra tướng thức![207] Khi thấy kẻ nam người nữ liền tạo ra tướng nam, tướng nữ; khi thấy ngày, tháng, năm liền tạo ra các tướng ngày, tháng, năm;
cho đến khi thấy các ấm, nhập, giới liền tạo ra các tướng ấm, nhập, giới. Cách thấy như vậy gọi là
trói buộc với ma.
Trói buộc với ma thì
tâm không được
thanh tịnh.
“Lại nữa,
thiện nam tử! Nếu thấy
bản ngã là sắc, hoặc trong sắc có
bản ngã, hoặc trong
bản ngã có sắc, hoặc sắc thuộc về
bản ngã,...
cho đến thấy
bản ngã là thức, hoặc trong thức có
bản ngã, hoặc trong
bản ngã có thức, hoặc thức thuộc về
bản ngã.[208] Những kẻ thấy như vậy đều là
trói buộc với ma, chẳng phải
đệ tử Phật.
“Thiện nam tử! Có những
đệ tử Thanh văn lìa xa
Mười hai bộ kinh của
Như Lai,
tu tập mọi thứ sách vở của
ngoại đạo, chẳng tu hạnh nghiệp
tịch diệt xuất gia, làm toàn những việc
tại gia thế tục.
“Sao gọi là việc tại gia? Thọ nhận và chứa trữ tất cả những vật không
trong sạch như tôi tớ trai gái, ruộng vườn, nhà cửa, voi ngựa, xe cộ, lạc đà, lừa, gà, chó, khỉ, heo, dê, mọi thứ lúa nếp; lìa xa những bậc
xuất gia, thân cận và nương dựa người
thế tục, trái nghịch lời dạy của Phật. Họ nói với những kẻ
thế tục rằng: ‘Phật
cho phép tỳ-kheo thọ nhận và chứa trữ mọi thứ
bất tịnh.’ Đó gọi là làm toàn những việc
tại gia.
“Có những
đệ tử không vì [
mục đích đạt đến] Niết-bàn, chỉ vì
lợi dưỡng mà gần gũi và nghe nhận
Mười hai bộ kinh,
sử dụng những chỗ ở, đồ dùng của
chúng tăng và vật
cúng dường của
tín thí,
y phục,
thực phẩm... làm
tài sản riêng của mình. Họ
tham muốn nhà của kẻ khác,
cho đến bợ đỡ thân cận kẻ
quyền thế. Họ dùng
bói toán xem
việc lành dữ,
suy đoán chuyện nên hư, mê chơi đủ các trò cờ bạc,
ăn thua... Họ gần gũi các tỳ-kheo ni và những
thiếu nữ chưa chồng, nuôi hai sa-di.[209] Họ thường đến nhà những người đồ tể, thợ săn, quán rượu và chỗ ở của hạng chiên-đà-la. Họ thường làm
mọi việc mua bán; tự tay làm món ăn; nhận đi sứ đến các nước láng giềng,
thông báo tin tức, mệnh lệnh [cho người
thế tục]... Nên biết rằng những kẻ như vậy là
quyến thuộc của ma, chẳng phải
đệ tử Phật.
“Do
nhân duyên ấy nên tâm và
tham dục cùng sanh, cùng diệt.
Cho đến tâm và si cùng sanh, cùng diệt, cũng giống như vậy.[210]
“Thiện nam tử! Vì
nhân duyên ấy nên tánh của tâm chẳng phải
trong sạch, cũng chẳng phải không
trong sạch. Cho nên ta nói rằng [có] tâm
được giải thoát.
“Nếu có người không thọ nhận, chứa trữ tất cả những vật
bất tịnh, vì [
mục đích đạt đến] Đại Niết-bàn mà
thọ trì,
đọc tụng Mười hai bộ kinh, sao chép,
giảng giải, nên biết rằng những người ấy là
đệ tử chân thật của Phật, không đi đến
cảnh giới của
ác ma Ba-tuần. Đó là
tu tập Ba mươi bảy phẩm đạo. Nhờ
tu tập nên tâm và
tham dục không cùng sanh, cùng diệt.
“Đó gọi là
Bồ Tát tu hành kinh điển vi diệu Đại Niết-bàn
thành tựu trọn vẹn công đức thứ tám.[211]
“Lại nữa,
thiện nam tử! Thế nào là
Bồ Tát Ma-ha-tát
tu hành kinh điển vi diệu Đại Niết-bàn
thành tựu trọn vẹn công đức thứ chín?
“Thiện nam tử!
Bồ Tát Ma-ha-tát
tu hành kinh điển vi diệu Đại Niết-bàn vừa
phát khởi năm việc ắt được
thành tựu [
trọn vẹn công đức thứ chín]. Đó là năm việc gì? Một là
đức tin, hai là lòng ngay thẳng, ba là
trì giới, bốn là gần gũi bạn lành, năm là [đầy đủ sự] nghe nhiều.
“Thế nào là đức tin?
Bồ Tát Ma-ha-tát vững tin nơi
Tam bảo, tin rằng việc
bố thí có
quả báo, tin có hai loại
chân lý,[212] tin có
đạo Nhất thừa chứ không có thừa nào khác, nhưng vì muốn giúp cho
chúng sanh mau
được giải thoát mà chư Phật,
Bồ Tát phân biệt [nói rằng] có
Ba thừa; tin vào
Đệ nhất nghĩa đế, tin vào
phương tiện khéo léo [
giáo hóa chúng sanh]. Đó gọi là [có]
đức tin.
“Người có
đức tin như vậy, dù là sa-môn hay bà-la-môn,
thiên ma,
Phạm thiên hay tất cả
chúng sanh cũng không thể
phá hoại. Nhân
lòng tin ấy mà
đạt được tánh của bậc thánh,
tu hành bố thí dù nhiều hay ít cũng đều được
đến gần Đại Niết-bàn, không đọa vào
sanh tử. Đối với các pháp
tu hành trì giới,
đa văn,
trí tuệ cũng đều như vậy. Đó gọi là [có]
đức tin.
“Tuy có
đức tin như vậy nhưng không tự thấy [rằng mình có
đức tin]. Đó gọi là
Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết-bàn
thành tựu việc trước nhất [trong
công đức thứ chín].
“Thế nào là lòng ngay thẳng?
Bồ Tát Ma-ha-tát
lấy lòng ngay thẳng mà đối với
chúng sanh. Hết thảy
chúng sanh khi gặp
nhân duyên ắt sanh lòng dối gian
dua nịnh.
Bồ Tát không như thế. Vì sao vậy? Vì
hiểu rõ rằng các pháp đều do
nhân duyên.
Bồ Tát Ma-ha-tát tuy thấy những
lỗi lầm,
tội ác của
chúng sanh cũng chẳng bao giờ nói ra [với kẻ khác].[213] Vì sao vậy? Vì e rằng khởi sanh
phiền não. Nếu khởi sanh
phiền não ắt đọa vào đường ác.
Bồ Tát thấy
chúng sanh có chút ít
việc lành liền
ngợi khen xưng tán. Thế nào là việc lành? Đó là nói tánh Phật.
Ngợi khen tánh Phật nên khiến cho
chúng sanh đều
phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.”
Lúc ấy,
Bồ Tát Ma-ha-tát
Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương
bạch Phật: “Thế Tôn! Như Phật vừa nói,
Bồ Tát Ma-ha-tát
ngợi khen tánh Phật, khiến
chúng sanh phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Nghĩa ấy không
hợp lý. Vì sao vậy? Khi vừa mở đầu kinh Niết-bàn này,
Như Lai dạy rằng có ba loại bệnh nhân. Loại thứ nhất, nếu được gặp thầy cho thuốc, được người
săn sóc ắt dễ khỏi bệnh;
nếu không thì bệnh không khỏi. Loại thứ hai dù có gặp thầy xem bệnh cho thuốc hay không đều không thể khỏi. Loại thứ ba dù có gặp thầy xem bệnh cho thuốc hay không cũng đều được khỏi.[214]
“Tất cả
chúng sanh cũng đều như vậy. Có những người nếu gặp được
thiện hữu, chư Phật,
Bồ Tát, nghe
thuyết pháp nhiệm mầu ắt sẽ
phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề; nhưng
nếu không gặp thì không thể
phát tâm như vậy. Đó là nói hàng Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán,
Phật Bích-chi. Lại có những người tuy gặp được
thiện hữu, chư Phật,
Bồ Tát, nghe
thuyết pháp mầu, nhưng cũng không thể
phát tâm; nếu
như không gặp cũng không thể
phát tâm. Đó là nói hạng nhất-xiển-đề. Lại có những người dù được gặp hay không được gặp [chư Phật,
Bồ Tát] cũng đều có thể
phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Đó là nói hàng
Bồ Tát.
“Nếu nói rằng dù gặp hay không gặp được [chư Phật,
Bồ Tát], thảy đều
phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, thì tại sao nay
Như Lai lại dạy rằng do việc
ngợi khen tánh Phật khiến
chúng sanh phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề?
“Bạch Thế Tôn! Nếu như gặp được
thiện hữu, chư Phật,
Bồ Tát, nghe
thuyết pháp mầu; hoặc là không gặp được, thảy đều không thể
phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, thì nghĩa ấy cũng không
hợp lý. Vì sao vậy? Vì những người như vậy sẽ
đạt được A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Hạng nhất-xiển-đề, vì có tánh Phật nên dù nghe hay không nghe cũng đều sẽ
đạt được A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề!
“Bạch Thế Tôn! Theo
lời Phật dạy thì thế nào gọi là nhất-xiển-đề? Như nói đó là những kẻ dứt mất căn lành, nghĩa ấy cũng không
hợp lý. Vì sao vậy? Vì họ không hề dứt mất tánh Phật. Tánh Phật ấy theo đúng lý là không thể dứt mất, vì sao Phật nói là dứt mất căn lành?
“Như trước đây
Phật thuyết Mười hai bộ kinh, dạy rằng pháp lành có hai loại: thường và
vô thường. Thường thì không bị dứt mất,
vô thường ắt bị dứt mất. Vì các pháp lành
vô thường có thể bị dứt mất, nên đọa vào
địa ngục; các pháp lành là thường không bị dứt mất, sao không ngăn chặn [được tội vào
địa ngục]? Tánh Phật không dứt mất thì không phải là nhất-xiển-đề, vì sao
Như Lai nói đó là nhất-xiển-đề?
“Bạch Thế Tôn! Nếu nhân nơi tánh Phật mà
phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, vì sao
Như Lai phải rộng vì
chúng sanh mà
thuyết giảng Mười hai bộ kinh?
“Bạch Thế Tôn!
Ví như bốn con sông cái đều từ hồ A-na-bà-đạp-đa[215] mà chảy ra. Như có
chư thiên, người ta hoặc chư
Phật Thế Tôn nói rằng bốn con sông ấy không chảy vào biển cả mà chảy ngược lên nguồn thì
lời nói ấy là vô lý! Tâm Bồ-đề cũng vậy, người đã có tánh Phật thì dù có được nghe [pháp] hay không nghe [pháp], có
giữ giới hay không
giữ giới, có
bố thí hay không
bố thí, có tu hay không tu, có
trí tuệ hay không có
trí tuệ, lẽ ra hết thảy đều sẽ
đạt được A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.
“Bạch Thế Tôn! Như
mặt trời mọc lên từ núi Ưu-đà-diên, [lệch dần] về hướng nam. Nếu
mặt trời nghĩ rằng: ‘Ta không đi về phương tây mà
trở lại phương đông.’ Như vậy
thật không có lý! Tánh Phật cũng vậy; nếu như [vì] không nghe [pháp], không
giữ giới, không
bố thí, không
tu tập, không có
trí tuệ mà không
đạt được A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề thì không có lý!
“Bạch Thế Tôn!
Chư Phật Như Lai dạy rằng tánh của
nhân quả là chẳng phải có, chẳng phải không. Nghĩa ấy cũng không
hợp lý. Vì sao vậy? Nếu trong sữa tươi không sẵn có tánh của kem sữa thì không thể [làm thành] kem sữa! Như trong hạt ni-câu-đà
nếu không sẵn có tánh cao năm trượng thì không thể sanh ra cây [ni-câu-đà] cao năm trượng. Nếu trong tánh Phật không sẵn có cây
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề làm sao sanh ra được cây A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề? Lấy nghĩa này mà so với lời Phật nói rằng
nhân quả là chẳng phải có chẳng phải không thì làm sao có thể tương hợp?”
Bấy giờ,
đức Thế Tôn khen rằng: “Lành thay,
lành thay! Thiện nam tử!
Thế gian có hai hạng người rất hiếm gặp,
ví như hoa ưu-đàm. Một là hạng người không làm điều ác, hai là hạng người có tội biết hối cải. Những người như vậy thật rất hiếm có!
“Lại có hai hạng người: một là người làm ơn, hai là người biết nhớ ơn.
“Lại có hai hạng người: một là người thưa hỏi và thọ nhận pháp mới, hai là người ôn lại việc cũ chẳng quên.
“Lại có hai hạng người: một là người tạo ra việc mới, hai là người
củng cố việc cũ.
“Lại có hai hạng người: một là người ưa
nghe pháp, hai là người ưa
thuyết pháp.
“Lại có hai hạng người: một là người khéo chất vấn, hai là người khéo
giải đáp. Người khéo chất vấn chính là ông đó. Người khéo
giải đáp chính là
Như Lai.
“Thiện nam tử! Nhờ sự khéo chất vấn này mới có thể chuyển được bánh xe pháp
Vô thượng, có thể làm khô cây
đại thụ Mười hai nhân duyên, có thể
vượt qua con sông lớn
sanh tử vô biên, có thể cùng
Ma vương Ba-tuần giao chiến, có thể
xô ngã ngọn cờ chiến thắng mà ma Ba-tuần đã dựng lên.
“Thiện nam tử! Như trước đây ta có nói về ba loại bệnh nhân. Có loại bệnh nhân dù gặp thầy giỏi cho thuốc tốt, được người
săn sóc; hoặc là không [gặp thầy gặp thuốc] thì bệnh vẫn khỏi. Nghĩa ấy là thế nào?
“Dù gặp cũng
như không gặp, đó là nói tuổi thọ đã xác định. Vì sao vậy? Những người ấy trong
vô lượng kiếp đã từng
tu tập ba mức pháp lành: bậc cao, bậc vừa và bậc thấp. Nhờ tu ba mức pháp lành ấy, họ được tuổi thọ xác định. Như người ở châu Uất-đan-việt[216] có tuổi thọ là một ngàn tuổi; khi họ mắc bệnh, dù có gặp thầy giỏi cho thuốc tốt hay không thì bệnh cũng vẫn khỏi. Vì sao vậy? Vì họ có tuổi thọ xác định.
“Thiện nam tử! Như ta nói có những bệnh nhân nếu gặp thầy giỏi cho thuốc tốt, được người
săn sóc ắt bệnh dễ lành;
nếu không gặp thầy bệnh không thể lành. Nghĩa ấy là thế nào?
“Thiện nam tử! Đối với những người ấy, tuổi thọ không xác định. Dù mạng sống họ chưa dứt nhưng nếu gặp chín loại
nhân duyên có thể làm cho
chết yểu. Chín
nhân duyên ấy là gì? Một là biết
thức ăn không tốt nhưng vẫn ăn; hai là [tham]
ăn quá nhiều; ba là
thức ăn cũ chưa tiêu đã ăn thêm vào; bốn là việc đại,
tiểu tiện không tùy lúc
thích hợp; năm là khi đang bệnh không nghe theo lời thầy thuốc; sáu là không
nghe lời người nuôi bệnh; bảy là cố gượng không chịu nôn mửa; tám là đi đêm, vì đi đêm nên bị quỷ ác tấn công; chín là
dâm dục quá độ. Vì
duyên cớ ấy, ta nói rằng nếu bệnh nhân gặp thầy, gặp thuốc ắt được khỏi bệnh; nếu
như không gặp thì không khỏi bệnh.
“Thiện nam tử! Như trước ta nói có những bệnh nhân dù gặp thầy thuốc hay không gặp thì bệnh cũng không thể khỏi. Nghĩa ấy là thế nào?
“Khi mạng sống người ta sắp dứt, dù cho họ có được gặp thầy thuốc hay không gặp thì bệnh cũng không thể khỏi. Vì sao vậy? Vì mạng sống đã [sắp] dứt. Vì nghĩa ấy nên ta nói rằng có những bệnh nhân dù gặp thầy, gặp thuốc hay không gặp thì bệnh cũng không khỏi.
“Chúng sanh cũng vậy, có những người
phát tâm Bồ-đề, nếu gặp được
thiện hữu, chư Phật,
Bồ Tát, thưa hỏi và thọ nhận
giáo pháp sâu xa, hoặc dù không gặp cũng đều sẽ
thành tựu. Vì sao vậy? Vì họ có thể
phát tâm Bồ-đề, cũng như người ở châu Uất-đan-việt có tuổi thọ xác định.
“Như ta có nói,
từ hàng Tu-đà-hoàn
cho đến Phật Bích-chi, nếu được nghe
thiện hữu, chư Phật,
Bồ Tát thuyết giảng giáo pháp thâm sâu ắt sẽ
phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề;
nếu không được gặp chư Phật,
Bồ Tát và chẳng nghe
thuyết giảng giáo pháp thâm sâu, ắt sẽ không thể
phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Cũng giống như những người không có tuổi thọ xác định, do chín
nhân duyên có thể phải
chết yểu. Những bệnh nhân ấy nếu được gặp thầy, gặp thuốc thì được khỏi bệnh;
nếu không gặp thì không khỏi bệnh. Cho nên ta nói rằng: Nếu họ gặp Phật,
Bồ Tát và nghe
thuyết giảng giáo pháp thâm sâu ắt sẽ có thể
phát tâm. Nếu
như không gặp thì họ không có thể
phát tâm Bồ-đề.
“Như trước ta nói rằng có những người dù gặp được
thiện hữu, chư Phật,
Bồ Tát và nghe
thuyết giảng giáo pháp thâm sâu, hoặc là không gặp, đều không thể
phát tâm Bồ-đề. Nghĩa ấy là thế nào?
Thiện nam tử! Hạng nhất-xiển-đề, nếu gặp được
thiện hữu, chư Phật,
Bồ Tát và nghe
thuyết giảng giáo pháp thâm sâu, hoặc là không gặp, đều không
lìa bỏ tâm nhất-xiển-đề. Vì sao vậy? Vì họ đã dứt mất pháp lành.
“Hạng nhất-xiển-đề cũng
đạt được A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Vì sao vậy? Nếu họ có thể
phát tâm Bồ-đề thì không gọi họ là nhất-xiển-đề nữa.
“Thiện nam tử! Do
duyên cớ gì mà ta nói rằng hạng nhất-xiển-đề cũng
đạt được A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề? Hạng nhất-xiển-đề thật ra không
thể đạt được
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Họ như bệnh nhân tuổi thọ đã hết, dù gặp thầy hay, thuốc tốt, được người chăm sóc cũng không thể khỏi bệnh. Vì sao vậy? Vì tuổi thọ đã hết.
“Thiện nam tử! Nhất-xiển nghĩa là
đức tin; đề nghĩa là không đủ. Không đủ
đức tin nên gọi là nhất-xiển-đề. Tánh Phật không phải
đức tin;
chúng sanh không phải sự đầy đủ. Vì không có sự đầy đủ, làm sao có thể dứt mất?
“Thiện nam tử! Nhất-xiển nghĩa là
phương tiện khéo léo; đề nghĩa là không đủ. Vì
tu tập không đầy đủ
phương tiện khéo léo nên gọi là nhất-xiển-đề. Tánh Phật không phải việc tu
phương tiện khéo;
chúng sanh không phải sự đầy đủ. Vì không có sự đầy đủ, làm sao có thể dứt mất?
“Nhất-xiển nghĩa là
tiến triển; đề nghĩa là không đủ. Vì tiến
tiến triển không đủ nên gọi là nhất-xiển-đề. Tánh Phật không phải sự
tiến triển;
chúng sanh không phải sự đầy đủ. Vì không có sự đầy đủ, làm sao có thể dứt mất?
“Nhất-xiển nghĩa là niệm tưởng; đề nghĩa là không đủ. Vì niệm tưởng không đủ nên gọi là nhất-xiển-đề. Tánh Phật chẳng phải sự niệm tưởng;
chúng sanh không phải sự đầy đủ. Vì không có sự đầy đủ, làm sao có thể dứt mất?
“Nhất-xiển nghĩa là
định tâm; đề nghĩa là không đủ. Vì không đủ
định tâm nên gọi là nhất-xiển-đề. Tánh Phật không phải sự
định tâm;
chúng sanh không phải sự đầy đủ. Vì không có sự đầy đủ, làm sao có thể dứt mất?
“Nhất-xiển nghĩa là
trí tuệ; đề là chẳng đủ. Vì không đủ
trí tuệ nên gọi là nhất-xiển-đề. Tánh Phật không phải
trí tuệ;
chúng sanh không phải sự đầy đủ. Vì không có sự đầy đủ, làm sao có thể dứt mất?
“Nhất-xiển nghĩa là pháp lành
vô thường; đề, là không đủ. Vì không đủ pháp lành
vô thường nên gọi là nhất-xiển-đề. Tánh Phật là thường, chẳng phải lành, chẳng phải không lành. Vì sao vậy? Pháp lành là do
phương tiện mà được, nhưng tánh Phật không do
phương tiện mà được; cho nên tánh Phật không phải pháp lành. Vì sao tánh Phật cũng chẳng phải không lành? Vì có
thể đạt được quả lành. Quả lành đó là
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.
“Lại nữa, pháp lành đó sanh ra rồi mới
đạt được; nhưng tánh Phật không phải sanh ra rồi
đạt được, cho nên chẳng phải pháp lành. Vì dứt
mất việc sanh ra
đạt được các pháp lành nên gọi là nhất-xiển-đề.
“Thiện nam tử! Như lời ông hỏi: Nếu hạng nhất-xiển-đề có tánh Phật, vì sao không ngăn chặn được tội vào địa ngục?
“Thiện nam tử! Hạng nhất-xiển-đề không có tánh Phật!
“Thiện nam tử!
Ví như một vị vua nghe tiếng đàn
không hầu[217] trỗi lên thánh thót êm dịu. Lòng vua say mê,
vui thích,
lưu luyến không muốn rời xa. Vua liền hỏi vị đại thần rằng: ‘Âm thanh êm dịu ấy từ đâu ra vậy?’ Đại thần tâu: ‘Âm thanh êm dịu ấy từ nơi đàn
không hầu mà ra.’ Vua bảo: ‘Hãy đem
âm thanh ấy đến đây.’ Liền đó, đại thần mang đàn
không hầu đến đặt trước vua và tâu rằng: ‘Đại vương! Ngài nên biết rằng vật này chính là
âm thanh êm dịu ấy.’ Vua liền bảo cây đàn rằng: ‘Kêu lên đi! Kêu lên đi!’ Nhưng cây đàn im lìm không phát ra tiếng. Vua liền cắt đứt dây đàn, cũng không
nghe được tiếng. Vua liền phá tung tất cả vỏ đàn, sườn gỗ, cố tìm
âm thanh êm dịu kia mà không được.
Lúc ấy, vua liền
nổi giận với đại thần: ‘Sao dám
nói dối với ta như vậy?’ Đại thần tâu rằng: ‘Muốn nghe
âm thanh, không thể làm như vậy. Cần có đủ các duyên và
phương tiện khéo léo mới
nghe được âm thanh.’
“Tánh Phật của
chúng sanh cũng giống như vậy, không có chỗ trụ. Phải dùng
phương tiện khéo mới có thể thấy. Nhờ thấy tánh Phật mà
đạt được A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Hạng nhất-xiển-đề không thấy được tánh Phật, làm sao có thể ngăn chặn những tội đọa vào Ba đường ác?
“Thiện nam tử! Nếu một người nhất-xiển-đề tin rằng có tánh Phật, nên biết rằng người ấy không đọa vào
Ba đường ác; cũng không gọi là nhất-xiển-đề nữa. Vì không tự tin mình có tánh Phật nên mới đọa vào
Ba đường ác; vì đọa vào
Ba đường ác nên mới gọi là nhất-xiển-đề.
“Thiện nam tử! Như lời ông hỏi: ‘Nếu trong sữa tươi không sẵn có tánh của kem sữa, lẽ ra không thể làm thành kem sữa; nếu hạt ni-câu-đà không sẵn có tánh cao năm trượng, lẽ ra không thể mọc thành cây cao năm trượng.’ Chỉ người
ngu si mới
lập luận như vậy, kẻ có trí chẳng bao giờ nói những lời như thế. Vì sao vậy? Vì
thật không có tánh.
“Thiện nam tử! Nếu trong sữa tươi đã sẵn có tánh của kem sữa, lẽ ra không cần đến
tác động của các duyên!
Thiện nam tử!
Ví như pha nước với sữa tươi rồi chờ đến cả tháng cũng không thành kem sữa. Nhưng nếu cho một giọt nhựa cây vào sữa, liền thành kem sữa.[218] Nếu trong sữa tươi vốn có kem sữa, cần gì phải đợi các duyên? Tánh Phật của
chúng sanh cũng vậy; phải
dựa vào các duyên mới thấy được tánh Phật; phải
dựa vào các duyên mới
đạt được A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Nếu phải đợi có các duyên rồi mới
thành tựu, tức là
không thật có tánh. Vì
không thật có tánh nên có
thể đạt được
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.
“Thiện nam tử! Vì nghĩa ấy,
Bồ Tát Ma-ha-tát thường
ngợi khen điều thiện của người, không nói chỗ khiếm khuyết. Đó gọi là lòng chơn chất ngay thẳng.
“Lại nữa,
thiện nam tử! Thế nào là lòng chơn chất ngay thẳng của Bồ Tát?
Bồ Tát Ma-ha-tát thường không phạm vào điều ác.
Ví như có
lỗi lầm liền
lập tức sám hối; đối với thầy dạy hoặc bạn bè không hề che giấu, lại sanh lòng
hổ thẹn và tự trách, không dám
tái phạm. Đối với
tội nhẹ cũng cho là rất nặng. Như có người gạn hỏi liền đáp là
quả thật có
phạm tội. Nếu lại hỏi việc ấy là tốt hay không tốt, liền đáp là không tốt. Nếu lại hỏi việc ấy là thiện hay
bất thiện, liền đáp là
bất thiện. Nếu lại hỏi tội ấy
mang đến quả lành hay quả dữ, liền đáp rằng tội ấy thật chẳng phải quả lành. Nếu lại hỏi tội ấy do ai tạo ra, không phải do Phật, Pháp, Tăng tạo ra đó chăng? Liền đáp là không phải do Phật, Pháp, Tăng; chính do tôi tạo ra, do sự tập hợp cấu thành của các
phiền não.
“Vì lòng ngay thẳng nên tin có tánh Phật. Vì tin có tánh Phật nên không thể gọi là nhất-xiển-đề. Vì lòng ngay thẳng nên gọi là
đệ tử Phật, dù thọ nhận của
chúng sanh những
y phục, đồ ăn
thức uống, giường chiếu mền gối, thuốc men, mỗi loại đến số muôn ngàn cũng chẳng phải là nhiều. Đó gọi là lòng ngay thẳng của
Bồ Tát.
“Thế nào là
Bồ Tát tu hành trì giới?
Bồ Tát Ma-ha-tát,
thọ trì giới cấm không phải vì muốn sanh lên
cõi trời, cũng không vì sự sợ sệt;
cho đến không
thọ trì các
tà giới ngoại đạo như giới chó, giới gà, giới bò, giới trĩ... Trong việc
trì giới,
Bồ Tát không
phá giới, không giữ theo những giới có sự khiếm khuyết, có tỳ vết, có sự hỗn tạp; không chỉ giữ theo các giới của hàng
Thanh văn mà
thọ trì [đầy đủ]
giới hạnh của hàng
Đại Bồ Tát,
tu tập Thi-la Ba-la-mật,[219] được giới
trọn vẹn đầy đủ mà không sanh
kiêu mạn.
“Đó gọi là
Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết-bàn
thành tựu việc thứ ba là
trì giới.
“Thế nào là
Bồ Tát gần gũi bạn tốt?
Bồ Tát Ma-ha-tát thường vì
chúng sanh thuyết giảng về các đường lành, không nói các đường ác; giảng rõ rằng các đường ác không phải là
quả báo [của những việc] lành!
“Thiện nam tử! Thân
Như Lai hiện nay tức là
thiện tri thức chân thật của tất cả
chúng sanh, cho nên có thể dứt sạch
tà kiến của Bà-la-môn Phú-già-la.
“Thiện nam tử! Những
chúng sanh nào được gần gũi
Như Lai, dù đã có
nhân duyên phải sanh vào
địa ngục nhưng liền được sanh lên
cõi trời. Những người như Tu-na-sát-đa-la lẽ ra phải đọa vào
địa ngục, nhưng nhờ gặp
Như Lai liền dứt trừ
nhân duyên địa ngục, được sanh lên
cõi trời thuộc
Sắc giới.
“Tuy có những người như các ông Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên... nhưng không được gọi là
thiện tri thức chân thật của
chúng sanh. Vì sao vậy? Vì là
nhân duyên sanh tâm nhất-xiển-đề.
“Thiện nam tử!
Thuở trước khi
Như Lai ở thành Ba-la-nại, Xá-lợi-phất có dạy hai người
đệ tử, một người quán tướng xương trắng, một người quán đếm
hơi thở.
Trải qua nhiều năm, hai người ấy chẳng được định. Vì
nhân duyên ấy, họ sanh
tà kiến, nói rằng: ‘Không có pháp
Vô lậu Niết-bàn. Nếu có pháp ấy, lẽ ra tôi đã
đạt được rồi. Vì sao vậy? Vì tôi giữ được
trọn vẹn giới cấm đã thọ.’
“Thuở ấy, thấy những tỳ-kheo kia sanh
tà tâm như vậy,
Như Lai liền gọi Xá-lợi-phất đến
quở trách rằng: ‘Ông
thật không khéo dạy. Tại sao ông
thuyết pháp trái ngược với hai
đệ tử ấy? Hai
đệ tử của ông
tính cách khác nhau. Một người từng làm nghề giặt quần áo, một người từng làm thợ vàng. Đối với người thợ vàng nên dạy phép quán đếm
hơi thở. Đối với người thợ giặt, nên dạy phép quán tướng xương trắng. Bởi ông dạy điều ngược lại nên hai người ấy sanh ra
tà kiến xấu ác.’ Lúc đó,
Như Lai vì hai người ấy mà
thuyết pháp tương ứng. Họ nghe rồi liền
chứng đắc quả A-la-hán.
“Vì thế,
Như Lai chính là
thiện tri thức chân thật của tất cả
chúng sanh, chứ không phải những người như các ông Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên...
“Nếu những
chúng sanh nào có
phiền não rất nặng mà gặp được Phật, Phật sẽ dùng
phương tiện mà vì họ dứt sạch [những
phiền não ấy]. Như em ta là Nan-đà có lòng
tham dục rất mạnh mẽ, ta đã dùng mọi
phương tiện khéo léo mà dứt trừ cho. Lại như Ương-quật-ma-la có lòng
sân hận rất nặng, nhờ gặp
Như Lai mà lòng
sân hận liền dứt. Như vua A-xà-thế có lòng
ngu si nặng, nhờ gặp
Như Lai nên lòng
ngu si liền dứt hết.
“Như ông
trưởng giả Bà-hy-già trong
vô lượng kiếp đã tích tập
phiền não rất nặng, nhờ gặp
Như Lai liền được dứt trừ.
“Ví như có những kẻ xấu ác hèn hạ mà gần gũi với
Như Lai, làm
đệ tử Như Lai, nhờ
nhân duyên ấy liền được tất cả
mọi người và
chư thiên cung kính, thương tưởng đến.
“Như Thi-lỵ-cúc-đa
tà kiến rất nặng, nhờ gặp
Như Lai nên
tà kiến dứt sạch.
“Nhờ gặp
Như Lai nên dứt trừ
nhân địa ngục, tạo
duyên sanh lên
cõi trời, như ông Khí Hư thuộc hạng Chiên-đà-la.
“Vào lúc sắp chết nhờ gặp
Như Lai liền được kéo dài
thọ mạng, như Kiều-thi-ca.[220]
“Lòng
điên cuồng rối loạn, nhờ gặp
Như Lai liền
trở lại sáng suốt như xưa, như Sấu-cù-đàm-di.
“Con nhà đồ tể thường làm nhiều
nghiệp ác, nhờ gặp
Như Lai liền
lìa bỏ được, như
tỳ-kheo Xiển-đề.[221]
“Nhờ gặp
Như Lai nên thà bỏ
thân mạng chứ không hủy
phạm giới cấm, như
tỳ-kheo Thảo Hệ.[222]
“Vì những nghĩa ấy, tỳ-kheo A-nan có nói rằng: ‘Được nửa phần
Phạm hạnh đủ gọi là
thiện tri thức’ nhưng
Như Lai dạy rằng: ‘Không phải vậy! Đầy đủ
Phạm hạnh mới được gọi là
thiện tri thức.’
“Như vậy gọi là gọi là
Bồ Tát tu hành Đại Niết-bàn,
thành tựu trọn vẹn việc thứ tư, gần gũi bạn lành.
“Thế nào là
Bồ Tát đầy đủ sự nghe nhiều?
“Bồ Tát Ma-ha-tát vì [
mục đích đạt đến] Đại Niết-bàn mà sao chép, tụng đọc,
phân biệt giảng nói
Mười hai bộ kinh. Đó gọi là
Bồ Tát đầy đủ sự nghe nhiều.
“Hoặc
trừ ra Mười một
bộ kinh, chỉ
thọ trì, tụng đọc, sao chép, giảng nói một bộ Tỳ-phật-lược[223] cũng gọi là
Bồ Tát đầy đủ sự nghe nhiều.
“Hoặc trong số
Mười hai bộ kinh chỉ
thọ trì riêng một
kinh điển vi diệu Đại Niết-bàn này, tụng đọc, sao chép, giảng nói đó cũng gọi là
Bồ Tát đầy đủ sự nghe nhiều.
“Hoặc trong
toàn bộ kinh điển này chỉ có thể
thọ trì một
bài kệ bốn câu; hoặc
trừ ra cả
bài kệ ấy, chỉ còn có thể luôn ghi nhớ là
Như Lai thường trụ,
tánh không biến đổi, đó cũng gọi là
Bồ Tát đầy đủ sự nghe nhiều.
“Hoặc
trừ ra [cả] việc [ghi nhớ] ấy, nếu rõ biết được rằng
Như Lai thường không
thuyết pháp cũng gọi là
Bồ Tát đầy đủ sự nghe nhiều.
“Vì sao vậy? Vì pháp
thật không có tánh. Tuy
Như Lai thuyết giảng hết thảy các pháp, nhưng thường không có chỗ thuyết.
“Như vậy gọi là
Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết-bàn
thành tựu trọn vẹn việc thứ năm, đầy đủ sự nghe nhiều.
“Thiện nam tử! Như có kẻ nam người nữ lòng lành, vì Đại Niết-bàn mà
thành tựu trọn vẹn năm việc ấy thì có thể làm được việc khó làm, nhẫn chịu được việc khó nhẫn, thí xả được việc khó thí.
“Thế nào là
Bồ Tát làm được việc khó làm?
“Như nghe có người ăn [mỗi ngày] một hạt mè mà
đạt được A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, vì tin lời ấy cho nên trong
vô lượng vô số kiếp thường chỉ ăn mỗi ngày một hạt mè mà thôi.
“Như nghe có người
đi vào trong lửa mà
đạt được A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, vì tin lời ấy nên trong
vô lượng kiếp ở tại
địa ngục A-tỳ, vào trong lửa đỏ. Đó gọi là
Bồ Tát làm được việc khó làm.
“Thế nào là
Bồ Tát nhẫn chịu được việc khó nhẫn? Như nghe rằng có người chịu khổ bị đánh bằng tay, bằng gậy, bằng dao, bị ném đá... do
nhân duyên ấy mà
đạt được Đại Niết-bàn, liền
trải qua vô lượng vô số kiếp tự mình
chịu đựng hết thảy những việc ấy mà chẳng cho là khổ. Đó gọi là
Bồ Tát nhẫn chịu được việc khó nhẫn.
“Thế nào là
Bồ Tát thí xả được việc khó thí? Như nghe rằng nhờ
bố thí cho người khác [những gì mình
sở hữu như] giang san, thành trì,
vợ con, đầu mắt, tủy não... mà
đạt được A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, liền
trải qua vô lượng vô số kiếp mang cả giang san, thành trì,
vợ con, đầu mắt, tủy não của mình ra
bố thí cho kẻ khác. Đó gọi là
Bồ Tát thí xả được việc khó thí.
“Tuy
Bồ Tát làm được những việc khó làm, nhưng chẳng bao giờ nghĩ rằng: ‘Đó là việc do ta làm.’ Đối với những việc khó nhẫn chịu và khó thí xả cũng vậy.
“Thiện nam tử!
Ví như cha mẹ chỉ có
duy nhất một đứa con nên rất
thương yêu, cho mặc quần áo đẹp, cho ăn
thức ăn ngon,
tùy thời nuôi dưỡng không
thiếu thốn gì cả. Như đứa con ấy đối với
cha mẹ sanh lòng khinh khi,
hỗn hào nhục mạ. Nhưng
cha mẹ vì
thương yêu con chẳng sanh lòng giận, cũng chẳng nghĩ đến việc mình đã nuôi ăn nuôi mặc.
Bồ Tát Ma-ha-tát cũng vậy, xem tất cả
chúng sanh như con một của mình. Nếu con có bệnh,
cha mẹ như cũng bệnh theo,
lo lắng chạy thầy chạy thuốc,
hết lòng điều trị. Đến khi đã khỏi bệnh rồi,
cha mẹ cũng chẳng nghĩ đến việc đã khó nhọc lo chữa trị cho con.
Bồ Tát cũng thế, thấy
chúng sanh mang bệnh
phiền não, bèn đem lòng thương tưởng,
thuyết pháp cho nghe. Nhờ
nghe pháp,
phiền não được dứt trừ. Đến khi
phiền não dứt rồi,
Bồ Tát cũng chẳng nghĩ rằng: ‘Ta đã vì
chúng sanh mà dứt
trừ phiền não.’ Nếu có
ý nghĩ như
vậy thì chẳng bao giờ được
thành tựu A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Chỉ
duy nhất có một
ý nghĩ là: ‘Ta không
thuyết pháp với một
chúng sanh nào khiến cho được dứt
trừ phiền não cả.’
“Bồ Tát Ma-ha-tát đối với
chúng sanh không giận
không vui. Vì sao vậy? Nhờ khéo
tu tập pháp
Tam-muội Không. Nếu
Bồ Tát tu pháp Tam-muội Không thì còn sanh lòng giận, lòng vui đối với ai?[224]
“Thiện nam tử!
Ví như núi rừng bị lửa dữ thiêu rụi, hoặc bị người ta chặt đốn, hoặc bị nước lũ tràn ngập, nhưng cây rừng nơi ấy biết đối với ai mà sanh lòng giận, lòng vui?
Bồ Tát Ma-ha-tát cũng giống như vậy, đối với
chúng sanh không giận,
không vui. Vì sao vậy? Vì
tu pháp Tam-muội Không.”
Bấy giờ,
Bồ Tát Ma-ha-tát
Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương
bạch Phật: “Thế Tôn! Tánh của tất cả các
pháp tự chúng là không, hay vì không có
tánh không cho nên không?
“Nếu tánh [của các pháp] tự [chúng] là không thì lẽ ra không phải
tu pháp không rồi sau mới thấy được tánh không! Vì sao
Như Lai dạy rằng nhờ có
tu pháp không mới thấy được tánh không?
“Nếu tánh [của các pháp] tự [chúng] chẳng phải không, thì dù có
tu pháp không cũng không thể làm cho chúng
trở thành không.”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Tánh của tất cả các pháp vốn tự chúng là không. Vì sao vậy? Vì tánh của tất cả các pháp là không thể nắm bắt.
“Thiện nam tử! Tánh của
sắc không thể nắm bắt. Thế nào là tánh của sắc? Tánh của
sắc không phải đất, nước, lửa, gió,[225] cũng không lìa khỏi đất, nước, lửa, gió; không phải xanh, vàng, đỏ, trắng...; cũng không lìa khỏi xanh, vàng, đỏ, trắng...; chẳng phải có, chẳng phải không. Lẽ nào lại nói rằng sắc có tự tánh? Vì tánh [của sắc] không thể nắm bắt nên nói là không.
“Tất cả các pháp cũng đều như vậy. Vì chúng tương tợ như nhau,
liên tục tiếp nối nhau,
phàm phu thấy vậy liền nói rằng tánh của các pháp chẳng hề rỗng không
vắng lặng.
Bồ Tát Ma-ha-tát
thành tựu đầy đủ năm việc[226] nên thấy rõ tánh của các pháp vốn là rỗng không
vắng lặng.
“Thiện nam tử! Nếu có sa-môn, bà-la-môn nào thấy rằng tánh của tất cả các pháp chẳng phải là không, nên biết rằng những người ấy không phải sa-môn, bà-la-môn; họ không được
tu tập Bát-nhã Ba-la-mật, không được vào [
cảnh giới] Đại Bát Niết-bàn, không được gặp chư Phật,
Bồ Tát trong
hiện tại. Họ là
quyến thuộc của ma.
“Thiện nam tử!
Tự tánh của tất cả các pháp vốn là không, nhưng cũng nhân nơi
Bồ Tát tu tập pháp không nên thấy các pháp là không.
“Thiện nam tử! Cũng như tánh của tất cả các pháp là
vô thường cho nên sự
hoại diệt mới có
thể diệt mất [các pháp]. Nếu [tánh của các pháp] chẳng phải
vô thường thì sự
hoại diệt không
thể diệt mất [các pháp] được. Những
pháp hữu vi vì có tướng sanh nên sự sanh mới có thể sanh ra; vì có tướng diệt nên sự diệt mới có
thể diệt mất. Hết thảy các pháp vì có tướng khổ nên sự khổ mới có thể làm cho khổ.
“Thiện nam tử! Cũng như tánh của muối là mặn nên có thể làm cho vật khác trở nên mặn. Tánh của đường là ngọt nên có thể làm cho vật khác trở nên ngọt. Tánh của giấm là chua nên có thể làm cho vật khác trở nên chua. Tánh của gừng là cay nên có thể làm cho vật khác trở nên cay. Tánh của cây ha-lê-lặc[227] là đắng nên có thể làm cho vật khác trở nên đắng. Tánh của trái am-la là nhạt nên có thể làm cho vật khác trở nên nhạt. Tánh của chất độc có thể gây hại nên khiến cho vật khác bị hại. Tánh của chất
cam lộ cứu người khỏi sự chết, nếu hợp với vật khác cũng có thể cứu người khỏi sự chết.
“Bồ Tát
tu pháp không cũng giống như vậy, nhờ
tu pháp không nên thấy tánh của tất cả các pháp vốn là rỗng không
vắng lặng.”
Bồ Tát Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương lại thưa hỏi: “Bạch Thế Tôn! Nếu muối có thể làm cho vật không mặn trở nên mặn, và việc
tu pháp Tam-muội Không cũng
tương tự như vậy, thì nên biết rằng phép định ấy chẳng phải pháp lành, chẳng phải
mầu nhiệm, mà tánh của nó là
điên đảo. Nếu pháp
Tam-muội Không chỉ thấy
duy nhất một cái không, mà không đã là không có pháp thì thấy được cái gì?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Pháp
Tam-muội Không này giúp cho
hành giả khi nhìn những pháp chẳng phải không có thể [thấy chúng]
trở thành rỗng không
vắng lặng, nhưng [như vậy] không phải là
điên đảo. Cũng như muối làm cho những vật không mặn
trở thành mặn, pháp
Tam-muội Không ấy làm cho những pháp chẳng phải không
trở thành không.
“Thiện nam tử! Tánh của
tham dục là có, chẳng phải không. Nếu tánh
tham dục là không, lẽ ra
chúng sanh chẳng do
tham dục mà đọa vào
địa ngục. Nếu có việc đọa
địa ngục, thì tánh của
tham dục lẽ nào là không?
“Thiện nam tử! Tánh của sắc [cũng] là có. Những gì là tánh của sắc? Đó là
điên đảo. Vì có
điên đảo nên
chúng sanh khởi sanh lòng tham. Nếu tánh của sắc chẳng phải
điên đảo, làm sao có thể khiến cho
chúng sanh khởi sanh lòng tham? Vì có khởi sanh lòng tham nên biết rằng tánh của sắc chẳng phải là không. Vì nghĩa ấy,
tu pháp Tam-muội Không chẳng phải là
điên đảo.
“Thiện nam tử! Tất cả
phàm phu khi thấy người nữ liền sanh tướng nữ.
Bồ Tát chẳng phải thế, tuy thấy người nữ mà không sanh tướng nữ. Vì không sanh tướng nữ nên chẳng sanh
tham dục. Vì
tham dục chẳng sanh nên không phải là
điên đảo. Vì
thế gian thấy có người nữ nên
Bồ Tát tùy thuận mà nói có người nữ. Nếu thấy người nam mà nói rằng nữ, đó mới là
điên đảo. Cho nên ta có nói với Xà-đề rằng: ‘Bà-la-môn các ông nếu lấy ngày làm đêm là
điên đảo; nếu lấy đêm làm ngày cũng là
điên đảo. Như ngày là tướng trạng ngày, đêm là tướng trạng đêm thì làm sao [gọi là] điên đảo?’
“Thiện nam tử! Tất cả
Bồ Tát trụ ở
Địa vị thứ chín[228] đều thấy tánh của pháp là có. Vì thấy như vậy nên không thấy tánh Phật. Nếu thấy tánh Phật ắt không còn thấy tánh của tất cả các pháp [là có] nữa. Nhờ
tu pháp Tam-muội Không như vậy nên không còn thấy tánh các pháp [là có]. Nhờ không thấy tánh các pháp [là có] nên thấy được tánh Phật.
“Chư Phật,
Bồ Tát có hai cách
giảng thuyết, một là có tánh, hai là
không tánh. Vì
chúng sanh nên thuyết rằng có tánh pháp, vì các vị
hiền thánh nên thuyết rằng không có tánh pháp.
“Vì muốn những ai thấy rằng pháp chẳng phải không đều thấy được pháp là không nên dạy
tu pháp Tam-muội Không, khiến cho thấy được pháp là không. Nhưng những ai thấy rằng không có tánh pháp cũng nhờ
tu pháp không nên thấy là không. Vì nghĩa ấy nên người
tu pháp không mới thấy được các pháp là không.
“Thiện nam tử! Như lời ông hỏi: ‘Thấy cái không, nhưng không là không có pháp thì thấy được cái gì?’
“Thiện nam tử! Đúng vậy, đúng vậy!
Bồ Tát Ma-ha-tát
thật không có chỗ thấy! Không có chỗ thấy tức là không có chỗ có. Không có chỗ có là tất cả các pháp.
“Bồ Tát Ma-ha-tát tu Đại Niết-bàn, đối với tất cả các pháp đều không có chỗ thấy. Nếu có chỗ thấy thì không thấy tánh Phật, không thể
tu tập Bát-nhã Ba-la-mật, không thể vào [
cảnh giới] Đại Niết-bàn. Cho nên
Bồ Tát thấy tánh của tất cả các pháp đều không có chỗ có.
“Thiện nam tử!
Bồ Tát chẳng phải chỉ nhờ tu Tam-muội [Không] mà thấy được
pháp không.
Bát-nhã Ba-la-mật cũng là không.
Thiền Ba-la-mật cũng là không.
Tinh tấn Ba-la-mật cũng là không.
Nhẫn nhục Ba-la-mật cũng là không.
Trì giới Ba-la-mật cũng là không.
Bố thí Ba-la-mật cũng là không.
Hình sắc là không, mắt [nhìn thấy] là không, thức [
nhận biết] cũng là không.
Như Lai cũng là không. Đại Niết-bàn cũng là không. Cho nên
Bồ Tát thấy tất cả các pháp đều là không.
“Vì thế, khi ở thành Ca-tỳ-la ta có bảo A-nan rằng: ‘Ông đừng
sầu não, bi ai khóc lóc.’ A-nan thưa rằng: ‘Như
Lai Thế Tôn! Nay
quyến thuộc của con đều chết cả rồi. Làm sao con chẳng
buồn rầu khóc kể?
Như Lai với con đều sanh ra tại thành này, đều là
thân thích quyến thuộc trong
dòng họ Thích, vì sao chỉ riêng
Như Lai là không
sầu não,
dung nhan càng thêm sáng rỡ?’[229]
“Thiện nam tử! Khi ấy ta đáp rằng: ‘A-nan! Ông thấy thành Ca-tỳ-la là thật có, ta thấy đó là rỗng không
vắng lặng,
thật không chỗ có. Ông thấy người
họ Thích đều là
thân quyến, ta
tu pháp Không, hết thảy đều không có chỗ thấy. Vì
nhân duyên ấy nên ông sanh
sầu khổ còn ta thì
dung nhan càng thêm sáng rỡ.’ Chư Phật,
Bồ Tát, nhờ
tu tập pháp
Tam-muội Không nên không sanh
sầu não.
“Như vậy gọi là
Bồ Tát tu hành kinh điển vi diệu Đại Niết-bàn
thành tựu trọn vẹn công đức thứ chín.
“Thiện nam tử! Thế nào là
Bồ Tát tu hành kinh điển vi diệu Đại Niết-bàn
thành tựu trọn vẹn công đức sau hết thứ mười?
“Thiện nam tử!
Bồ Tát tu tập Ba mươi bảy phẩm [
trợ đạo], vào
cảnh giới Đại Niết-bàn với thường, lạc, ngã, tịnh, vì
chúng sanh mà
phân biệt giảng thuyết kinh Đại Niết-bàn, chỉ rõ tánh Phật. Nếu hàng Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán,
Phật Bích-chi,
Bồ Tát tin nhận lời này, thảy đều được vào [
cảnh giới] Đại Niết-bàn. Nếu
như không tin ắt phải chịu
luân hồi sanh tử.”
Lúc ấy,
Bồ Tát Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương
bạch Phật: “Thế Tôn! Những
chúng sanh nào không sanh lòng
cung kính đối với kinh này?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Sau khi ta vào Niết-bàn, sẽ có những
đệ tử Thanh văn ngu si phá giới,
ưa thích sanh khởi việc
tranh chấp;
lìa bỏ Mười hai bộ kinh, tụng đọc mọi thứ điển tịch,
văn từ,
thủ bút của
ngoại đạo; thọ nhận và chứa trữ tất cả những vật
bất tịnh, bảo rằng do Phật
cho phép.
“Những kẻ ấy [
ví như người
ngu si] đem gỗ chiên-đàn tốt đổi lấy gỗ thường, đem
vàng ròng đổi lấy quặng thau, đem bạc quý đổi lấy chì pha thiếc,[230] đem tơ lụa đổi lấy vải thô, đem vị
cam lộ đổi lấy thuốc độc!
“Thế nào là đem gỗ chiên-đàn tốt đổi lấy gỗ thường? Như những
đệ tử của ta vì sự
cúng dường mà
giảng thuyết kinh pháp cho người
tại gia; những người
tại gia ấy
dục tình buông thả, chẳng thích lắng nghe; người
tại gia ngồi trên cao, tỳ-kheo ở dưới thấp, lại đem đủ thứ món ngon vật lạ mà
cung cấp [cho họ] nhưng [họ] cũng chẳng chịu nghe. Đó gọi là đem gỗ chiên-đàn đổi lấy gỗ thường.
“Thế nào là đem
vàng ròng đổi lấy quặng thau? Quặng thau
ví như hình sắc,
âm thanh, mùi hương, vị nếm, sự xúc chạm.
Vàng ròng ví như giới luật. Có những
đệ tử của ta vì
nhân duyên hình sắc...[231] mà phạm vào
giới luật đã thọ nhận. Đó gọi là đem
vàng ròng đổi lấy quặng thau.
“Thế nào là đem bạc quý đổi lấy chì pha thiếc? Bạc
ví như Mười điều thiện. Chì pha thiếc
ví như Mười điều ác. Có những
đệ tử của ta
buông bỏ Mười điều thiện, làm
Mười điều ác. Đó gọi là đem bạc quý đổi lấy chì pha thiếc.
“Thế nào là đem tơ lụa đổi lấy vải thô? Vải thô
ví như lòng không biết
hổ thẹn. Tơ lụa
ví như sự biết
hổ thẹn. Có những
đệ tử của ta
buông bỏ [đức tính quý giá là] sự
hổ thẹn, tập quen
tính không hổ thẹn. Đó gọi là đem tơ lụa mà đổi lấy vải thô.
“Thế nào là đem
cam lộ đổi lấy thuốc độc? Thuốc độc
ví như mọi thứ
lợi dưỡng.
Cam lộ ví như các
pháp không phiền não. Có những
đệ tử của ta vì
lợi dưỡng mà tự khen ngợi mình
trước mặt những người
cư sĩ tại gia, hoặc tự nói rằng mình
chứng đắc quả
vô lậu. Đó gọi là đem
cam lộ đổi lấy
độc dược.
“Vì những tỳ-kheo xấu ác như vậy nên
kinh điển vi diệu Đại Niết-bàn này mới [
cần phải]
lưu hành một cách
rộng rãi trong cõi Diêm-phù-đề. Vào
lúc ấy, có những
đệ tử thọ trì, tụng đọc, sao chép kinh này,
giảng giải và
lưu hành rộng rãi, sẽ bị những tỳ-kheo xấu ác như trên hãm hại.
“Bấy giờ, những tỳ-kheo xấu ác cùng nhau
tụ tập, lập ra
quy chế nghiêm ngặt rằng: ‘Nếu có người
thọ trì kinh Đại Niết-bàn, sao chép, tụng đọc,
phân biệt giảng thuyết, thì không ai được cùng
ở chung, ngồi chung, chuyện trò qua lại với người ấy. Vì sao vậy? Vì kinh Niết-bàn không phải do
Phật thuyết, mà do những kẻ
tà kiến làm ra. Những kẻ
tà kiến đó tức thuộc bọn
sáu thầy ngoại đạo.[232]
Kinh điển của
sáu thầy ngoại đạo không phải
kinh điển của Phật.
“‘Vì lẽ gì vậy? Vì tất cả chư Phật đều nói những pháp
vô thường, vô lạc,
vô ngã, vô tịnh. Nếu nói các pháp là thường, lạc, ngã, tịnh, sao có thể là kinh do
Phật thuyết được?
“‘Chư Phật,
Bồ Tát cho phép tỳ-kheo chứa trữ
mọi vật, còn bọn
sáu thầy ngoại đạo không cho
đệ tử chứa trữ một vật gì cả.
Nghĩa lý như vậy, sao có thể là do
Phật thuyết dạy?
“‘Chư Phật,
Bồ Tát không cấm
đệ tử ăn thịt bò và
năm món chế biến từ sữa bò, còn bọn
sáu thầy ngoại đạo thì không
cho phép ăn năm thứ muối,
năm món chế biến từ sữa bò cùng là mỡ, huyết... Nếu cấm dứt những món này, sao có thể là
kinh điển chân chánh của Phật?
“‘Chư Phật,
Bồ Tát thuyết diễn
Ba thừa, nhưng trong kinh này chỉ thuyết
duy nhất một thừa là Đại Niết-bàn. Những lời như vậy, sao có thể là
kinh điển chân chánh của Phật?
“Chư Phật đều dứt bỏ tất cả mà nhập Niết-bàn, kinh này lại nói rằng Phật là thường, lạc, ngã, tịnh, không nhập Niết-bàn. Kinh này chẳng có trong số
Mười hai bộ kinh, tức là do ma thuyết, chẳng phải
Phật thuyết.’
“Thiện nam tử! Những kẻ ấy, tuy là
đệ tử của ta nhưng không thể
tin theo kinh Niết-bàn này.
“Thiện nam tử! Vào
thuở ấy, nếu có
chúng sanh nào tin nhận
kinh điển này, dù chỉ nửa câu, nên biết rằng những người ấy là
đệ tử chân thật của ta. Nhờ tin như vậy liền thấy tánh Phật, được vào [
cảnh giới] Niết-bàn.”
Lúc ấy,
Bồ Tát Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương
bạch Phật: “Thế Tôn!
Lành thay,
lành thay! Hôm nay
Như Lai thật khéo khai mở chỉ bày kinh Đại Niết-bàn. Bạch Thế Tôn! Con nhân việc này mà được thấu rõ kinh Đại Niết-bàn, dù là một câu, thậm chí nửa câu. Nhờ thấu rõ được một câu, thậm chí nửa câu, nên thấy được đôi chút tánh Phật. Như
lời Phật dạy thì con cũng sẽ được vào [
cảnh giới] Đại Niết-bàn.”
[Phật dạy:] “Như vậy gọi là
Bồ Tát tu hành kinh điển vi diệu Đại Niết-bàn
thành tựu trọn vẹn công đức thứ mười.”
KINH ĐẠI BÁT NIẾT-BÀN
HẾT QUYỂN HAI MƯƠI SÁU
[158] Theo Nam bản thì từ đây bắt đầu quyển 23, phẩm Bồ Tát Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương phần thứ 5 (Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương phẩm chi ngũ).
[159] Ba mươi bảy pháp trợ đạo (Tam thập thất trợ đạo chi pháp): Gồm có 4 niệm xứ, 4 chánh cần, 4 như ý túc, 5 căn, 5 lực, 7 giác phần, 8 thánh đạo.
[160] Mười hai bộ kinh (Thập nhị bộ kinh): cũng gọi là Mười hai phần giáo, chỉ các hình thức thuyết giảng giáo lý khác nhau. Xem phụ lục Tham khảo thuật ngữ.
[161] Sáu pháp Ba-la-mật (Lục Ba-la-mật), cũng gọi là Lục độ, là các hạnh nguyện tu tập của Bồ Tát, gồm có Bố thí Ba-la-mật, Trì giới Ba-la-mật, Nhẫn nhục Ba-la-mật, Tinh tấn Ba-la-mật, Thiền định Ba-la-mật và Trí tuệ Ba-la-mật.
[162] Bốn tâm vô lượng (Tứ vô lượng tâm): gồm có các tâm từ, bi, hỷ và xả, là những tâm lượng rộng lớn vô biên mà vị Bồ Tát khi tu tập phải sanh khởi hướng về tất cả chúng sanh, nên gọi là tâm vô lượng, cũng thường gọi là Đại từ, Đại bi, Đại hỷ và Đại xả.
[163] Mười điều ác (Thập ác): 1.Sát sanh, 2. Trộm cướp, 3. Tà dâm (Ba điều ác này thuộc về thân nghiệp). 4. Vọng ngữ, 5. Ỷ ngữ (nói lời trau chuốt, vô nghĩa), 6. Lưỡng thiệt (nói đâm thọc, nói hai lưỡi), 7. Ác khẩu (nói lời ác độc, gây tổn thương người khác) (Bốn điều này thuộc về khẩu nghiệp) 8. Tham lam, 9. Sân hận, 10. Si mê hay tà kiến (Ba điều này thuộc về ý nghiệp).
[164] Mười điều thiện (Thập thiện): Ngược lại với Mười điều ác, nghĩa là tự mình không phạm vào mười điều ác và khuyên người khác không làm Mười điều ác.
[165] Từ việc không giết hại cho đến tự mình thực hành Chánh kiến, ý nói tóm gọn cả Mười điều lành (Thập thiện nghiệp) như vừa nói ở đoạn trên.
[166] Đây bắt đầu nói về pháp thứ hai trong bốn pháp làm nhân duyên đạt đến Đại Niết-bàn: Hết lòng nghe pháp.
[167] Mười một pháp không (thập nhất không), bao gồm: 1. Nội không, 2. Ngoại không, 3. Nội ngoại không, 4. Hữu vi không, 5. Vô vi không, 6. Vô thủy không, 7. Tánh không, 8. Vô sở hữu không, 9. Đệ nhất nghĩa không, 10. Không không, 11. Đại không. Các pháp không này đã được Phật giảng rõ trong quyển 16. Xem lại từ trang 409 của Tập 3.
[168] Ở đây chỉ chung cả sáu pháp ba-la-mật (Lục ba-la-mật), nói đủ là gồm: Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định và Bát-nhã (Trí tuệ).
[169] Phép quán xương trắng (bạch cốt quán): phép quán tưởng trong đó hành giả quán thân người như bộ xương trắng để thấy là không thật có, đầy những sự nhơ nhớp và không bao lâu sẽ tan hoại.
[170] Phép quán từ bi (từ bi quán): phép quán tưởng trong đó hành giả khởi tâm từ bi hướng đến tất cả chúng sanh.
[171] Phép quán Mười hai nhân duyên (Thập nhị nhân duyên quán), còn gọi là quán Duyên khởi, trong đó hành giả quán chiếu sự sanh khởi của tất cả các pháp đều do nhân duyên hòa hợp mà có, thảy đều không có thật tướng, thật tánh.
[172] Thuyền sư: người có khả năng chỉ huy con tàu vượt biển, cũng như thuyền trưởng ngày nay.
[173] Bốn thứ độc (Tứ chủng độc): Bốn thứ độc hại của các loài rắn, loài trùng, loài ác quỷ, ác ma. Bao gồm: 1. Kiến độc: lấy mắt nhìn gây hại; 2. Xúc độc: xúc chạm vào người gây hại; 3. Khiết độc: cắn, gặm vào người gây hại; và 4. Hư độc (khí độc): thở ra hơi độc gây hại.
[174] Trí túc mạng: trí tuệ thấy biết được những kiếp sống trước đây.
[175] Bốn thứ ma (Tứ ma): 1. Phiền não ma, 2. Ấm ma (Ma ngũ ấm: sắc, thọ, tưởng, hành, thức), 3. Tử ma (Ma chết), 4. Tha hóa tự tại thiên tử ma (Ma vương và thuộc hạ của ma vương ở cõi trời Tha hóa tự tại hiện đến).
[176] Tên một cái hồ lớn, Phạn ngữ là Anavatapta, cũng phiên âm là A-nậu-đạt.
[177] Thập thiện: cũng gọi là Thập thiện nghiệp, tức Mười điều lành. Xem phụ lục Tham khảo thuật ngữ.
[178] Tín căn: tức lòng tin sâu vững nơi Tam bảo, nơi Chánh pháp của Phật truyền dạy.
[179] Bốn bộ chúng(Tứ bộ chúng): cũng gọi là Tứ chúng, gồm: 1. Tỳ-kheo, 2. Tỳ-kheo ni, 3. Cư sĩ nam (Ưu-bà-tắc), và 4. Cư sĩ nữ (Ưu-bà-di). Tứ chúng được dùng chỉ chung tất cả Phật tử tại gia và xuất gia.
[180] Năm sự che chướng (Ngũ cái): năm pháp ngăn che khiến pháp lành không thể nảy sanh, gồm có: 1. Tham dục, 2. Sân khuể, 3. Thụy miên (biếng nhác mê ngủ), 4. Trạo hối (xao động buồn rầu), 5. Nghi pháp (ngờ vực Chánh pháp).
[181] Bảy phần giác (Thất giác chi): Bảy phần sáng suốt góp phần tạo nên trí tuệ giải thoát, hay bảy sự hiểu biết chân chánh về những khía cạnh khác nhau trên đường tu tập, bao gồm: 1. Trạch pháp giác chi (sự sáng suốt phân biệt chánh pháp và tà pháp, chọn lựa đúng giáo pháp chân chánh để hành trì), 2. Tinh tấn giác chi (sự sáng suốt biết tinh tấn, chuyên cần tu học chánh pháp), 3. Hỷ giác chi (sự sáng suốt biết vui sướng, hoan hỷ khi được chánh pháp), 4. Khinh an giác chi (sự sáng suốt thanh thản nhẹ nhàng, trừ bỏ mọi chướng ngại trên đường tu tập), 5. Niệm giác chi (sự sáng suốt thường niệm tưởng chánh pháp, Tam bảo), 6. Định giác chi (sự sáng suốt an trú trong chánh định, không tán loạn tâm ý) và 7. Xả giác chi (sự sáng suốt buông bỏ các tà pháp, ác pháp).
[182] Về bốn công đức ở đây, chúng tôi chưa rõ chính xác là chỉ đến bốn công đức nào, nhưng tham khảo Phật Quang Đại từ điển có viết: “Nếu gần gũi người hiền thiện ắt được nghe Chánh pháp; nhờ được nghe Chánh pháp nên có đủ bốn công đức.” Xem ra cũng khá phù hợp với ý nghĩa văn kinh trong đoạn này. Vì thế chúng tôi xin trích dẫn giải thích của Phật Quang Đại từ điển về bốn công đức này để quý độc giả tham khảo. “Bốn công đức (hay Tứ công đức xứ), bao gồm 1. Tuệ đức xứ, chỉ việc nghe Chánh pháp nên được sinh ra trí tuệ lớn lao chân chánh; 2. Thật đức xứ, chỉ việc nhân nơi trí tuệ chân chánh nên thấy được chân lý về thật tánh của các pháp; 3. Xả đức xứ, gồm hai nghĩa, một là thí xả chỉ việc thực hành các việc tài thí (bố thí tài vật) và pháp thí (bố thí pháp, nghĩa là rộng truyền Chánh pháp khắp nơi); hai là trừ xả, chỉ việc thấu suốt lý chân không nên buông xả, dứt trừ mọi phiền não; 4. Tịch diệt đức xứ, chỉ việc dứt trừ hết phiền não nên tâm đạt đến chỗ tịch diệt, vắng lặng an vui.”
[183] Mười loại ủy dụ: Theo Niết-bàn kinh tập giải thì Mười loại ủy dụ này gồm Bát Thánh đạo cộng với chánh kiến và tâm giải thoát. Chánh kiến ở đây chỉ Vô sanh trí, và tâm giải thoát chỉ Phân tận trí, là hai loại trí tuệ của bậc vô học.
[184] Năm dục (Ngũ dục): Năm sự ham muốn, khi được thỏa mãn thì làm cho người ta cảm thấy vui thích, nên gọi là dục lạc. Gồm có: 1. Sắc dục: Ham muốn sắc đẹp. 2. Thanh dục: Ham muốn âm thanh êm dịu, thích tai. 3. Hương dục: Ham muốn mùi thơm. 4. Vị dục: Ham muốn vị ngon ngọt. 5. Xúc dục: Ham muốn sự đụng chạm êm ái.
[185] Đại thứ năm: Tứ đại là địa (đất, tượng trưng cho chất rắn), thủy (nước, tượng trưng cho độ ẩm), hỏa (lửa, tượng trưng cho năng lượng), phong (gió, tượng trưng cho sự chuyển động). Hư không được thêm vào bốn đại này, gọi là đại thứ năm.
[186] Tức vương quốc Kiều-thưởng-di, là một trong 16 nước lớn vào thời đức Phật, nằm ở vùng Trung Ấn.
[187] Xem lại phẩm hạnh Anh nhi ở cuối quyển 20, Tập 4.
[188] Tu-bạt-đà-la (Subhada), dịch nghĩa: Thiện Hiền. Vị đệ tử xuất gia cuối cùng của Phật, 120 tuổi. Lúc Phật gần nhập Niết-bàn, ông đến thọ pháp tỳ-kheo, liền đắc quả A-la-hán và nhập Niết-bàn trước Phật.
[189] Họ Lê-xa cũng chính là họ Lực-sĩ đã nói ở đầu kinh, cũng đọc là Ly-xa, là tộc họ có quyền thế nhất ở thành Câu-thi-na và thành Duy-da-ly vào thời bấy giờ. Tuy sự chuyển dịch trong bản Hán văn không được nhất quán nhưng vẫn là chỉ đến một tộc họ này.
[190] Năm vị tỳ-kheo: tức nhóm 5 anh em ông Kiều-trần-như, những người đã từng cùng với Phật tu tập khổ hạnh trước đó. Sau khi Phật Chuyển Pháp luân, họ trở thành những tỳ-kheo đầu tiên trong Giáo hội.
[191] Nguyên bản Hán văn dùng chữ chức là đan dệt. Thiên Thai Niết-bàn sớ tư ký giảng rõ chữ này chỉ cho phiền não: Chức thị phiền não, đoạn phiền não tận phương danh Niết-bàn. Chúng tôi xét thấy nghĩa này hoàn toàn phù hợp với văn cảnh nên chọn dịch là phiền não.
[192] Tan rã rồi tụ họp (Phân tán tụ hiệp): Khi năm ấm tan rã, sự hiện hữu của một chúng sanh có vẻ như chấm dứt đối với những chúng sanh khác, gọi là chết; khi năm ấm tụ họp, một chúng sanh được hình thành đối với những chúng sanh khác, gọi là sanh ra. Vì thế, quán xét thật tánh thì thấy sự sống hay chết của chúng sanh chỉ là sự tụ họp hay tan rã của năm ấm (cũng gọi là năm uẩn).
[193] Ba đời (tam thế): tức quá khứ, hiện tại và vị lai, chỉ chung dòng thời gian từ vô thủy đến vô chung.
[194] Là năm kiến chấp (Ngũ kiến) hay nhận thức sai lầm thường gặp, cũng gọi là Năm ác kiến (Ngũ ác kiến). 1. Thân kiến còn gọi là ngã kiến, là nhận thức sai lầm cho rằng có một bản ngã riêng biệt tồn tại trong thực tại, làm chủ sở hữu các đối tượng trong vũ trụ. 2. Biên kiến là nhận thức sai lầm thiên lệch về một bên, hoặc chấp rằng đời sống là thường tồn (thường kiến), hoặc chấp rằng đời sống không tồn tại sau khi chết (đoạn kiến). 3. Tà kiến là nhận thức sai lầm về sự vật, không biết có nhân quả, nhân duyên. 4. Giới cấm thủ kiến là nhận thức sai lầm cố chấp vào các điều luật, giới luật sai lầm của ngoại đạo, chẳng hạn như tu hành khổ hạnh, cho rằng bám chặt theo đó có thể dẫn đến giải thoát. 5. Kiến thủ kiến, là nhận thức sai lầm không biết tiếp nhận chân lý, cố chấp vào một quan điểm sai lầm nào đó rồi lấy đó làm nền tảng để xây dựng các quan điểm khác, vì thế chắc chắn phải dẫn đến tất cả đều sai lầm.
[195] Về con số 62 tà kiến, các bản kinh luận, sớ giải giải thích không giống nhau. Chúng tôi tham khảo thấy có nhiều khác biệt, nhưng tựu trung ở đây nên hiểu là tất cả những kiến giải sai lầm, không đúng thật về thực tại.
[196] Sáu chỗ niệm tưởng chân chánh (Lục niệm xứ), là sáu đối tượng mà người tu tập thường nghĩ nhớ đến. Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng là thường nhớ nghĩ đến Tam bảo với lòng cung kính, kính ngưỡng. Niệm thiên là thường nhớ nghĩ đến các cõi trời, vì thế thường tu tập Mười điều lành. Niệm thí (cũng gọi là niệm xả) là thường nhớ nghĩ đến việc thực hành bố thí. Niệm giới là thường nhớ nghĩ đến các giới luật đã thọ nhận, dù xả bỏ thân mạng cũng không phạm vào.
[197] Thủ-lăng-nghiêm, cũng đọc là Thủ-lăng-già-ma, dịch nghĩa là “kiện tướng”, “kiện hạnh” hay “nhất thiết sự cánh”.
[198] Nguyên bản Hán văn dùng thạch nữ, chỉ người đàn bà vô sanh (không thể sanh con) hoặc không có khả năng hành dâm. Các nhà tân dịch chuyển dịch chữ này là hư nữ.
[199] Nhổ gai nhọn trong không trung: chỉ việc vô ích, không cần làm. Nếu tâm vốn không có tham dục mà cố trừ tham dục thì chẳng khác gì cố nhổ gai nhọn trong không trung, thật ra là điều vô ích, chẳng cần làm. Nhưng chư Phật và Bồ Tát không dạy việc làm vô ích, nên ý muốn nói điều này là không hợp lý.
[200] Vô sở hữu xứ là cảnh giới nằm dưới cảnh giới Phi phi tưởng. Phi phi tưởng và Phi tưởng phi phi tưởng là những cảnh giới thuộc về Vô sắc giới. Khi hành giả tu thiền đạt định, thần thức lên đến cảnh giới Vô sở hữu xứ, vượt qua khỏi Vô sở hữu xứ thì đến Phi phi tưởng xứ. Nhưng Phi phi tưởng xứ cũng không phải cảnh giới hoàn toàn giải thoát, vì vẫn còn trong sanh tử.
[201] Thiền Sơ địa: cũng viết: Sơ thiền, Sơ thiền định, Đệ nhất thiền.
[202] Hỏa tai: Trong kinh Phật dạy rằng khi một đại kiếp sắp chấm dứt thì khởi lên một trận hỏa tai (nạn lửa), tiêu diệt thế giới đến tận cảnh giới Sơ thiền. Đây ý nói khi hỏa tai xảy ra thì chúng sanh trong cõi Dục giới do nhân duyên đó mà phát tâm tu tập đều đạt được cảnh giới Sơ thiền.
[203] Nhờ tu phép quán xương trắng nên sanh tâm nhàm chán không còn tham dục. Vì diệt được tham dục nên nói là tâm không cùng diệt với tham dục.
[204] Bốn quả thánh (Tứ thánh quả): là các địa vị tu chứng của hàng Thanh văn, gồm từ thấp lên cao: 1. quả Tu-đà-hoàn, 2. quả Tư-đà-hàm, 3. quả A-na-hàm, 4. quả A-la-hán. A-la-hán là quả vị cao nhất, cũng gọi là Niết-bàn của Tiểu thừa.
[205] Bất động địa: Địa vị thứ tám trong Thập địa của Bồ Tát.
[206] La-hầu: Tức La-hầu A-tu-la vương (Vị vua của loài a-tu-la, tên là La-hầu). Trong quyển 24, Phật có dạy: “Như thân hình vị La-hầu, vua của loài a-tu-la là to lớn nhất trong các thân hình to lớn.”
[207] Từ sắc cho đến thức: là muốn nói tóm gọn cả năm ấm, gồm sắc, thọ, tưởng, hành, thức.
[208] Đây cũng là nói tóm gọn cả năm ấm, gồm cả sắc, thọ, tưởng, hành, thức.
[209] Theo giới luật thì vị tỳ-kheo hay trưởng lão không được cùng lúc nuôi dưỡng hai sa-di sống chung với nhau.
[210] Đây muốn nói tóm gọn cả tham, sân và si đều là như vậy.
[211] Theo Nam bản thì từ đây hết quyển 23, bắt đầu quyển 24, phẩm Bồ Tát Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương, phần thứ 6 (Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương Bồ Tát phẩm chi lục).
[212] Hai chân lý (Nhị đế): tức Tục đế hay Thế đế (chân lý tương đối của thế tục) và Chân đế, Thắng nghĩa đế hay Đệ nhất nghĩa đế (chân lý tuyệt đối của cảnh giới giải thoát).
[213] Không nói lỗi của người với kẻ khác (vì muốn bêu xấu), khác với việc chỉ lỗi của người khác ra để khuyên răn, dạy bảo.
[214] Xem lại từ trang 502 của Tập 2, thuộc phẩm Thị hiện bệnh.
[215] Tên một hồ lớn thường được nhắc đến trong nhiều kinh luận, nằm trên đỉnh Hy-mã-lạp sơn. A-na-bà-đạp-đa được phiên âm từ tiếng Phạn là Anavatapta, cũng đọc là A-nậu-đạt, dịch nghĩa là Vô nhiệt hay Vô não nhiệt. Nam bản dùng tên gọi hồ này là A-nậu-đạt.
[216] Uất-đan-việt hay Bắc Câu-lô châu là một trong bốn đại châu của thế giới, ở về phía bắc núi Tu-di.
[217] Không hầu: một loại đàn có 23 dây.
[218] Có lẽ đây là một phương pháp chế biến thuở xưa, nay chúng ta không được biết.
[219] Thi-la Ba-la-mật , tức Trì giới Ba-la-mật, một trong sáu pháp ba-la-mật của hàng Bồ Tát.
[220] Thiên đế Kiều-thi-ca khi năm tướng suy đã hiện, biết thọ mạng và phước đức sắp hết, phải thọ sanh xuống thế gian, nhờ nghe lời một vị đại thần tìm đến lễ bái đức Phật, nghe pháp mầu, liền được tiếp tục kéo dài thọ mạng và hưởng phước nơi thiên giới. Chuyện này đã được vị lương y Kỳ-bà kể cho vua A-xà-thế nghe khi khuyên ông tìm đến gặp Phật.
[221] Tỳ-kheo Xiển-đề: Vị tỳ-kheo này tuy được gặp Phật mà phát tâm xa lìa ác nghiệp, xuất gia tu hành, nhưng về sau không tin nhân quả, nên người đương thời gọi là tỳ-kheo Xiển-đề.
[222] Tỳ-kheo Thảo Hệ: Vị tỳ-kheo này bị bọn cướp chặn đường giật lấy áo và bình bát, rồi dùng thân cỏ tươi quấn vào tay chân. Thầy bị trói như vậy, chẳng dám cử động vì sợ làm trốc gốc rễ mà chết cỏ, thành ra phạm giới. Sau có người đi đường trông thấy, gỡ ra cho thầy. Do chuyện này nên người ta gọi thầy là tỳ-kheo Thảo Hệ (vị tỳ-kheo bị trói bằng cỏ).
[223] Tỳ-phật-lược, tức kinh Phương quảng Đại thừa.
[224] Vì tu tập pháp Tam-muội này thì quán xét thấy tánh thật của tất cả các pháp đều là không, không có người tạo tác, người thọ nhận; nên cũng không còn có đối tượng của sự mừng vui hay tức giận.
[225] Đây nói về quan điểm tứ đại, bốn yếu tố chính cấu thành mọi sự vật.
[226] Năm việc (Ngũ sự) vừa nêu ở đoạn trên, là đức tin, lòng ngay thẳng, trì giới, thân cận thiện hữu và đa văn.
[227] Ha-lê-lặc, cũng phiên âm là Ha-lỵ-lặc, là một loại cây có trái, rễ, thân, cành lá, hoa và hạt đều có vị đắng.
[228] Địa vị thứ chín (Cửu địa) trong Thập địa, tức Thiện tuệ địa.
[229] Đây nói chuyện xảy ra khi thái tử Lưu-ly cướp ngôi của vua cha là Ba-tư-nặc rồi kéo quân đánh thành Ca-tỳ-la, tàn sát những người thuộc dòng họ Thích-ca.
[230] Chì pha thiếc: một hợp kim dễ nóng chảy, dùng để hàn các kim loại khác.
[231] Đây nói tóm tất cả các nhân duyên từ hình sắc cho đến sự xúc chạm, tức năm trần sanh năm dục.
[232] Sáu thầy ngoại đạo (Lục sư ngoại đạo): sáu vị thầy của sáu phái ngoại đạo lớn vào thời đức Phật: 1. Phú-lan-na, 2. Mạt-già-lê Câu-xá-ly tử, 3. San-xà-da Tỳ-la-chi tử, 4. A-kỳ-đa Sí-xá-khâm-bà-la, 5. Ca-la-cưu-đà Ca-chiên-diên, 6. Ni-kiền-đà Nhã-đề-tử