KINH VÔ NGÃ TƯỚNG
(Anattalakkhaṇa Sutta)
Thiền sư Mahasi Sayadaw - Phạm Kim Khánh dịch
Thức cưỡng chế ta như thế nào
Nguyên nhân sanh khởi
Câu chuyện Tỳ Khưu Sāti
Tóm lược chánh pháp
Sắc pháp giống như khối bọt
Thọ giống như bong bóng nước
Tưởng giống như ảo cảnh
Hành, saṅkhāra, giống như cây không lỏi
Thức giống như trò ảo thuật
Tóm lược -IV-
THỨC
-ooOoo-
Viññāṇaṁ bhikkhave anattā; viññāṇañca h'idaṁ bhikkhave attā abhavissa nayidaṁ viññāṇaṁ ābādhāya saṁvatteyya. Labbhetha ca viññāṇe evaṁ me viññāṇaṁ hotu evaṁ me viññāṇaṁ ahosīti. Yasmā ca kho bhikkhave viññāṇaṁ anattā tasmā viññāṇaṁ ābādhāya saṁvattati na ca labbhati viññāṇe evaṁ me viññāṇaṁ hotu evaṁ me viññāṇaṁ mā ahosīti.
"Nầy chư Tỳ Khưu, thức là
vô ngã..."
Danh từ thức ở đây có nghĩa là
nhãn thức,
nhĩ thức,
tỷ thức,
thiệt thức,
thân thức và
ý thức. Sáu loại thức nầy thường được chấp là tự ngã, một
thực thể sống: "Chính tôi thấy; tôi thấy". "Chính tôi nghe; tôi nghe". Như vậy tất cả sáu loại thức được xem chỉ là của một tự ngã
duy nhất. Loại
chấp ngã nầy cũng
dễ hiểu: những vật không có sự
hiểu biết như khúc gỗ, như nấm đất, hay viên gạch, được xem là
vô tri giác; chỉ những sự vật có khả năng
hiểu biết được xem là hữu
tri hữu giác, một
thực thể sống. Vì thế ta không lấy làm
ngạc nhiên khi thấy rằng
nhãn thức,
nhĩ thức v.v... được xem là tự ngã, nhưng trong
thực tế nó cũng không phải là tự ngã, không phải là
thực thể sống.
Đức Thế Tôn tuyên ngôn rằng thức không phải là tự ngã, và Ngài
giải thích như sau:
"Nếu thức là tự ngã, là
thể chất bên trong ta, ắt nó không có khuynh hướng gây
đau khổ cho ta;
thế thường ta không
cố ý cưỡng chế,
áp bức, làm cho chính ta
đau đớn khổ sầu. Ta cũng phải có thể
điều hành như thế nào để luôn luôn chỉ có những
trạng thái tâm
trong sạch, không bao giờ có tâm
ô nhiễm. Nhưng trong
thực tế tâm có chiều hướng gây
đau khổ, và ta không thể điều khiển và
kiểm soát. Như vậy nó không phải là tự ngã, không phải là
thể chất bên trong ta.
Nầy chư tỳ Khưu, trong
thực tế thức không phải là tự ngã. Nó có chiều hướng gây
đau khổ cho ta và ta không thể
sai bảo thức, "Thức của ta phải như thế nầy (luôn luôn
trong sạch), thức của ta phải không như thế kia (
ô nhiễm)".
Giữa tâm (citta) và
năm mươi hai tâm sở (cetasikā) phần đông
chúng ta quen thuộc với tâm hơn.
Người Miến Điện thường nói đến tâm, nhưng rất
ít khi đề cập đến các
tâm sở như phassa (xúc, sự
tiếp xúc giữa
giác quan và đối tượng của nó) luôn luôn đi chung với tâm. Hơn nữa, họ xem cái tâm là tự ngã, là "ta": "Chính tôi thấy, tôi thấy", "chính tôi nghe, tôi nghe". Không phải chỉ có
chúng sanh trong
cảnh người mà
chư Thiên (Devas) và những
chúng sanh khác cũng
tin tưởng rằng thức, hay tâm, là tự ngã.
Tuy nhiên, thức
quả thật không phải là tự ngã. Vì không phải là "ta" nên nó có chiều hướng cưỡng chế, làm cho ta
đau khổ.
Thức Cưỡng Chế Ta Như Thế Nào?
Thức cưỡng chế, làm cho ta mất
thoải mái khi thấy sự vật nhơ nhớp ghê tởm, khi nghe những
âm thanh ồn ào nhức tai, những lời
nghịch nhĩ, bất nhã, khi hửi những
mùi hôi thúi, khi nếm những vật thực mà mình không thích, khi sờ đụng một vật làm cho mình khó chịu, khi nghĩ đến một việc
đáng sợ,
đáng ghét, hay có những
ý tưởng buồn phiền,
sầu muộn.
Tất cả
chúng sanh đều thích sống ở một nơi
vừa ý, muốn thấy những cảnh đẹp, nhưng
cuộc đời đưa đẩy
lắm khi phải gặp những
cảnh tượng ghê tởm nhớp nhúa. Đối với người
bất hạnh, phần lớn những gì mình thấy chỉ làm bất
toại nguyện. Đó là
nhãn thức có khuynh hướng cưỡng chế, làm cho ta khó chịu. Thay vì được nghe những
âm thanh êm dịu, những lời lẽ làm mát lòng
như ý muốn thì có những
trường hợp không may phải chịu nghe những
tiếng động rền tai,
rùng rợn, những tiếng nói
hăm dọa, những
lời nguyền rủa. Đó là
phương cách mà
nhĩ thức áp chế, làm cho ta
bực bội, mất
thoải mái. Lại nữa, tất cả
chúng sanh đều muốn
thưởng thức những
mùi thơm nhưng phải chịu cảnh chỉ được hửi những
mùi hôi thúi. Đó là
trường hợp tỷ thức cưỡng chế.
Trạng thái cưỡng chế của
nhãn thức,
nhĩ thức và
tỷ thức đối với
chúng sanh trong
cảnh người không đến nổi
hiển nhiên như trong
thế gian cầm thú, hay trong những cảnh
ngạ quỷ (peta) và
địa ngục. Trong các
cảnh giới nầy,
bản chất cưỡng chế của
thức uẩn càng
rõ ràng nổi bật hơn nhiều. Những sinh vật trong
thế gian loài thú luôn luôn thấy những điều
ghê sợ, nghe những
tiếng động hải hùng
rùng rợn, và những con vật sống ở những nơi nhơ nhuốc bẩn thỉu lúc nào cũng hửi
mùi hôi thúi. Càng
đau khổ hơn loài thú rất nhiều là hạng
ngạ quỷ, những
chúng sanh đói khát cùng cực, và càng khổ hơn nữa là
cảnh địa ngục. Họ
mãi mãi đắm chìm trong
tình trạng khốn khổ nguy nan, thấy những cảnh hải hùng
rùng rợn, nghe những
âm thanh hung tợn, và hửi những mùi
ô trược. Trong một vài
cảnh địa ngục tất cả những gì được thấy, được nghe, được hửi, được sờ đụng đến và những
ý tưởng nghĩ đến đều làm kinh sợ,
tuyệt đối không có gì
đẹp đẽ êm dịu.
Chúng sanh trong những
cảnh giới ấy
mãi mãi sống trong
trạng thái khốn khổ, luôn luôn bị sáu loại thức cưỡng chế.
Nhãn thức,
nhĩ thức,
tỷ thức,
thiệt thức,
thân thức, và
ý thức luôn luôn gây
phiền não,
đau khổ.
Tất cả
mọi người đều muốn
thưởng thức những món ăn vừa miệng, nhưng người
vô phúc phải luôn luôn sống với những vật thực mà mình không thích. Đó là
tình trạng cưỡng chế của
thiệt thức. Đây cũng vậy, sự
áp bức của
thiệt thức càng
hiển nhiên nổi bật trong bốn
khổ cảnh. Dầu trong
cảnh người, ai cũng muốn dùng những
thức ăn vừa miệng, nhưng
lắm khi vì
hoàn cảnh như đau ốm chẳng hạn, phải
gắng gượng cố nuốt những vật thực mà mình không muốn. Đôi khi muốn chết cho rồi, để thoát ra khỏi những cảnh khổ đau như vậy.
Dĩ nhiên, trong bốn
khổ cảnh chúng sanh còn
muôn phần khốn khổ hơn.
Người đời thường muốn sống
thoải mái thong dong, ít phải bận tâm
lo lắng, nhưng
hoàn cảnh không
để yên cho
chúng ta sống như vậy. Nhiều người phải
vất vả buồn phiền, chán nản
thất vọng,
sầu não và than van. Vài người
suốt đời không bao giờ vượt thoát ra khỏi cuộc sống hạn hẹp đầy
đau khổ và
vô phúc. Họ luôn luôn phải bận tâm
lo lắng về cuộc sống. Họ là nạn nhân của
thức uẩn.
Thức không
tùy thuộc ý muốn của ta mà
sanh khởi do
hoàn cảnh quyết định. Ta không thể
kiểm soát hay điều khiển
thức uẩn.
Mặc dầu muốn thấy
hình ảnh vui tươi xinh đẹp và
thích thú nhưng không thể được.
Trái lại, ta phải gặp toàn là những điều
gai mắt. Đó là một
thí dụ về
nhãn thức. Nó không theo
ý muốn, không nằm dưới quyền điều khiển và
kiểm soát của ta mà chỉ
sanh khởi tùy duyên, tự động phát sanh
tùy thuộc điều kiện.
Cùng thế ấy,
mặc dầu ta muốn chỉ nghe những
âm thanh êm dịu, những lời lẽ làm
vừa lòng, nhưng không thể được. Do đó, đôi khi
cần phải mở máy ghi âm hay vô tuyến truyền thanh để được nghe những
âm thanh mà mình thích hay những
lời nói êm tai. Ta không thích nghe những
tiếng động ồn ào nhưng khi nó vừa phát lên thì nhanh chóng lọt vào tai ta, không thể tránh.
Nhãn thức tự nhiên tự chính nó
tùy duyên khởi sanh mà không chịu quyền điều khiển hay quyền
kiểm soát của ta.
Đối với
tỷ thức cũng thế.
Mặc dầu ta thích
thưởng thức những
mùi thơm dịu ngọt,
nếu không được ắt không
thỏa mãn. Do đó
chúng ta đi tìm những loại
trầm hương, các thứ dầu thơm và trồng những giống hoa
có mùi thơm.
Tuy nhiên, trong một vài
cảnh ngộ chúng ta phải
hít vào những
mùi hôi thúi khó chịu, có khi những hơi độc có thể làm
tổn hại đến sức khoẻ. Đó là những
trường hợp cho thấy rằng ta không thể điều khiển hay
kiểm soát tỷ thức theo
ý muốn, mà nó chỉ khởi sanh do
nguyên nhân và
cơ duyên.
Mặc dầu ta muốn
thưởng thức những vị ngọt bùi
dễ chịu, nhưng
nếu không có
thức ăn vừa khẩu vị thì
thiệt thức thích thú ắt không thể phát sanh. Do đó
hằng ngày chúng ta tận lực
gia công mong tìm những
thức ăn ngon. Nhưng đến khi đau ốm, để chữa trị,
chúng ta phải dùng thuốc đắng mà
dĩ nhiên ta không thích. Điều nầy cho thấy rằng ta không thể điều khiển hay
kiểm soát thiệt thức.
Thân thức,
cảm giác của thân, chỉ có thể
thích thú khi có những đồ vật
vừa ý như quần áo
xinh đẹp, giường ấm, nệm êm hay chỗ ngồi
thoải mái. Muốn được vậy phải luôn luôn
chuyên cần cố gắng để thâu thập những sự vật,
vô tri giác và hữu giác hữu tri, để tạo những
cảm giác thích thú của thân. Khi quá lạnh hay quá nóng, khi bị gai nhọn đâm chích, bị phỏng lửa, bị
khí giới gây thương tích, hoặc lúc lâm trọng bệnh,
chúng ta phải đau nhức dầu không muốn chịu
hậu quả khó chịu của
thân thức. Như vậy
rõ ràng ta không thể
kiểm soát hay điều khiển
thân thức. Nó chỉ tự động khởi phát khi hội đủ nhân và duyên.
Mỗi người đều muốn có
đời sống hạnh phúc, an vui và
thoải mái vừa lòng, nhưng chỉ có thể
thành tựu được như thế khi có đủ
tiền của và
phương tiện. Vậy phải luôn luôn tận lực
cố gắng để
bảo trì cuộc sống. Trong khi mong tìm
phương tiện để sống
tiện nghi thoải mái và
vui vẻ, thì lại phải bận tâm suy tư về những nổi khó khăn của cuộc sống
hằng ngày -- về người thân kẻ yêu, về thân bằng
quyến thuộc, về ông chồng hay bà vợ hoặc con cái qua đời, về những
vấn đề tài chánh, về công ăn
việc làm, về
tuổi già và sức yếu v.v... -- có thể khởi sanh bất cứ lúc nào và làm hỏng hết
hạnh phúc của
chúng ta. Đó là
phương cách mà
ý thức khởi sanh, tự động và
tùy thuộc nhân duyên. Ta không thể điều khiển và
kiểm soát.
Nguyên Nhân Sanh KhởiChúng ta đã dùng những
từ ngữ "tùy theo nhân và duyên". Câu nầy hàm ý "những
hoàn cảnh và
điều kiện nguyên nhân như thế nào sẽ đưa đến
hậu quả như thế nào"; cũng có nghĩa là
nguyên nhân tốt tạo những
hậu quả tốt, nhân xấu đưa đến quả xấu. Không có
hậu quả nào
sanh khởi chỉ vì ý ta muốn. Quả như thế nào sẽ phát sanh do những nhân như thế nào, dầu ta có muốn vậy hay không.
Hậu quả được tạo do những
nguyên nhân tương ứng, ta không thể
kiểm soát và điều khiển. Như vậy
rõ ràng nó không phải là "ta" hay tự ngã, không phải là
bản thể bên trong ta.
Đức Thế Tôn dạy rằng
ý thức không phải là tự ngã bởi vì ta không thể
sai bảo hay điều khiển nó như thế nào theo
ý muốn.
Đức Thế Tôn dạy như vậy nhằm giúp ta
diệt trừ chấp thủ sāmi attā, vốn chủ trương rằng có một tự ngã nằm bên trong
con người mà ta có thể
kiểm soát và điều khiển theo
ý muốn. Một khi đã loại trừ sāmi attā thì nivāsī attā,
chấp thủ rằng có một tự ngã
trường tồn thường xuyên nằm bên trong
con người, cũng
đồng thời được tẩy sạch. Khi đã
nhận thức rõ ràng rằng thức chỉ khởi sanh và
hiện hữu do
nhân duyên và nhanh chóng tan biến, ta
chứng nghiệm hiển nhiên rằng không có cái gì như một tự ngã
bền vững thường còn.
Thí dụ như
nhãn thức chẳng hạn, chỉ khởi sanh khi có mắt và đối tượng của sự thấy, tức
nhãn căn và nhãn trần. Cùng thế ấy
nhĩ thức chỉ khởi sanh khi có
nhĩ căn và nhĩ trần,
tỷ thức chỉ khởi sanh khi có
tỷ căn và tỷ trần,
thiệt thức chỉ khởi sanh khi có
thiệt căn và thiệt trần,
thân thức chỉ khởi sanh do thân và đối tượng được sờ đụng, và
ý thức chỉ khởi sanh khi có tâm và đối tượng
tâm linh, tức ý và pháp. Khi
hiểu biết rõ ràng những
nguyên nhân tạo
điều kiện đưa đến
hậu quả thích ứng như thế nào,
ý niệm chấp thủ một
thực thể vĩnh tồn, nivāsī attā,
tự nhiên tiêu diệt.
Vị
hành giả có
chánh niệm, luôn luôn
ghi nhận tiến trình sắc và danh ngay vào lúc nó khởi sanh, sẽ nhận chân
rõ ràng rằng thức luôn luôn khởi sanh và nhanh chóng tan biến,
tùy thuộc những
điều kiện (
tùy duyên). Như vậy
hành giả hiểu biết rõ ràng rằng không có một tự ngã hay
thực thể sống đem lại sự thấy. Vị ấy
chứng nghiệm thật sự rằng
nhãn thức chỉ khởi sanh khi có đúng những
điều kiện kết hợp đầy đủ, tức khi hội đủ
nhân duyên. Bằng cách ấy
hành giả loại trừ
chấp thủ kāraka attā,
tin tưởng rằng tất cả những hành động, bằng thân, khẩu, ý, đều do một tự ngã chủ động.
Những vị không thể
nhận thức bản chất thật sự của thức đúng
như thật sự thức là vậy ắt còn
chấp thủ vững chắc ba
hình thức sāmi attā, nivāsī attā, và kāraka attā. Hình như sự
chấp thủ vào
thức uẩn càng
bền chặt vững chắc hơn các uẩn kia.
Ngày nay ta gọi đó là "linh hồn" hay
thực thể sống. Trong
ngôn ngữ được dùng thường ngày, thức thường được nhắc đến hơn là thọ, tưởng và hành,
mặc dầu tất cả ba uẩn nầy đều là những
tâm sở đồng phát sanh với thức.
Người ta
xem như chính cái thức
cảm giác,
chính thức hồi nhớ sự việc, và tạo
nguyên nhân đưa đến hành động.
Câu Chuyện Tỳ Khưu Sāti
Vào thời
Đức Thế Tôn còn
tại thế có vị tỳ khưu
đệ tử tên Sāti,
hiểu biết sai lầm rằng thức là tự ngã, và khư khư
chấp thủ tà kiến về tự ngã ấy. Vị tỳ khưu Sāti
tuyên bố rằng mình
hiểu biết và nắm vững lời dạy của
Đức Thế Tôn như sau:
Tadevidaṁ viññāṇaṁ sandavatti saṁsārāti anaññaṁ.
"Chính cái thức nầy được
chuyển sinh trong vòng luân hồi từ kiếp nầy sang kiếp kia, không có gì khác."
Vị tỳ khưu Sāti
hiểu biết những lời dạy của
Đức Thế Tôn như thế ấy. Thầy dựa quan kiến mình trên những
câu chuyện trong Túc Sanh Truyện (Jātaka) như tích Vua Vessantara, tượng chúa Chaddan, và
long vương Bhūridatta, được nói rằng đó là
tiền thân của
Đức Phật, là chính
Đức Phật trong một
tiền kiếp. Trong kiếp sống
cuối cùng là
Đức Phật, những phần thuộc
sắc uẩn của Vua Vessantara, của tượng chúa Chaddan hay của
long vương Bhūridatta đã tan rã và
biến dạng, nhưng theo sự
tin tưởng của Tỳ Khưu Sāti thì danh, tức phần
tâm linh của
Đức Phật trong kiếp nầy vẫn còn y là một với phần
tâm linh của Vua Vessantara v.v... thức ấy không
hoại diệt mà
tồn tại vững bền xuyên qua những kiếp sống. Tỳ khưu Sāti hiểu những lời dạy của
Đức Phật như thế ấy. Đó chỉ là
chấp thủ nivāsī attā, xem thức là một tự ngã
liên tục,
trường tồn vĩnh cửu.
Những vị
đệ tử có học của
Đức Phật cố gắng giải thích cho Tỳ Khưu Sāti rằng hiểu như thế là
sai lầm nhưng vị nầy vẫn
ương ngạnh,
quyết định không nghe, chỉ tin rằng mình
hiểu biết Dhamma,
Giáo Pháp, nhiều hơn.
Quả thật rất khó chỉ dạy
Chánh Pháp cho một người ôm ấp
tà kiến. Họ xem người có
lòng tốt muốn giúp họ
sửa sai quan kiến
lầm lạc, là
thấp kém,
lạc hậu, không
theo kịp đà
tiến hóa của
xã hội cấp tiến, không phải như các bậc
lãnh đạo của họ, có tầm
hiểu biết mới mẻ. Trong
thực tế, những ai tự xưng là
Phật tử nên
thận trọng suy tư xem sự
hiểu biết của mình có
thích ứng với những lời dạy mà
Đức Phật giáo truyền hay không. Nếu còn ôm ấp những quan kiến không theo đúng một chiều với
Giáo Pháp ắt ta đã đi lệch ra ngoài
Phật Giáo.
Không
thuyết phục được thầy tỳ khưu Sāti
từ bỏ tà kiến của thầy, vài vị sư đem
câu chuyện bạch lại với
Đức Bổn Sư và Ngài cho mời thầy đến. Khi được hỏi, thầy lặp lại
quan điểm của mình như sau: "Bạch Ngài,
dựa trên những
câu chuyện Jātaka (Túc Sanh Truyện) mà
Đức Thế Tôn thuật lại, con thấy rằng thức, hay tâm
hiện tại, là một với cái tâm trong những kiếp sống
quá khứ. Tâm ấy không
tiêu diệt mà
chuyển sinh từ kiếp nầy sang kiếp khác. Con hiểu như vậy."
Đức Phật hỏi thầy hiểu thức là gì?
"Bạch Ngài, thức là cái gì
diễn đạt ý nghĩ của mình, cái gì
cảm thọ, cái gì
kinh nghiệm hậu quả của những hành động tốt hay xấu (ở nơi đây hay một nơi nào),
trong kiếp nầy hay trong một kiếp sống nào."
-- Nầy
con người cuồng si, con đã nghe
Như Lai diễn giải giáo lý cho ai như thế ấy?"
Đức Thế Tôn khiển trách, Ṅhư Lai
giải thích rằng thức chỉ khởi sanh do nhân và duyên.
Nếu không có
nhân duyên tạo
điều kiện ắt thức không thể phát sanh. Thay vì thế, con
diễn giải sai lầm và cho rằng đó là lời dạy của
Như Lai. Bằng cách
diễn giải và
truyền bá sai lầm lời dạy của
Như Lai như thế
con tạo nguyên nhân cho nhiều hành động xấu phát sanh và như thế sẽ gây nhiều
sầu muộn và
đau khổ cho con
lâu dài trong tương lai."
Tuy nhiên, Tỳ Khưu Sāti không chịu
từ bỏ tà kiến của mình.
Giáo điều cuồng tín quả thật đáng sợ. Sāti là một vị tỳ khưu, một
đệ tử của
Đức Phật. Thầy theo học
giáo lý với
Đức Phật và tự xưng là
hiểu biết đầy đủ.
Vậy mà còn ương nghạnh, không chịu
từ bỏ quan kiến
sai lầm của mình
mặc dầu đã được chính
Đức Phật nhắc nhở khuyên dạy,
sửa sai, và như thế mất cả
niềm tin nơi
Phật Bảo. Ngày nay cũng có vài vị "đạo sư" dạy rằng không
cần phải giữ tròn
năm giới và không
cần hành thiền.
Hiểu biết giáo lý là đủ, các thầy dạy như vậy. Khi có người học hiểu
uyên thâm sẵn
lòng tốt muốn
soi sáng chánh Pháp cho những "ông thầy dạy đạo" ấy thì họ bướng bỉnh
cứng đầu trả lời rằng họ sẽ không
từ bỏ quan kiến
của riêng mình, dầu chính
Đức Phật có đến để dạy họ cũng vậy.
Nhiều
trường hợp cho thấy rằng cái "không-phải Giáo Pháp" được
quảng bá lưu truyền như là "chính Giáo Pháp". Điều chánh yếu mà ta nên làm là
thận trọng tỉ mỉ
xem xét các lời dạy ấy để nhổ tận gốc rễ những
giáo lý không hợp với
chánh Pháp. Về
phương diện nầy có lời
tuyên ngôn chính xác như sau:
Tóm Lược
Chánh Pháp1. Sabba pāpassa akāraṇaṁ --
Cố tránh mọi hành động
bất thiện. Những hành động
sai lầm bằng thân như
sát sanh,
trộm cắp, và
tà hạnh, ta phải nên
cố tránh. Những hành động
bất thiện bằng
lời nói như lời
giả dối,
phỉ báng và lời lẽ có tánh cách lăng mạ,
xúc phạm người khác cũng phải nên
cố tránh. Cũng nên
cố tránh và
từ bỏ những
tư tưởng bất thiện.
Tư tưởng bất thiện chỉ có thể được loại trừ bằng cách hành thiền
Vắng Lặng và
thiền Minh Sát (vipassanā).
Cố tránh tất cả mọi hành động
bất thiện bằng thân, khẩu, ý là
Giáo Huấn Đầu Tiên của
Đức Phật.
2. Kusalassa upasampadā -- Trau giồi và phát triển mọi
hình thức tạo
thiện nghiệp; như để bát hay dâng cúng đến các bậc
trưởng lão,
giữ giới và hành thiền. Bằng cách nghiêm trì Lời Dạy Đầu Tiên ta có thể làm cho
giới đức được trở nên
trong sạch đến một mức độ nào, nhưng bằng cách
thực hành tiết chế, không làm điều nầy hay điều nọ thì chưa
vững chắc củng cố giới đức của
Thánh Đạo. Chỉ có thể
thành tựu Con Đường bằng
pháp hành thiền Minh Sát (vipassanā) đến giai đoạn cận định hay nhập Thiền.
Vài người có ý
xem thường pháp hành thiền
Vắng Lặng.
Tuy nhiên, chính
Đức Thế Tôn khuyên bảo nên phát triển tâm
vắng lặng. Các tầng Thiền (Jhāna) là nền tảng
lý tưởng để
hành giả dựa trên đó mà phát triển
thiền Minh Sát (vipassanā).
Nếu không được đến mức cận định ta nên
cố gắng gia công tiến cho được đến mức tạm định của
thiền Minh Sát. Một khi đã
thành đạt mức độ nầy
tuệ Minh Sát (vipassanā ñāṇa) sẽ tự động phát triển
cho đến khi
thành tựu Thánh Đạo.
Trong
Phật Giáo,
nhiệm vụ chánh yếu nhất là
thành đạt những phước lành của
tâm định Minh Sát và
Tuệ Minh Sát, bởi vì
nếu không có hai
yếu tố quan trọng ấy thì không thể
thành tựu Thánh Đạo và
Thánh Quả. Vậy, nhằm
thành tựu phước báu của
Thánh Đạo và
Thánh Quả, phải trau giồi và phát triển
nghiệp lành của
thiền Minh Sát. Ta không
thể không quan tâm đến bất luận
hình thức phước báu nào, đó là Lời Dạy thứ nhì của
Đức Phật,
cần thiết để cho ba loại hành động thiện được tròn đủ.
Chúng ta có nghe "những lời dạy mới mẻ", vốn đi ngược chiều với hai lời dạy thứ nhất và thứ nhì của
Đức Phật. Người theo những lời dạy tương tợ như vậy nói, Ṅhững
ô nhiễm bất thiện (akusala kilesa)
không tồn tại vĩnh tồn, do vậy, không cần gì phải
cố gắng loại trừ nó. Cùng thế ấy không
cần phải cố gắng làm những điều lành,
giữ giới, hành thiền
Vắng Lặng hoặc
thiền Minh Sát. Tất cả những
cố gắng ấy đều
vô ích và chỉ tạo
đau khổ." Ta phải hiểu rằng tất cả những lời dạy mới mẻ ấy
hoàn toàn tương phản với
chánh pháp mà
Đức Phật giáo truyền.
3. Sacitta pariyodapanaṁ -- Giữ tâm
trong sạch.
Con Đường phải được phát triển bằng cách
thực hành thiền Minh Sát (vipassanā). Với Đạo được phát triển và Quả được
thành tựu theo cách đó
tâm không còn
mảy may ô nhiễm và do đó,
tuyệt đối trong sạch. Theo
Chú Giải, mức độ
trong sạch được
thành tựu như vậy sẽ không kém phần
trong sạch hơn tâm của một vị
A La Hán. Những lời nầy
hoàn toàn đúng theo
kinh điển Pāli.
Tuy thế cũng có người làm
tổn hại Phật Giáo bằng cách nói nghịch lại, rằng
lối sống nghiêm
trì giới luật, phát triển
thiền định và
thiền Minh Sát, là
vô ích, chỉ đưa đến
đau khổ. Cứ "Giữ tâm an nghỉ, không để cho tâm có bất luận
sinh hoạt nào. An
trụ tâm trong một điểm
hư vô bên trong
con người, nơi mà không có
sinh hoạt bất thiện nào phát triển. Bằng cách đó tâm sẽ ở trong
trạng thái trong sạch." Đó là một lời dạy
hoàn toàn không chứa đựng
lý trí,
vô căn cứ và không đứng vững. Khuyên dạy không nên hành sīla, samādhi, và bhāvanā (giới, định, và trau giồi
trí tuệ) là
phá hoại Giáo Pháp. Không thể giữ tâm
trong sạch mà không
thực hành thiền định và
thiền tuệ. Thức, do
bản chất thiên nhiên của nó là không có
thực thể, không thể
kiểm soát và không thể điều khiển.
Quả quyết rằng có thể giữ cái tâm theo ý ta muốn mà không cần đến sự trợ giúp của
pháp hành thiền là phủ nhận kinh Anattalakkhaṇa Sutta,
Vô Ngã Tướng, vì kinh nầy dạy rằng không thể bảo thức, "Thức phải như thế nầy, thức phải không như thế kia." Điều nầy đáng cho ta
thận trọng suy tư.
Câu
cuối cùng của lời dạy được
tuyên ngôn chính xác là: "Etaṁ Buddhāna sāsanaṁ." "Ba lời dạy nầy -- tức tránh làm những điều ác,
thực hành mọi điều thiện, giữ tâm
trong sạch -- là Lời Dạy của tất cả chư Phật."
Phật Giáo chánh
yếu chỉ bao gồm ba
yếu tố ấy. Muốn giữ
Phật Giáo tồn tại lâu dài,
thịnh vượng, ta phải
cố tránh những hành động
bất thiện, càng nhiều càng tốt và chỉ dạy người khác không nên làm điều ác, càng nhiều càng tốt. Ta phải
cố gắng tạo
thiện nghiệp, càng nhiều càng tốt và khuyên dạy người khác làm như vậy. Nếu gặp ai dạy điều không-đúng-chánh
Pháp như: "Không nên tránh làm điều ác, không nên làm điều lành", ta phải
tận tâm ngăn cản họ không nên dạy người những điều
sai lầm như vậy. Ta phải thanh lọc tâm bằng cách hành thiền và khích lệ người khác cũng làm như vậy. Phải
soi sáng sự
hiểu biết sai lầm của họ nhằm
mục đích duy trì bền vững và
phồn thịnh giáo lý của
Đức Phật.
Chúng ta đã phần nào đi lệch ra ngoài
câu chuyện của Tỳ Khưu Sāti để nhắc đến mối hiểm họa mà những lời dạy
sai lầm có thể gây ra cho
Phật Giáo. Để
trở lại câu chuyện, khi Tỳ Khưu Sāti
ương ngạnh khư khư
chấp thủ tà kiến của mình,
Đức Thế Tôn hỏi
chư Tăng hiện diện:
"Các con có bao giờ nghe
Như Lai giải thích Giáo Pháp như thế không?
"Bạch Hóa
Đức Thế Tôn không. Các con chỉ nghe rằng thức phát sanh do những
điều kiện (nhân và duyên), và
nếu không có
nhân duyên ắt không có thức."
Rồi
Đức Thế Tôn giải thích thêm:
-- "Mỗi thức phát sanh do những
điều kiện của nó và được đặt tên theo những
điều kiện ấy. Như thức phát sanh do mắt và đối tượng của mắt thì được gọi là
nhãn thức; thức phát sanh do tai và
âm thanh thì gọi
nhĩ thức; thức phát sanh do mũi và mùi thì gọi là
tỷ thức; do lưỡi và vị thì gọi là
thiệt thức; do thân và đối tượng được sờ đụng thì được gọi là
thân thức; do tâm và đối tượng của tâm (pháp) thì được gọi là
ý thức. Cũng như lửa, khi phát sanh do ta đốt củi thì được gọi là lửa củi; phát sanh do ta đốt gỗ tre, cỏ, phân bò, trấu, hay rác rưới thì được gọi là lửa tre, lửa cỏ, lửa phân bò, lửa trấu, hay lửa rác, cùng thế ấy thức được gọi
tùy theo điều kiện mà nó phát sanh như thế nào."
Trong
bài kinh liên quan đến quan kiến của Tỳ Khưu Sāti
Đức Thế Tôn có đề cập đến
Định Luật Phát Sanh Do
Điều Kiện hay
Thập Nhị Nhân Duyên một cách
rành mạch rõ ràng, nhưng vì không có
thì giờ Sư chỉ
giải thích đầy đủ hơn chuyện ngụ ngôn về lửa.
Cuộc hỏa hoạn của một khu rừng có thể khởi phát từ một vài lá cây khô hoặc một đống rác. Nếu có nhiên liệu
tiếp nối nhau cháy và không ai
dập tắt, lửa sẽ lan tràn cháy rụi cả mẫu rừng. Nhìn đám rừng đang cháy ta thấy hình như chỉ có một ngọn lửa
liên tục lan tràn, nhưng nếu
thận trọng quan sát ta sẽ thấy rằng ngọn lửa cháy ở đống rác không phải là ngọn lửa đốt cỏ, và cùng thế ấy lửa đốt cỏ không phải cùng ngọn lửa đốt lá khô. Trong một đống lá khô cũng vậy, ngọn lửa đốt lá nầy không phải là một với ngọn lửa đốt lá kia.
Cũng cùng
một thế ấy,
nhãn thức và
nhĩ thức mà thông thường ta có
cảm tưởng là cùng một cái thức, nếu được
thận trọng quan sát thì
rõ ràng là hai thức khác biệt, mỗi thức khởi sanh do những
điều kiện của nó. Khi
chỉ quan sát một loại thức riêng biệt như
nhãn thức chẳng hạn, ta sẽ thấy những thức khác nhau khởi sanh từ những màu khác nhau, như trắng và đen. Thâu gọn thêm vào một màu, như màu trắng chẳng hạn, người hành thiền
chuyên cần cẩn mật đã tiến đến tầng udayabbaya ñāṇa, tuệ
sanh diệt, và bhaṅga ñāṇa, tuệ diệt, sẽ thấy rằng trong cái
bề ngoài hình như chỉ là một cái thức
duy nhất màu trắng
liên tục trôi chảy, thật sự là chuỗi dài những chặp thức màu trắng riêng biệt, chặp nầy đến trước,
phân biệt với chặp sau.
Sự
phân biệt càng
rõ ràng nổi bật hơn trong
trường hợp nghe, hửi và nếm, mỗi chặp thức được
ghi nhận riêng rẽ và
phân biệt. Trong
hiện tượng sờ đụng, giữa những chặp thức riêng rẽ và
phân biệt, sự
ghi nhận mỗi chặp càng nhiều hơn và
nổi bật rõ ràng hơn.
Khi cảm nghe đau, nếu
thận trọng ghi nhận, "đau, đau" ta sẽ
phân biệt rõ ràng mỗi chặp thức đau, từng chặp, từng chặp, lúc nó khởi sanh. Cùng thế ấy,
ý nghĩ và
tư tưởng cũng được
ghi nhận riêng rẽ khi mỗi
ý thức khởi sanh. Trong khi đang niệm phồng xọp ở bụng, nếu có
tư tưởng hay
ý nghĩ nào xen vô, người hành thiền phải
ghi nhận ngay lúc nó khởi sanh. Thông thường, khi niệm như
vậy thì tư tưởng hay
ý nghĩ vừa
xen vào làm phiền ấy
chấm dứt liền khi khởi sanh, nhưng nếu nó còn
dai dẳng sanh khởi trở lại do những
nguyên nhân như trước, người hành thiền phải
quán sát và
ghi nhận riêng rẽ từng chặp. Khi chú niệm
di chuyển từng chặp nầy đến chặp khác sự khởi sanh của mỗi chặp thức riêng rẽ sẽ được thấy rất là
rõ ràng.
Qua mỗi
ghi nhận riêng rẽ, khi
hành giả có thể
nhận ra sự khởi sanh của mỗi thức riêng biệt thì tự
cá nhân chứng nghiệm bản chất vô thường của thức,
bản chất căng thẳng làm khó chịu,
đau khổ, vì
liên tục khởi sanh và tan biến, nhanh chóng
sanh diệt, và
bản chất vô ngã, không có một
thực thể đơn thuần, vì phải
tùy thuộc nơi những
nhân duyên mà ta không thể
kiểm soát và điều khiển. Nhận chân được như vậy là điều tối quan trọng.
Sư đã
giải thích đầy đủ như thế nào
năm uẩn không phải là tự ngã. Giờ đây Sư trình bày một vài
hình ảnh thí dụ để làm
sáng tỏ thêm
vấn đề. Những
thí dụ nầy được trích từ Kinh Pheṇapiṇḍupama Sutta, phẩm Khandhavagga, trong bộ Saṁyutta Nikāya,
Tạp A Hàm:
Pheṇapiṇḍupamaṁ rūpaṁ vedanā pubbuḷūpamā
Marīcikūpamā saññā saṅkhārā kadalūpamā
Māyūpamañca viññāṇaṁ desitādiccabandhunā.
Sắc Pháp Giống Như Khối Bọt.
Sắc, rūpa, giống như bọt nước mà ta thấy nổi trôi theo giòng suối hay trên sông rạch là một khối bọt do những
bong bóng nước nhỏ tí ti hội tụ lại thành khối, cỡ
một nắm tay, một đầu người, một thân người hay lớn hơn nữa. Mới nhìn thoáng qua ta thấy khối bọt hình như là một
thực thể, nhưng nếu
thận trọng quan sát thì nó
rõ ràng không có
thực chất, không thể dùng vào việc gì.
Cũng cùng thế ấy,
sắc pháp của
con người, tức cơ thể
vật chất với đầy đủ đầu, mình, tay, chân, dưới
hình thức đàn ông hay đàn bà trông hình như là một khối bền bỉ
vững chắc, như thường còn,
xinh đẹp, và giống hình như một
thực thể sống. Nhưng khi tỉ mỉ
phân tách thì thân nầy cũng chỉ giống như một khối bọt -- không có
thể chất vững bền mà chỉ là sự cấu hợp của ba mươi hai
thành phần ô trược như tóc, lông, móng tay, móng chân, răng, da, thịt, bắp thịt, và xương. Nếu
phân tách thêm nữa với nhiều
chi tiết hơn thì đó chỉ là sự cấu hợp của những điện tử
vô cùng vi tế đến đổi
mắt thường không thể thấy. Giống như đóng cát to lớn được cấu thành do những hột cát tí ti. Hoặc nữa
chúng ta có thể lấy
thí dụ một chén bột do từng hột bột gạo hay bột mì
vi tế hợp thành. Nếu ngâm vào nước nó sẽ
trở thành bột nhồi, một khối bột mà ta có thể làm cho lớn hơn nhiều bằng cách thêm bột và thêm nước. Ta có thể nắn khối bột làm ra
thành hình một người to lớn, nhưng đó không phải là một khối đặc chắc, mà là sự hợp thành của những hột bột gạo hay bột mì. Cũng dường thế ấy, cơ thể của
con người không phải là một khối đặc mà được cấu thành do những
thành phần vi tế keo dính đặc lại thành một đống lớn --
giống hệt như một khối bọt, bên trong không có
thể chất.
Không có một cốt lỏi
vững chắc thường còn, không có
thể chất xinh đẹp, không có
thực thể sống được gọi là "tự ngã". Phẩm chất
sắc pháp là một phần của cơ thể
vật chất nầy. Loại những phần ấy ra thì thân nầy không còn hình thể. Đặc tánh duỗi ra chiếm
không gian của
nguyên tố đất (paṭhavī) là phần của thân biểu hiện dưới sự
xúc giác như
gồ ghề hay láng lẩy, cứng hay mềm.
Nguyên tố lửa (tejo) có
đặc tính nóng hay lạnh và
nguyên tố gió (vāyo) có đặc tánh
di động là những phần khác của thân. Loại ba
nguyên tố ấy ra ắt cơ thể
con người mà ta có thể sờ đụng và
cảm thọ sẽ không còn
hiện hữu nữa. Mùi, một
chuyển hóa của
sắc pháp, cũng là một phần của thân. Do đó ta có thể
cảm thọ thân người bằng mùi; nếu cũng
loại bỏ phẩm chất mùi thì không còn gì mà thân người có thể được
nhận ra hoặc hay biết.
Ta thấy là vì có phần nhạy của mắt,
nếu không có phần nhạy ấy thì ta không thể thấy, mù. Cũng nhờ có phần nhạy của tai ta mới có thể nghe; có phần nhạy của mũi nên mới có thể hửi, tức
nhận ra mùi; có phần nhạy của lưỡi mới có thể nếm vị, và có
hệ thống thần kinh mới có thể
tiếp nhận cảm giác sờ đụng. Tất cả những phần ấy của
sắc uẩn tuy rất
vi tế nhưng cũng rất hữu ích để tạo hình thể của thân người, và tất cả đều có
ứng dụng của nó.
Nếu không có những phần của
sắc uẩn ấy thân nầy sẽ không có
giá trị hữu dụng. Trong
thực tế nếu không có những
thành phần ấy thân người sẽ không
hiện hữu. Như đã nói ở trên, nếu những
thành phần ấy tan rã hay
biến dạng, cơ thể
con người sẽ không còn
hiện hữu. Tất cả những gì còn lại chỉ là những phần rất
vi tế của
sắc pháp.
Hơn nữa, những phần nhạy của
sắc pháp ấy, như mắt và vật được thấy, không
hiện hữu thường xuyên, mà luôn luôn sanh và diệt, luôn luôn có cái mới thay thế vào cái cũ. Như thế ấy thân nầy giống như là một cục, một miếng, hay một khối bọt, một sự hợp thành của những
sắc pháp không
thể chất.
Khi
quán sát và
phân tách thân, ta phải bắt đầu nơi mà
hiện tượng biểu hiện
rõ ràng nhất. Khi đi,
nguyên tố đất, có đặc tánh duỗi ra và
nguyên tố gió, có đặc tánh
di động, là
nổi bật nhất. Do đó, theo
Kinh Niệm Xứ, Satipaṭṭhāna Sutta: "gacchanto vā gacchāmīti pajānāti". "Khi đi,
hành giả hiểu biết 'tôi đang đi'," và phải
ghi nhận "đi, đi", "dở lên", "bước tới", "đặt xuống". Khi đứng
hành giả phải niệm "đứng, đứng"; khi ngồi, niệm "ngồi, ngồi", "đụng, đụng", "dở lên", "ngồi xuống" v.v... Khi thấy tay
chân hành giả phải niệm "thấy, thấy". Khi nghe mùi của thân mình, niệm "hửi mùi, hửi mùi", khi
cử động tay chân hay duỗi tay, duỗi chân ra, niệm "duỗi ra, duỗi ra", "cử động", "cựa mình".
Khi
thận trọng giữ
chánh niệm,
ghi nhận tỉ mỉ từng
chi tiết như thế,
tâm định trở nên càng
dũng mãnh và
hành giả nhận thức rằng trong một
tác động đi
gồm có tác ý,
ý muốn đi,
theo sau là
di động và thân duỗi ra.
Tác động đứng lên hay tác dộng ngồi xuống
bao gồm ý muốn đứng hay
ý muốn ngồi,
theo sau là chuỗi dài những
di động. Cùng thế ấy, khi co tay hay co chân vào, duỗi ra, hay thay đổi tư thế.
Trong sự thấy có
nhãn thức và vật được thấy, trong sự hửi, có
tỷ thức và mùi. Mỗi
hiện tượng được
nhận ra đều khởi sanh trong một chặp rồi tức khắc
hoại diệt. Tay, chân, đầu và hình thể của thân không còn được
cảm thọ và
nhận ra giống hệt như trong giây phút trước. Nó chỉ
xuất hiện rồi tan biến trong một tiến trình vật thể luôn luôn
trôi chảy, không ngừng sanh và diệt. Đến giai đoạn nầy
hành giả tự mình
hiểu biết rằng cơ thể
vật chất nầy cũng giống như một khối bọt.
Thọ Giống Như
Bong Bóng NướcThọ giống như
bong bóng nước. Khi mưa rơi xuống ao hồ ta thấy trên mặt nước nổi lên những
bong bóng nhỏ. Trẻ con chơi đùa cũng dùng một cái ống, thổi nhẹ nước xà bông tạo nên những
bong bóng nhỏ,
hợp lại thành một khối bọt.
Những
bong bóng ấy được
thành hình khi mưa rơi xuống mặt nước, rồi nhanh chóng tan biến. Thọ, hay
cảm giác, cũng dường thế ấy, tựa hồ như
bong bóng nước, vì
bản chất của nó là không ngừng
sanh diệt. Đó là đúng với những gì mà người hành thiền
kinh nghiệm, nhưng không giống như những gì mà người đời
thường hiểu. Theo quan kiến của người thường, khi nhìn lâu một vật đẹp thì vật đẹp ấy
tồn tại lâu dài. Khi nhìn một
quang cảnh không
vừa ý trong một lúc cũng nghĩ rằng cảnh ấy
mãi mãi hiện hữu. Những vật có
tính cách vô ký, tức không-vừa-ý-cũng-không-phật-lòng cũng được thấy là
tồn tại bền lâu. Cùng thế ấy, bất luận gì mình nghe mà
vừa ý hay không
vừa ý cũng được tin rằng nó sẽ
bền vững lâu dài. Riêng những thọ cảm
đau đớn khó chịu thì càng được nghĩ rằng nó sẽ
tồn tại ngày nầy qua ngày khác, nhiều tháng, nhiều năm. Như vậy quan kiến về thọ cảm của người thường không hẳn đúng với những gì thật sự xảy diễn. Thọ giống như
bong bóng, vừa thấy đó bỗng liền tan biến đó. Muốn tự mình
chứng nghiệm chân lý nầy phải
chuyên cần quán niệm tiến trình tâm-vật lý phát sanh bên trong thân.
Trong khi
xuyên thấu quan sát tiến trình tâm-vật lý,
tri giác của
hành giả tiến đến những tầng tuệ
sanh diệt và tuệ diệt, udayabbaya và bhaṅga ñāṇa, thấy, nghe hay hửi bất luận gì
ưa thích hay không
vừa lòng, đều thấy nó tức khắc biến tan. Sự
hoại diệt của những thọ khổ được cảm nhận càng
rõ ràng hơn. Khi niệm một thọ khổ "khổ, khổ",
hành giả thấy nó
chấm dứt với mỗi niệm. Tới tầng sammasana ñāṇa,
tuệ giác nhận thấy đặc tướng
vô thường, khổ,
vô ngã của
vạn pháp,
trạng thái đau khổ càng
tăng trưởng nổi bật và được
thường xuyên ghi nhận hơn. Và mỗi khi
ghi nhận như
vậy thì cơn đau ở nơi được
ghi nhận tan biến, hiện lại ở một nơi, rồi ở một
nơi khác, giống như ta lấy tay chụp lấy quẳng đi.
Như vậy, đối với người hành thiền mà
tâm định đã
dũng mãnh, khi một
hình ảnh vừa lòng phát khởi người ấy liền
ghi nhận, và
hình ảnh tức khắc tan biến.
Tuy nhiên vì mắt và đối tượng của mắt vẫn còn đó,
hành giả lại thấy nữa. Mỗi lần thấy
hành giả ghi nhận, và sự thấy ấy nhanh chóng tan biến. Cũng một tiến trình tương tợ xảy diễn với những đối tượng không
vừa lòng và những đối tượng
vô ký.
Trạng thái tan biến của những
âm thanh vừa lòng,
nghịch ý và
vô ký mỗi khi được
ghi nhận càng rõ rệt hơn.
Cảm giác mùi hửi cũng tan biến khi được
ghi nhận.
Cảm giác vị nếm càng
đặc biệt nổi bật đối với
hành giả: vị ngon ngọt mà
hành giả nếm khi nhai vật thực
liên tục khởi sanh và tan biến mỗi khi
ghi nhận. Những
cảm giác thích thú, những
cảm giác khó chịu, và những
cảm giác không
thích thú không khó chịu cũng vậy,
sanh khởi và
hoại diệt mỗi khi được
ghi nhận. Cùng thế ấy, những thọ cảm
buồn phiền vô phúc,
sầu muộn, buồn bả, hay
hạnh phúc và
vui vẻ thích thú cũng được thấy sẽ nhanh chóng tan biến mỗi khi
hành giả xuyên thấu ghi nhận. Như vậy
thọ uẩn không khác nào bọt nước, phù du tạm bợ và không đáng được
tin cậy --
vô thường, khổ và
vô ngã.
Tưởng Giống
Như Ảo Cảnh
Tưởng --
tri giác, nhớ lại và
nhận ra một đối tượng
xem như thật -- giống một
ảo cảnh.
Ảo cảnh là một sự trông thấy
ảo huyền không đúng
sự thật do những
điều kiện không khí tạo nên. Thông thường
ảo cảnh được thấy trong không khí
nóng bức từ đất bốc lên, vào những ngày tháng giữa mùa Hè như
hình ảnh những lớp nước hay nhà cửa.
Ảo cảnh là những
hình ảnh không thực có. Vào mùa Hè thú rừng như nai hưu thường chạy đôn chạy đáo tìm nước uống, thấy xa xa hình như những ao nước, liền vội vã chạy đến để thấy ra chỉ là vùng đất khô cằn: những con nai, con hưu ấy
lầm lạc tin
ảo cảnh là thật và vì thế gặp nhiều
vấn đề khốn khổ.
Cũng
như ảo cảnh tạo
hình ảnh ảo huyền làm cho thấy những lớp nước hay nhà cửa trong khi không có gì như vậy, cùng thế ấy, tưởng, saññā, làm cho ta lầm tưởng bất luận gì được thấy, nghe hay sờ đụng là
con người, đàn ông hay đàn bà. Với những loại tưởng
ảo huyền về những gì được thấy, được nghe, được sờ đụng hay được biết,
con người dấn thân vào nhiều hành động
liên quan đến nó, giống như hưu nai rừng rú hoang dại
chạy theo những
ảo cảnh xa thẳm, ngỡ rằng đó là khối nước.
Nhằm nhận chân rằng tưởng chỉ là
ảo huyền và để cứu giúp mình khỏi phải khốn khổ
chạy theo những gì
huyền ảo,
không thật có, ta phải
chuyên cần thận trọng ghi nhận tất cả những
hiện tượng vật lý và
tâm linh, ngay vào lúc nó khởi phát. Khi tâm
an định tăng trưởng dũng mãnh ta sẽ thấy rằng trong mỗi
hiện tượng chỉ có đối tượng
vật chất được biết và cái tâm hay biết nó; về sau ta sẽ biết rằng mỗi
hiện tượng là một diễn biến
liên hệ giữa nhân và quả. Sau cùng tự
cá nhân ta
chứng nghiệm rằng cái tâm hay biết cũng như đối tượng được hay biết
liên tục hoại diệt trong khi ta
ghi nhận nó.
Như vậy cái mà trước kia tưởng, saññā, tin rằng là một
cá nhân, một
chúng sanh, một người đàn ông hay đàn bà, một tự ngã bền bỉ
lâu dài và thường còn, thì nay được thấy là một sự phỉnh lừa
gian trá, một
hình ảnh ảo huyền, giống
như ảo cảnh. Người hành
thiền chứng nghiệm rằng trong
thực tế đó chỉ là một tiến trình sanh và diệt,
vô thường, khổ và
vô ngã.
Hành (saṅkhāra) giống như loại cây không lỏi
Hành giống như một loại cây không lỏi, như cây chuối chẳng hạn. Cây chuối nhìn cũng giống như một loại cây thường, mình đặc
vững chắc, nhưng khi hạ xuống và
quan sát ta sẽ thấy rằng thân cây chỉ là những lớp bẹ, bẹ nầy bộc trên bẹ kia, lớp nầy đến lớp khác, không có gì
thực chất, không có lỏi cứng.
Hành uẩn cũng dường như cây chuối, không có
thể chất bên trong. Hành
bao gồm năm mươi loại
tâm sở, do cetanā,
tác ý,
dẫn đầu. Những
tâm sở quan trọng khác trong nhóm là xúc (phassa), sự chú ý (manasikāra),
nhất điểm tâm (ekagattā), tầm (vitakka), sát (vicāra),
tinh tấn (viriya), tham (lobha), sân (dosa), si (moha),
ngã mạn (māna),
tà kiến (diṭṭhi),
hoài nghi (vicikicchā), không-tham, không-sân, không-si,
đức tin (saddhā), niệm (sati),
tâm từ (mettā),
tâm bi (karuṇā), và
tâm hỷ (muditā): tất cả đều là những
tâm sở hợp thành hành (saṅkhāra). Cetanā,
tác ý, chịu
trách nhiệm cho tất cả những
sinh hoạt có
tác ý (bằng thân, khẩu, ý), là
yếu tố lãnh đạo. Hành có nhiều, và vì
liên quan với tất cả những
sinh hoạt, hành đóng
vai trò quan trọng
nổi bật. Như vậy hành phần lớn chịu
trách nhiệm về sự
chấp thủ tự ngã attā,
quan niệm rằng tự ngã là nguyên lý chủ động, chính cái "ta" khiến hành động.
Ta thấy hình như hành có một cái lỏi cứng
chắc chắn hay có
thể chất ổn định
vững bền bên trong, nhưng trong
thực tế rõ ràng bên trong không có
thể chất. Người hành thiền có thể
chứng nghiệm sự thật nầy bằng cách
thường xuyên giữ
chánh niệm, không ngừng
ghi nhận những
hiện tượng vật lý và
tâm linh.
Thí dụ như trong khi đi, niệm "đi, đi", và "dở", "bước", "đạp". Khi đã gom
tâm an trụ vững chắc,
tâm định đã
tăng trưởng dũng mãnh,
hành giả niệm thêm
ý muốn đi, hay
ý muốn bước tới và
nhận thấy rằng chính cái "ý muốn" ấy cũng sanh rồi diệt.
Mặc dầu ta thường
mô tả "ý muốn" là "phát tâm muốn đi", nhưng trong
thực tế đó là
hành uẩn do cetanā,
tác ý hướng đạo đưa đến hành động đi. Do
tâm sở cetanā
thúc đẩy,
tác động đi
bao gồm dở, bước và đạp được thực hiên.
Trước khi được có sự
hiểu biết đúng như vậy, thường ta
ý niệm rằng có cái "ta" muốn đi -- "Tôi đi bởi vì tôi muốn đi" -- Đó là
chấp thủ tự ngã.
Giờ đây ta thấy rằng
ý muốn đi
rõ ràng biến chuyển vô thường,
trí tuệ sanh khởi,
hiểu biết rằng không có cái "ta", không có tự ngã, mà chỉ có những
hiện tượng.
Ý muốn co tay vào, duỗi tay ra,
di chuyển hay xoay mình, thay đổi tư thế, cũng được
nhận thức dưới ánh sáng
thực tế. Thêm nữa
sự cố gắng nhằm
thực hiện những
ý muốn ấy cũng là hành.
Hành giả chứng nghiệm rằng trong đó không có gì như một tự ngã, mà chỉ là những
hiện tượng luôn luôn
diễn tiến, không ngừng chảy trôi.
Về sau,
hành giả nhận thấy rằng khi suy tư, những
tâm sở tầm (vitakka), sát hay tứ (vicāra), và
tinh tấn (viriya) được
ghi nhận khởi sanh và tức khắc tan biến. Như vậy nó cũng không có
thực chất. Khi tâm tham và tâm sân khởi phát ta cũng niệm liền "muốn", "ưa thích", "tức giận", "sân hận". Khi niệm như
vậy thì nó nhanh chóng tan biến. Điều nầy
chứng tỏ rằng những loại tâm ấy cũng không phải là chính ta, không phải tự ngã, không có
thể chất hay
thực thể tồn tại vững bền. Khi
đức tin,
tâm từ,
tâm bi, khởi sanh
hành giả cũng niệm đúng như vậy. Chúng liền nhanh chóng tan biến và như vậy chúng cũng không có
thể chất, không có
thực thể vững bền, không phải là tự ngã.
Trí tuệ phân tách nầy giúp
hành giả chứng nghiệm thực tại rằng hành giống như một loại cây không có lỏi cứng chắc, như cây chuối chẳng hạn, khi được đốn ngã và
quan sát thì chỉ là những lớp bẹ, bẹ nầy đến bẹ khác, mà không có gì cứng cát
vững bền như một cái lỏi.
Thức Giống Như Trò
Ảo ThuậtThức, hay biết sự vật, cũng giống như
trình diễn một trò
ảo thuật. Khi nhìn thấy một đối tượng, người
thường hiểu rằng mình thấy một người đàn ông, hay đàn bà và cũng hiểu rằng "Tôi thấy; chính tôi thấy." Khi nghe cũng vậy,
hiểu biết rằng, "Tôi nghe tiếng nói của người đàn ông, tôi nghe tiếng nói của người đàn bà." Khi hửi một mùi, biết, "Đây là mùi của người nầy hay người nọ", "tôi nghe mùi". Khi ăn, biết, "Món ăn nầy do người nầy hay người kia nấu, chính tôi ăn". Khi sờ đụng,
hành giả biết, "Tôi sờ đụng vật nầy hay vật nọ, chính tôi sờ đụng". Khi
suy nghĩ,
hành giả biết, "Tôi
suy nghĩ, chính tôi suy nghĩ".
Hiểu biết sự vật như vậy không phải là
hiểu biết thực tướng của sự vật, không phải
hiểu biết sự vật đúng như sự vật thật sự là vậy. Xét theo
chân lý cùng tột, tức
chân đế, thì đó là
hiểu biết sai lầm. Hiểu như vậy là không đúng theo
thực tướng của năm thức (viññāṇas), tức
nhãn thức,
nhĩ thức,
tỷ thức,
thiệt thức và
thân thức. Năm thức, viññāṇas, nầy chỉ
nhận ra sự thật cùng tột (
chân đế),
tức chỉ hay biết là có hình thể,
âm thanh, mùi, vị, và
cảm giác sờ đụng mà không có
quan niệm sai lầm là một người, đàn ông hay đàn bà. Nhưng sau đó,
quan niệm sai lầm là một người đàn ông hay đàn bà khởi phát vào giai đoạn
chấm dứt của tiến trình
nhận ra (citta vithī, lộ trình tâm), khi có sự suy tư, với sự khởi sanh của
ý thức (māno viññāṇa).
Sư sẽ
giải thích tiến trình hay biết, tức thức, trong sự thấy và sự suy tư. Nếu mắt bắt một hình thể, luồng
trôi chảy của chặp tâm bhavaṅga (hộ kiếp)
chấm dứt. Tức khắc
theo sau đó liền khởi sanh chặp pañcadvārāvajjana (
ngũ môn hướng tâm, tức một trong năm
giác quan hướng về đối tượng, trong
trường hợp nầy là cakkhudvārāvajjana,
nhãn môn hướng tâm). Tâm hướng về
cảm giác thấy, tức khắc sau đó khởi sanh sự thấy (cakkhuviññāṇa), chỉ có sự thấy suông mà không
nhận ra là gì. Vào lúc nầy chưa có sự
hiểu biết theo
ngôn ngữ thông thường là một người đàn ông hay đàn bà. Khi chặp tâm nầy
chấm dứt liền khởi sanh chặp tiếp thọ tâm (sampaṭicchana),
tiếp nhận đối tượng được thấy. Sau khi chặp tâm tiếp thọ nầy
chấm dứt liền khởi sanh chặp suy đạc tâm (santīraṇa),
xem xét đối tượng được
tiếp nhận. Sau đó là giai đoạn
quyết định xem đối tượng có
thích thú vừa lòng hay không với chặp tâm được gọi là voṭtṭhāpana, xác
định tâm. Khi chặp tâm nầy
chấm dứt liền khởi sanh một loạt những chặp tâm có
tính cách tích cực gọi là javana, xung lực, nhanh chóng
trôi qua trong một luồng bảy chặp. Với sự
chấm dứt của chặp javana
cuối cùng chặp
đăng ký tâm, tadālambana, liền khởi sanh trong hai chặp. Sau chặp
đăng ký tâm nầy tiến trình thức (hay biết)
hoàn tất tròn đủ và tức khắc
theo sau đó là những chặp bhavaṅga,
trạng thái tiêu cực của tâm, như trong giấc ngủ mê không mộng mị. [Lời người dịch: Muốn có thêm
chi tiết xin đọc A Manual of Abbhidhamma,
tác giả Cố Đ.Đ. Nārada. Bản dịch là
Vi Diệu Pháp Toát Yếu, chương III.]
Tóm lược, khi chặp tâm hộ kiếp, bhavaṅga, có
tính cách tiêu cực,
chấm dứt, liền khởi sanh chặp āvajjana, có nghĩa là hướng về. Đây là một trong năm
giác quan hướng về đối tượng -- trong
trường hợp nầy là mắt;
kế tiếp theo sau là
nhãn thức và chặp tâm tiếp thọ (sampaṭichana); rồi đến tâm suy đạc (santīrana);
tiếp theo sau nữa là tâm xác định (voṭṭhāpana).
Theo sau tâm xác định là một luồng bảy chặp tâm javana, xung lực,
liên tục và nhanh chóng
trôi qua; rồi đến
tâm đăng ký (tadālambana),
liên tục phát sanh trong hai chặp và
chấm dứt tiến trình. Như vậy, mỗi khi có một
trần cảnh được thấy, từ lúc vừa
xuất hiện ở nhãn quan đến lúc
chấm dứt ở
tâm đăng ký, trong một tiến trình tâm thông
thường có tất cả mười bốn chặp
tư tưởng.
Nếu
ấn tượng của vật được thấy không đủ mạnh, tiến trình tâm sẽ
chấm dứt ở giai đoạn javana, xung lực. Khi tâm quá
suy yếu, như lúc
lâm chung chẳng hạn, luồng javana chỉ phát sanh trong năm hoặc sáu chặp. Khi
ấn tượng quá mù mờ, không
rõ ràng, tiến trình tâm sẽ
trôi chảy đến chặp voṭṭhāpana, xác định, và sau đó hai ba chặp nữa thì tiến trình hay biết (thức)
chấm dứt. Khi
tuệ minh sát (vipassanā) thật mạnh, tiến trình không đến được tới giai đoạn javana mà ngừng ngang sau hai ba chặp xác định (voṭṭhāpana) rồi chìm vào luồng bhavaṅga
trở lại. Điều nầy hợp theo những lời dạy mà một thầy
sa di trẻ tuổi đã giảng cho vị tỳ khưu Poṭhila [*]. Theo lời dạy nầy, đối với sự hay biết ở năm cửa
giác quan (tức
nhãn thức,
nhĩ thức v.v...) người hành
thiền chỉ để tiến trình tâm chạy đến giai đoạn javana và
chấm dứt ở đó.
[* Trích từ một
câu chuyện của Bản
Chú Giải Kinh Dhammapada,
Pháp Cú. Chuyện thuật rằng có một vị
pháp sư cao hạ với sức học
uyên thâm đến học thiền với một thầy
sa di trẻ tuổi đã
giác ngộ. Thầy
sa di lấy
thí dụ người kia muốn bắt một con rắn mối vừa chạy chun vào trong một gò mối, và gò mối có sáu cái lỗ. Để bắt cho được con rắn mối người ấy phải đóng chặt lại năm lỗ và ngồi chực hờ tại cái lỗ còn chưa đóng. Cũng dường thế ấy, người hành thiền "đóng chặt" (tức
hạn chế, không hay biết đến) năm
giác quan và để hết tâm canh chừng cái cửa tâm (ý môn).]
Như nói ở phần trên, trong tiến trình hay biết
xuyên qua mắt (
nhãn thức), đối tượng được thấy chỉ là sự thấy trong
ý nghĩa cùng tột (tức theo
chân đế), mà không có
hình thức chế định (tức
tục đế) như thấy đó là một người đàn ông hay đàn bà. Sau khi
hoàn tất tiến trình, tâm chìm
trở lại vào luồng bhavaṅga trong vài chặp.
Rồi tiến trình hay biết (thức)
xuyên qua ý môn, manodvāravithī, khởi sanh do sự
suy xét về đối tượng được thấy. Từ bhavaṅga, ý môn hướng tâm, manodvārāvajjana, khởi sanh,
tiếp theo là tiến trình xung lực, javana,
liên tục trôi chảy trong bảy chặp và
tâm đăng ký, tadālambana, phát sanh trong hai chặp. Do đó
toàn thể tiến trình gồm mười chặp tâm và chìm vào bhavaṅga
trở lại. Trong tiến trình tâm nầy, đối tượng (
tâm linh) chỉ là sự suy tư về sự thấy, không căn cứ trên một khái niệm
sai lầm của
kinh nghiệm trước.
Khi tiến trình hay biết khởi sanh lần thứ nhì thì đối tượng là khái niệm về hình thể và
dáng điệu đã
trở thành đối tượng -- hình thể và
dáng điệu của một người đàn ông hay đàn bà chẳng hạn. Khi tiến trình lặp lại lần thứ ba khái niệm về danh tánh (của người đàn ông hay đàn bà) sẽ là đối tượng. Từ đó trở đi mỗi lần suy tư về những gì được
kinh nghiệm trước, đối tượng sẽ luôn luôn là một khái niệm; "Tôi thấy một người đàn ông, tôi thấy một người đàn bà". Thức
trình diễn những trò
ảo thuật như thế đó, tráo trở,
biến đổi thực tế, thay thế vào đó những khái niệm.
Tóm Lược
1. Trong tiến trình
nhãn thức đầu tiên, thức chỉ
đăng ký thực tế cùng tột (
chân đế) của đối tượng được thấy.
2.
Trong vòng suy tư lần thứ nhất về đối tượng được thấy, vẫn còn thức (sự hay biết) của sự vật thực sự được thấy. Khái niệm
sai lầm chưa khởi phát. Nếu
chuyên cần chú niệm vào giai đoạn nầy khái niệm
sai lầm không thể khởi phát và sự
hiểu biết sẽ vẫn nằm trong đối tượng
chân đế.
3.
Trong vòng suy tư thứ nhì, những khái niệm về hình thể và
dáng điệu của đối tượng được thấy phát sanh.
4.
Trong vòng suy tư lần thứ ba, khái niệm về sự
nhận ra đối tượng được thấy phát sanh.
Cùng thế ấy trong tiến trình hay biết
âm thanh, mùi, vị, và xúc (tức
nhĩ thức,
thiệt thức v.v... ) sự hay biết cũng
tuần tự biến chuyển từ hay biết
thực tại (
chân đế) đến khái niệm chế định (
tục đế).
Khi
nhãn thức và
nhĩ thức khởi sanh, hoặc ngay khi vòng suy tư thứ nhất về những gì được thấy hoặc được nghe bắt đầu, nếu
thận trọng tức khắc
ghi nhận "thấy", "nghe", "mùi", "vị", "sờ đụng" hoặc "suy nghĩ", những khái niệm
sai lầm không thể phát sanh. Thức vẫn nằm trong
chân đế, đúng thật với những gì được hay biết. Luôn luôn giữ tâm trong
thực tại, là
lý do tồn tại của
chánh niệm,
công trình ghi nhận sự hay biết
cảm giác ngay vào lúc nó khởi sanh. Nếu niệm "thấy, thấy" đúng vào lúc một vật được thấy, tiến trình hay biết sẽ
chấm dứt ngay vào lúc thấy, và tiến trình
tiếp theo sau, hay biết những khái niệm
sanh khởi do suy tư không thể khởi phát. Đúng theo lời dạy diṭṭhe diṭṭhamattaṁ bhavissati, "chỉ có sự thấy trong lúc thấy",
nhãn thức chấm dứt tiến trình ngay tại đây.
Theo sau đó
trí tuệ phân tách phần
vật chất vô tri giác như mắt và
âm thanh, thân và cái tâm
tri giác sự vật. Cũng có
trí tuệ hiểu biết rằng vật được thấy và cái tâm
ghi nhận luôn luôn sanh và diệt. Sự
chứng ngộ phát sanh rằng chỉ có
trạng thái vô thường, khổ và
vô ngã. Cùng thế ấy với những gì ta nghe, hửi, nếm, sờ đụng và suy tư:
ghi nhận thường xuyên những
hiện tượng ấy sẽ cho thấy sự khác biệt giữa những đặc tánh
vật chất và
tâm linh và
bản chất vô thường, bất
toại nguyện và
vô ngã.
Hành giả chứng ngộ, "Trước kia vì không
ghi nhận (niệm) các
hiện tượng, ta lầm tưởng những khái niệm
sai lạc là
thực tế,
chấp nhận những trò
ảo thuật là có thật. Giờ đây, đã
ghi nhận các
hiện tượng đúng
như thật sự nó là vậy, ta không còn
lầm lạc nhận thức là tự ngã những
hiện tượng chỉ không ngừng sanh và diệt.
Khi thấy một vật,
nhãn thức tức khắc tan biến sau khi khởi sanh, không có gì như sự thấy mà
tồn tại lâu dài. Chỉ có
nhãn thức vừa khởi sanh và nhanh chóng
chấm dứt. Cùng thế ấy
nhĩ thức,
thân thức và
ý thức. Trong sự nghe không có
thực chất vững bền. Khi nghe một
âm thanh,
nhĩ thức khởi sanh và nhanh chóng tan biến. Không có
cảm giác sờ đụng
tồn tại bền lâu: mỗi khi sờ đụng,
thân thức khởi sanh và nhanh chóng tan biến. Không có suy tư kéo dài; mỗi khi suy tư,
ý thức khởi sanh và nhanh chóng tan biến. Tất cả đều
vô thường.
Tình trạng chấm dứt luôn luôn theo liền sự khởi sanh; không có gì
chắc chắn, đáng được
tin cậy, chỉ có
tình trạng khủng khiếp
kinh hoàng và
đau khổ. Mỗi sự vật đều khởi sanh do
nhân duyên cấu tạo, không phải do ta muốn; tất cả đều không phải là tự ngã.
Theo kinh Pheṇapiṇḍupama Sutta ta thấy
hiển nhiên rằng
ngũ uẩn không có
thực chất vĩnh tồn hay một lỏi cứng
trong sạch và
thích thú bên trong, đúng theo ý ta muốn.
Năm uẩn không phải là tự ngã, không phải là chính ta, không có gì
thực chất.
Đã
giảng giải dong dài và đầy đủ điểm nầy, giờ đây Sư
chấm dứt thời Pháp hôm nay.