KINH VÔ NGÃ TƯỚNG
(Anattalakkhaṇa Sutta)
Thiền sư Mahasi Sayadaw - Phạm Kim Khánh dịch
Phần nhập đề bài kinh
Lời dạy của Đức Phật: bắt đầu bài kinh
Lầm tưởng thân là tự ngã
Tại sao thân nầy không phải là tự ngã
Jīva attā và parama attā
Căn nguyên của niềm tin có tạo hóa
Luyến ái bám vào tự ngã
Bốn loại luyến ái bám vào tự ngã
Thân quán niệm xứ [I]
THÂN
-ooOoo-
Con đem
hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, bậc
Ứng Cúng, đấng
Chánh Biến Tri.
Tất cả những
giáo lý hay những
tín ngưỡng ngoài
Phật Giáo đều nằm trong hạng những giáo thuyết
tin tưởng vào một
bản ngã trường tồn, attā. Họ chủ trương rằng có cái gì như một
linh hồn, một
thực thể sống [
thực thể sống: được
phiên dịch từ Anh ngữ "living entity"], thật sự nằm bên trong tất cả
chúng sanh.
Giữa
một thế gian
vững vàng tin chắc vào
ý niệm về
bản ngã hay
linh hồn trường cửu,
Đức Phật tuyên ngôn rằng "Attā,
linh hồn hay
thực thể sống, không phải là
thực tại; đó chỉ là
ngôn từ chế định (
tục đế). Trong
ý nghĩa cùng tột (
chân đế) thật sự chỉ có luồng
trôi chảy liên tục của tiến trình sắc và danh, những
hiện tượng vô ngã".
Điều cốt yếu là
cần phải thấu
hiểu rõ ràng và tường tận lý
vô ngã, anattā, do
Đức Phật giáo truyền.
Trước tiên Ngài đề cập
rộng rãi đến Bốn
Chân Lý Thâm Diệu (
Tứ Diệu Đế) trong
bài kinh Dhammacakka Sutta,
Chuyển Pháp Luân. Khi
giảng kinh Hemavata Sutta, Ngài nhắc
trở lại và dạy rằng "với sự khởi sanh của
lục căn (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý) cũng có
một thế gian, một
chúng sanh,
phát khởi." Rồi
Đức Phật trình bày
cặn kẽ và
rõ ràng lý thuyết vô ngã trong Anattalakkhaṇa Sutta,
Kinh Vô Ngã Tướng.
Phần Nhập Đề
Bài KinhTrong
Kinh Điển Pāli, phẩm Khandhavagga, của bộ Saṁyutta Nikāya,
Tạp A Hàm, phần nhập đề
bài Kinh Vô Ngã Tướng được các vị
Trưởng Lão ghi chép như sau nhân kỳ
Kết Tập Tam Tạng Lần Đầu Tiên:
Evamme sutaṁ. Ekaṁ samayaṁ Bhagavā Bārāṇasiyaṁ viharati Isipatane Migadāye. Tatra kho bhagavā pañcavaggiye bhikkhū āmantesi, "Bhikkhavo" ti. "Bhadante" ti te bhikkhū Bhagavato paccassosuṁ. Bhagavā etadavoca.
"Tôi, Ānanda, có nghe như vầy", Đức Ānanda bắt đầu, "Vào một thuở nọ,
Đức Thế Tôn ngự trong khu
vườn Lộc Uyển tại Isipatana, gần thành Varanasi."
Bài kinh Dhammacakka Sutta,
Chuyển Pháp Luân, được giáo truyền vào đêm trăng tròn tháng Bảy DL. trước đây 2,552 năm [tức trước năm mà Ngài
Tác Giả thuyết thời Pháp nầy]. Vào lúc bấy giờ
thính giả chỉ có nhóm
Năm Đạo Sĩ [*] . Ngài Koṇḍañña (
Kiều Trần Như)
chứng đắc tầng
Tuệ Giác Cao Siêu Đầu Tiên và trở nên vị Thánh
Nhập Lưu, Sotāpanna, hay
Tu Đà Huờn. Đã
thấm nhuần Giáo Pháp đầy đủ, với
niềm tin kiên cố bất thối chuyển nơi
Giáo Huấn của
Đức Phật, Ngài xin thọ
lễ xuất gia với Phật và
gia nhập vào
Giáo Hội Tăng Già (Saṅgha).
[*] 2 Nhóm Năm Đạo Sĩ" tức năm
vị đạo sĩ thường được gọi là năm anh em
Kiều Trần Như, trước đó đã có theo tu với
Bồ Tát trong khi Ngài
thực hành pháp tu khổ hạnh. Về sau, năm vị nầy là năm người đầu tiên trong
cảnh người được nghe Ngài
giảng Bài Pháp Đầu Tiên và
trở thành năm vị
đệ tử đầu tiên của
Đức Phật.
Bốn
vị đạo sĩ còn lại, các Ngài Vappa, Bhaddhiya, Mahānāma và Assaji chưa
thành tựu Tuệ Giác Cao Siêu.
Vì lẽ ấy Đức Thế Tôn khuyến khích nên
tích cực chuyên cần thực hành Giáo Pháp (Dhamma) dưới sự hướng dẫn của chính Ngài. Các
vị đạo sĩ ở luôn một chỗ, không ra ngoài dầu là để đi bát. Chính
Đức Thế Tôn cũng ở lại tại nơi để sách tấn và
theo dõi sự
tiến bộ của các vị
hành giả, giúp
tháo gỡ các gút mắt,
vượt qua mọi
chướng ngại, và loại trừ những
ô nhiễm có thể phát sanh trong khi hành thiền. Như thế ấy, do nhờ được chính
Đức Thế Tôn dạy dỗ và hướng dẫn, Ngài Vappa
thành tựu Đạo và Quả trong ngày đầu sau đêm trăng tròn tháng Bảy DL., Ngài Bhaddiya trong ngày thứ nhì, Ngài Mahānāma trong ngày thứ ba và trong ngày thứ tư Ngài Assaji
chứng đắc Tuệ Giác Cao Siêu. Tất cả bốn vị đều
trở thành bậc Thánh
Tu Đà Huờn.
Sư đã dài dòng đề cập đến những sự
chứng ngộ nầy trong đoạn cuối của bài giảng về Kinh
Chuyển Pháp Luân [Dhammaccakka Sutta - Xem "The Great Discourse on Turning of the Wheel of Dhamma", do
tác giả Ngài Mahasi Sayadaw, bản dịch của U Ko Lay; Buddhadhamma Foundation
ấn hành].
Lúc ấy Sư nói rằng ngoại trừ Ngài Koṇḍañña, bốn vị kia chưa đủ
thuần thục tinh luyện để
thành tựu Tuệ Giác Cao Siêu liền tức khắc sau khi nghe thời Pháp, mà còn phải
tích cực chuyên cần tu niệm thêm.
Vì lẽ ấy Đức Bổn Sư luôn luôn ở bên cạnh để
đôn đốc các vị tận lực
thực hành Giáo Pháp. Đề cập đến
sự kiện nầy Sư muốn đề cao
cảnh giác những vị
hành giả bị các
học thuyết vô
trách nhiệm dẫn dắt
sai lầm, tin rằng có thể
chứng đắc tầng Thánh
Nhập Lưu chỉ bằng cách nghe
thuyết giảng một thời Pháp, không
cần phải mất nhiều
công phu tinh tấn hành
thiền Minh Sát.
Các Bản
Chú Giải ghi rằng sau khi tất cả năm
vị đạo sĩ đã
thành tựu tầng Thánh
Nhập Lưu và
xuất gia,
thọ giới tỳ khưu,
trở thành Hội Viên của
Giáo Hội Tăng Già,
Đức Phật thuyết giảng thời Pháp Anattalakkhaṇa Sutta,
Kinh Vô Ngã Tướng, trong ngày thứ Năm sau đêm trăng tròn tháng Bảy DL.
Như vậy, khi Đức Ānanda
tuyên ngôn "Vào một thuở nọ", thì "thuở" ấy là ngày thứ 5 sau đêm trăng tròn tháng Bảy, trong khi
Đức Thế Tôn ngự trong
vườn nai (
Lộc Uyển) gần thành phố Varanasi.
"Vào lúc bấy giờ, khi
Đức Thế Tôn ngự tại
Lộc Uyển, trong thành Varanasi, Ngài mở lời kêu gọi Nhóm Năm Vị Tỳ Khưu, "Nầy chư Tỳ Khưu" và Nhóm Năm Vị Sư
trả lời, "Bạch Đức Thế Tôn". Rồi
Đức Thế Tôn truyền dạy:
Lời Dạy Của
Đức Phật: Bắt Đầu
Bài KinhRūpaṁ bhikkhave anattā. Rūpañca hidaṁ bhikkhave attā abhavissa nayidaṁ rūpaṁ ābādhāya saṁvatteya; labbhetha ca rūpe evaṁ me rūpaṁ hotu, evaṁ me rūpaṁ mā ahosīti.
Nầy chư tỳ khưu, cơ thể
vật chất không phải là tự ngã,
linh hồn thường còn, hay
thực thể sống."
Thông thường người ta xem chính mình và những người khác là những
thực thể sống, mỗi
thực thể sống nầy có một
linh hồn, hay tự ngã, được gọi trong tiếng Pāli là attā, tương đương với danh từ Sanskrit ātman. Attā cũng được biết là jīva, sự sống, như vậy attā hàm xúc khái niệm về sự sống,
sinh lực,
linh hồn, hay
thực thể sống. Ôm ấp
ý niệm tin tưởng rằng có một
linh hồn hay một
thực thể sống bên trong
con người được biết là một khái niệm
sai lầm, hay
tà kiến về tự ngã (attādiṭṭhi). Người
thế gian bình thường bị dính kẹt trong
tà kiến về tự ngã nầy; sự khác biệt giữa người nầy với người kia chỉ là
tình trạng dính mắc ấy chặt chẽ và
hiển hiện như thế nào, nhiều hay ít.
Người hành
thiền Minh Sát, vipassanā, đã phát triển quan kiến của mình về tiến trình danh và sắc với
tuệ minh sát sắc bén và đã suy niệm về
sự kiện không có một tự ngã, một cái "ta", hay
thực thể sống, đã vượt thoát ra khỏi
tình trạng dính mắc vào
ý niệm sai lầm về tự ngã, nhưng chỉ
thoát khỏi như vậy trong
thời gian ghi nhận sự khởi sanh và
hoại diệt của danh và sắc (tức trong khi hành thiền).
Thế thường, khái niệm
sai lầm về tự ngã ấy chưa
dứt khoát chấm dứt mà sẽ còn trở đi
trở lại.
Nhằm loại trừ khái niệm
sai lầm về tự ngã và làm
sáng tỏ rằng không có cái gì như
linh hồn hay
thực thể sống trong danh và sắc, dầu ở bên trong thân ta hay trong thân ai khác,
Đức Thế Tôn bắt đầu
bài kinh với lời
tuyên ngôn: "Rūpaṁ bhikkhave anattā: Nầy chư tỳ khưu, rūpa,
sắc không phải tự ngã,
linh hồn hay
thực thể sống."
Lầm Tưởng Thân Là Tự Ngã
Cơ thể
vật chất nầy mà ta
quan niệm sai lầm là tự ngã, vốn thật là gì? Những
đặc tính vật chất sau đây hợp thành nền tảng của hình thể
vật chất: phần nhạy của mắt làm cho ta thấy đối tượng; phần nhạy của tai làm cho ta nghe
âm thanh; phần nhạy của mũi làm cho ta biết mùi; phần nhạy của lưỡi làm cho ta hay biết vị; phần nhạy của thân làm cho ta
cảm giác sự xúc chạm; "ý căn" (hadāya vatthu), là
căn môn của thức; và
đặc tính vật chất của
mạng căn hay
sinh lực.
Nếu
thận trọng quán sát ta thấy rằng
nhãn thức khởi sanh (tức có sự thấy) vì có phần nhạy của mắt, và với
nhãn thức,
phát khởi khái niệm về một
thực thể sống hay tự ngã. Cùng thế ấy, vì có phần nhạy của tai, mũi, lưỡi, và thân ta có
nhĩ thức,
tỷ thức,
thiệt thức, và
thân thức.
Ý căn,
căn môn của thức do đó có những
tư tưởng và sự suy tư đưa đến
ý niệm về một cái "ta", tự ngã, hay
thực thể sống.
Mạng căn là
sinh lực khơi động
sinh khí vào cơ thể
vật chất và
bảo trì không để cho cơ thể
vật chất hư hoại và tan rã.
Mạng căn nầy chỉ là
đặc tính của sắc, phần
vật chất, mà người đời thường lầm tưởng là
linh hồn, một
thực thể sống.
Nếu không có phần nhạy của các
giác quan thì không có gì để lầm hiểu là
linh hồn hay
thực thể sống. Chẳng hạn như ta thử
quan sát một tượng người bằng gỗ, nhìn vào
giống hệt một người nhưng không có
giác quan nào làm khởi phát sự hay biết. Ta không bao giờ có thể lầm hiểu đó là một
chúng sanh có
linh hồn hay một
thực thể sống. Cùng thế ấy trong một
xác chết ta sẽ không bao giờ lầm tưởng là có một
linh hồn hay một
thực thể sống trong đó bởi vì các
giác quan không có phần nhạy. Khi phần nhạy
hiện hữu thì những
chuyển hóa của sắc, những
đặc tính phụ thuộc và
đồng thời phát sanh cùng
sắc pháp, những
đặc tính nhạy của
sắc pháp như mắt, tai, mũi, lưỡi, thân -- sự tiếp chạm của những
nguyên tố đất (paṭhavī), lửa (tejo), gió (vāyo),
đặc tính lỏng và làm dính liền của
nguyên tố nước (āpo), cùng với tánh nam hay tánh nữ của
sắc pháp cũng được khái niệm
lầm lạc là có một tự ngã [Lời người dịch: Xin xem
Vi Diệu Pháp Toát Yếu, bản dịch quyển A Manual of Abhidhamma, của
tác giả Cố
Đại Đức Nārada, chương VI,
từ trang 339 trở lên].
Những
đặc tính của sắc như sự thấy, sự nghe, sự hửi, đồng phát sanh với những phần nhạy của mắt, tai và mũi cũng được
quan niệm sai lầm là có một
linh hồn hay một
thực thể sống: tôi thấy, tôi nghe, tôi hửi.
Tóm tắt,
toàn thể thế gian vật chất đồng thời hiện hữu với phần nhạy của sự hay biết được lầm xem là một
thực thể sống, một
linh hồn.
Trong
ngôn ngữ thông thường cũng vậy, thân nầy -- tức sự
kết hợp của những
đặc tính vật chất -- được nói là tôi, tự ngã. Nói như vậy không
sai lầm, mà
thích hợp với sự
hiểu biết chế định của
thế gian (
tục đế), nhưng nhìn theo
quan điểm cùng tột, hay
thực tại tuyệt đối (
chân đế), thì không có gì của cơ thể
vật chất nầy là tự ngã. Nó chỉ là những uẩn, tức sự
kết hợp những
đặc tính của sắc.
Vì lẽ ấy Đức Thế Tôn tuyên ngôn một cách
rõ ràng và minh tường rằng, Ṁặc dầu thông thường người ta
quan niệm rằng các uẩn, hay các nhóm
đặc tính của sắc là một
chúng sanh, trong
thực tế đó không phải là tự ngã mà chỉ giản dị là những
hiện tượng vật lý."
Tuy nhiên, những người theo
học thuyết chủ trương rằng thân nầy là "ta", là tự ngã của ta, sẽ nêu lên thắc mắc, "Tại sao thân nầy không phải là tự ngã?"
Đức Thế Tôn cung ứng giải đáp như sau:
Tại Sao Thân Nầy Không Phải Là Tự Ngã?
-- Nầy chư Tỳ Khưu, nếu thân nầy là tự ngã, là chính ta, ắt nó sẽ không có khuynh hướng làm cho ta
đau khổ hay
sầu muộn, và ta phải có khả năng
sai bảo, 'Thân tôi phải như thế nầy (tức phải ở trong những
điều kiện tốt đẹp nhất); thân tôi phải không như thế kia (trong một
tình trạng tồi tệ bi đát).' Ta phải có thể
ảnh hưởng đến thân như thế đó."
Nếu thân nầy là tự ngã, là chính ta, ắt nó không làm cho ta
đau đớn, nhưng trong
thực tế thân nầy bắt buộc ta phải chịu
đau khổ bằng nhiều cách. Nó
không tồn tại trẻ trung và khoẻ mạnh, nó trở nên
già nua,
bệnh hoạn và chết.
Nếu không có thân ắt ta không bị
đau khổ vì
tóc bạc,
răng long, lưng khòm, tai điếc, mắt mờ, chân mỏi, gối dùn, tàn tật. Chính thân nầy làm cho ta chịu
đau khổ.
Lại nữa, bởi có thân nên ta phải chịu
đau đớn: đau mắt, đau tai, đau răng, đau lưng, đau bụng, phải chịu nóng, chịu lạnh, chịu đau và chịu nhức, và những chứng bệnh máu, bệnh da, bệnh bao tử và bọng đái. Những chứng bệnh nầy phát sanh bởi vì có thân. Bởi có thân nên
chúng ta đau khổ vì đói, vì khát, vì bị muổi mồng và những loại rắn rít v.v... chích cắn. Cũng vì có thân nên ta
đau khổ khi ở trong những
cảnh giới bất hạnh.
Tóm tắt,
chúng ta phải chịu những
hoàn cảnh đau đớn và
sầu khổ cũng vì có thân. Cũng
do nơi thân nên trong kiếp sống làm người ta phải chịu những
hiện tượng như chết chóc. Khi những
thành phần của
sắc pháp trong thân
biến chuyển,
suy đồi và hư hoại thì cái chết đến. Có thể nói rằng cơ thể
vật chất nầy làm cho ta
đau khổ vì nó
hoại diệt.
Như vậy ta có thể
suy gẫm rằng nếu cơ thể
vật chất nầy thật sự là chính ta ắt nó không làm cho ta
đau khổ vì già, bệnh và chết. Ta có thể làm cho người khác
đau khổ nhưng sẽ không làm cho chính mình
đau khổ. Nếu thân nầy là chính nó ắt nó sẽ không làm cho nó
đau khổ vì
già nua,
bệnh hoạn v.v...
Lại nữa, dầu trước khi bắt đầu già, bệnh và chết, thân nầy cũng không ngớt gây cho ta đủ loại
sầu muộn dưới nhiều
hình thức.
Mặc dầu còn trẻ trung,
tương đối cường tráng và
dồi dào sức khoẻ, ta cũng không thể ở yên không động đậy một
thời gian lâu dài trong một tư thế như ngồi, đứng, hay đi. Phải luôn luôn xoay trở, luôn luôn
cử động. Tất cả
chúng ta đều biết rằng ở yên
lâu dài trong một
oai nghi là khó như thế nào.
Chúng ta biết rằng
ngồi yên trong nửa giờ hay một giờ không
cử động, hoặc nằm yên trong hai hoặc ba tiếng đồng hồ mà không nhúc nhích là khó như thế nào. Ta phải
thường xuyên thay đổi tư thế vì sẽ cảm nghe đau nhức hay
bực bội ở chân sau một
thời gian ở yên không
cử động. Tất cả những
trạng thái khó chịu ấy khởi sanh vì cơ thể
vật chất nầy; nói cách khác chính cái thân nầy làm cho ta khó chịu.
Vậy, ta có thể suy tư rằng nếu thân nầy là chính ta, là tự ngã của ta, ắt nó không gây
đau khổ cho ta như vậy.
Lại nữa, ṅếu thân nầy là chính ta thì ta phải có thể
sai bảo, "Thân phải như thế nầy, thân phải không như thế kia." Tất cả
chúng sanh đều muốn thấy thân mình luôn luôn khoẻ mạnh và trẻ trung
cường tráng, không
già nua, không
bệnh hoạn, và không chết. Nhưng cơ thể
vật chất nầy không bao giờ
vâng lời, nó từ chối, không làm theo ý ta muốn. Thời xuân xanh son trẻ vững bước đi dần đến
tuổi già, sức
cường tráng khoẻ mạnh từ từ giảm sút,
suy đồi, và đưa dần đến
bệnh hoạn, rồi sau cùng đến
bại hoại và chết.
Nếu thân nầy là chính ta nó sẽ không gây
đau khổ cho ta và nó phải
vâng theo ý muốn của ta. Trong khi người khác có
thể không tùng phục vâng lời ta thì ít ra thân nầy -- tức chính ta -- phải làm theo
ý muốn của ta vì nó là chính ta. Nhưng
thực tế không phải vậy. Điều nầy cho thấy rằng thân nầy không phải là tự ngã, là chính ta.
Vì lẽ ấy nó
triền miên gây
đau khổ cho ta và không nằm dưới quyền
kiểm soát của ta.
Đức Thế Tôn tiếp tục giải thích sự kiện nầy như sau:
Yasmā ca kho, bhikkhave, rūpaṁ anattā, tasmā rūpaṁ ābādhāya saṁvattati, na ca labbhati rūpe evaṁ me rūpaṁ hotu, evaṁ me rūpaṁ mā ahosī' ti.
Nầy chư Tỳ Khưu, trong
thực tế thân nầy không phải là ta. Vì không phải là ta nên nó có khuynh hướng làm cho ta
đau khổ và
sầu muộn, và ta không thể
sai bảo thân, 'Hãy như thế nầy, hãy không phải như thế kia.' Ta không thể gieo
ảnh hưởng và điều khiển thân như vậy".
Jīva Attā Và Parama Attā
Những người
tin theo chủ thuyết có tự ngã nói rằng có hai loại
bản ngã: jīva attā và parama attā. Theo những người nầy mỗi
cá nhân được
cấu tạo, người, trời (deva), hay thú đều có một tự ngã, một
linh hồn hay
thể chất gọi là jīva attā, khởi nguyên của
đời sống. Khởi nguyên của
đời sống ấy thường được
tin tưởng là do
Thần Linh Tạo Hóa
sáng tạo, và vài giáo thuyết chủ trương rằng những khởi nguyên
đời sống cá nhân ấy, hay tiểu hồn, là
một phần nhỏ của attā to lớn (đại hồn) và
xuất phát từ đại hồn của đấng
Thần Linh.
Parama attā là "Đại Ngã", hay "Đại Hồn", của đấng
Thần Linh Tạo Hóa, người tạo nên
thế gian cùng với tất cả những sinh vật. Theo vài người thì "Đại Hồn" ấy
thấm nhuần toàn thể thế gian, nhưng có những người khác chủ trương rằng đấng
Thần Linh Tạo Hóa ngự trên một Cảnh Trời. Những
ý niệm về tiểu hồn và Đại Hồn
dĩ nhiên là
giả thuyết. Không ai đã gặp hay đã thấy vị
Thần Linh hiện thân của Đại Hồn.
Niềm tin nơi sự
hiện hữu của một
Thần Linh, một đấng Tạo Hóa tạo nên muôn loài
vạn vật, đã có trước khi
Đức Phật chứng đắc Đạo Quả Phật.
Niềm tin nầy
rõ ràng xuất nguyên từ
câu chuyện vị
Phạm Thiên Baka.
Vào một thời nọ,
Đức Thế Tôn ngự đến
cảnh giới Phạm Thiên để
rọi sáng niềm tin sai lầm của Đức
Phạm Thiên Baka. Khi
Đức Phật đến thì
Phạm Thiên Baka đón mừng và
tán dương, "Tôi xin
tôn kính chào mừng Đức Gotama, Ngài đến đây là một điều rất tốt
mặc dầu đã
muộn màng.
Cảnh giới Phạm Thiên nầy là thường còn, là ổn định
vững bền,
vĩnh cửu trường tồn, toàn hảo trên mọi
phương diện. Và ở đây không có người chết hay
viên tịch, qua đời."
Đáp lời
tuyên ngôn nầy
Đức Thế Tôn sửa sai vị
Phạm Thiên Baka như sau: -- Nầy chư Phạm Thiên!
Phạm Thiên Baka
quả thật lầm lạc. Trong
trạng thái lầm lạc si mê,
Phạm Thiên Baka
mô tả cảnh giới vô thường của mình là thường còn và ổn định." Vào
lúc ấy một vị
Phạm Thiên tùy tùng của Đức
Phạm Thiên Baka
phẩn nộ trả lời, Nầy Đức Gotama, không nên nói nghịch với
Phạm Thiên Baka, không nên
sửa sai Ngài. Đức
Phạm Thiên Baka là vị
Đại Phạm Thiên, là vị
lãnh đạo của chư
Phạm Thiên, Người
Chinh Phục Tất Cả, Người Không Thể Chiến Bại, bậc
Toàn Giác,
Toàn Tri, thấy và
hiểu biết tất cả; Ngài có nhiều oai lực và cầm quyền
tối thượng trên tất cả tạo vật; Ngài là người tạo nên
thế gian, người
sáng tạo toàn thể thế gian, là bậc Thánh cao thượng hơn tất cả; Ngài
định đoạt số phận của
mọi người -- vua chúa,
Phạm Thiên, người, Trời, và thú -- những
địa vị trong
thế gian; Ngài
thành tựu mọi
chứng đắc, là Cha của tất cả
chúng sanh trong
quá khứ và vị lai!" Vị
Phạm Thiên ca tụng những phẩm hạnh của
Phạm Thiên Baka như thế.
Trong kinh Brahmajāla Sutta,
Phạm Võng, khi
giải thích căn nguyên của
tà kiến thường còn (
thường kiến),
Đức Phật thuật lại một
câu chuyện tương tợ về
Phạm Thiên.
Căn Nguyên Của
Niềm Tin Có Tạo Hóa
Theo
bài kinh nầy, khi một
hệ thống thế gian trôi qua, vào một lúc sau đó một
hệ thống thế gian mới sẽ bắt đầu vận chuyển đến. Vị
Phạm Thiên của
hệ thống thế gian trước
xuất hiện và nghĩ: "Ta là
Phạm Thiên,
Đại Phạm Thiên, Người
Chinh Phục Không Thể Chiến Bại, bậc
Toàn Giác,
Toàn Tri, là Chúa, là người Làm Ra, người Tạo Nên, bậc Thánh Cao Thượng Hơn Tất Cả, là người
Định Đoạt Số Phần của tất cả,
người đã thành tựu mọi
chứng đắc, là Cha của tất cả
chúng sanh trong
quá khứ và
vị lai."
Những vị
Phạm Thiên đến sau cũng nghĩ rằng mình là vị
Đại Phạm Thiên. Trong số những vị
Phạm Thiên đã
viên tịch từ
cảnh giới Phạm Thiên và
tái sanh vào
cảnh người, có vài vị còn có thể hồi nhớ kiếp sống của mình trong cảnh
Phạm Thiên. Những vị nầy bạo dạn
quả quyết rằng "Đại
Phạm Thiên tạo
chúng sanh trong
thế gian.
Chính vị Tạo Hóa, vị
Đại Phạm Thiên, là thường còn, vĩnh viển
trường tồn; nhưng những tạo vật mà Ngài đã tạo nên thì không thường còn, họ phải qua đời, chết." Những người
nghe lời bạo dạn được
tuyên ngôn xuyên qua kinh nghiệm bản thân ấy, sẵn sàng
tin tưởng và
chấp nhận.
Đức Thế Tôn giải thích rằng đó là
nguyên do vì sao có
ý niệm rằng "chỉ có vị Tạo Hóa, người tạo nên sự vật, là thường còn".
Từ những đoạn vừa trích dẫn trên ta có thể
phỏng đoán rằng cái được gọi là Đấng
Thượng Đế, vị
Thần Linh đã tạo nên tất cả
chúng sanh, vị Tạo Hóa được nói là ở trên một Cảnh Trời, có thể là vị
Đại Phạm Thiên đã
xuất hiện đầu tiên ở
cảnh giới Phạm Thiên vào lúc
sơ khai của
hệ thống thế gian. Ta cũng có thể nói rằng parama attā,
Đại Ngã, hay Đại Hồn, là tự ngã, cái "ta" của vị
Đại Phạm Thiên ấy. Lời dạy của
Đức Phật cho thấy
rõ ràng rằng parama attā, cái Đại Hồn ấy của vị
Đại Phạm Thiên, trên
căn bản là một với cái jīva attā, tiểu hồn, của những
chúng sanh khác; đó chỉ là luồng
trôi chảy liên tục của tiến trình danh và sắc được khái niệm một cách
sai lầm. Trong
thực tế không có gì
như tự ngã, một cái "ta" hay một
linh hồn vĩnh cửu trường tồn, ngoài
hiện tượng tâm-vật lý; đó chỉ là một
giả thuyết do trí tưởng tượng tạo nên.
Lại nữa, những
đặc tính tâm-vật lý của vị
Đại Phạm Thiên cũng như
đặc tính tâm-vật lý của các
chúng sanh khác, đều nằm trong
định luật vô thường. Khi tuổi thọ khô cạn thì vị
Đại Phạm Thiên cũng phải
đối diện với cái chết và
tịch diệt. Trong
thực tế vị
Đại Phạm Thiên không thể
viên mãn thành tựu tất cả những gì mình muốn; Ngài không thể
bảo trì những
đặc tính vật lý của thân theo
ý muốn. Do đó, thân của vị
Đại Phạm Thiên cũng là
vô ngã, anattā.
Luyến Ái Bám Vào Tự Ngã
Thông thường người ta
tin tưởng mạnh mẽ rằng mỗi
cá nhân có một
linh hồn, một
thực thể sống,
tồn tại suốt trọn
cuộc đời. Đó là
quan điểm của những người theo giáo thuyết
đoạn kiến, chủ trương rằng
sau khi chết thì không còn gì, chết là hết. Những người
tin theo thuyết
thường kiến thì
trái lại, tin rằng
linh hồn của mỗi
cá nhân là
bất diệt, sẽ không bị
tiêu diệt sau khi chết mà sẽ sống trong những cơ thể mới.
Đối với người theo thuyết
thường kiến, thân nầy do hai
thành phần cấu hợp: cơ thể thô kịch và cơ thể
vi tế. Vào lúc
cuối cùng của kiếp sống, cơ thể thô kịch bị
tiêu diệt nhưng cơ thể
vi tế thì bỏ
xác chết nầy nhập vào một thân mới, và như vậy không bao giờ
tiêu diệt mà sống
vĩnh viễn đời đời.
Quan điểm thường kiến nầy được trích dẫn nguyên văn,
trọn vẹn và đầy đủ trong Phụ
Chú Giải (tức
chú giải của Bản
Chú Giải) sách
Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga).
Sư
mô tả với đầy đủ
chi tiết những
niềm tin khác nhau về một tự ngã, và tự ngã ấy xuất nguyên như thế nào, nhằm
mục đích trình bày một cách
rõ ràng hơn
ý niệm vô ngã (anattā). Trong những người tự xưng là
Phật tử, có nhiều vị còn thật sự tin vào sự
hiện hữu của một
linh hồn thường còn, một
thực thể đơn thuần nguyên vẹn, hay
thực thể sống,
mặc dầu họ không
nói nhiều về
niềm tin nầy. Họ tin rằng vào lúc
lâm chung sự sống tách rời cái thân chết qua đường lỗ mũi hay miệng. Khi được thọ thai, sự sống ấy cũng nhập vào thai bào
xuyên qua mũi, miệng, hay bụng của bà mẹ. Và từ khi được sanh ra chí đến lúc chết, sự sống ấy bám sát dính liền theo cơ thể mới nầy. Tất cả những
quan điểm trên đều
liên quan đến niềm tin có một
linh hồn nguyên vẹn, một
thực thể sống.
Trong
thực tế, cái chết chỉ là sự
chấm dứt của tiến trình tâm-vật lý, sự không-phát-sanh
trở lại của tiến trình tâm-vật lý sau khi "tử tâm"
chấm dứt. Không có gì như một
linh hồn hay một
thực thể sống ra đi. Một
trở thành mới (tức
chúng sanh mới) có nghĩa là sự phát sanh của một
tâm thức mới ở một nơi mới cùng với nền tảng
vật lý mà thức ấy
dựa vào. Vừa trước khi
tử tâm chấm dứt vào lúc
lâm chung, thức bám vào một trong ba: hoặc kamma, nghiệp, kamma nimitta,
biểu tượng của nghiệp, hoặc gati nimitta,
biểu tượng lâm chung, tức dấu hiệu của kiếp sống sắp đến [Lời người dịch: Xem sách
Vi Diệu Pháp Toát Yếu,
tác giả Đ.Đ. Nārada, chương V, trang 321-322]. Do những đối tượng ấy
trợ duyên (bám sát vào khoảnh khắc
cuối cùng của chặp
tử tâm), một chặp thức mới phát sanh ở một nơi mới trong một kiếp sống mới. Đây là thức-tái-sanh hay thức-nối-liền, vì đây là chặp tâm nối liền giữa hai kiếp sống --
kiếp trước và
kiếp sau.
Khi thức-nối-liền
chấm dứt, liền sau đó là những chặp tâm của luồng hộ kiếp (bhavaṅga)
tiếp tục trọn suốt kiếp sống,
thích ứng với
nghiệp lực đã tạo. Khi có
trần cảnh xuất hiện ở các
căn môn như
hình sắc hay
âm thanh chẳng hạn, thì tùy
trường hợp, chặp bhavaṅga được
nhãn thức hay
nhĩ thức thay thế. Sự phát sanh của
tâm thức mới trong một kiếp sống mới do nghiệp, kamma, của kiếp sống
quá khứ trợ duyên. Một cách chế định,
hiện tượng nầy được gọi là
chuyển sinh từ
kiếp trước sang
kiếp sau, nhưng trong
thực tế không có một
linh hồn hay
thực thể sống
di chuyển từ kiếp nầy sang kiếp khác. Trong
ngôn ngữ thông thường, theo tập tục trong dân gian, người ta gọi là
đầu thai, thay vì là
tái sanh.
Có những người không thể nắm vững khái niệm
vô ngã bởi vì họ không
thông hiểu rành rẽ thuyết chủ trương có tự ngã, hay một cái "ta", như được
giải thích ở phần trên. Họ nghĩ rằng nếu người kia thấy hình thể của một vật tức là bám vào tự ngã, là cảm nhận cái ta của mình.
Thí dụ như để
nhận ra cái cây là một cái cây, viên đá là một viên đá, cái nhà là một cái nhà, hay ngôi chùa là một ngôi chùa thì theo họ đó là bám vào tự ngã: "tôi thấy".
Theo
quan điểm của họ,
chân lý vô ngã chỉ
rõ ràng được
nhận thức khi ta đã
vượt qua khỏi khái niệm về hình thể và thay vào đó là sự cảm nhận sự vật qua
chân lý cùng tột,
chân đế.
Trong
thực tế, chỉ
nhận thức suông hình thể là hình thể thì sẽ không dẫn đến sự bám níu vào tự ngã. Mà không còn
nhận thức hình thể nữa cũng không có nghĩa là
tuệ giác về lý
vô ngã đã phát sanh, đã được
thiết lập.
Nhận ra những vật
vô tri vô giác như cây cối, đá sỏi, nhà cửa hay chùa chiền không phải là bám níu vào
lý thuyết tự ngã, bám vào
niềm tin có tự ngã, đó chỉ là sự
hiểu biết theo khái niệm chế định,
tục đế.
Người dính mắc trong
niềm tin có sự
hiện hữu của một tự ngã
giả định rằng có một tự ngã, một
linh hồn thường còn cố hữu dính liền theo
chúng sanh hữu giác. Khi ta
giả định chính mình là một
linh hồn đang sống và những người khác cũng là những
linh hồn, những
thực thể sống, thì đó là
luyến ái bám níu vào
niềm tin về tự ngã. Những vị
Phạm Thiên trong cảnh
vô sắc giới (arūpa), vì không có cơ thể
vật chất, không tự thấy mình theo
chân lý chế định, nhưng các vị
Phạm Thiên chưa được
giác ngộ chưa thoát ra khỏi ảo kiến về tự ngã. Chỉ khi nào đã
vượt qua khỏi
niềm tin về sự
hiện hữu của một tự ngã, thân của chính ta và thân của người khác được
nhận thức chỉ là những
hiện tượng tâm-vật lý,
tuệ giác về lý
vô ngã mới khởi sanh, và điều chánh yếu là nên trau giồi và phát triển sự
hiểu biết thật sự ấy.
Bốn Loại
Luyến Ái Bám Níu Vào Tự Ngã
Có bốn loại bám níu khởi sanh từ
niềm tin tự ngã:
1. Sāmi attā,
chấp thủ vào "tự ngã kiểm soát":
tin tưởng rằng có một cái ta, một
thực thể sống hay một
linh hồn bên trong cơ thể
vật chất,
thống trị,
chi phối và điều khiển mọi
ý muốn và hành động, và chính cái
linh hồn sống ấy đi, đứng, ngồi xuống, ngủ và nói, mỗi khi muốn.
Đức Thế Tôn dạy
bài Kinh Vô Ngã Tướng, Anatta-lakkhaṇa Sutta,
đặc biệt để loại trừ sự bám níu vào cái "tự ngã kiểm soát", sāmi attā nầy. Giờ đây, vì thời Pháp nầy được
thuyết giảng cho Ṅhóm Năm Đạo Sĩ" mà trước đó đã
chứng đắc Đạo Quả Nhập Lưu, có thể nào ta còn thắc mắc tự hỏi vậy một vị
Tu Đà Huờn còn bám níu vào tự ngã, hay cái "ta" nữa không?
Đến tầng
Nhập Lưu vị Thánh
Tu Đà Huờn đã
hoàn toàn tận diệt ba
thằng thúc:
thân kiến (sakkāyadiṭṭhi),
hoài nghi (vicikicchā), và
giới cấm thủ (sīlabbataparāmāsa). Nhưng Ngài chưa thoát hẳn ra khỏi
thằng thúc ngã mạn (asmi-māna) [*], tức
hãnh diện với cái ngã của mình và
so sánh với cái ngã của người khác.
Hãnh diện với tài giỏi hay
địa vị của mình, "tôi có khả năng làm việc ấy, tôi là thánh nhân" -- là
ngã mạn. (
Hãnh diện của vị
Tu Đà Huờn chỉ
liên quan đến đặc tánh và phẩm hạnh thật sự của mình, không phải
giả dối hãnh diện với những
đặc tính và phẩm hạnh mà chính mình không có, và tự
so sánh với ai khác.) Như vậy, vị thánh
Nhập Lưu còn phải
tiếp tục hành
thiền minh sát để tận diệt
thằng thúc ngã mạn. Khi
tuệ minh sát (vipassanāñāṇa) được
tích cực trau giồi và phát triển,
thằng thúc ngã mạn dần dần được
tháo gỡ và
tuần tự được loại trừ bằng
Tư Đà Hàm Đạo (Sakadāgami Magga,
Nhất Lai Đạo);
A Na Hàm Đạo (Anāgāmi Magga,
Bất Lai Đạo) làm
suy giảm thêm
tâm sở ngã mạn, nhưng chỉ đến tầng Thánh
cuối cùng là
A La Hán Đạo (Arahatta Magga) mới
hoàn toàn tận diệt
thằng thúc ngã mạn. Như vậy ta có thể xác định rằng
Đức Thế Tôn thuyết giảng bài Kinh Vô Ngã Tướng (Anattalakkhaṇa Sutta) nhằm giúp Ṅhóm Năm Đạo Sĩ" tận diệt
thằng thúc ngã mạn.
[*] Trích dẫn từ sách "Vi
Diệu Pháp Toát Yếu",
tác giả ĐĐ Nārada: Khi
chứng ngộ Niết Bàn lần đầu tiên vị
hành giả được gọi là Sotāpanna,
Tu Đà Huờn, hay
Nhập Lưu, người lần đầu tiên bước vào dòng suối chảy đến
Niết Bàn. Vị ấy không còn là
phàm nhân (putthujjana) mà đã là
Thánh Nhân, Ariya. Ngài đã cỡi bỏ ba
Thằng Thúc (Saṁyojana, tức dây
trói buộc cột chặt
chúng sanh vào vòng
luân hồi) là
Thân Kiến (sakkāya diṭṭhi, ảo kiến về thân, xem là tự ngã của mình),
Hoài Nghi (vicikicchā) và
Giới Cấm Thủ (sīlabbata parāmāsa,
tin tưởng vào những
nghi thức và tế lễ
lầm lạc). Muốn có thêm
chi tiết xin đọc sách trên, trang 86-89.
2. Nivāsī attā ,
chấp thủ vào "tự ngã liên tục": tin rằng có một
thực thể sống
thường trực nằm bên trong thân mình. 3. Phần đông người ta
tin tưởng rằng
thường xuyên có một
linh hồn đơn thuần nguyên vẹn, hay một
chúng sanh từ lúc sanh ra đến khi chết. Đó là nivāsi attā, sự bám níu vào một
linh hồn, hay một tự ngã
liên tục thường còn. Vài người chủ trương rằng
sau khi chết thì không còn gì hết; đó là quan kiến
lầm lạc gọi là
đoạn kiến. Cũng có người
lầm lạc tin tưởng vào thuyết
thường kiến, cho rằng cái
thực thể sống trong thân, hay
linh hồn, vẫn không
tiêu diệt sau khi chết mà
tiếp tục được chuyển qua, sống trong một cái thân mới, trong kiếp sống mới.
Đức Thế Tôn thuyết giảng bài Anattalakkhaṇa Sutta,
Kinh Vô Ngã Tướng, nhằm loại trừ
tình trạng bám níu vào
tính ngã mạn, tức tận diệt, bứng nhổ tận gốc rễ
tính ngã mạn còn tiềm tàng bên trong Nhóm
Năm Đạo Sĩ và những vị
Thánh Nhân khác; và nhằm loại trừ hai quan kiến
lầm lạc (về
thân kiến, sakkāyadiṭṭhi, và về sự bám níu vào
nghi lễ và những
nghi thức cúng tế sīlabbata-parāmāsa), cùng với
tính ngã mạn của người thường trong dân gian. Ngày nào còn bám vào một
thực thể sống hay một
linh hồn đơn thuần nguyên vẹn thì
chúng ta còn
tin tưởng rằng thân nầy phải phục tùng
tùy thuộc theo quyền điều khiển của mình. Kinh Anattalakkhaṇa,
Vô Ngã Tướng, được
thuyết giảng nhằm loại trừ cả hai, sự bám níu vào sāmi attā "tự ngã kiểm soát" và nivāsa attā, sự bám níu vào "tự ngã liên tục". Một khi sāmi attā, tự ngã
kiểm soát, đã
bị loại trừ thì tất cả
các loại bám níu khác vào tự ngã và
tà kiến,
đồng thời cũng bị tận diệt.
3. Kāraka attā,
chấp thủ vào "tự ngã chủ động": tin rằng có một
thực thể sống, một
linh hồn,
ảnh hưởng đến mọi hành động bằng thân, khẩu hay ý.
Chấp thủ vào tự ngã chủ động
liên quan nhiều đến saṅkhārakkhandha,
hành uẩn.
Chúng ta sẽ
trở lại với nhiều
chi tiết khi đề cập đến
ngũ uẩn.
4. Vedaka attā,
chấp thủ vào "tự ngã chứng nghiệm": tin rằng chính tự ngã, hay
linh hồn nầy cảm nhận những thọ cảm,
thọ lạc hay thọ khổ.
Hình thức chấp thủ nầy
liên quan đến vedanakkhandha,
thọ uẩn, mà
chúng ta sẽ đề cập đến đầy đủ trong chương tới. 6. Đến đây phần
sắc pháp là
vô ngã -- nói cách khác,
sắc pháp, hay thân nầy, không phải là tự ngã, hay một
thực thể sống, một
linh hồn đơn thuần nguyên vẹn thường còn -- đã được
giảng giải thích đáng, nhưng còn phần
thực hành thiền minh sát, vipassanā, đưa đến sự
thông suốt bản chất không thể
kiểm soát của thân.
Thân
Quán Niệm Xứ
Thiền Minh Sát,Vipassanā cốt yếu là suy niệm về upādānakkhandha,
ngũ uẩn thủ, sự
chấp thủ vào
ngũ uẩn phát hiện vào lúc thấy, nghe, hửi, nếm, đụng chạm và suy tư.
Tuy nhiên đối với vị
hành giả còn
sơ cơ ắt khó mà
ghi nhận (niệm) kịp thời ngay vào lúc
cảm thọ. Các vị ấy nên chỉ bắt đầu với một vài loại thọ nào
nổi bật hiển hiện nhất.
Thí dụ như khi ngồi xuống,
hành giả có thể gom tâm chăm chú vào tánh chất cứng rắn và giãn ra
cưỡng lại của thân và
ghi nhận ṅgồi, ngồi". Nếu
hành giả thấy hành như vậy là quá giản dị thì có thể
ghi nhận thêm ṅgồi, đụng; ngồi, đụng". Nhưng
ghi nhận cái bụng phồng lên và
xẹp xuống thì dễ hơn. Vậy,
chuyên chú ghi nhận "phồng" khi bụng phồng lên, và "xẹp" khi bụng
xẹp xuống ta sẽ bắt đầu
nhận thấy rõ ràng những
trạng thái của bụng từ từ trở nên cứng rắn, giãn ra, phồng lên, rồi
giảm bớt căng, và
xẹp xuống. Đó là những
đặc tính,
cơ năng và
nguyên nhân kế cận của
nguyên tố gió vāyo dhātu.
Ghi nhận và suy niệm như thế là theo đúng sách Visuddhimagga,
Thanh Tịnh Đạo. Sách nầy dạy rằng "bản chất của những
hiện tượng vật lý và
tâm linh phải được
thông suốt bằng cách
quan sát những
đặc tính và cơ năng" v.v...
Trên đây Sư dạy người hành thiền
sơ cơ thực hành thiền Minh Sát (Vipassanā) nên bắt đầu bằng cách
quan sát cử động phồng lên và
xẹp xuống của bụng.
Tuy nhiên chỉ
tu tập ghi nhận cái bụng phồng lên và
xẹp xuống thì không đủ, đó không phải là tất cả những gì
cần phải làm khi hành
thiền Minh Sát. Trong khi
ghi nhận bụng phồng lên và
xẹp xuống bất luận những
tư tưởng nào khởi lên cũng phải được
ghi nhận. Khi có những
cảm giác như cứng, nóng, lạnh hay đau nhức người hành thiền phải niệm, tức
ghi nhận, những
cảm thọ ấy vừa khi nó
sanh khởi. Khi
hành giả co tay hay co chân vào hoặc duỗi tay, duỗi chân ra, những
tác động ấy cũng phải được
ghi nhận. Khi đang ngồi mà
đứng dậy hành giả phải chăm chú
ghi nhận những
tác động trong lúc đổi thay tư thế ấy. Trong khi đi, tất cả những
cử động trong mỗi bước phải được
ghi nhận, "dở lên,
đưa tới, đạp xuống".
Nếu có thể được, tất cả những
hoạt động của thân, chí đến khi nhắm mắt lại hay mở mí mắt ra, phải được
thận trọng quan sát. Khi không có gì
đặc biệt để
ghi nhận,
hành giả đem sự
chú tâm trở về cử động phồng lên và
xẹp xuống ở bụng. Đó là
mô tả một cách
vắn tắt pháp hành liên quan đến thiền Minh Sát.
Trong khi chăm lo
ghi nhận trạng thái phồng, xẹp, ngồi, đụng, đôi khi
hành giả khởi tâm muốn thay đổi tư thế để làm
suy giảm những
cảm thọ đau, nhức ở tay hay ở chân. Nên
ghi nhận "ý muốn" thay đổi tư thế ấy, nhưng vẫn phải
ngồi yên, không vội xuôi lòng chiều theo sự
cám dỗ muốn duỗi tay duỗi chân ra.
Hành giả nên
chịu đựng tình trạng thiếu
tiện nghi ấy đến
chừng nào không còn chịu được nữa, càng lâu càng tốt. Nếu
ý muốn duỗi chân ra khởi sanh
trở lại,
hành giả nên
ghi nhận như trước mà không thay đổi
oai nghi. Chỉ đến khi không còn có thể chịu đau nhức được nữa mới từ từ duỗi tay và chân ra, trong khi ấy phải
thận trọng tỉ mỉ
ghi nhận tác động, "duỗi ra, duỗi ra".
Trong mỗi khóa
thiền hành giả
cần phải thay đổi
oai nghi nhiều lần vì tay chân bị đau nhức. Mãi cứ thay đổi và
điều chỉnh tư thế như vậy
hành giả cảm nghe khó chịu, và
bản chất của
tình trạng bực bội của cơ thể
trở thành hiển nhiên. Dầu
ý muốn của
hành giả là ở yên, ngồi tĩnh lặng không lay động trong
thời gian một hay hai giờ, nhưng
rõ ràng không thể được.
Hành giả nhận thức rằng thân nầy, với
tình trạng khó
chịu đựng của nó, không phải là ta, không phải là tự ngã,
linh hồn hay
thực thể sống, mà chỉ là những
hiện tượng vật lý phát sanh tùy
điều kiện. Sự
nhận thức nầy là
tuệ giác phát sanh do
công phu quán niệm tự ngã.
Ta không thể ở thật lâu trong một tư thế nào, dầu là ngồi, nằm, hay đi. Vậy ta cũng
nhận thức rằng mình không có khả năng
sai bảo thân nầy phải như thế nào theo
ý muốn, nó không bao giờ chịu phải như thế nào
tùy theo ý muốn của ta. Nếu nó là chính ta thì ta có quyền
kiểm soát sai bảo nó phải như thế nào. Vì không thể
kiểm soát, thân nầy ắt không phải là ta mà chỉ là những
hiện tượng vật lý sanh khởi tùy duyên. Sự
nhận thức nầy cũng vậy, là
tuệ giác phát sanh do
công phu quán niệm tự ngã.
Lại nữa
chúng ta luôn luôn phải bận rộn
giải quyết những nhu cầu thường nhật như đại,
tiểu tiện,
rõ ràng thân nầy không ổn thuận
tuân theo ý muốn của ta, không nằm dưới sự điều khiển của ta, ắt không phải là tự ngã của ta. Trong khi
quán niệm về
sinh hoạt của cơ thể
vật chất ta thấy rằng tánh chất khó
chịu đựng của nó được phô bày
hiển nhiên như mũi vãi, đàm nhớt, nước mắt, mồ hôi, xuất ra từ thân. Ta không thể
duy trì,
gìn giữ cho cơ thể nầy được sạch sẽ
lâu dài theo
ý muốn bởi vì không thể
kiểm soát bản chất thiên nhiên của nó. Do đó
hiển nhiên thân nầy không phải là ta, là tự ngã của ta.
Thêm vào đó, nhiều
tình trạng khó chịu như đói bụng, khát nước,
hoàn cảnh già nua và
bệnh hoạn cũng phát sanh do thân nầy. Dầu là đối với người không quen
quan sát, các
tình trạng khó chịu nầy cũng là những
sự thật hiển nhiên, những
thực tại mà ai ai cũng có
kinh nghiệm.
Tuy nhiên những người chỉ
thỉnh thoảng quan sát thoáng qua thường
ý niệm rằng có một tự ngã, một
thực thể sống, một cái ta, hay một
linh hồn thường còn đang khó chịu. Chỉ khi
thận trọng quán niệm mới
nhận thức rằng đó chỉ là những
hiện tượng vật lý của thân, không phải là tự ngã hay một
thực thể sống.
Như vậy, trong khi
chuyên cần quán niệm tất cả những
hoạt động của thân và
biết thân nầy
đau khổ như thế nào mà ta không có khả năng làm gì, không thể
kiểm soát, không có
quyền năng điều khiển hay
sai bảo nó phải như thế nào,
xuyên qua kinh nghiệm bản thân người hành thiền
nhận định:
Mặc dầu hình thể
vật chất nầy xem hình như là chính ta nhưng vì nó
áp bức gây
phiền não mà ta không có khả năng làm gì được, không thể điều khiển, không có quyền
sai khiến nó làm theo
ý muốn của ta, như vậy ắt nó không phải là phần nòng cốt bên trong ta, không phải là tự ngã như ta đã
lầm lạc hiểu biết từ bấy lâu nay,
chấp thủ rằng thân nầy là chính ta". Đó là
tuệ giác thật sự phát sanh do
công phu quán niệm thực tướng vô ngã của
sắc pháp.