KINH VÔ NGÃ TƯỚNG
(Anattalakkhaṇa Sutta)
Thiền sư Mahasi Sayadaw - Phạm Kim Khánh dịch
Lời tựa
Đối với người hành thiền
Phật Giáo,
danh tiếng của Ngài Mahasi Sayadaw không
cần phải được
giới thiệu. Những lời dạy về
phương pháp hành thiền của Ngài đã được lãnh nhận và
hấp thụ cùng khắp
thế giới. Hôm nay Hội Buddhadhamma Foundation xin được
vinh dự giới thiệu quyển "Kinh
Vô Ngã Tướng", như quyển sách đầu tiên trong loạt sách về
giáo huấn của vị
thiền sư nổi tiếng nầy.
Bản dịch
sơ khởi (từ Miến sang Anh) của U Ko Lay, đã được Hội Buddha Sasana Nuggaha Foundation tại Rangoon, Myanmar, sửa chửa và
ấn hành. Trong bản nầy vài đoạn lặp đi lặp lại đã được
loại bỏ và có thêm những danh từ Pāli được chuyển dịch sang tiếng Anh.
Tuy nhiên giáo huấn nguyên thủy vẫn được giữ với đầy đủ
chi tiết và vẫn còn những đoạn lặp lại: bài giảng nầy cốt dành cho những
thiền sinh đang dự một khóa thiền
tích cực.
Chúng tôi hy vọng rằng những ấn bản nầy sẽ giúp đọc giả
thích thú quan tâm đến
pháp hành thiền và những lời dạy của
Phật Giáo.
Buddhadhamma Foundation
Bangkok - Thailand
Lời nói đầu
Bên trong
cá nhân của mỗi người
thế gian (puthujjana, người
phàm tục,
tại thế) những
ô nhiễm (kilesa) như
tham lam và
luyến ái mau chóng sanh sôi
nảy nở. Những
ô nhiễm ấy dính liền theo đối tượng khởi phát ở
lục căn, như
hình sắc đẹp đẽ chẳng hạn. Khi
luyến ái khởi sanh theo tất cả những gì
vừa lòng và
ưa thích thì
trạng thái dính mắc vào một attā (tự ngã, khái niệm về một "thực thể sống") chẳng những là
căn bản, mà cũng là phần nòng cốt sâu ẩn tiềm tàng rất khó loại trừ.
Do nhờ
tinh tấn chuyên cần và
trí tuệ, chư Phật
Độc Giác (Pacccekabuddhas,
Bích Chi Phật) tự mình có khả năng tận diệt
trạng thái dính mắc vào khái niệm một tự ngã bên trong mình mà không cần có sự trợ giúp. Nhưng các Ngài không có khả năng giúp ai khác
diệt trừ dính mắc nầy của họ. Chỉ những vị có
đủ khả năng đặc biệt sáng suốt chỉ rõ,
minh xác cho người khác
hiểu biết chân lý và
công hiệu của
Tứ Diệu Đế mới có thể
quét sạch tà kiến dính mắc nầy trong tâm người khác. Chư vị Phật
Độc Giác (Pacceka-buddhas) không thể làm, vì
lý do ấy các Ngài chỉ
trở thành Độc Giác Phật. Vị
Độc Giác Phật nhập Niết Bàn đơn độc một mình. Ngài không phải là bậc
Chánh Đẳng Chánh Giác và không thể truyền dạy
Giáo Pháp cho người khác.
Chư vị
Chánh Đẳng Chánh Giác, bậc
Toàn Giác, có những khả năng
tinh thần quang minh sâu sắc hơn các vị
Độc Giác Phật, Paccekabuddhas. Vị Phật
Chánh Đẳng Chánh Giác cũng
chứng ngộ Tứ Diệu Đế như chư vị Phật
Độc Giác, mà hơn nữa, còn có thể dạy dỗ, giúp người khác
thấu triệt tận tường bốn
chân lý thâm diệu nầy. Vì thế ấy Ngài là
Chánh Đẳng Chánh Giác, Sammā Sambuddha.
Đức Thế Tôn thuyết giảng thời Pháp Đầu Tiên đề cập đến
Tứ Diệu Đế, cho năm
vị đạo sĩ. Thời Pháp ấy được gọi là Dhammacakkappavattana Sutta, Kinh
Chuyển Pháp Luân, vận chuyển Bánh Xe Của
Giáo Pháp. Đây là
Giáo Pháp đầu tiên mà
Đức Phật ban truyền. Ngài
giảng bài kinh nầy vào buổi chiều thứ Bảy, đêm trăng tròn tháng Bảy DL. đúng hai tháng sau khi
Thành Đạo.
Khi
Đức Phật chấm dứt thời Pháp Đầu Tiên,
vị đạo sĩ trưởng đoàn, Koṇḍañña,
Kiều Trần Như,
đắc Quả Tu Đà Huờn (Sotāpanna,
Nhập Lưu).
Chứng đắc Đạo Quả nầy vị Thánh
Tu Đà Huờn đã loại trừ mọi
hoài nghi về
Giáo Pháp và mọi khái niệm
sai lầm về sakkāya, cơ thể
vật chất, xem thân nầy là "tự ngã" hay một
thực thể sống. Dầu sao Ngài vẫn còn māna,
ngã mạn [*]. Bốn vị kia chưa
chứng ngộ Giáo Pháp đặc biệt, śự
thức tỉnh đến
siêu trí, hay mức độ tâm cao siêu".
[*] Lời người dịch: Danh từ
ngã mạn dùng ở đây được
phiên dịch từ
Phạn ngữ Māna, không chỉ có nghĩa tự cao tự đại như thường được hiểu. Nơi đây là chấp vào cái "ngã" nầy và đem
so sánh với những cái "ngã" khác. Xem mình hơn người, bằng người, hay thua người là ba
hình thức của māna,
ngã mạn.
Vì
tính ngã mạn, hay chấp vào tự ngã, đã
ăn sâu vào luồng nghiệp của Koṇḍañña, và vì Vappa cũng như ba vị kia trong nhóm năm anh em
đạo sĩ chưa
thành đạt "Pháp Nhãn
thanh tịnh và vô nhiễm", nên
Đức Phật tiếp tục khuyến dạy và khích lệ các Ngài nên
duy trì chánh niệm và
quán chiếu đúng theo
pháp hành thiền Minh Sát (vipassanā). Sau khi
tích cực hành thiền, tất cả năm vị đều
thành tựu tầng Thánh
Tu Đà Huờn, do đó loại trừ mọi dính mắc chấp rằng thân nầy là chính mình, tự ngã (sakkāyadiṭṭhi,
thân kiến). Ngài Vappa
chứng đắc tuệ Minh Sát vào ngày đầu tiên sau đêm trăng tròn, Ngài Bhaddhiya vào ngày thứ nhì, Ngài Mahānāma ngày thứ ba, và Ngài Assaji vào ngày thứ tư.
Chừng đó
Đức Thế Tôn tập hợp
toàn thể Nhóm Năm Vị lại và
thuyết giảng bài Pháp thứ nhì, trình bày
học thuyết anattā (
vô ngã). Lúc bấy giờ là ngày thứ Năm, năm ngày sau đêm trăng tròn tháng Bảy DL. Khi nghe xong bài Anattalakkhaṇa Sutta (
Kinh Vô Ngã Tướng) tất cả năm vị đều
chứng đắc Đạo Quả A La Hán, do đó tất cả năm vị
hoàn toàn tận diệt mọi
hình thức ái dục,
bao gồm tính ngã mạn, māna. Như danh từ Anattalakkhaṇa Sutta hàm xúc
ý nghĩa (anattā =
vô ngã, lakkhaṇa = đặc tướng)
bài kinh nầy
rõ ràng trình bày lý "vô ngã", đối nghịch với
tà kiến chấp thủ "tự ngã".
Anattalakkhaṇa Sutta không phải là một
bài kinh dài. Trong bổn
nguyên thủy do cuộc
Kết Hợp Phật Giáo Thế Giới Kỳ Sáu phát hành,
bài kinh nầy chỉ vỏn vẹn chiếm một trang giấy.
Bài kinh không có đề cập đến
phương pháp hành thiền hoặc kỷ thuật
quán chiếu.
Giáo huấn nầy chú trọng đến
chân lý thiên nhiên nhiều hơn là những
phương pháp thực hành. Do đó đối với người không
quen thuộc với
pháp hành thiền Minh Sát (vipassanā meditation) ắt khó
thông hiểu thực tướng vô ngã được
mô tả trong
bài kinh.
Sở dĩ năm
vị đạo sĩ nhanh chóng
lãnh hội giáo lý có thể là vì thời Pháp do chính
Đức Bổn Sư
thuyết giảng và cũng vì
thính giả may mắn là bậc đã có
kiến thức sâu sắc bén nhạy. Cả năm vị chẳng những đã được
thuần thục chứng nghiệm từ khi nghe thời Kinh
Chuyển Pháp Luân (Dhammacakka Sutta), mà còn đã vượt đến giai đoạn
Nhập Lưu. Nhờ vậy các Ngài nhanh chóng
thành tựu Đạo Quả A La Hán.
Vào thời
Đức Phật còn
tại thế có những vị
kiến thức bén nhạy và ba-la-mật (pāramitā) tròn đầy như nhóm năm
vị đạo sĩ, vừa khi được nghe
Đức Bổn Sư
thuyết giảng thì nhanh chóng
thành tựu Đạo Quả (magga-phala).
Dĩ nhiên, đó là nhờ nghe chính
Đức Bổn Sư
thuyết giảng, nhưng các vị ấy cũng phải dành rất nhiều
công phu để
tích cực chuyên cần trau giồi
thiền Minh Sát (vipassanā).
Giáo Pháp Đặc Biệt chỉ được
thành tựu vì những vị ấy đã
thành tâm cố gắng tích cực hành thiền, đã
nhập định vững chắc,
thâm sâu và
quán chiếu bén nhạy, và chỉ một ít người có đủ
trí tuệ hay đủ ba-la-mật để được như vậy. Nhiều người không thể
quán chiếu và
ghi nhận nhanh chóng dường thế ấy.
Mặc dầu vậy cũng có những người lười biếng sẽ làm ra vẻ
thông thạo nói: Nếu nhờ đọc sách mình
hiểu biết bản chất thiên nhiên của lý
vô ngã thì cần gì phải
thực hành. Ta có thể
thành tựu Đạo Quả bằng cách chỉ nghe suông lời dạy." Với
loại suy tư mong muốn như vậy họ tự đặt họ
ngang hàng với các bậc
Thánh Nhân. Những khái niệm tương tợ làm
vừa lòng hạng người chỉ ăn không ngồi rồi, những người tự nhận, tự phong mình là
Thánh Nhân vì chỉ giản dị được nghe
Giáo Pháp. Hạng người nầy không phải ít. Loại
hiểu biết lý
vô ngã bằng cách lượm lặt đó đây
xuyên qua những thời
Pháp không phải là thật sự
chứng ngộ cá nhân, mà chỉ là
hiểu biết qua sách vở. Nếu Đạo và Quả có thể được
chứng ngộ bằng cách ấy, hầu hết những người
Phật tử hiểu biết lý
vô ngã đều có thể được xem là
A La Hán.
Tuy nhiên, vì người như vậy không có những phẩm hạnh (paramittā) của một vị
A La Hán,
hiển nhiên họ không phải thật sự là
A La Hán.
Quan tâm đến
tình trạng sai lầm của những
ý kiến tương tợ Ngài Mahasi Sayadaw nêu lên những lời dạy
rõ ràng và
chính xác trong
bài Kinh Anattalakkhaṇa Sutta,
Vô Ngã Tướng, đem những người ấy về
con đường chân chánh.
Bài Kinh Anattalakkhaṇa
mô tả bản chất và
đặc tính của lý
vô ngã, nhưng không chỉ giản dị dạy
phương pháp hành thiền hoặc kỷ thuật
quán chiếu và
ghi nhận, niệm và
giác tỉnh. Trong sách nầy Ngài Sayadaw
diễn tả đầy đủ
phương pháp quán niệm và
giải thích với đầy đủ
chi tiết đường lối suy tư về lý
vô ngã có thể dẫn đến mức độ
thành tựu Niết Bàn.
Bài kinh được trình bày đúng theo
kinh điển,
dựa trên kinh nghiệm cá nhân trong khi
thực hành thiền Minh Sát (vipassanā), và được
giải thích sau khi đã thâu thập những
kinh nghiệm và những
hiểu biết cá nhân trong lúc
thực hành dưới sự hướng dẫn của một vị minh sư, và sau khi
tham khảo những
Kinh Điển Pāli và những
Chú Giải thích ứng.
Trong những thời dạy
giáo lý Ngài Sayadaw
từ bi giảng rộng với đầy đù
chi tiết bài kinh Anattalakkhaṇa Sutta, vốn được
Đức Phật giáo truyền một cách ngắn gọn. Khi những thời Pháp ghi âm nầy được vị thẩm phán
hồi hưu, U Thein Han, chép và đánh máy lại đầy đủ, bản thảo dài 420 trang. U Thein Han trình lên Ngài Sayadaw và xin phép cho
ấn hành. Ngài
vui lòng chấp nhận sau khi tóm lược, chỉ giữ lại những
giáo lý cương yếu gồm 152 trang. Một phần cũng vì vào lúc bấy giờ giấy in sách còn khan hiếm.
Lẽ dĩ nhiên Ngài Sayadaw rất khéo léo giảng rộng những điểm quá giản lược và thâu ngắn gọn những đoạn quá dài dòng. Chẳng những Ngài tóm lược những bản dài dòng
bài kinh Anattalakkhaṇa Sutta,
Vô Ngã Tướng và "Phương
Pháp Hành Thiền Minh Sát" mà còn
giảng giải rành mạch bài Dhammacakka Sutta, Kinh
Chuyển Pháp Luân, giúp cho những ai muốn đọc và nghe
Giáo Pháp một cách tường tận,
vắn tắt mà
rõ ràng, và như thế là một phước lành cho tất cả.
Mỗi khi
thuyết giảng hoặc viết, Ngài Sayadaw chú trọng đến
ý nghĩa nhiều hơn là những nguyên tắc
văn phạm.
Thí dụ như
Phạn ngữ "Bārāṇasiyaṁ", thường được dịch là "tại Benares", thì không có gì sai. Nhưng để sát gần với
thực tại hơn, Ngài Mahasi Sayadaw viết là "trong vùng Benares" hoặc "gần Thành Benares" vì lúc bấy giờ
Đức Thế Tôn tạm ngự tại
vườn nai (
Lộc Uyển) gần Thành Phố Benares (thay vì trong tĩnh Benares).
Mặc dầu quan tâm nhiều đến
ý nghĩa của câu văn, Ngài Sayadaw không vì quá chú trọng đến ý mà
bỏ quên không giữ đúng
văn phạm. Nói cách khác, Ngài
chú tâm đầy đủ đến phần
văn phạm nhưng
đặc biệt chú trọng đến
ý nghĩa, không để vì muốn theo đúng
văn phạm mà làm sai
ý nghĩa của câu văn. Do đó bản dịch của Ngài không
chính xác theo đúng
phương pháp cổ truyền. Sau khi
đắn đo suy xét câu văn Ngài bám sát theo
ý nghĩa thật sự và
diễn đạt ra thành lời, viết
hay nói.
Giáo huấn về ba đặc tướng
vô thường, khổ,
vô ngã (anicca, dukkha, anattā) nghe rất
quen thuộc, và luôn luôn ở đầu môi chót lưỡi người
Phật tử. Mỗi khi có một diễn biến ít nhiều quan trọng xảy ra ta liền nghe nhắc đến những danh từ nầy, gợi ý nên nhớ lại
Giáo Pháp. Điều nầy
chứng tỏ rằng
giáo huấn về ba đặc tướng rất là
phổ thông và được
hiểu biết rộng rãi trong giới
Phật tử.
Lẽ dĩ nhiên đây chỉ là sự
hiểu biết xuyên qua sách vở hay vì thường được nghe lặp đi lặp lại, nhưng trong
thực tế đây là một
giáo lý khó thấu đạt đầy đủ,
mặc dầu nhìn từ bên ngoài thấy hình như
dễ hiểu. Trong ba đặc tướng, lý
vô ngã, "anattā", là
thâm diệu và khó
thông suốt nhất. Cũng vì
lý do ấy mà chính
Đức Thế Tôn đã gặp sự
phản đối nghiêm trọng của những nhân vật
như Đạo Sĩ
Du Phương Saccaka, và
Phạm Thiên Baka vì những vị nầy có quan kiến đối nghịch về "tự ngã".
Trước khi có những lời dạy của
Đức Phật người ta hiểu rằng cái "ta" cố hữu chằn chịt dính liền với cơ thể
vật chất (rūpa, sắc) và phần
tâm linh (nāma, danh). Đối nghịch với
tà kiến nầy
Đức Phật tuyên ngôn rằng danh và
sắc không phải là "ta", không phải là "tự ngã" của ta. Trong
thực tế, rất khó làm cho người ta
thấu triệt lý "vô ngã" vì trong
vô lượng kiếp khái niệm
sai lầm về cái "ta" nầy đã ăn sâu, châm gốc rễ
vững chắc. Nếu
giáo lý về "tự ngã" nầy có thể dễ dàng được
hiểu biết thì không
cần phải có một vị
Phật thị hiện trong
thế gian. Cũng không cần một vị
đệ tử của
Đức Phật, như Ngài Mahasi Sayadaw, phải dành nhiều
công phu để
giảng giải rõ ràng và viết ra tường tận phần
chú giải Kinh Vô Ngã Tướng, Anattalakkhaṇa Sutta.
Sự cố gắng không biết mệt của Ngài Sayadaw để làm
sáng tỏ giáo lý nầy cho thấy mức độ
thâm sâu của lời dạy. Chí đến trong giới không-phải-Phật-tử rất hiếm người
hiểu biết cái "ta", tự ngã, hay "attā" là gì, càng ít
hiểu biết lý "vô ngã". Những lời dạy
thích đáng của Ngài Mahasi Sayadaw
giải thích rõ ràng và
rành mạch bài Kinh Vô Ngã Tướng Anattalakkhaṇa Sutta, có
tác dụng đem những người lạc nẻo, có quan kiến
sai lầm,
trở về con đường chân chánh.
Một lần nọ, khi tôi đến ngôi chùa Wetlet Masoyein Monastery thì có dịp
yết kiến Ngài Sayadaw,
lúc ấy đến thành phố Wetlet để
thuyết Pháp. Tôi bạch hỏi Ngài, "Có thể nào hiểu rằng thuyết uccheda (
đoạn kiến, chủ trương chết là hết, tức
sau khi chết thì tất cả đều
chấm dứt) và Nibbāna,
Niết Bàn, được
phân giải là giống
y như nhau không? vì cả hai đều có đặc tánh
chấm dứt giống nhau." Ngài Sayadaw đáp, "Lẽ
dĩ nhiên là có sự khác biệt.
Niết Bàn có những
đặc tính và phẩm cách
cá biệt của nó. Làm thế nào
Niết Bàn không phải là
đặc biệt." Vì
lúc ấy cuộc
đàm thoại bị đứt ngang giữa chừng nên tôi không có dịp hỏi thêm, "Vậy chớ
đặc tính và phẩm cách
đặc biệt của
Niết Bàn là gì?" Ngài Sayadaw có lẽ đã không còn nhớ
câu chuyện không quan trọng ấy.
Tuy nhiên, lúc đọc qua bản thảo nầy, khi tới đoạn
giải thích liên quan đến uccheda và Nibbāna tôi hồi nhớ
cuộc nói chuyện. Những lời
giải thích của quyển sách nầy, trang , làm
sáng tỏ sự khác biệt giữa uccheda-diṭṭhi, chủ thuyết
đoạn kiến, tức loại
tà kiến chủ trương rằng sau khi kiếp sống của một
chúng sanh chấm dứt thì
chúng sanh ấy
hoàn toàn tuyệt diệt, và Nibbāna,
Niết Bàn. Những người
tin theo tà kiến nầy
lầm lạc nghĩ rằng sự
chấm dứt cuộc sống và
Niết Bàn là như nhau, nhưng
hiểu biết như thế
hoàn toàn sai lầm. Trong
thực tế cả hai khác biệt nhau hẳn.
Về khái niệm
đoạn kiến (ucchedadiṭṭhi),
vào khoảng năm 1971 có lần tôi mời
cộng đồng tập trung lại để nghe
giảng kinh Satipaṭṭhāna Sutta,
Niệm Xứ, và cung thỉnh Ngài Mahasi Dhammakatthikas U Samvara và U Zawtika giúp cho thân bằng
quyến thuộc tôi trong làng được cơ hội nghe
Giáo Pháp. Tôi sắp xếp cho thời Pháp được giảng tại làng Inchaung nơi mà có đông
họ hàng quyến thuộc tôi
cư ngụ. Vào hôm ấy, trong nhóm
thính giả có một người tên Maung Kyi, vốn là một lãnh tụ Đảng Cộng Sản Cờ Đỏ, một người
tin tưởng nhiệt thành nơi
lý thuyết chủ trương không có
đời sống sau kiếp sống
hiện tại. Anh ta là một người trong nhóm
họ hàng với tôi nên cũng đến để chung vui trong cuộc hợp mặt. Hôm ấy Ngài U Samvara và vị
Pháp Sư kia tận tình
thuyết giảng Giáo Pháp và
mọi người rất
hoan hỷ chú tâm lắng nghe.
Maung Kyi được mời và sẵn sàng
giúp một tay trong cuộc lễ, trước sự
ngạc nhiên của
mọi người, vì ai cũng biết rằng anh ta chỉ
tin tưởng vào thuyết chủ trương "không có
đời sống nào sau kiếp nầy".
Vào sáng sớm ngày hôm sau anh lại có mặt tại nhà một người mời tôi đến dùng bửa. Trong dịp nầy Maung Kyi nói với tôi, "Thưa Ông, tôi
chấp nhận quan điểm về
Giáo Pháp mà Ngài U Samvara đề cập đến đêm hôm qua, nhưng xin Ông chớ
hiểu lầm rằng tôi đã theo đạo,
trở thành người
tin tưởng chủ thuyết
tâm linh (nāma). Bởi vì quý vị là
Phật tử, quý vị tin có một kiếp sống trong tương lai, sau kiếp nầy, nên quý vị
cố gắng tạo phước để
thỏa mãn tham vọng cho
kiếp sau. Phần
chúng tôi,
chúng tôi không tin như thế,
chúng tôi không có lòng tham.
Trong đời chúng tôi không tham bất luận gì.
Chúng tôi đã
dập tắt mọi bám níu và mọi
luyến ái vào cuộc sống." Nghe như vậy tôi
suy nghĩ, "Điều nầy
tùy thuộc nơi
quan điểm của mình. Theo
Phật Giáo,
lòng ham muốn và
luyến ái bám vào sự sống chỉ
chấm dứt, hay chỉ được tận diệt, khi ta
trở thành A La Hán. Nếu chưa
giải thoát ra khỏi
bản năng tham ái đeo níu vào kiếp
sinh tồn, nếu còn
tin tưởng mãnh liệt rằng cuộc sống nầy sẽ
tuyệt diệt sau khi chết, ta sẽ sa đọa
địa ngục,
cảnh giới Niraya,
khổ cảnh. Điều đó đúng theo lời dạy của
Đức Phật."
Mặc dầu Maung Kyi cắt đứt mọi
trói buộc và tự tách rời ra khỏi "kiếp sinh tồn", người vợ của ông không thể làm được như vậy. Bà bắt đầu chuẩn bị cho các con vừa lớn lên của ông bà làm
lễ xuất gia sa di (sāmaṇera).
Say đắm trong
niềm tin cuồng tín, Maung Kyi nói với vợ, "Em không cần
thực hành bất luận
nghi lễ gì để cầu phước cho anh được hưởng trong
kiếp sau [*]. Nếu em muốn thì tự ý làm gì cũng được để cầu phước cho chính em nhưng phần anh, khi
hành lễ xuất gia cho các con, anh không thể đóng
vai trò người
chủ lễ, ôm
bình bát và cầm quạt, đưa mấy sa-di đến chùa".
Bà vợ đáp lời, "Không có một người đứng ra làm
chủ lễ ắt tôi không thể hướng dẫn mấy sa-di. Nếu anh không chịu, tôi sẽ thuê một người đóng vai
chủ lễ và
thực hành những
nghi lễ cần thiết." Nghe vậy Maung Kyi rất
bàng hoàng bực bội, sốt ruột ngồi đứng không yên, không thể
chịu đựng hay
chấp nhận sự
hiện diện của một người được thuê để đóng
vai trò chủ lễ thế mình. Lúc bấy giờ ông ở trong
tình trạng tấn thối
lưỡng nan, rất khó
giải quyết. Về sau tôi có nghe một người trong làng thuật lại
câu chuyện nầy.
Tôi
hoàn toàn tin tưởng rằng những lời dạy cao quý về kinh Anattalakkhaṇa Sutta sẽ làm
tăng trưởng vững chắc kho báu
niềm tin của tất cả quý vị
độc giả và đem nhiều
lợi ích đến quý vị.
U Teiktha,
(Wetlet Masoyein Sayadaw)
Do U Min Swe (Min Kyaw Thu) dịch.
[*] Theo phong tục, con nhỏ xuất gia, sống đời tu sĩ để hồi hướng phước báu cho cha mẹ.
Hồi hướng công đức
Chư Phật tử bốn phương, kẻ công người của, chung cùng ấn tống quyển kinh nầy để tạo phần công đức thanh cao và thành tâm kính dâng đến:
* Tất cả chư Thiên, chư Phạm Thiên và chư Long Vương cùng khắp mười phương thế giới;
* Các bậc Thầy Tổ, từ ngàn xưa đã bước theo dấu chân của Đức Bổn Sư, đã gìn giữ Giáo Pháp, và đã trao truyền nguyên vẹn đến chúng ta;
* Các vị cư sĩ tiền bối, đã dày công hộ trì Tam Bảo, giúp cho Giáo Pháp được truyền thừa đến ngày nay;
* Các đấng ông bà cha mẹ, cữu huyền thất tổ nhiều đời, còn tại tiền hay đã quá vãng; và
* Tất cả chúng sanh trong ba giới bốn loài.
Ngưỡng nguyện Giáo Pháp trường tồn, tất cả chúng sanh đều an vui hạnh phúc trong Chánh Pháp.
Xem bản dịch Anh Ngữ: Anattalakkhana Sutta by Venerable Mahasi SayadawChân thành cám ơn Đạo Hữu Bình Anson
đã gửi tặng bản vi tính (Tâm Diệu, 06-2002).