LỜI ĐẦU SÁCH
Trong giới học Phật, ai cũng biết trong 49 năm hoằng hóa độ sanh, đức Phật tùy theo căn cơ trình độ hiểu biết sâu cạn cao thấp của mỗi chúng sanh mà Ngài thuyết giáo. Mục đích là để cho họ được an vui hạnh phúc trong đời sống. Vì thế mà trong toàn bộ hệ thống giáo điển của Phật giáo có đề cập đến khế lý và khế cơ. Có những bộ kinh chuyên thuyết minh về khế lý như Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa chẳng hạn. Có những kinh chuyên thuyết minh về khế cơ như Kinh Địa Tạng, Kinh A Di Đà v.v... Nói cách khác, có kinh thuộc về Quyền giáo hay Phương tiện giáo. Có kinh thuộc về Thật giáo hay Mãn Tự giáo như Kinh Đại Bát Niết Bàn. Còn các kinh phương tiện thì được gọi là Bán Tự giáo. Nghĩa là những kinh này không đưa hành giả đến chỗ cứu cánh giác ngộ Vô thượng Bồ đề. Nói theo Kinh Pháp Hoa thì tạm phương tiện bày ra cái Hóa thành. Nhưng mục đích nhắm tới là Bảo sở. Nói cách khác, mục đích của đức Phật nhắm tới là đưa các hành giả đến quả vị giác ngộ giải thoát hoàn toàn. Nhưng vì căn cơ của chúng sanh có sai khác nên buộc lòng đức Phật phải tùy cơ mà thuyết giáo có cao thấp khác nhau. Như mưa thì chỉ có một, mà các loại cây cỏ lớn nhỏ cao thấp hấp thụ không đồng. Tuy nhiên, dù có sự sai khác không đồng, nhưng tất cả cũng đều được hấp thụ thấm nhuần nước mưa cả. Tùy theo cỏ cây nhỏ lớn mà có sự hấp thụ nước mưa có khác nhau đó thôi.
Kinh này thuộc về quyền giáo, tức khế cơ. Phật nêu ra những mẫu chuyện ngắn để ẩn dụ. Có thể nói đây là một loại thể tài “ý tại ngôn ngoại”. Nghĩa lý không nằm trong lời nói. Trong các kinh điển Đại thừa, ta thấy có những kinh mà Phật nêu ra có nhiều ẩn dụ trong đó. Tiêu biểu như Kinh Pháp Hoa, trong đó đức Phật muốn ngầm chỉ “Phật Tri Kiến” để cho mọi người tỏ ngộ, nên ở Phẩm thứ XI Phật nêu ra hình ảnh Bảo Tháp lơ lửng ở không trung. Hình
ảnh đó là một ẩn dụ. Nếu chúng ta không hiểu cứ bám vào hình ảnh Bảo Tháp mà phân tích thế này, thế nọ là chúng ta không hiểu được thâm ý của đức Phật. Thế nên, đọc tụng kinh điển Đại thừa mà chúng ta không hiểu rõ những ẩn dụ hay ngụ ngôn, tức ý tại ngôn ngoại này, thì sẽ hiểu sai lệch ý kinh. Không khéo, chúng ta sẽ dễ bị mắc phải cái lỗi sai lầm là mê tín kinh. Cho nên, khi đọc tụng kinh điển thì chúng ta cần phải biết những ẩn dụ mà trong kinh thường nêu ra. Điều này không khác gì trong nhà thiền, các vị Thiền Sư thường chỉ chân lý tuyệt đối cho thiền sinh bằng một hành động biểu trưng kỳ lạ. Như các ngài thường đưa cây phất tử (dụng cụ để phủi bụi) lên rồi hỏi thiền sinh có ngộ chăng? Nếu người bén nhạy, nhân khi Thiền sư dựng
đứng cây Phất tử lên liền nhận lại cái tánh thấy của mình, rồi biểu lộ một hành động khác lạ gì đó, để trình bày sự tỏ ngộ của mình. Còn nếu như mình bị kẹt vào hành động của các ngài, cố nhiên là sẽ bị các ngài đánh lừa mình. Đó là một diệu thuật khai thị tuyệt vời trong nhà thiền. Nghĩa là nhân một hành động nào đó mà ta nhận lại cái chân thật của chính mình, thì gọi người đó là ngộ đạo. Cũng vậy, nương nơi văn tự mà mình không bị dính kẹt vào văn tự, hiểu những gì ngoài ngôn ngữ văn tự biểu hiện, thì đó gọi là “Ý tại ngôn ngoại”. Vì thế mà trong suốt 49 năm thuyết pháp độ sanh, nhưng cuối cùng, đức Phật tuyên bố là ta không có nói lời nào cả. Không nói lời nào, mà về sau chư Tổ kết tập lại thành ba tạng kinh điển. Bởi vì cái chỗ “tuyệt tích vô ngôn”
làm sao nói tới được? Như điện tuy không diễn tả được nhưng nó vẫn hiện hữu cùng khắp. Cái thực thể vô sanh bất diệt cũng như thế.
Kinh này nguyên tác bằng Phạn ngữ chính do Phật nói và ngài Pháp Sư Tăng Già Tư Na sao lục trong kinh tạng. Kinh này cũng có nhiều nhà dịch từ tiếng Hán sang tiếng Việt. Hòa thượng Thích Tâm Châu dịch với danh đề là Phật Học Ngụ Ngôn. Ngài dựa vào bản kinh số 209 trong Đại Tạng Kinh bằng Hán tự mà dịch sang Việt ngữ. Người thứ hai là thầy Thích Tâm Khanh dịch từ Hán sang Việt vào năm 2000. Thầy cho biết người dịch từ Phạn ngữ sang Hán ngữ là tôn giả Cầu Na Tỳ Địa (Gunavadhdhi) người xứ Trung Ấn, dịch vào khoảng năm thứ 10 niên hiệu Vĩnh Minh (493TL). Dĩ nhiên, còn nhiều nhà dịch và giảng giải qua các ngôn ngữ khác nhau mà chúng tôi không tiện nêu ra hết được. Ở đây, chúng tôi chỉ y cứ vào bản dịch Việt ngữ của Ni Sư Thích
Nữ Như Huyền dịch từ bản Hán văn ra Việt văn xuất bản vào năm 1958, như qua lời Tựa giới thiệu của cư sĩ Thuần Phong. Theo trong lời Tựa có đoạn ông viết: “Thầy Thiện Hòa ngỏ ý muốn kinh này được phiên dịch, vì tin tưởng chắc chắn là sẽ có ích lợi nhiều cho người tu học, dầu là cư sĩ hay người xuất gia, cũng như cho người còn xa lạ đối với Phật giáo.” Nay chúng tôi dựa vào bản văn Việt ngữ này mà sao chép lại nguyên văn và đồng thời có thêm lời bình
qua sự nhận xét tìm hiểu đại khái của chúng tôi.
Trong lời nói đầu, dịch giả cho biết, kinh này chỉ có 98 bài thí dụ của Phật nói, do ngài pháp sư Tăng Già Tư Na sao lục trong kinh tạng. Hai thí dụ rốt sau: “Thuốc hay hòa trong đường phèn”. “Dùng lá gói thuốc A Dà Đà” là của pháp sư tự soạn thêm vào để cho đủ con số một trăm điều dụ, gọi là Kinh Bách Dụ. Mỗi bài kinh đều có kèm theo lời Tỷ dụ. Nhằm nói lên cái ẩn ý chính trong bài kinh.
Nhận thấy qua những mẫu chuyện mà đức Phật đã nêu ra, tuy lời văn thô thiển bình dị, nhưng ngụ ý rất cô động súc tích ẩn ý thâm sâu, nên chúng tôi thêm vào lời bình cho câu chuyện thêm phần rõ nghĩa dễ hiểu hơn. Tuy nhiên, tùy theo trình độ hiểu biết của mỗi người mà có những nhận thức qua từng mẫu chuyện sâu cạn, rộng hẹp có khác nhau. Riêng bản thân chúng tôi, dù vẫn biết kiến thức Phật pháp của mình còn thô thiển nông cạn, nhưng vì muốn lợi mình, lợi người nên chúng tôi không ngần ngại đóng góp thêm chút ngu ý thiển cận của mình, hầu để trao đổi chia sẻ cùng quý độc giả trong tinh thần “kiến hòa đồng giải”. Mục đích của chúng tôi chỉ có thế thôi. Trong khi biên soạn bình giải chắc chắn không sao tránh khỏi những sai sót ý tứ vụng về,
nếu có điều chi sai trái, kính mong các bậc Cao minh, Cụ nhãn, Thiện hữu tri thức niệm tình thứ lỗi bỏ qua và chỉ giáo cho. Soạn giả xin chân thành cúi đầu tri ân và đa tạ.
Nhân đây, chúng tôi cũng xin thành kính tri ân Thượng tọa Thích Minh Từ đã giúp cho phần phát họa hình bìa. Thượng tọa Thích Phước Viên đã giúp cho phần kỹ thuật trình bày và in ấn. Chúng tôi cũng không quên kính cảm ơn Sư Cô Phước An và Thức xoa ma na Vạn Tường đã tận tâm giúp cho phần sửa bản in. Đồng thời, chúng tôi cũng xin chân thành tri ân chư Tôn Đức Tăng, Ni, quý liên hữu trong hai đạo tràng: Phước Huệ và Quang Minh, cũng như quý Phật tử xa gần đã phát tâm hỷ cúng tịnh tài góp phần ấn tống quyển kinh này. Chúng tôi xin hết lòng tùy hỷ tán thán công đức của toàn thể liệt quý vị.
Nguyện đem công đức pháp thí này hồi hướng về cho pháp giới chúng sanh đồng trọn thành Phật đạo.
Kính nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia hộ cho chư Tôn liệt vị thân tâm thường lạc, vạn sự hanh thông, tùy tâm mãn nguyện.
Khởi soạn ngày 4/7/2025
Pháp Lạc Thất
Kính ghi
Thích Phước Thái
