Quảng Đức

Trương Hán Siêu: từ chống Phật tới mộ Phật

Trương Hán Siêu: từ chống Phật tới mộ Phật

Nguyên Giác

 Truong Han Sieu 2

Trương Hán Siêu là một trong các nhà Nho nổi tiếng chống phá Phật giáo kịch liệt nhất trong lịch sử Việt Nam. Tuy nhiên, ít người biết rằng nhiều năm cuối đời, từ khi còn trong quan trường, cụ Trương Hán Siêu đã trở thành một người sùng mộ Đạo Phật. Lập trường sùng mộ Phật giáo của cụ Trương chưa được ghi rõ ràng vào trang tiểu sử ở Wikipedia, tính tới thời điểm bài này được viết, tức là tuần lễ đầu của tháng 8/2025.

Theo tiểu sử trên Wikipedia: Trương Hán Siêu (1274 – 1354, tên tự là Thăng Phủ hoặc Thăng Am, hiệu Đôn Tẩu) là một vị quan dưới 4 đời vua nhà Trần, từng giữ các chức: Hàn lâm học sĩ, Hành khiển, Hữu ty lang trung, Tả ty lang trung, Thượng thư; khi mất ông được 2 vua truy tặng chức Thái bảo rồi Thái phó. Ông là một danh nhân văn hóa lớn đời Trần, kiệt tác văn chương nổi tiếng nhất trong sự nghiệp sáng tác của ông là bài Bạch Đằng giang phú (Phú sông Bạch Đằng) – một áng thiên cổ hùng văn rất được lưu truyền.

Trương Hán Siêu quê ở làng Phúc Am, huyện Yên Ninh, lộ Trường Yên (nay là phường Vân Giang, thành phố Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình). Theo chính sử, Trương Hán Siêu xuất thân là môn khách của Trần Hưng Đạo, tính tình cương nghị, học vấn uyên thâm. Lược truyện các tác giả Việt Nam viết: Trương Hán Siêu “lập được nhiều công trạng trong 2 trận đánh giặc Nguyên”; Từ điển văn học ghi: Trương Hán Siêu “có ít nhiều đóng góp trong 2 cuộc kháng chiến chống Nguyên lần thứ 2 và thứ 3”.

Như vậy, Trương Hán Siêu tham dự cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ 2 và thứ 3 khi ông còn trẻ và ông cùng với Nguyễn Trung Ngạn là những vị quan thời Trần thọ hơn 80 tuổi.

Trong Đại Việt sử ký toàn thư, Phan Phu Tiên nhận xét về việc nhà Trần thờ phụng Trương Hán Siêu và Chu Văn An ở Văn miếu như sau: “Bậc danh nho các đời có bài trừ được dị đoan, truyền giữ được đạo thống thì mới được tòng tự ở Văn Miếu, thế là để tỏ rõ đạo học có ngọn nguồn. Nghệ Tông cho Chu An, Trương Hán Siêu được dự vào đó, thì Hán Siêu là người cứng cỏi, bài xích đạo Phật, An sửa mình trong sạch, bền giữ khí tiết, không cầu hiển đạt.”

Trong Wikipedia chỉ ghi một dòng về lập trường Trương Hán Siêu đổi từ chống Phật sang mộ Phật như sau: “Trương Hán Siêu là người rất giỏi võ nghệ, giỏi âm nhạc. Trương Hán Siêu không thích đạo Phật vì ban đầu thấy Trần Ích Tắc cũng mộ đạo Phật nhưng lại không sáng suốt. Sau này thấy các vua quan nhà Trần thích xây chùa hao tốn công quỹ. Mãi về sau ông mới công nhận đạo Phật hay, nhưng theo cách hiểu của ông.

Thế nào là "theo cách hiểu của ông" thì chúng ta không biết. Một điểm ghi nhận rằng Trương Hán Siêu vẫn giữ chức quan cao, trong khi bài bác Phật giáo kịch liệt giữa thời kỳ triểu đình nhà Trần sùng mộ Phật giáo cho thấy các vua nhà Trần không hề kỳ thị tôn giáo, tín ngưỡng.

Bài diễn thuyết sau đây của cụ Đinh Gia Thuyết đăng trên báo Đuốc Tuệ, các trang 16 tới trang 25, trên số 50, ấn bản ngày 24/11/1936, kể thêm nhiều chi tiết về cụ Trương Hán Siêu chuyển từ lập trường chống Phật giáo sang sùng mộ Phật giáo. Tuy nhiên, bản PDF số Đuốc Tuệ này lại thiếu hai trang 21 và 22 giữa bài diễn thuyết. Bài của cụ Đinh Gia Thuyết được chép lại nơi đây để các nhà nghiên cứu tham khảo, tuy là thiếu 2 trang giữa bài. Tất cả cách phát âm cổ (như: nhời thay cho lời; trinh phục thay cho chinh phục) sẽ được giữ y hệt, không đổi.

Bài diễn thuyết như sau:

.... o ....

CỤ TRƯƠNG HÁN SIÊU VỚI PHẬT GIÁO

Bài diễn thuyết của ông Đinh-Gia-Thuyết diễn ở chùa Sơn-thủy (Ninh-Bình)

Thưa các giáo hữu

Chi hội Phật Giáo Ninh Bình chúng la thành lập đã gần một năm nay, theo chương trình của hội, tuần rằm mồng một, bao giờ cũng có ban đạo-sư giảng kinh, ban cư sĩ diễn thuyết. Tôi cũng đã có cái vinh hạnh được bước lên đàn giảng, hầu chuyện các Giáo hữu rồi. Lần này các Giáo hữu lại quá yêu tôi bảo tôi lên hầu chuyện nữa, cái thịnh tình ấy, tôi rất lấy làm cảm kích Tôi thiết nghĩ: Đạo Phật là đạo rộng, cửa thuyền không hẹp gì ai, nói về bên Tăng thời tu bán thế cũng như tu thanh đồng, miễn là nhất tâm trì giới là có thể tu thành chính quả. Nói về bên tại gia, thời ném bỏ con dao làm tbịt trâu đi, cũng có thể tức khắc thành Phật được. Cũng vì thể mà đã bao ngưòi trước báng nhạo Phật, sau tin ngưỡng Phật, cũng được công nhận là tín đồ của Phật, lọ là cứ phải:

Kiếp tu đã nguyện Bồ-đề,

Lòng son bầy mối tóc thề mười phương.

ngay từ lúc mới ra đời.

Do cái quan niệm ãy, buổi tối hôm nay, tôi xin đem câu chuyện “Cau nhà lá vuờn” cống hiến các giáo hữu, đầu đề là:

“CỤ TRƯƠNG-HÁN- SIÊU VỚI PHẬT-GIÁO”

Nói đến cụ Trương Hán Siêu, tôi không cần phải giới-thiệu, đã có núi Dục thúy, núi Hồi hạc, mà cả núi Cánh diều, là nơi chùa Sơn thủy của chúng la tọa lạc, nhắc cho các giáo hữu biết đến cụ, nhớ đến cụ, là một bậc có văn chương sự nghiệp ở trong tỉinh Ninh bình. Cụ chính quê ở Phúc am, một làng phụ cận ngay ở châu thành, đền cụ còn đó, mộ cụ còn kia, không phải người đâu xa lạ. Cụ đỗ Thái học sinh (tức là tiến sĩ) làm đến ngôi Thái phó triều vua Trần minh Tôn, cách đây đã 600 năm lẻ, kể cái đức thông minh cương trực, cái tài kinh lế, học thức. Thời các bậc văn thân đời ấy, hồ đã mấy ai.

 

Đạo Phật đời bấy giờ, có thể cbo là một thời kỳ toàn thịnh trên lịch sử Việt nam, thịnh đến nổi nhà vua làm Sãi, Hoàng hậu làm vãi, các bậc vương công khanh tướng làm sư, khắp nước chỗ nào cũng có tháp, có chùa, hồi chuông dịp mõ, tiếng kệ câu kinh, cơ hồ đã vang trời rậy đất.

Cu Trương hán Siêu nguyên là học trò đạo Khổng, nhưng khốn một nỗi cụ có tính cố chấp là tính mà đức Khổng phu-Tử rất ghét, tôi xin nói nôm là cái tính “gàn.” Tôi sở dĩ đám bạo miệng phê bình một bậc tiên-hiền, cũng là theo ý bài thơ trong Việt-sử- tổng-vịnh của đức Dực-tôn (Tự-Đức), đây xin phép trích 2 câu :

Dục chướng đồ lan học vị thuần,

Chấp tiên ưng quí Tố-Vương thần.

Hai câu thơ ấy, đại ý vua Tự-Đức chê cụ Trương học chưa chín, chưa đáng là đồ-đệ đức thánh Khổng, ấy cũng bởi thế, nên cụ nhận nhầm 4 chữ “Công hồ dị đoan” của đức thánh Khổng, mà cụ cho Phật-giáo là dị-doan, rồi cụ cứ vin mà công kích. Trong bài văn bia chùa Khai-nghiêm Bắc-giang, cụ viết rằng:

“Dựng chùa chẳng có ý gì.

“Khắc bia cũng chẳng việc chi đến minh.

“Thánh-trào đương buổi văn-minh,

“Dị -đoan chớ để dân tình mê say.

“Đạo Nghiêu Thuấn phải bầy cho rõ

“Học Khổng Nhan đương tỏ không mờ,

“Sá gì đạo Phật hư-vô,

“Dổi ai ai đó dễ hồ dối ai?

Đọc bài văn bia ấy, ta có thể tưởng tượng được rằng: Thiên-kiến của cụ Trương-Hán Siêu lúc bấy giờ, chỉ biết có Nghiêu, Thuấn, Khổng, Mạnh, còn Phật -giáo cụ cho là tịch-diệt, là hư vô, cũng như phần nhiều người bấy giờ, đã nhận lầm Phật-giáo chỉ là một phương-pháp dành cho những hạng chán đời, những người thất vọng. Điều đó nó đã rõ rệt ở trong những câu Cung-oán sau này:

“Này mượn thú tiêu giao cửa Phật

“Mối thất tình quyết dứt cho xong.

“Đa mang chi nữa đèo bòng,

“Vui gì thế sự mà mong nhân tình.

Hay là như câu Kiều:

 

“Sớm khuya lá bối phướn mây.

“Thân này gởi với cỏ cây cũng vừa.

“Mùi thuyền đã bén muối dưa

“Áo thuyền ăn mặc đã ưa nâu sông.

“Việc đời đã tắt lửa lòng. ...

Nên dù cả triều nhà Trần, từ Thiên-tử đến tbứ dân, đều tôn-sùng đạo Phật mà cụ thời chẳng những không tôn-sùng Phật, lại bài bác Phật. Rồi cũng như những nhà Nho bài Phật, cụ cho đạo Phật là dẫu “hay tám vạn ngàn tư mặc kệ, không quân thần pbụ tử chẳng ra người”.

Cải thiên kiến hẹp hòi ấy, cố chấp ấy, nếu nó cử triền miền mãi trong đời cụ, ám ảnh mãi trong tâm cụ, thì dù đối với Phật-giảo, tuy chỉ là một tấc mây che mặt trời, mặt trời cũng vẫn không kém sáng, song nói của đáng, việc gì cũng thế, trong mười người mà có một người khác ý kiến, bao giờ cũug có ảnh-hưởug ít nhiều. Nên tôi dám nói rằng: Ví bằng cụ Trương-hán-Siêu cứ theo đuổi cái thuyết “Bài Phật” cho đến phút cuối cùng, thời gì chả biết, chứ ngay núi Dục-thúy của chúng ta, hãy thiệt mất một áng văn kiệt-tác lưu truyền đến bây giờ, tức là bài ký Linh-tế-tháp vậy.

Bài ký Linh-tế-tháp, ngày nay ta còn tbấy trơ trơ nét bút trên vách đá, ta còn thấy phiều nhà thích chơi chữ, có cheo những bức tứ-bình bằng giấy in bài ký ãy, bài ký ấy văn hay chữ tốt, chẳng phải là một tấm bia kỷ - niệm sau khi cụ Trương dã biết sùng đạo Phật đấy ư!

Tôi xin trích dịch một đoạn Linh-tế-tháp-ký sau này:

“...Mùa đông năm ấy, ta ở kinh, nhà sư Trí-Nhu đến nói với ta rằng. Công việc dựng lại tòa Bảo-tbáp, từ năm Đinh-Sửu, niên hiệu Khai hựu đến nay đã 6 năm, bây giờ mới xong- xin ông làm cho bài ký. Công đức Phật tổ, không có thể tư nghị, kết quả của sự báo ứng cũng thế, vì lúc mới sắp dựng tháp, sư cụ Đức phủ có nằm mộng thấy hơn một nghìn người tụ họp ở chân núi, trong đó có 3 vị tướng mạo rất kỳ dị, bảo với mọi người rằng: các ngươi nên biết dựng tháp là một việc rất hay của Tăng-đồ nhà Phật. Đến khi khởi công, sư cụ Đức uyên lại nằm mộng, thấy đức Trúc Lâm Pbật Tuệ đứng trấn áp việc dựng tháp. Lúc nhà sư Đức Tĩnh Đức Minh coi thợ xây cửa tháp, vô tình giun đổ một tảng đá lớp, hai nhà sư cũng ngã theo. Mọi người đứng xem ai cũng sợ thay cho hai nhà sư, vì từ đỉnh núi rơi xuống đến chân, thế nào cũng thịt nát xương tan, ấy thế mà không hề xây xát. Khi đã nổi lên 4 tầng Bảo tháp, trời có hào quang suốt đêm sáng rực, xa gần đều trông thấy. Phàm những việc ấy, đều là nhờ sức thần thông của đức Phật Như Lai. Và tôi nghe ngày xưa vua A Dục, dùng sức quỷ thần dựng 8 vạn 4 nghìn cây tháp, người đến chiêm lễ, như trông thấy Phật hiện tbân, những nét kbắc vẽ ở tháp, đều khu trừ được yêu tà quỷ quái. Những việc như thế, há phải là hoang đãn, trước sau đều phù bợp với nhau...»

Đoạn này là cụ Trương-hán- Siêu thuật theo nhời nói của nhà sư Trí-Nhu, cụ là một nhà đại học-vấn, khởi hữu lại không biết “những nhời mộng ảo cứ đâu,” mà cũng đem thuật cả vào bài ký. Đó chẳng qua là sau khi cụ đã tỉnh ngộ, đã biết sùng Phật, không bài Phật nữa, thời lẽ tất nhiên là đã biết kính Phật, tất phải trọng Tăng. Cho nên cũng trong bài ký ấy, lại có một đoạn cụ viết rằng:

“Nhà sư Trí-Nhu là thị giả của đức Phổ-Tuệ, học được pháp tủy của Trúc-Lâm tôn-tổ, tu hành đắc đạo, nên mới làm nên những công quả lớn lao...”

Trong sử không chép rõ cụ Trương-hán-Siêu đổi ý kiến bài Phật ra sùng Phật từ lúc nào, nhưng cứ col bài ký Linh-tế-tháp, khác hẳn với bài bia chùa Khai-nghiêm, và lúc cụ viết bài ký ấy về đời Thiệu phong nhà Trần, chính đương vào lúc cụ làm Nhập nội hành khiển, là chức quan Nội-các nhà Trần, thời đủ rõ sự qui hướng đạo Phật của cụ ngay khi cụ tại Triều, còn đang sốt sắng hăng-hái với tấm lòng hoài-bão trí-quản trạch-dân, chứ không phải sau khi cụ đã về hưu, mới có cái tư tưởng “già vui chùa” như tục ngữ đã nói.

Sau khi cụ về hưu, thời đối với Phật-giáo, cụ lại càng, mộ lắm, chẳng những ở cảnh Linh-tế-tháp, Linh-quang-động chẳng có mấy ngày cụ không lui tới, mà các chùa Bàn-long, Địch-lộng, Vân-trìnb, Bích-động, hầu khắp là có dấu vết đăng lâm của cụ.

Khi cụ về ẩn cư núi Dục-thủy, cụ đề một bài thơ, đây tôi xin trích lấy 4 câu:

“Trung lưu quang tháp ảnh.

“Thượng giới khải nham phi.

“Phù thế như kim biệt.

“Nhân thân ngộ tạc phi.”

Dịch rằng :

Long-lanh bóng tháp giữa giòng.

Cửa hang đá hé trên không bao giờ.

.

(Hết trang 20. THIẾU 2 TRANG 21, 22. Từ đây bắt đầu trang 23.)

.

Cứ như Hộ-pháp-luận phân biện Nho-giáo với Phật-giáo, bằng những tính cách tương phản trên kia, thời Nho với Phật có khác nhau, song lấy toàn thể mà nói, thời Nho với Phật cũng có nhiều chỗ giống nhau. Trong bài diễn văn của cụ Thượng Phan đọc tại chùa Cả đã có nói qua về cái vấn đề to tát ấy.

Vậy xin phép trở lại câu chuyên buổi tối nay:

Cụ Trương-hán-Siêu với Phật-giáo, trước hết sức công-kích, sau đem lòng tin sùng, chẳng phải là ý kiến của cụ thủy chung bất nhất, mà chính là bởi đạo lý của Phật cảm ứng linh thông, Kinh có câu rằng :

“Bất hữu đại từ-bi, bất túc vi Phật, Phất hữu đại uy lực, diệc bất túc vi pbật, vị kỳ hữu đại từ-bi, đại uy-lực, cố năng thành tế-độ chi công”.

 

Nghĩa là : Chẳng có tấm lòng đại từ đại bi, chẳng đủ làm Phật, cbẳng có uy sức nhớn cũng chẳng đủ làm Phật, bởi vi có đại từ-bi, đại uy-lực, nên mới thành được cái công quả tế-độ chúng-sinh.

Đọc câu kinh này, nhân câu chuyện này, đủ biết cái từ tâm của Phật, cái uy-lực của Phật, chẳng những chỉ tế-độ được chúng-sinh, mà Phật còn cảm-hóa dược cả mọi người, người ác có thể cảm-hóa ra thiện, người gian có thể cảm-hóa ra ngay, người hư có thể cảm-hóa ra người tốt, người dở có thể cảm-hóa ra người hay. Ác hóa thiện, gian hóa ngay, hư hóa tốt, dở hóa hay, Pbật có cầm roi hay cả tiếng mà nộ nạt, mà đe đọa ai đâu, chẳng qua cũng chỉ lấy từ-bi bác-ái lân mẫn quảng đại, là những phương-pháp rất nhiệm-mầu mà “khải kỳ trung”, nghĩa là khai tâm khai tính cho chúng-sinh đó mà thôi. Cũng bởi tbế nên Cụ Trương hán-Siêu, theo sử chép, thời là một người “Cốt-ngạnh” nghĩa là cương-quyết giắn-giỏi không chịu ai, mà cũng đến phải quy y hồi-hướng. Đồng thời với cụ Trương còn có một ông bạn rất mực ương gàn, là cụ Trần- kiến. Sử chép Cụ Trần-kiến làm quan Ngự-Sử, giữ chức can ngăn nhà vua trong khi làm điều không chính đáng, và tham hặc các quan văn võ, trong khi có điều gì lầm lỗi. Cả Triều nhà Trần ai cũng sợ cụ, đã tặng cho cụ cái sước-hiệu là “Sư-kiến”. Sư đây là Sư-tử, nghĩa là bảo cụ dữ dội như con sư-tử, chứ không phải sư cụ, sư-ông hay sư bác, sư-chú thuộc về ban đạo-sư chúng ta đâu. Câu chuyện sau này, làm chứng cho cái tính rất ương gàn của cụ.

Một hôm có một nhà ở ngoài phố, đem biếu cụ một mâm cỗ, cụ hỏi có việc gì mà đem biếu. Người ấy giả nhời nhà có dỗ, vi là chỗ hàng xóm láng giềng với cụ, nên đem biếu cụ, chớ không có cầu cạnh sự gì. Bấy giờ nhân có cụ Trương đến chơi, cụ liền nhận mâm cỗ ấy mời cụ Trương uống rượu. Đến hôm sau, cái người đem biếu mâm cỗ ấy, vào xin với cụ cho đứa con trai làm môn hạ. Cụ không từ chối mà cũng không nhận hay bảo ban sao cả, chỉ thò ngay tay vào cổ họng, móc cho nôn mửa, cho kỳ mửa đến mật xanh mật đỏ, rồi cụ mới bảo người ấy: đấy, cỗ của nhà anh đem cho tôi hôm qua đấy, tôi xin trả lại anh. Câu chuyện ãy, đồn đi khắp châu thành, từ vua quan cho đến dân, ai nghe cũng phải ôm bụng mà cười, ãy thế mà cụ vẫn tự cao tự đại, trứ cụ Trương ra, thời cụ chẳng hề giao du với một ai. Cụ với cụ Trương, cùng thi nhau mà bài Phật. Trong việc vua Trần-minh-Tôn trùng tu tòa chùa Quỳnh-lâm, phí tổn mất hơn 9 nghin lượng bạc, cụ đã dâng sớ phản đổi rất kịch liệt, nếu không được nhà vua đại-lượng, thời cái nạn “Sáng dâng biểu tấu sân rồng, ban chiều bị biếm nghìn trùng sơn khê” của ông Hàn-Dũ đời nhà Đường, cụ sẽ không tài nào tránh khỏi. Sau chẳng biết thế nào, mà cụ với cụ Trương. lại cùng nhau mộ Phật. Ta đọc câu thơ cụ tặng nhà sư Phổ-minh chùa An-lãng, đủ biết cụ mộ Phật là thể nào.

Bài thơ này có chép trong Hoàng- việt -văn-Tuyển, tôi xin trích 4 câu :

Ẩn bất lâm thuyền chân đại ẩn,

Tu ư gia tự tức chân tu,

Thử nhật tham thuyền như mộng giác.

Hưu tương vãng sự quái Trào châu,

Xin dịch rằng :

 

Ẩn cư lọ cứ lâm-tuyền,

Chùa nhà tu mới thực niềm chân-tu.

Cửa thuyền nhân buổi tham du.

Thôi đừng ngờ khách Trào-châu nữa mà.

Trào-châu tức là cụ-nhắc lại việc ông Hàn-dũ dâng bài Phật cốt biểu mà bị biểm, trên kia tôi đã nói.

Ấy đấy, như những ông cụ ấy, mà Phật-giáo cảm hóa được, trinh phục nổi, thời lọ là ta phải tán-dương, phải cổ-động. Ta chỉ nên thành tâm mộ Phật, góp sức về chấn-hưng Phật-giáo là tôn-chỉ của hội ta vậy.

Cho được kết lại câu chuyện tôi cống hiến các ngài, tôi xin cùng liệt vị thính-giả đồng thanh lãng tụng câu kệ này:

Nguyện dĩ thử công đức.

Phả cập ư nhất thiết,

Ngã đẳng giữ chúng sinh.

Giai cộng thành Phật đạo.

Xin đem công đức Như lai.

Tu thành đạo Phật cùng loài chúng sinh.

Nam- mô A-di-đà-phật

ĐINH-GIA-THUYẾT

(Hết bài diễn thuyết của cụ Đinh Gia Thuyết)

THAM KHẢO:

-- Đuốc Tuệ, số 50, ngày 24/11/1936:

https://tulieuphatgiao.vn/data/uploads/duoctue/TapChiDuocTue-So050.pdf

-- Wikipedia, Trương Hán Siêu:

https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%C6%B0%C6%A1ng_H%C3%A1n_Si%C3%AAu