Tháng 10 năm 2010 vừa qua, nhà xuất bản Nil vừa phát hành một quyển sáchrất công phu dầy hơn 400 trang của nhà sư người Pháp, Matthieu Ricard, góp nhặtnhững đoạn hay nhất trong kinh sách Tây tạng mà ông có dịp chuyển ngữ từ vài chụcnăm nay. Dưới đây là bản dịch một chương ngắn liên quan đến vô thường và cái chết.Sách mang tựa đề là "Những con đườngtâm linh, tuyển tập nhỏ về những đoản văn xuất sắc nhất của kinh sách Tây tạng"(Chemin spirituels, Petite anthologie desplus beaux textes tibétains).
Mỗi giây phút trong cuộc sống đều tượng trưng cho một giá trị vô biên.Thế nhưng chúng ta lại cứ để cho thời gian trôi đi như những hạt cát vàng lọt quakẻ hở của bàn tay. Chẳng có gì đáng buồn hơn khi thấy đôi bàn tay trắng vào cuốiđời mình. Hãy ý thức sự quý báu của từng giây phút trong cuộc sống. Nên sử dụngnhững giây phút ấy một cách hữu hiệu hầu mang lại sự tốt lành cho ta và cho ngườikhác. Trước hết phải xóa bỏ mọi ảo giác khiến ta tin rằng "còn cả một cuộcđời trước mặt". Sự sống của ta trôi đi như một giấc mơ, một lúc nào đó nósẽ dừng lại mà ta không hề hay biết. Không nên nấn ná hãy sử dụng những giâyphút còn lại một cách thiết thật nhất để khỏi hối hận khi lìa đời. Tu tập đểphát huy những phẩm tính nội tâm không bao giờ là một việc quá sớm.
Bảnchất phù du của mọi hiện tượng được thể hiện dưới hai dạng khác nhau : thứ nhấtlà vô thường thô thiển - chẳng hạn như mùa màng đổi thay, núi non sụp lở, thânxác già nua, xúc cảm trồi sụt - thứ hai là vô thường tinh tế, phát hiện trong từngđơn vị nhỏ bé nhất của thời gian. Trong từng khoảnh khắc cực vi tất cả những gìdù bề ngoài có vẻ bền vững thì thực ra cũng đều không tránh khỏi sự đổi thay.Phật giáo xem thể dạng vô thường tinh tế tương tợ như một giấc mơ, một ảo ảnh,một dòng lưu chuyển vô tận không thể nắm bắt được.
Người tu tập phải thường xuyên ghi nhớ trong tâm trí mình ý nghĩ về cáichết, tuy nhiên không phải vì thế mà người ấy phải buồn khổ và u sầu, trái lại ýnghĩ ấy luôn nhắc nhở họ không nên phí phạm những giây phút trong cuộc sống nàymà hãy sử dụng chúng để biến cải nội tâm mình, đúng như những gì mà mình mong ước.Ta thường có xu hướng tự nhủ : "Tôi phải thanh toán cho xong các công việcđang chờ đợi và hoàn tất các dự án dở dang, sau đó mới mở mắt ra được để lo đếnđời sống tâm linh." Tuy nhiên đấy chỉ là một cách nguy hại nhất để tự đánhlừa mình cái chết là một chuyện hiển nhiên, chỉ có điều là ta không thể biếttrước nó sẽ đến lúc nào và trong bối cảnh nào. Trong cuộc sống thường nhật, dùtrong cảnh huống nào chẳng hạn như đang đi, đang ăn hay đang ngủ... tất cả đềucó thể bất thần biến thành nguyên nhân đưa đến cái chết. Đấy là những gì mà ngườitu tập chân chính phải luôn ghi nhớ. Ở Tây tạng, các nhà tu ẩn dật khi nhóm bếplúc tinh sương đều tự nhắc nhở lấy mình là biết đâu sáng mai mình sẽ không còn ngồiđây để nhóm thêm một bếp lửa mới. Sau mỗi hơi thở ra họ đều nghĩ rằng mình vẫn cònmay mắn để hít vào một hơi thở mới. Ý nghĩ về cái chết và vô thường là động cơkhích lệ họ chú tâm hơn vào việc tu tập hằng ngày.
LONG THỤ (NAGARJUNA - Thế kỷ thứ I) (1)DILGO KHYENTSÉ RINPOCHÉ (1910 1991) (3)
Như lượng dầu trong chiếcđèn luôn vơi dần, mọi sự trên thế gian mỗi lúc một gần hơn với hồi chung cuộc.Thật vô cùng ngây thơ khi nghĩ rằng có thể hoàn tất các công việc dở dang và sauđó sẽ dành quãng đời còn lại của mình để tu tập Đạo Pháp. Có chắc là ta còn sốngđến lúc ấy hay không ? Cái chết có thể đến bất cứ lúc nào không phân biệt là giàtrẻ lớn bé ! Dù đang làm gì thì ta cũng nên nhớ là mình sẽ chết và luôn tự nhắcnhở mình về điều này trên Đường tu tập [...] Một kẻ tội phạm bị truy nã không cómột giây phút nào được yên tâm; lúc nào y cũng lo sợ, phải nghĩ ra trăm ngàn kếđể trốn tránh sự trừng phạt. Chắc chắn ta sẽ không thấy người ấy mải mê phác họasơ đồ để thiết kế một căn nhà mới cho mình. Làm thế nào ta có thể lơ là khi cáichết đang rình rập trong từng giây phút ? Vậy chỉ còn cách tu tập Đạo Pháp ngaytừ giờ phút này, hầu giúp ta biến cái chết thành một người bạn. [...]
Tất cả mọi thứ đều có hạnkỳ. Người nông dân hiểu rõ điều này, họ canh chừng để biết lúc nào cần phải cày,phải gieo hay phải gặt, họ chuẩn bị mọi thứ khi cần đến. Trong lúc ta đang hội đủmọi điều kiện thuận lợi và gặp được một vị thầy chân chính chỉ dạy, chẳng lẽ talại bỏ hoang cánh đồng giải thoát của mình ?
Các kiếp sống tương laiđang chờ đợi ta một con đường thật dài cái chết chỉ là một ngưỡng cửa phải bướcqua. Ta sẽ bước một mình qua cái ngưỡng cửa ấy, họa may sự tu tập và lòng tin tưởngnơi vị thầy của mình là những gì duy nhất có thể giúp ta trước ngưỡng cửa đó.Cha mẹ, bạn hữu, uy quyền, của cải và những gì ta thường coi trọng đều phải bỏlại.
Nếu cứ để cho công việclặt vặt làm mất hết thì giờ đến khi hấp hối ta sẽ hối tiếc và sợ hãi sẽ xâm chiếmlấy mình, tương tợ như một tên trộm bị nhốt vào ngục và tự hỏi số phận mình sẽra sao. Mật-lặc-nhật-ba (Milarépa) có nói với người thợ săn Gonpo Dordjé như thếnày : "Hãy đặt lòng tôn kính vững chắc vào Thầy mình và Tam Bảo dù cho phảimất tất cả, nhưng ngươi sẽ sống và sẽ chết trong an bình và lòng tràn ngập hânhoan".
LIÊN HOA SINH (PADMASAMBHAVA, thếkỷ thứ VIII - IX) (4)
Sự sống trôi nhanh như những đám mây mùa thu ;DILGO KHYENTSÉ RINPOCHÉ (1910 -1991) (5)
Xuân đến các hạt giốngnẩy mầm. Hè sang các cây non vươn lên, trổ lá và đơm hoa. Sang thu hoa mầu chínrộ, mùa gặt hái bắt đầu. Đông về lại xới đất để chờ xuân năm sau. Từng thángcon trăng lên cao và khuất đi, từng ngày mặt trời mọc rồi lại lặn mất, tất cảbiến đổi không ngừng. Chiều tối, rộn rã tiếng ca và điệu nhảy của hàng nghìnquan khách ; hừng đông, hoang vắng và yên lặng. Sau những phút ngắn ngủi của mộtđêm lễ hội, những kẻ trác táng đến gần hơn một chút với giây phút lâm chung..
SHECHEN GYALTSAP (1871 - 1926)(6)
Giữa những đám mây ảo giác và phù du,GOUNTHANG TENPAI DRÖNMÉ (1762 - 1823) (7)
Trong dòng nước xanh biếc đang nhảy múa,TENNYI LINGPA (1480 - 1535) (8)
Suy tư về Vôthường
Hãy tưởng tượng bỗng thấymình trơ trọi trong một nơi xa lạ, chẳng biết từ đâu đến và cũng chẳng biết mìnhphải đi đâu. Ta lạc vào một thung lũng thật buồn thảm hướng về phương bắc, mặtđất đen xì rải rác những di tích đổ nát màu gạch đỏ, không một bóng người, từ xavọng lại tiếng ầm ầm của thác đổ từ các vách đá của những ngọn núi âm u. Các tảngđá sụp lở lăn xuống phá vỡ cả triền núi cao, gió rít trong cỏ dại, một đàn ác thúđang tranh nhau cấu xé một xác chết. Tiếng sủa ăng ẳng của chó rừng hòa lẫn vớitiếc oang oác của lũ quạ và tiếng kêu than của loài chim cú. Đỉnh núi giống nhưnhững lưỡi nhọn đâm thủng cả bầu trời , gió hú, mặt trời lặn xuống sau rặng núi,bóng tối dầy đặc tỏa rộng khắp nơi.
Lạc lõng, không bạn đồnghành, tôi chẳng biết mình đang ở đâu và phải đi về đâu. Vô cùng thất vọng tôichỉ biết than vãn một mình : "Thật thảm thương, tôi đang ở đâu thế này ? Concái tôi đâu rồi ? Cha mẹ tôi ? Của cải tôi ? Xứ sở tôi ? Thật vô cùng kinh hoàng!"
Tôi hoang mang muốn bướcđi, nhưng vừa nhấc chân lên đã vấp té và ngã lăn xuống một vực sâu. Đang khi rơitôi bỗng nắm được một bụi cỏ mọc trên một ghềnh đá cheo leo. Tôi nắm chặt chùm cỏ,tuyệt vọng và lơ lửng trong không trung. Nhìn xuống, hun hút không thấy đáy vựcđâu cả, nhìn lên vách đá phẳng lì như một tấm gương vút lên tận trời xanh. Giórít bên tai. Bỗng nhiên phía bên phải của bụi cỏ từ một kẻ hở trong phiến đá cómột con chuột trắng chui ra cắn một cọng cỏ và tha vào hang. Bên trái bụi cỏ lạixuất hiện một con chuột đen cắn một cọng cỏ và tha vào một hang khác. Cả haicon thay nhau cắn từng cọng cỏ mang đi, bụi cỏ thưa dần, (hai con chuột một trắng và một đen tượngtrưng cho ngày và đêm đang làm cho cuộc sống của ta ngắn lại).
Không có cách nào đuổi hai con chuột, tôi kinh hoàng nghĩ đến cái chết gầnkề : "Thế là giây phút cuối cùng đã đến". Chung quanh chẳng có bóng dángmột ai cho tôi cầu cứu. "Trước đây tôi không hề nghĩ đến tôi sẽ chết và khônghề chú tâm vào việc tu tập Đạo Pháp. Tôi không nghĩ phải giáp mặt với cái chếtsớm như vậy, thế nhưng nó lại đang hiện diện trước mặt. Tôi sẽ không còn nhìnthấy các con tôi, bạn hữu tôi, của cải và quê hương tôi. Trước đây tôi chỉ biếtgom góp của cải và không hề quan tâm đến những gì tốt đẹp hơn, để rồi giờ đây tôiphải bỏ lại tất cả để đơn độc lạc vào một nơi mà tôi không biết đấy là đâu. Thậtkinh hoàng ! Làm thế nào để thoát khỏi số phận thảm thương này ? Còn có một chútmay mắn nào giúp tôi ra thoát hay chăng ?"
Bỗng nhiên Thầy tôi hiệnra trên bầu trời, mang sáu món trang sức bằng xương, ngồi trên tòa sen cạnh mộtvầng trăng, đang lắc chuông và đánh vào một cái trống nhỏ (đấy là các biểu tượng mà người Thầy muốn gợilại cho người đệ tử : hoa sen tượng trưng cho cuộc sống thế tục nhưng vẫn giữđược sự thanh cao, mặt trăng tượng trưng cho lòng từ bi, sáu món trang sức bằngxương tượng trưng cho sáu phẩm hạnh siêu nhiên, chuông nhỏ tượng trưng cho trítuệ, cái trống tượng trưng cho Đại Phúc hạnh). Thầy tôi múa một cáchthật oai nghi trong không trung và nói với tôi :
"Bất hạnh thay ! Hiệntượng vô thường đang làm con biến mất. Mùa màng trôi nhanh, tất cả mọi người dùbạn hay thù đều già nua và phải chết. Tuổi trẻ cũng tàn phế theo từng tháng, từngngày. Không có cách nào để đẩy xa cái chết, tuy nhiên nếu con nghĩ rằng còn cóthể ra thoát thì hãy nhìn vào cảnh huống của con trong lúc này và tức khắc khôngđược chậm trễ hãy chú tâm nghe thầy dặn bảo với tất cả sự tôn kính."
Khi nghe những lời nói ấytôi thét lên : "Tiếc thay ! con đang đứng trước ngưỡng cửa cái chết và rấthối hận vì trước kia con không chuyên cần tu tập để biến cải tâm thức mình. Dùphải chết hay được sống còn, con xin đặt số phận con vào tay Thầy và Tam Bảo.Xin Thầy và Tam Bảo tràn đầy lòng từ bi hãy giải thoát cho con khỏi vực thẳm vàchu kỳ hiện hữu ! Thầy là hiện thân của Tam bảo, con xin đặt số phận con trongtay Thầy !".
Khi những lời cầu khẩn xuấtphát từ nơi sâu thẳm của đáy lòng ta hướng vào vị Thầy thì một tia sáng cũng phátra từ tim của vị Thầy rọi thẳng vào tim ta đúng vào lúc mà chùm cỏ đang treo lơlửng sinh mạng mình sắp đứt hết . Tia sáng kéo ta ra khỏi vực thẳm và đưa ta vàomảnh đất tinh khiết của Đại Phúc Hạnh. Vô lượng tia sáng khác sẽ phát ra từ timta để tiếp dẫn chúng sinh trong ba cõi của thế giới ta-bà, không bỏ sót một chúngsinh nào, tất cả đều cùng ta bước vào mảnh đất tinh khiết của Đại Phúc Hạnh. Hãysuy tư như thế để phát huy lòng từ bi cực mạnh.
ĐỨC PHẬT THÍCH-CA MÂU-NI (Thế kỷ thứ V trước Tây lịch) (9)Bước đầu ta phải khiếp sợsự sinh và cái chết, như một con hươu vừa thoát bẫy. Giữa đường, ta không nên hốitiếc bất cứ điều gì dù đấy là cái chết của mình, giản dị như người nông dân vừalàm xong công việc đồng áng. Bước vào đoạn cuối của con đường, ta hãy hân hoannhư một người vừa hoàn tất một công việc thật bao la [...]
Cần nhất phải hiểu rằngkhông được chậm trễ, phải khẩn cấp như ta vừa bị một mũi tên đâm trúng vào một chỗnhược trên thân mình.
MẬT-LẶC-NHẬT-BA (MILARÉPA, 1040 - 1123) (13)
Khiếp sợ trước cái chết, tôi đi vào các vùng núi non,*(một trăm ngày là thời gian giữamùa hè và mùa thu)
PATRUL RINPOCHÉ (1808 - 1887) (15)
Bất hạnh thay cho chúng ta còn vướng mắc trong ảo giác,Cuộc gặp gỡ giữa Patrul Rinpoché và TcheuyingRangdrol (16)
(Patrul Rinpoché làtác giả bài thơ trên đây)
Một hôm nhà sư ẩn dật vàphiêu bạt Patrul Rinpoché cùng với một người bạn là Péma Dorjé đến viếng ngôichùa Kathok. Họ men theo con đường mòn bên bờ Hồ Đen, vượt qua các băng hà trêndãy núi Thromgo. Sau cùng họ trèo lên được ngọn Núi Thiêng, ngọn núi có một triềndốc thẳng băng gọi là Nữ Hoàng của các Vách đá Hung ác.
Triền núi này là nơi ẩndật của một vị đại thiền sư tên là Tcheuying Rangdrol. Tcheuying Randrol sống ẩndật gần như suốt đời mình. Tuy không được học hành cao siêu nhưng đã thấu triệtđược con đường thiền định của Đại Phúc Hạnh. Quần áo vỏn vẹn một tấm da cừu khoácngoài đã cũ và mòn nhẵn, bên trong là một manh áo mong manh mà cổ áo lại khâu ngượcra ngoài. Ông chưa bao giờ đi đâu cả, ngày ngày chỉ ngồi yên trên một manh chiếuđể lắng sâu vào thiền định.
Patrul Rinpoché và PémaDorjé trèo đến nơi và gặp Tcheuying Randrol đang thiền định. Patrul Rinpoché phủphục xuống đất và lạy Tcheuying Randrol ba lạy, sau đó ông xin TcheuyingRandrol giảng dạy cho mình giáo lý về Bảnthể của Không gian Rạng rỡ, theo đúng truyền thống của dòng truyền thụ tâmlinh thuộc các vị tổ trụ trì của chùa Kathok.
Ngày đầu tiên, TcheuyingRangdrol chắp tay trước ngực xướng lên vài tiết trong giáo lý, sau đó thì lập lạithật chậm rãi ba lần câu thứ nhất như sau :
"Thật đáng tiếc,
Quả rất khó để có thể kết hợp giữacác thể dạng tự do và sự ràng buộc của các điều kiện,
Cần thiết cho sự hiển lộ của Giácngộ."
Thế rồi nước mắt tuôntrào xuống hai má của ông. Patrul Rinpoché cũng bật khóc theo và sau đóTcheuying Rangdrol giữ yên lặng một lúc lâu và buổi giảng chấm dứt.
Sang hôm sau, TcheuyingRangdrol lại tiếp tục giảng dạy theo cách đó, ông không phân tích văn bản mà đithẳng vào kinh nghiệm do chính ông đã đạt được. Sau đây là câu ông xướng lên :
"Sự sống của chúng sinh đổ xuống như một thácnước trên đỉnh núi!"
Ông chắp hay tay trướcngực và khóc, ông giữ yên lặng một lúc rồi lại xướng lên :
"Phải coi trọng những điều kiện thuận lợi đangcó và sự tự do mà mình đang được hưởng.
Đừngphung phí một cách vô ích cuộc sống này!"
Nhìn thấy thế PémaDorjé nghĩ rằng : "Thật hết sức lạlùng ! Một vị Thầy như Patrul Rinpoché đã thấu triệt toàn thể các giáo lý mà lạithân hành đến đây để tiếp nhận một sự giảng dạy sơ đẳng đến thế ! Thế nhưng chỉcần đơn giản nhắc đến sự hiếm hoi đượclàm thân con người mà cả Thầy lẫn trò phải ôm nhau mà khóc. Thật tôi chẳng hiểugì cả".
(Trong buổi thuyết giảngđầu tiên, Cheuying Randrol nêu lên sự khó khăn trong việc tu tập khi phải mangthân xác trói buộc của con người, thế nhưng làm con người là một điều kiện cầnthiết để tu tập, lời thuyết giảng ấy đã làm cho ông động lòng trắc ẩn đối vớichúng sinh và bật khóc. Patrul Rinpoché cảm nhận được những xúc cảm từ bi ấytrong lòng của Cheuying Randrol nên cũng khóc theo. Hôm sau Cheuying Randrolnêu lên số phận của chúng sinh cùng sự hiếm hoi và quý báu được làm thân conngười. Niềm hân hoan đó, sự giác ngộ đó đã làm cho ông lại bật khóc. PatrulRinpoché bất chợt cũng cảm nhận được sự hiếm hoi và quý giá ấy khi được làm thâncon người để tu tập, khiến ông cũng khóc theo. Lòng từ bi và sự giác ngộ tronglòng hai ông tương tợ như những dây đàn căng thẳng trong yên lặng, chỉ cần mộtlời giảng xướng lên chạm nhẹ vào dây đàn cũng khiến cho những giọt nước mắttrào ra. Hai vị đại sư không đủ sức kiềm chế lòng từ bi và sự giác ngộ bùng lênthật mãnh liệt trong lòng mình nên đã ôm nhau mà khóc).
Bures-Sur-Yvette, 04.11.10
HoangPhongchuyển ngữ
Thư Tịch:
1- Nagarjuna,"Lá thư viết cho một người bạn","Shes pa'a spring yig", tiết55.
2- Tiếtthơ này được trích dẫn trong rất nhiều kinh sách Tây tạng.
3- Tríchtrong "Một trăm lời khuyên củaPadampa Sangyé", Padmakara, 2003, lời bình của tiết thơ 33.
4- DoSchechen Gyaltsap trích dẫn trong "Thegpa chen po'i blo sbyong gi man ngag zab don sbrang stsi'i bum bzang", Vol. 6 (Cha), trong "Colected works of zhe chen rgyal tshab padma rnam rgyal",nhà xuất bản Shechen Publications, New Delhi, 1975-1985.
5- Đãtrích dẫn (op. cit.) ghi chú 4, tr. 73.
6- Tríchtrong tập "Byang chub kyi sems bsgompa'i rim pa bdag 'dzin 'dzoms pa'i sman chen" trong "Collectedworks of zhe chen rgyal tshab padma rnamrgyal", đã trích dẫn (op. cit.) ghi chú 5, Vol.5, tr. 41-56.
7- Tríchtrong tập "Chants de la vision pure,une anthologie de la poésie mystique tibétaine" ("Những bài hát về sự quán thấy tinh khiết, hợptuyển thi tập thần bí Tây tạng"), do Thupten Jinpa tuyển chọn và dịchthuật, Cathérine Saint-Guily chuyển ngữ tiếng Pháp, Éditions Kunchap, 2004,tr.51.
8- TennyiLingpa, Péma Tséwang Gyalpo (bstan gnyis gling pa padma tshe dbang rgyal po,1080-1535). Tuyển tập Kungzang Nyingthig (kunbzang snying thig), trích dẫn trong "gter gsar rdzogs chen gyi khrid, yig ma rig mun sel ye shes sgron me de"của Chögyal Ngakyi Wangpo, Ngawang Dargyé (chosrgyal ngag gi dbang po ngagdbang darr gyas, 1736-1807), Paro, Ngodrup Lamaand Sherab Demy, 1979, tr. 53-63.
9- Đức PhậtThích-Ca Mâu-ni, Udanavarga(Ched du mjod pa'i mtshoms) (Tự Thuyết Kinhhay Ưu-đà-na Kinh), trong tập các tiết kinh do Dharmatrata (Đạt-ma Đa-la,đầu thế kỷ thứ IV) kết tập.
10- Đạt-laiLạt-ma thứ VII, Kelzang Gyatso (Skal bzang rgya mtsho, 1708-1757), theo bản dịchtiếng Anh của Glenn Mullin, "Songs of Spiritual Change" ("Những bài hát của sự biến đổi Tâm linh"), Ithaca, Snow Lion Publications, 1982, tr.46.
11- Gyalwa Godrakpa (ko-brag-pabsod namsrgyal mathan, 1170-1249). Dịch từ văn bản Tây tạng trong : Cyrus Stearns, Hermit of Go Cliffs: Timeless Instructions of a Tibetan Mystic, WisdomPublications, Boston,2000, tr. 303.
12- Gampopa Sonam Rinchen (sgam papa dwags po lha rje bsod namsrin chen, 1079-1153), do Dilgo Khyentsé Rinpoché kể lại bằng cách truyền khẩu.
13- Jetsün Milarépa (rje btsun mila ras pa, 1040-1123) trích từ tập "Cent mille Chants" ("Thập Vạn Ca") ("mi la'i mgur 'bum"), do Tsang NyönHeruka xuất bản (gtsang smyon he ru karus pa'i rgyan can, 1452-1507), Gangtok, Sherab Gyaltshen, 1983.
14- "Le Trésor de précieusesqualités"("Kho tàng nhữngphẩm tính quý báu") ("Yon tanrin po che'i mdszod") của Jigmé Lingpa, do Kangyour Rinpoché, LongchenYéshé bình giảng, Éditions Padmakara, 2010, tr.42.
15- Tríchtừ tập "Accords sur l'abscence decomplications", trong "Chantsde la vision pure, une anthologie de la poésie mystique Tibétaine", doThubten Jinpa tuyển chọn, Cathérine Saint-Guily chuyển ngữ tiếng Pháp, 2004,tr. 47.
16- Do NyosbulKhen Rinpoché, Jamyang Dordjé (amyo shulmkhan po 'jam dbyangs rdo rje, 1932-1999) trực tiếp kể lại cho tác giảMatthieu Ricard.
Source: thuvienhoasen