CHƯƠNG III: NHỮNG LỜI KHAI THỊ CỦA LỊCH ĐẠITỔ SƯ Đại sưTrí Giả Đại sư Vĩnh Minh Đại sưHuệ Năng Đại sưHàn Sơn và Đại sưThập Đắc Thiền sưChí Công Thiền sưPhật Ấn Đại SưLiên Trì Đại Sư Ngẫu Ích Đại sưẤn Quang Đại sưHoằng Nhất Lão Hòa ThượngHư Vân Đại sư Diệu Thiện Cư sĩLý Bỉnh Nam Pháp sưViên Nhân
CHƯƠNG IV: GIẢI TRỪNGHI VẤN
CHƯƠNG V: BỐN PHÁP BẢO Sám hối Phóng sinh Ăn chay Niệm Phật
CHƯƠNG VI: PHÓNG SINH LÀ NUÔI DƯỠNGLÒNG TỪ BI
LỜI KẾT
PHẦN II.NHỮNG CÂU CHUYỆNPHÓNG SINH
A. PHÓNG SINH ĐƯỢC PHƯỚC BÁU TÂM TỪ BI CHUYỂN HÓA CÔN TRÙNG THỰC HÀNHPHÓNG SINHCHUYỂN HÓA ĐƯỢC GIA ĐÌNH THẢ CÁ ĐƯỢC THOÁT NẠN DÙNG VOI CHỞ NƯỚC SA DI CỨU ĐÀN KIẾN THẦY ĐỒ THẢ CÁ LÝ NGƯ BẦY CHIM CHÔN CẤT ÂN NHÂN PHÓNG SINH TĂNG TUỔI THỌ ĐƯỢC PHƯỚC SỐNG LÂU ĐÀO AO PHÓNG SINH THƯƠNG CON ĐỨT RUỘT
B. SÁT SINH CHỊU ÁC BÁO ĐỨT LƯỠI VÌ DAO MỔ TRÂU ĐAU ĐỚN SUỐT BA THÁNG CẮT LƯỠI THÚ VẬT – CON BỊ KHUYẾT TẬT NGƯỜI TÀN ÁC CHẾT ĐAU ĐỚN NGƯỜI LÀM ÁC PHẢI BỊ CHẾT THÊ THẢM CÁ LƯƠN TRẢ THÙ BẮT ẾCH BỊ QUẢ BÁO CỘNG NGHIỆP SÁT SANH ẾCH ĐÒI MẠNG SÁT SINH BỊ NƯỚC CUỐN CON BA BA ĐÒI MẠNG QUẢ BÁOHIỆN TIỀN CẮM ĐẦU VÀO NỒI VÌ BẠO SÁT GIẾT HEO BỊ QUẢ BÁOTHẢM KHỐC GIẾT DÊ BIẾN THÀNH DÊ
MẤY LỜI TÂM HUYẾT
LỜI NÓI ĐẦU
Giáo lý của đạo Phật tuy rất sâu xamầu nhiệm nhưng cũng vô cùngthiết thực, gần gũi; tuy nói tánh không, giải thoát, nhưng cũng không rời sự sống của muôn loài; tuy nói hành thiền, quán tịnh, nhưng nhất cử nhất động cũng đều vì lợi ích của tất cả chúng sinh. Bậc chân tugiác ngộ từ xưa nay chưa từng nghĩ đến việc lìa khỏi chúng sinhphiền não để riêng mình được phần giải thoát. Chính đức Phật Thích-ca cũng từng thị hiệntrải qua biết bao khó nhọc, suốt bốn mươi chín năm không một phút nghỉ ngơi để rộng truyền Chánh pháp khắp nơi. Vì thế, đạo giải thoát không phải chỉ ở nơi thâm sơn cùng cốc, mà luôn hiển hiện quanh ta. Ngày nào chúng ta chưa thấy được điều ấy, chưa vận dụng được những lời dạy của đức Phật vào ngay trong cuộc sống hằng ngày, thì chúng ta chưa thể thực sự hưởng được phần lợi íchvô biên của giáo pháp. Và cũng vì thế, việc nghe hiểu được giáo pháp là điều vô cùngquý báu, nhưng vẫn chưa thể nào so sánh được với giá trị của việc thực hànhgiáo pháp. Chỉ có thực hànhgiáo pháp mới mang lại sự an vui lợi lạc cho chính ta và mọi người quanh ta; chỉ có thực hànhgiáo pháp mới giúp ta trực tiếp cảm nhận được những ý nghĩasâu xa và mầu nhiệm trong từng lời dạy của đức Thế Tôn; và chỉ có thực hànhgiáo pháp mới có thể giúp ta xa lìa những khổ đau của thế tục, ngày một tiến gần hơn đến cảnh giớian lạc, giải thoát. Những ai có may mắn được tiếp xúc với giáo pháp, được đọc hiểu giáo pháp, nhưng nếu không tự mình thực hành thì cũng chẳng khác nào kẻ đếm tiền giúp cho người khác, trọn đời không có được chút giá trịquý báu nào cho chính mình. Trong vô số những pháp mônphương tiện mà đức Phật đã từng chỉ dạy, chỉ có phương phápphóng sinh là dễ thực hành nhất mà có thể sớm mang lại hiệu quả nhất. Sở dĩ như vậy, vì phóng sinh là trực tiếp giải cứu sinh mạng cho chúng sinh, mà sinh mạng lại chính là giá trị cao cả nhất, được trân quý nhất của tất cả chúng sinh. Giải cứu được sinh mạng cho chúng sinh tức là giúp chúng sinh giữ lại được cái giá trị cao cả nhất, đáng trân quý nhất. Như vậy, thử hỏi còn có việc làm nào ý nghĩa hơn, đáng làm hơn chăng? Chỉ một việc phóng sinhđơn giản dễ làm mà có thể gieo được cái nhân lành thù thắng không gì so sánh được, đó là cứu vớt sinh mạng cho những chúng sinh sắp phải nhận lấy cái chết. Dù là xét theo lý lẽ thường tình của thế gian hay theo giáo phápnhân quả của Phật dạy, cũng đều có thể thấy được là việc làm ấy đáng trân trọng biết bao nhiêu, chắc chắn sẽ mang lại kết quả to lớn biết bao nhiêu! Mặc dù vậy, trong thực tế cũng có nhiều người không thấy được những ý nghĩa rất thiết thực của việc phóng sinh. Họ biện luận vòng vo, đưa ra lý này lẽ khác, luôn cho rằng việc phóng sinhthực ra chẳng có ý nghĩa gì!!! Vì sao vậy? Điều không thể phủ nhận là thói quen giết hại của con người từ xưa đến nay đã quá nặng nề. Có khi giết để ăn thịt, có khi giết để lấy da, xương, lông, sừng... và các bộ phận khác của thú vật mà sử dụng, nhưng cũng lắm khi giết hại chỉ vì lòng hiếu sát, chỉ vì để mua vui, giải trí trong chốc lát... Than ôi! Những kẻ xem thường sinh mạng muôn loài như thế ngày nay thật nhiều không kể xiết, mà người thực hànhphóng sinh chỉ lác đác như đếm được trên đầu ngón tay. Vì thế, mặc cho có những người tích cựcphóng sinh, mà số loài vật bị giết hại vẫn dường như không thấy giảm thiểu chút nào! Chính vì nhìn thấy thực trạng như vậy mà rất nhiều người đã nản lòng thối chí, cho rằng những nỗ lựcphóng sinh chẳng qua cũng chỉ như dã tràng xe cát, nào có ích lợi gì! Nhưng cách suy nghĩ như thế thật là cạn cợt và vô lý. Cho dù kẻ giết hại nhiều, người phóng sinh ít, cũng không thể vì thế mà chúng ta lại bỏ đi việc làmtốt đẹp của chính mình. Ví như sau một trận động đất, người chết nhiều như rơm rạ, mà người còn sống sót chẳng có bao nhiêu, dù nỗ lực suốt ngày trời chẳng qua cũng chỉ tìm cứu được một vài sinh mạng. Nhưng cũng không thể vì thế mà bỏ đi công việc tìm kiếmcứu nạn. Hơn nữa, lại càng phải dốc sức đào bới, tìm kiếmtích cực hơn, may ra còn có thể kịp thời cứu sống được những nạn nhân khốn khổ đang bị đè trong đất đá. Cũng vậy, đồng loại của chúng ta càng ra sức giết hại, thì ta càng phải tích cực hơn trong việc phóng sinh, hầu có thể cứu chuộc được phần nào những tội lỗi nặng nề mà những kẻ si mê kia đang ngày đêm tạo tác. Mặt khác, cũng có không ít người mang nặng ý tưởngphân biệt giữa sự sống của con người với sự sống của loài vật. Họ cho rằng chỉ có con người mới thực sự có quyền được sống, còn loài vật sinh ra vốn chỉ để phục vụđời sốngcon người (!), dù có giết chết bao nhiêu con vật cũng chẳng có gì là tội lỗi! Thật ra, những lập luận như thế thường chỉ là tự dối gạt chính mình, để bảo vệ cho việc làmsai trái của mình mà thôi. Vì hầu hết những người đưa ra lập luận như thế nhưng khi nhìn thấy cảnh những con vật bị giết chết, bị hành hạđau đớn, cũng đều không thể dửng dưng vô sự, mà đều có sự động tâm thương xót tự trong sâu thẳm của lòng mình. Sở dĩ như thế là vì sự sống vốn không hề có phân biệt, cho dù là những con vật nhỏ hay lớn, sống trên cạn hay dưới nước, cũng đều biểu lộ những phẩm tính hoàn toàn giống nhau đối với sự sống còn. Tất cả đều thực hiệnam sống sợ chết, đều biết sợ hãi, đau đớn, mừng vui, yêu thương, oán giận... Như thế thì dựa vào đâu để tự cho rằng chỉ có con người mới có quyền được sống? Hơn nữa, nếu như trên thế giới này chỉ còn lại duy nhấtloài người, liệu chúng ta có vui sống được hay chăng? Thật ra, muốn thấu hiểu mọi ý nghĩasâu xa của việc phóng sinh cũng không phải là việc dễ dàng. Vì thế, các vị Tổ sư từ xưa nay đã có không ít vị dành trọn cuộc đời để tuyên dương, giảng giải và khuyến khích mọi ngườicố gắng làm việc phóng sinh. Trong tập sách này, chúng tôi ghi lại những lời dạy của Pháp sưViên Nhân, một bậc cao tăngthạc đức, người đã hết lòng cổ xúy cho việc phóng sinh. Sự giảng giải của ngài, tuy nhiều chỗ đơn sơ mà không kém phần sâu sắc, thể hiện rõ trí tuệ của một bậc cao tăng thực tu thực chứng, hy vọng có thể qua đó mà giúp cho nhiều người hiểu sâu thêm về ý nghĩa và công đức của việc phóng sinh. Chúng tôibiên soạn sách này gồm hai phần, nhắm đến việc giảng dụ từ những ý nghĩacăn bản nhất cho đếnsâu xa, thâm thúy nhất của việc phóng sinh. Vì thế, hy vọng là có thể phù hợp với nhu cầu tìm hiểu của đông đảo độc giả, từ những người đã am hiểu phần nào cho đến cả những người sơ cơ chưa từng nghe biết đến. Về phần giảng, ngoài những lời dạy của Lão Pháp sưViên Nhân, chúng tôi cũng dẫn thêm quan điểm, ý kiến cũng như lời dạy của nhiều vị Tổ sư, các bậc danh tăng từ xưa nay, kể cả những vị đương đại. Trong phần này, phần lớn tư liệu là do chư tăng ở Viện Chuyên tu (Đại Tòng Lâm) cung cấp. Chúng tôi xin chân thànhcảm ơn và ghi nhận sự đóng góp quý báucủa quý thầy. Về phần dụ, chúng tôi ghi lại những câu chuyệnxưa nay minh họa cho ý nghĩa và kết quả của việc phóng sinh, chủ yếu là cho thấy việc thực hànhphóng sinh được phước báu ra sao, cũng như việc giết hại sinh mạng phải chịu những quả báo như thế nào. Trong phần này, ngoài sự giúp đỡ của quý thầy ở Viện Chuyên tu, chúng tôi cũng nhận được tập sưu tầm của Sư cô Linh Lạc, do Sư cô Linh Bửu chuyển đến, và đặc biệt là chuyện kể của Đại đức Thích Nhuận Châu ở Tịnh thấtTừ Nghiêm (Đại Tòng Lâm). Chúng tôi xin chân thànhcảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của quý thầy và quý sư cô trong việc thực hiện tập sách này. Qua những lời giảng giải và những câu chuyện có xưa, có nay, hội đủ các yếu tốcổ kim, chúng tôihy vọng có thể giúp cho tất cả mọi người đều thấy rõ được giá trị của việc cứu vật phóng sinh cũng như sự nguy hại của việc giết hại sinh mạng mà sớm có một sự chuyển hướngtốt đẹptrong đời sống. Tâm nguyệnduy nhất của chúng tôi khi thực hiện tập sách này là mong sao có thể góp được một phần nhỏ bé trong việc khơi dậy lòng từ bi sẵn có nơi tất cả mọi người, khiến cho ai ai cũng thực hành việc giới sátphóng sinh, giúp cho loài vật sớm có được một cuộc sống an lành, không bị giết hại. Trong quá trình thực hiện, chắc chắn không thể tránh khỏi ít nhiều sai sót, kính mong các bậc tôn túctrưởng thượng rộng lòng chỉ bảo và quý vị độc giả gần xa niệm tình tha thứ. NHỮNG NGƯỜI THỰC HIỆN