A. DẪN NHẬP
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã. Tất cả vạn pháp đều vận hành trong một quy luậtsanh diệt, diệt sanh để tồn tại phát triển, vấn đề xảy ra chỉ là thời gian. Phật giáo cũng không nằm ngoài quy luật đó; nói một cách khác, Phật giáo cũng lần hồi trở về với quy luật duyên sinh vô thường của nó. Từ một quan điểm này, chúng ta có thể khẳng định một cách mạnh mẽ rằng: Không có một trào lưu tư tưởng hay một tôn giáo nào xuất hiện trong một thời gian dài mà không bị phân ly sau đó. Nên sự phân phái trong đạo Phật hay sự hình thành các học phái Phật giáo là điều dễ hiểu, không phải vấn đề gây ngạc nhiên hoặc thắc mắc đối với người học Phật.
Hiện tượng phân phái của Phật giáo là bản chất của hiện tượng hòa hợp – ly tán. Thế nên vấn đềcòn lại là tìm ra cái pháp tắc thường hằng là quan trọng nhất. Bất cứ sự kiện nào, cũng phải xét đến cái chân thực tướng của nó, nếu chỉ dựa vào hy vọng, mơ ước hay trừu tượng là đưa đến những nhận thức sai lầm. Cái phương pháp đúng như thực khế hợp với chân lý ấy thường được gọi là Như thị (Yatha-tatha), hoặc là Như thực (Yathabhutam).
Tinh thần “Tùy duyên bất biến” tức là không câu chấp vào sự tướng, sống hòa mình với đời, hành động tùy duyên, làm việc cần làm, đúng lúc phải làm và không trái quy luật tự nhiên. Trên tinh thầnnày nơi nào Phật giáo đặt chân đến, thì nơi đó đều dễ dàng hòa quyện và thành một nhân tố bất khả phân ly của nền văn hóa bản địa, và nó cũng cho thấy Phật giáo chấp nhận nhiều con đườnghay nhiều phương tiện khác nhau nhưng đều dẫn đến mục đích giải thoát cứu cánh, đặt trọng tâmcon người trong bối cảnh biến thiên xã hội “Tốt đạo đẹp đời”. Như vậy sự phân phái trong Phật giáovừa mang tính quy luật tự nhiên vừa cho thấy khả năng thích nghi hay phát triển hợp lí của đạo Phật theo dòng thời gian. Hiểu rõ vấn đề này tức là hiểu được lịch sử phát triển của đạo Phật, hoặc nói cách khác, “Dòng chảy của phật giáo thể hiện qua sự hiện hữu của nhiều học phái khác nhau.”
Với đề tài “Quá trình hình thành các bộ phái Phật giáo”, người viết chỉ tập trung đôi điều về nguyên nhân, và quá trình hình thành các học phái. Đây là bài tiểu luận nghiên cứu giữa mùa, thời gian tập trung viết bài và khả năng viết bài còn nhiều hạn chế. Bên cạnh nguồn sử liệu Kinh tạng Nam truyền và Bắc truyền, văn chương còn dựa vào giảng thuyết của chư Tôn đức. Người viết tuy có nổ lực trình bày như dàn bài đã nêu, nhưng không sao tránh khỏi những thiếu sót vấp phải. Con đê đầu thành đãnh lễ cầu xin xám hối, ngưỡng mong chư Tôn đức hoan hỷ chỉ dạy thêm.
B. NỘI DUNG
1. Lịch sử biến chuyển trong Đại thừa và Tiểu thừa Phật giáo.
Bất kì một đoàn thể tôn giáo, một đoàn thể xã hội; không thể tránh khỏi sự va chạm về vật chất hay tranh chấp về mặt tinh thần, hay quan niệm tư tưởng. Bởi trong đoàn thể có nhiều thành phần tầng lớp, đông đảo nếp sống của các địa phương bản địa khác nhau, bên cạnh còn các yếu tố hoàn cảnh thời thế tác động vào. Tăng đoàn Phật giáo bất đồng ý kiến xảy ra sau khi đức Bổn sư ThíchCa nhập diệt. Thời Phật còn tại thế đã có sự chia rẽ bởi Devadatta muốn tự mình lãnh đạo giáo đoàn và biệt lập. Sự biến chuyển lịch sử Phật giáo từ ngày đức Phật Niết Bàn cho đến thế kỷ Thứ III trước Tây lịch, có nhiều thay đổi không những trên phương diện triết học mà còn ngay cả phương diện thực hành và phương thức truyền bá. Rõ nét nhất là những thế kỉ sau Tây lịch.
Vì tầm quan trọng và giá trị văn hóa triết học đạo đức Phật giáo lớn lao, nên trước khi nhập Niết Bàn, đức Phật có lời khuyến cáo đến hàng đệ tử nên duy trì và phổ biến chánh pháp làm kim chỉ nam, ngọn đuốt soi đường, cứu khổ độ sanh cho đời: “Này các Tỳ Kheo, hãy du hành, vì hạnh phúccho quần sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư thiên và loài người” . Vì lời giáo huấn hoài bão thiết tha của đấng cha lành, nên sau khi đức Phật nhập diệt, hàng đệ tử ưu tú đã củng cố triệu tập các lần hội nghị để cho giáo lý diệt khổ không bị mai một.
Khoảng 12 năm đầu kể từ ngày thành Vô thượng chánh giác, đức Thế Tôn chưa thiết lập Giới; vì Tăng chúng sống trong hòa thuận, hành theo giáo pháp, không bị danh lợi phiền não buộc ràng. Về sau giáo đoàn ngày một tăng dần lên, bên cạnh những đệ tử thực tu thực chứng, còn có những vị xuất gia chưa hẳn vì mục tiêu giải thoát. Nên đức Phật tùy cơ thiết Giới, như lương y biết rõ nguyên nhân bệnh tật và biết phương thuốc để trị bệnh.
Học giả Edwardji Thomas trong cuốn “The life of Buddha” cho rằng giáo đoàn Ni được thành lập từ năm thứ năm sau ngày thành đạo, Giới Luật được bắt đầu thiết lập qua năm thứ sáu và rõ nét vào năm thứ 13.
Đức Thế Tôn nói rõ mười lý do để thiết lập Giới . Mười điều lợi ích hay mười ý nghĩa được đức Thế Tôn nhắc đi nhắc lại mỗi khi thiết lập điều Giới, ngay cả khi đức Phật trước lúc nhập Niết bàn cũng ân cần dạy bảo: “Này các Tỳ Kheo, sau khi ta diệt độ, các vị phải tôn trọng trân quý Ba La Đề Mộc Xoa, như người đi trong đêm tối gặp đèn sáng, như người nghèo gặp của báu. Các người phải biết pháp này là đức thầy sáng suốt của các người, dù ta có trụ ở đời cũng không có gì khác”
Thật vô cùng thiết tha cảm thương khi nghe lời nói vàng ngọc của đấng cha lành. Sau khi làm lễ trà tỳ đức Thế Tôn, trưởng lão Đại Ca Diếp (Mahakassapa) triệu tập 500 vị Tỳ Kheo tại động Thất Diệp (Sattapanna), thành Vương xá (Rajagaha) để kết tập Kinh Luật, ngài A Nan trùng tuyên Kinh tạng, Ngài Ưu Ba Li trùng tuyên Luật tạng. Rồi 100 năm sau, nghi ngại Phật pháp suy tàn, trưởng lãoYasa đến Vesali thống nhóm Bạt Kỳ chủ xướng 10 điều phi pháp , chấn chỉnh lại Giới Luật, triệu tậphội nghị lần hai dưới triều đại vua Kalasoka, kết tập về Luật tạng là chủ yếu. Theo Dipavamsa thì có 10.000 Tỷ Kheo không phục lòng nghị quyết của đại hội cho mười điều của nhóm Bạt Kỳ (Vaiji) là phi pháp, nên cũng hội họp tại một nơi khác và cũng để kết tập Kinh điển gọi là Đại kết tập(Mahasamgiti). Vì nguyên nhân này nên giáo đoàn Phật giáo phân chia thành hai bộ phái Thượng tọa bộ và Đại chúng bộ. Thượng tọa bộ chủ trương giữ gìn những giáo lý nguyên thủy. Ngược lại Đại chúng bộ có tư tưởng canh tân, tìm cách giới thiệu một số triết học mới vào Phật giáo giúp cho việc tu tập có nhiều hiệu quả nhanh chóng và dễ dàng hơn.
2. Nguồn gốc hình thành các bộ phái.
2.1. Khái niệm phân phái
Theo giáo sư Minh Chi: Thời ấy, người ta phân biệt rõ hai khái niệm: phân phái (Samghabheda) và chia rẽ (Samghaji). Sự phân phái xảy ra khi có ít nhất 9 Tỷ kheo, sinh hoạt trong một hội chúng tại cùng một địa phương, nhưng có một số quan điểm khác biệt về Luật hay Pháp, so với quan điểmtruyền thống của hội chúng, và sau một cuộc bỏ phiếu tổ chức theo đúng Luật, bèn tách ra khỏi hội chúng đó và tiến hành riêng rẽ lễ Bố-tát và một số Phật sự khác. Nếu Tỳ kheo không đến 9 người thì không phải là phân phái mà là chia rẽ.
2.2. Tình hình chung về lịch sử.
Trong suốt chiều dài lịch sử Phật giáo trên 2500 năm tại Ấn Độ, đạo Phật đã dần chiếm được vị tríquan trọng trong xã hội Ấn Độ và đã có một số lượng lớn tín đồ trong tầng lớp dân thường. Với sự ra đi của vị lãnh tụ vĩ đại, việc các đệ tử đức Thích Ca muốn tập hợp nhau lại ngay để sắp xếp trình tự những điều Ngài dạy là lẽ đương nhiên và được diễn ra khoảng bốn tháng sau tại thành Vương Xá (Rajagrika), để tụng lại những giáo lý mà đức Phật đã dạy, tham dự cuộc họp có khoảng 500 vị Tỳ Kheo tập trung xung quanh ngài Ma ha ca diếp, Anan và Ưu Ba li. Theo các nhà nghiên cứu, những đoạn ca, những điệp khúc của các bản Kinh là do các thành viên cuộc kết tập lập ra để dễ dàng ghi nhớ lời Phật dạy, các cuộc trích dẫn được đại hội kiểm tra rất kĩ càng và cách thức thựchiện, nên đại hội này đã mang tên là Cuộc kết tập lần thứ nhất của các bộ tạng.
Sự bất đồng ý kiến về giới Luật đã dẫn tới việc triệu tập hội nghị lần thứ hai (khoảng 100 năm sau Phật nhập diệt) ở Vesali. Cuộc họp này chỉ đặt trọng tâm về các điều Giới Luật mà thôi. Trong một đoàn thể đông đảo, lại từ nhiều phương đến, mặc dù các hàng đệ tử nhiệt tâm với đạo pháp, nhưng không tránh khỏi bất đồng quan niệm trong thời kỳ kiết tập này. Trong thực tế, sau khi không tuân thủ kết quả phán quyết của hội đồng Tỷ Kheo trưởng lão, nhóm Vajji đã tổ chức một đại hội kết tậpriêng. Kết quả của hai hội đồng khác nhau là bước ngoặc cho sự ra đời của các trường phái triết học Phật giáo.
Trong lịch sử truyền thừa các bộ phái, người ta nhận thấy rằng, sự kiện phân chia bộ phái xảy ra lần đầu trong Tăng đoàn Phật giáo được tiếp nối bằng hàng loạt việc ly giáo khác, đưa đến sự hình thành nhiều chi phái Phật giáo. Một số nghiên cứu cho thấy rằng vì có quá nhiều thành viên và có lẽ vì tinh thần phóng khoáng đối với Kinh cũng như Luật.
Từ khi có sự chia rẽ trong giáo đoàn Tăng lữ, ta thấy trên tư tưởng cũng như trên phương diệnthực hành có nhiều chiều hướng thay đổi, nhưng sự thay đổi đó có thể do thời đại xã hội hoặc vì phương diện truyền giáo có trách nhiệm đối với tiền đồ Phật giáo phải thay đổi để thích hợp với con người thời đại.
3.. Các nguyên nhân phân phái.
3.1. Không có lãnh đạo tối cao.
Trong kinh văn Pali có các từ vị Thầy về Kinh Tạng (Suttantika), hay Luật sư (Vinayadhara), Luận sư (Matikadhara), hoặc Vị Thầy về Giáo pháp (Dhammakathika). Thời đó chưa có phương tiện viết nên dùng trí nhớ là chính. Như ngài Ưu-ba-ly chuyên về giới, Ananda chuyên về kinh… khi nhóm họp các vị cùng một sở trường với nhau thường ở cùng nhau và lúc đọc tụng cũng thường bảo vệlập luận của nhóm mình nên các nhóm ngày một mạnh lần. Sau hình thành bộ phái:
Phái Trưởng Lão (Theravadin) phát triển từ một nhóm luật sư, phái Kinh Lượng Bộ (Sautrabtika) phát xuất từ những người nghiên cứu Kinh tạng, Phái Nhất Thiết Hữu Bộ (Sarvastivada) phát triển từ một nhóm người nghiên cứu Luận tạng và phái Tỳ Bà Sa Nhất Thiết Hữu (Vaibhasika) gồm những nghiên cứu bộ luận Vibhasa.
Tăng đoàn Phật giáo là một tổ chức tôn giáo bao gồm cả hai giới tại gia và xuất gia đệ tử của đức Phật. Về mặt thực chất, giáo đoàn được hình thành trên căn bản tính tự nguyện và tự giác từ các thành viên của nó, mà không phải là một tổ chức mang tính kỷ luật hay pháp lệnh, hay giáo điềunhư những tổ chức khác của xã hội. Trong thực tế, không có ai được bầu chọn hay ủy nhiệm là người lãnh đạo tối cao của tổ chức giáo đoàn.
Sinh thời đức Phật không chỉ định người kế vị Ngài để lãnh đạo Tăng già, mà Ngài dạy Tăng chúnglấy Pháp và Giới Luật để làm chỗ nương tựa “Hãy nương tựa chính mình và nương tựa pháp…tự mình là chỗ nương tựa cho chính mình, chứ không tìm cầu ai khác” Tài liệu Cullavagga thuộc Luật tạng Palì thuật lại sự kiện rằng Puràna cùng nhóm 500 Tỳ Kheo của ông đến Ràjagaha sau khi Tăng già đã kiết tập xong Pháp và Luật. Vị này được chư Tăng ở đây thông báo sự việc kết tập và trả lời rằng Pháp và Luật đã được chư Tăng cùng nhau khéo tụng, nhưng “Tôi sẽ ghi nhớ trong lòng những gì tôi đã được nghe và được lãnh thọ từ kinh khẩu đức Thế Tôn”. Dù trong các buổi tổ chức Phật giáo về sau xuất hiện các danh từ như “Tổ sư” hay “Pháp chủ”… Nhưng dầu cho người đứng đầu được Tăng già bầu chọn, thẩm quyền này cũng chỉ là tiêu biểu cho tinh thần Pháp và Giới luật. Vì Pháp và Giới Luật vốn là thẩm quyền tối thượng mà mỗi thành viên của Tăng già đều được quyền tự quyết. Tuy nhiên vai trò tượng trưng ấy chỉ có ảnh hưởng tích cực việc hướng đạo tâm linh cho các thành viên có liên hệ. Nhưng lại rất hạn chế đối với những quyết định nhằm tạo ra tính thống nhất, đoàn kết và hài hòa trong tổ chức Tăng già mỗi khi mâu thuẩn, bất hòa và tranh cãi liên quan đến Kinh, Luật, Luận hay tổ chức sinh khởi. Đây có thể là nhược điểm dẫn đến sự ra đời các học phái phát xuất từ thực nghiệm chủ quan của cá nhân Tỳ Kheo hay một nhóm của Tỳ kheo.
3.2. Sự bất đồng về ngôn ngữ và tập quán.
Đây cũng có thể là lý do dẫn đến sự phân phái trong Phật giáo, bởi tính bất đồng giữa các Tỷ Kheovốn xuất thân từ nhiều quốc gia, địa phương khác nhau. Tài liệu Cullvagga thuộc Luật tạng Palì thuật sự kiện hai Tỷ Kheo xuất thân từ dòng Bà La Môn thỉnh cầu đức Phật cho chuyển dịch giáo pháp của Ngài sang tiếng Phạn để tránh tình trạng bị hiểu nhầm do các Tỷ Kheo xuất thân từ nhiều giai cấp và nhiều địa phương có tiếng nói khác nhau. Chuyện kể rằng đức Phật không chấp thuận lời yêu cầu và Ngài cho phép các Tỷ Kheo học tập và giảng giải giáo lý của Ngài bằng tiếng mẹ đẻ (Sakàya nirutti). Thái độ này của đức Phật lúc bấy giờ là hết sức cấp tiến. Nhờ thế mà giáo phápcủa Ngài đã có thể dễ dàng mở rộng đến với mọi quốc gia hay dân tộc khác nhau. Tuy nhiên đây có thể là lý do khiến giáo pháp của Ngài dần dần bị hiểu lệch lạc, dẫn đến bất đồng tranh chấp về giáo lý bởi lối diễn giải theo ngôn ngữ và tập quán tư duy của mỗi địa phương. Bản Kinh Vô tránh phân biệt Trung bộ, nêu lên các vấn đề dễ gây tranh chấp bất đồng giữa các các nhân và các cộng đồng, trong đó ngôn ngữ và tập quán tư duy được xem là vấn đề cần khắc phục bởi thái độ không chấptrước: “Này các Tỳ Kheo! Thế nào là chấp trước địa phương ngôn ngữ và đi quá xa ngôn ngữthường dùng? Ở đây, này các Tỳ Kheo, trong nhiều quốc độ người ta biết (những chữ) Pati… Patta… Vittha… Sarava… Dharopa… Pona. Như vậy, như họ biết trong các quốc độ ấy những chữ là như vậy. Như vậy, có người lại làm như vậy, kiên trì chấp thủ, chấp trước và nói: Chỉ như vậy là sai sự thật, ngoài ra là hư vọng. Như vậy này các Tỳ Kheo! Là chấp trước địa phương ngữ, là đi quá xa ngôn ngữ thường dùng? Ở đây, này các Tỳ Kheo, trong nhiều quốc độ, người ta biết những chữ Pati… Patta… Vittha… Sarava… Pona. Như vậy họ biết trong các quốc độ ấy, những chữ là như vậy. Như vậy một người không chấp thủ mà giải thích: Các vị ấy cứ như thế này, giải thích như vậy. Như vậy này các Tỳ Kheo là không chấp trước địa phương ngôn ngữ, không đi quá xa ngôn ngữ thường dùng”. Vấn đề trên không trực tiếp nói về sự kiện tranh chấp, nhưng cũng gián tiếp ngụ ý rằng sự bất đồng về ngôn ngữ và tập quán có thể dẫn đến việc tranh chấp và đây cũng có thể là lời cảnh báo của đức Phật về hiện tượng phân phái.
3.3. Sự tranh chấp về chủ trương Giới Luật.
Điều này rất dễ thấy và được xem là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự ly giáo trong đạo Phật. Devadatta thất bại trong việc tranh vị trí lãnh đạo của đức Phật đã dùng đòn “Giới Luật” để lôi kéo sự chú ý của quần chúng, và nhằm tạo thanh thế cho mình. Ông đã đề xuất năm điều Luật “Pháp ngũ hành” với mục đích là gây ấn tượng đối với các tỳ kheo trẻ hơn về đức hạnh của mình và hòng chiếm được sự ủng hộ của họ. Không đạt được ý đồ tham vọng, Devadatta lôi kéo 500 vị Tỷ Kheokhác ra đi thành lập giáo đoàn riêng, viện cớ Tăng đoàn do đức Phật lãnh đạo lơi lỏng về Giới Luật. Có thể xem đây là hiện tượng ly giáo đầu tiên trong lịch sử đức Phật. Nhưng nguyên nhân dẫn đến sự phân chia Phật giáo thành hai phái chính là Thượng tọa bộ và Đại chúng bộ xảy ra trong khoảng100 năm sau ngày bậc Đạo sư nhập Niết Bàn thì hoàn toàn do sự tranh chấp về Giới Luật. Chính sự khác biệt về quan điểm Giới Luật giữa Yasa và các Tỷ Kheo tuân thủ nghiêm ngặc các giới điều Pàtimokkha và nhóm Tỳ Kheo Vajji chấp trì 10 vấn đề vượt qua tổ chức ở Vesàli và sự phân phái diễn ra ngay tiếp sau đó. Các tài liệu Cullavagga, Dìpavamsa, Mahàvamsa và Samantapàsàdikà đều thống nhất rằng các Tỳ Kheo bị thua cuộc trong hội nghị kết tập đã tổ chức một cuộc hội nghịkhác quy tụ 10000 Tỷ Kheo gọi là Mahàsangìni và sau đó thành lập riêng một phái gọi là Mahàsanghika (Đại chúng bộ).
Giáo đoàn đạo Phật tuy chia nhiều bộ phái, song không phương hại gì đến sự giải thoát. Thuở xưa, đức Thế Tôn đã có dự ký rằng: “Sau khi ta diệt độ, Kinh, Luật của ta chia thành năm bộ, cho đến 18 bộ, danh từ tuy khác nhưng đường lối quy hướng vẫn hợp với cảnh đại Niết bàn. Nếu có ai y theođó mà tu hành, đều sẽ được giải thoát”.
Đức Phật cũng bảo ngài Văn Thù: “Trong đời vị lại, đạo pháp của ta hòa hợp với mọi căn cơ chia thành 20 bộ, làm cho ngôi nhà chánh giáo được vững bền. Trong 20 bộ này, nếu ai y theo tu hành, đều được chứng quả. Ví như nước biển tuy nhiều, song chỉ có một vị; và như người có hai mươi con trẻ, không đứa nào chẳng phải là con mình. Cũng như thế, tam tạng đều bình đẳng không có tạng nào hơn kém. Đây là lời chân thật của Như Lai”.
Sự phân phái là một hiện tượng, vừa mang tính quy luật tự nhiên, là hệ quả tất yếu đối sự phát triển đạo Phật trong suốt chiều dài lịch trên 2500 năm. Xét về mặt tích cực các bộ phái, ta thấy rõ bộ phái Phật giáo đã có những đóng góp to lớn cho nền văn hóa nhân loại nói chung và Ấn Độ nói riêng, nó đã nới lỏng sự khắc khe về hệ thống giai cấp, mở ra cánh cửa phồn vinh cho mọi tầng lớp trong xã hội, đả phá sự mê tín dị đoan, niềm tin mù quán, chủ nghĩa nghi thức; mở rộng tầm suy nghĩ về quần chúng nhân dân cũng như đặt nền móng cho việc cải cách xã hội; truyền bá lời giải thích giáo pháp về đạo đức và bất bạo động và làm cho con người ý thức được giá trị về cuộc sống. Sự phân chia các bộ phái vừa là một bài học lịch sử vừa là một bài học sự thật duyên sinh, trải qua quá trình lâu dài diễn ra khá tự nhiên do nhiều nguyên nhân và lý do khác nhau, cả nội tại lẫn ngoại tại.
Sự ra đời các bộ phái, không làm cho Phật giáo suy yếu, mà tư tưởng của các bộ phái đóng góp nhiều cho sự nghiệp truyền bá, đem lại nhiều hoạt động phong phú, tác động sâu sắc đối với tinh thần và văn hóa Ấn độ. Thiết lập được vai trò và tư tưởng đặc thù của từng bộ phái nhưng đều mang giáo nghĩa cốt lõi thánh điển Phật giáo là hương vị giải thoát, trở về bản lai tự tánh thanh tịnhcủa mình. Đây là bước ngoặc cho hàng Tăng Ni chúng ta xem như là kim chỉ nam cho sự tu học từ các bộ phái, thích nghi trong mọi hoàn cảnh xã hội địa vị, nhưng vẫn tươi thắm màu vô ưu của mình. Các bộ phái Phật giáo cho đến bây giờ đã có sự ảnh hưởng rất lớn đối với mọi tầng lớp con người, mọi tầng lớp xã hội khác nhau, bao gồm tất cả tầng lớp tri thức, chính trị, nông dân, công nhân, giai cấp trung và thượng lưu.