Bồ-tát Tịch Thiên Và Tác Phẩm Nhập Bồ-tát Hạnh Chân Hiền Tâm
Tôn giảTịch Thiên (Shantideva) là con của vua Surastra, sinh vào khoảng thế kỷ thứ VII ở Sri Nagara thuộc miền Nam nước Ấn.
Tương truyền, do tích tụ nhiều căn lành nên ngay khi còn nhỏ ngài đã nhiều lần mộng thấy Bồ-tát Văn Thù Sư Lợi. Rồi khi sắp nhận ngôi vua, lại thấy cả Văn Thù và hóa thân của Quán Thế Âm là ngài Tara. Văn Thù ngồi trên ngai vàng nói: “Ở đây không có chỗ cho hai người”. Còn Tara thì tưới nước nóng lên đầu Tôn giả nói: “Vương quyền chính là nước sôi dầu bỏng của địa ngục. Ta đang tấn phong cho ngươi với nước này đây”.
Do giấc mộng ấy, trước ngày lên ngôi, ngài đã trốn khỏi kinh thành. Sau 21 ngày lang thang trong rừng, vừa khát vừa đói, ngài nhìn thấy dòng suối, định uống thì một phụ nữxuất hiện. Cô khuyến cáo nước có độc và dâng cho ngài một loại cam lồ. Uống xong, ngài hoan hỷ khi biết mình sẽ được gặp thầy của cô gái, người mà theo cô là đạo đức, từ bi và đã thành tựupháp Văn Thù Kim Cang SưTam Muội.
Sau 12 năm tu tập, Tịch Thiên chứng được pháp Văn Thù Tam Muội và thấy được thầy mình chính là Văn Thù Sư Lợi và người phụ nữ kia chính là Tara.
Sau khi được Văn ThùKim Cang SưTam Muội, ngài đi về hướng Đông, xin vào làm việc trong triều của vua Pancamasimba. Ngài truyền dạy nhiều kỹ nghệ mới lạ cho dân và dùng Phật pháp giúp vua điều hành đất nước. Ngài được phong chức thừa tướng. Để tưởng nhớ đến Văn Thù, ngài luôn đeo bên mình một thanh kiếm gỗ.
Các đại thần trong triều, do ganh tức nên muốn tìm cách hãm hại, bèn tâu với vua về thanh kiếm gỗ, viện cớ đó không thể là vật bảo vệ vua khi có nguy biến. Vua tin lời, bắt thừa tướng phải rút kiếm ra cho mình xem. Nhưng Tịch Thiên không chịu. Vua càng nhất quyết đòi xem. Cuối cùngTịch Thiên thưa: “Nếu bệ hạ muốn xem thì nên đến chỗ trống và lấy tay che mắt phải lại, chỉ nhìn bằng mắt trái”. Vua chấp thuận. Kiếm vừa rút khỏi vỏ, hào quang lóe lên và mắt trái của vua rơi xuống đất. Vua biết Tịch Thiên không phải là người bình thường bèn hết lòngsám hối, nhưng Tịch Thiên nhặt mắt bỏ lại vào tròng, rồi xin cáo từ. Ngài từ bỏ chức thừa tướng, đến tu viện Nalanda xin xuất gia, thọ giới và được đặt tên là Shantideva (Tịch Thiên).
Tuy xuất gia ở tu viện nhưng Tịch Thiên lại học pháp với Bồ-tát Văn Thù Sư Lợi trong định. Chúng Tăng chỉ thấy Tịch Thiên ăn và ngủ, không hề thấy học hành cũng như tọa thiền. Nhân đó, một số Thượng tọahọc giả họp lại, bàn kế trục xuất ngài ra khỏi tu viện. Họ bày ra cái gọi là trùng tukinh luận, hy vọngTôn giả sẽ tự động rút lui vì không làm được.
Ban đầu ngài từ chối, nhưng do các Thượng tọa cứ nài nỉ nên ngài đành chấp thuận, với điều kiện phải tạo cho ngài một tòa sư tử. Đề nghị được chấp thuận.
Sau khi lên tòa, Tịch Thiên hỏi:
- Chư vị muốn tôi tụng lại các kinh luận đã có từ trước hay những sáng tác mới sau này?
Các vị Thượng tọatrả lời:
- Những sáng tác mới sau này.
Tịch Thiên bắt đầu tụng quyển Hạnh Bồ-tát. Khi tụng đến câu “Khi có và không không còn khởi trong tâm…” thì ngài bay lên hư không và biến mất, nhưng tiếng của ngài vẫn còn vọng đến câu kệ cuối của quyển Hạnh Bồ-tát. Không thấy Tịch Thiên đâu nữa, mọi ngườihối hậntrở về thì thấy trên bàn trong phòng ngài có ba tập sách. Một là Kinh tập yếu, hai là Giáo tập yếu, và ba là Hạnh Bồ-tát. Tương truyền, Kinh tập yếu là của Bồ-tát Long Thọ. Hai cuốn sau là của Tịch Thiên.
Nhập Bồ-tát hạnh
Phần Nhập Bồ-tát hạnh này nương vào bản dịch của Ni sưTrí Hải mà tóm lược. Vì tóm lược nên chỉ nêu đại ý, không thể chi tiếtrõ ràng như bản chính văn. Vì thế không gì hơn là tham cứu bản chính văn đó.
Sách gồm toàn kệ tụng và được chia thành 10 chương. Đầu tiên là nêu Lợi ích của tâm Bồ-đề, kế là Sám hốitội nghiệp, và kế nữa là Gìn giữ tâm Bồ-đề. Sau là chương Không buông lung, Gìn giữ chánh tri, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ và cuối cùng là kệ Hồi hướng.
1- Lợi ích của tâm Bồ-đề
Phần này có 36 bài kệ. Mỗi bài kệ có 4 câu1.
Như bao tập luận khác, mở đầu thường là phần kính lễ của tác giả đối với Tam bảo và chư hiền thánh. Cũng nêu rõ luận vốn không, chỉ do nhân duyên mà thành có. Lập luận là cốt răn mình. “Không ham giảng đạo, chẳng rành văn chương”, chỉ cốt nuôi lớn tín tâm của mình. Tuy vậy, ai có nhân duyên với luận thì luận vẫn mang lại lợi ích cho người đó.
Kế là răn nhắc thế gianvô thường, được thân người lại không rơi vào bát nạn là quý. Nhưng đa phần, căn lành thường yếu mà nghiệp ác dễ sinh. Nếu không có Phật pháp của Đấng Chí Tôn, cũng không biết nương vào việc phát Bồ-đề tâm thì khó mà thắng nổi các chướng duyên.
Bắt đầu từ kệ 7 trở đi, là nêu lợi ích của Bồ-đề tâm.
1- Nêu rõ Bồ-đề tâm là cội nguồn hạnh phúc mà chư Phật đã chứng minh. Vì thế muốn dứt khổ cho mình, muốn cầu vui cho người thì không được quên tâm này.
2- Chỉ cần một lần phát được tâm này là đã thành con Phật. Đó là nhân duyên giúp chuyển thân bất tịnh của chúng sinhthành thân Phật tịnh thanh.
3- Bậc đạo sưtrí tuệ thì biết không gì tôn quý bằng tâm Bồ-đề, ai muốn thoát sông mê thì phải giữ vững tâm này. Cũng nêu trong các hạnh lành, không gì bằng giữ vững tâm Bồ-đề. Bởi hạnh lành như cây chuối cho bẹ chuối xong là tàn. Cây Bồ-đề thì “không ngưng kết trái đơm bông cõi đời”. Vì thế, muốn thoát nguy khổ ở đời, không gì bằng nương tâm Bồ-đề. Tâm Bồ-đề trong giây lát có thể giúp thoát các tội nặng.
4- Tâm Bồ-đề có hai. Một là tâm nguyện. Hai là tâm hạnh. Nguyện là còn trong vòng mong muốn. Hạnh thì đã biến mong muốn thành hiện thực. Nguyện Bồ-đề đủ giúp hành giả an vui, nhưng nói đến kho công đức và việc cứu khổTam đồ thì phải có hạnh Bồ-đề. Hạnh Bồ-đề bất thối, mới có thể cứu chúng sinhthoát khỏi cảnh trầm luân.
5- Phát đại tâm rồi thì “Dù khi đang ngủ hay không nghĩ gì/ Thiện căntiếp tục tràn trề/ Như hư không nọ chẳng hề sút sa”. Công đứcphát tâm Bồ-đề của hàng sơ cơ rất lớn (đã được Phật dạy trong bản kinhDiệu lý hỏi thưa). Vì sao? Vì phát Bồ-đề tâm là phát tâm làm lợi ích cho tất cả chúng sinh. Việc phát tâm làm lợi ích cho chúng sinh này, công đức không gì bì được. Ngài Tịch Thiên đã đưa ra những so sánh, giúp độc giả thấy được vì sao nói công đứcphát Bồ-đề tâm là lớn:
- Chỉ vì cái khổ đau nhức của một người mà giúp đỡ còn lưu lại công đứctừ tâm, huống là phát đại tâm vì hạnh phúc của muôn loài, công đức không thể tính kể.
- Chỉ san sẻ đôi lần thức ăn cho người, còn được người đời kính lễ, huống là mang lại ấm nohạnh phúc cho người từ kiếp này sang kiếp khác, công đức khó nghĩ bàn.
- Vì bản thân mà phát Bồ-đề tâm có khi còn chưa làm được, huống là phát đại tâm vì tất cả mọi người, công đức tất nhiên phải lớn.
- Chỉ nghĩ lành cho một chúng sinh còn hơn lễ lạypháp tòaNhư Lai, huống là “Mang cho tất cả muôn nhà niềm vui”, công đức đương nhiên bất tận.
- Kẻ thọ ơn mà biết đền đáp, công đức đã lớn, “Huống là Bồ-tát gia ân/ Với niềm vui sướng chẳng cần chờ xin”.
- Người đời muốn xa rời khổ não nhưng khổ não càng tăng. Chỉ Bồ-tát có trí tuệNhư Laidẫn đường, mới biết cách giúp người đời phá si mê, xa lìakhổ nạn, phát đại tâm... Chính vì thế, công đức phát đại tâm của Bồ-tát không thể nghĩ bàn.
Nêu lợi ích của việc phát Bồ-đề tâm xong, Bồ-tát Tịch Thiên răn nhắc: Với ân nhân mà tâm sinh nghĩ quấy thì “Bao nhiêu nghĩ, bấy nhiêu phân đọa đày”. Còn nếu thật tâm nói những lời ca tụng thì gặp quả phúc đến hai ba lần, dù gặp khó khăn cũng “Không sinh lầm lỗi, còn tăng hạnh lành”.
Sau cùng là lời kính lễ của Tôn giả đối với kẻ đã phát đại tâm: “Ai người phát đại tâm trân quý/ Cho tôi xin kính lễ chân thành/ Cho vui đến kẻ hại mình/ Tôi sinh quy kỉnh suối lành từ bi”. Ai là kẻ đã phát tâmquảng đại, Tôn giả xin chân thànhkính lễ. Với kẻ hại mình, vẫn có tâm thí xả mang an vui đến cho họ, tức lòng từ đã đạt đỉnh điểm, không còn phân biệt kẻ ghét người thương thì Tôn giả xin quy kỉnh tâm từ bi ấy.
2- Sám hốitội nghiệp
Phần này có 65 bài kệ. Mỗi bài kệ có 4 câu.
Mở đầu, là phần cúng dường của Bồ-tát đối với Tam bảo. Thánh tăng, bản văn xuôi ghi là chư Bồ-tát.
Phẩm vật cúng dườngbao gồm việc gìn giữ tâm tối tôn, thân tâmhiện có, cùng các cảnh giớivi diệu mà Tôn giả đã “Bằng tâm tưởng con nay tạo tác/ Hiến dâng Ngài chư Phật Thế Tôn…”. Tôn giả chỉ có chừng đó để cúng dường, không còn gì khác, vì “Con nghèo, phước đức trắng tay”. Phước đức nói đây, chỉ cho các loạiphước thiệnhồi hướngquả báo trời người, Tôn giả không có nên nói trắng tay. Tôn giả chỉ có tâm Bồ-đề và các cảnh giớivi diệu do thiền định mà ra.
Tâm Bồ-đề là nền tảng làm lợi ích cho chúng sinh không biết nhàm mỏi. Giữ gìn tâm đó để cúng dường là dùng công hạnh để cúng dường, thực hiện 10 lời nguyện của Bồ-tát nói trong kinh Hoa nghiêm.
Dùng cảnh giớivi diệu (như cảnh giới Cực lạc được mô tả trong kinh A Di Đà) để cúng dường, vì theo hành trạng của Tịch Thiên, Tôn giả đã được Văn ThùKim Cang SưTam Muội. Những cảnh giới ngài trải qua, nghiệp thứcphàm phu khó thấu được, chỉ có thể mượn những hình tượngvi diệu ở thế gian để hiển thị. Trong phần luận này, chúng ta gặp nhiều bài kệđại loại như “Trăm ngàn y phục nhuyến nhu/ Cùng đồ trang sức nhiệm mầu tuyệt luân/ Trang nghiêm Bồ-tát pháp thân/ Văn Thù, Biến Cát, Quan Âm các ngài”; hay “Đây hương bột vượt ngoài tam thế/ Con dùng thoa thân thể Như Lai/ Kim thânvi diệu các ngài/ Như vàng khéo luyện sáng ngờipháp thân” v.v... Cúng dườngcảnh giớivi diệu, cũng là cúng dường sự thanh tịnh của thân tâm, kết quả của việc tinh tấntu đạo. Bởi cảnh giới là sở hiện của tự tâm. Cảnh giới muốn vi diệu, tâm phải thanh tịnhvi diệu.
Mang thân tâmcúng dường, là ý muốn muôn kiếp “làm kẻ tớ hầu chư tôn”, nương công đức của chư tôn mà lợi sinh thẳng tiến, xa lìaác nghiệp và tội khiên. Cũng nói “Con sẽ hóa thân này muôn ức/ Như vi trần lễ Đức Như Lai”. Không chỉ kính lễNhư Lai trong một đời mà đến ba đời, cũng kính lễđồng thời Pháp và Tăng. “Chư Tăng giới hạnh kiên trì/ Cùng hàng thánh chúngtrụ trì xà-lê” được Tôn giảkính lễ. Kính lễ cả ngôi xá-lợi thiêng liêng.
Bài kệ 27 trở về sau, là phần sám hối. Sám hối các tội nghiệp:
- Đã tạo từ vô thủy, tự mình làm hoặc bảo người khác cùng làm.
- Do mê muội, không phân được đâu chánh đâu tà, nên đã vui theo những kẻ ác nhân.
- Do phiền não làm động thân ý mà não hại người trên là Tam bảo, sư trưởng và song thân.
- Do ngu si mà vì người thân kẻ oán tạo tội.
- Không nhận thức thân này chóng mất, nên đã để tham sân xúi giục tạo đủ nghiệp tà.
Sau khi liệt kê các nghiệp tội đã gây, Tôn giả có lời răn nhắc: Muôn sự ở đời như chiêm bao, trôi qua không trở lại, chỉ còn niệm tưởng trong tâm. Thân này như hư vô, biết sám hối rồi, tội có khi chưa sám hết, thân đã không còn. Người chí thân hay kẻ oán cừu rồi cũng thành tro bụi, thế gian chỉ là tấn trò hư huyễn, “Nhưng bao tội lỗi đa mang/ Do tâm yêu ghét rõ ràng còn đây”. Lúc mạng chung, thân bằng có vây quanh thì mọi thống khổ cũng chỉ mình mình chịu, chỉ có thể dựa vào phước phần của mình mà cứu nguy.
Kế, Tôn giảdiễn tảcảnh giới khi mất, hồn tiêu phách tán, trăm bề lạc lõng sợ hãi mà trước đây ngài đã từng trải nghiệm. “Phút giây thần thức lìa thân/ Rối ren lắm nỗi, bội phần hoang mang”, “Mắt nhìn dáo dác mông lung/ Vội tìm chỗ trú bốn phương cõi bờ”. Nhưng không thấy một nơi nào ẩn trú an thân, nên lòng càng sợ hãi. Chỉ khi y tựa được Tam bảo, nhận được sự vô úy, mới có thể thoát vòng sợ hãi. Trong cơn hoảng loạn, Tôn giả đã từng “Đem tánh mạng này hiến dâng” Phổ Hiền, Văn Thù, Quán Âm, Địa Tạng, cùng chư Bồ-tát ở mười phương, y pháptu hành. Cũng nhận ra rằng “Chết là đi giữa cô đơn/ Giã từ quyến thuộc bỏ luôn thân này/ Độc hành phiêu bạt như mây/ Sao còn bạn với thù ai ích gì/ Tạo điều ác phát sinh đau khổ/ Làm sao ta thoát khỏi khổ nhân/ Tư duy như vậy chuyên cần/ Ngày đêm không nghỉ, thoát vòng tội khiên/ Bao nhiêu tội lỗi gây ra/ Thuộc về bốn trọng sát sinh, dâm tà…/ Tội do vô ý gây ra/ Không hành Phật giới xấu xa đủ điều”.
Cuối là một kệ sám hối, “Khẩn đầu kính lạy chư tôn/ Con xin sám hốimuôn vàn tội xưa”, và một kệ hứa nguyện, “Những gì không phải thiện hiền/ Từ nay vĩnh viễn con nguyền xả ly”.
3- Gìn giữ tâm Bồ-đề2
Phần này gồm 33 bài kệ. Mỗi bài kệ có 4 câu.
Phát Bồ-đề tâm, là phát cái tâm trên cầu Phật đạo, dưới giáo hóachúng sinh. Giữ gìnBồ-đề tâm cũng là giữ gìn hai loại phát tâm đó, được thể hiện ngay ở bài kệ đầu “Con vui theo những hạnh lành/ Dứt trừ thống khổchúng sinh ba đường/ Và đem an lạc cát tường/ Cho bao nhiêu kẻ còn vương khổ sầu”. Câu đầu, nói về phần tự lợi. Vui theo, là muốn nói tự lợi đã được bất thối. Ba câu sau nói đến lợi tha.
Để việc lợi tha được hoàn mãn, thì nhân chánh giác không ngừng tích lũy mà với hạnh hữu tình cũng phải vui theo.
Kệ 4 đến kệ 21 nói về việc lợi ích chúng sinh. Lợi ích đầu tiên là thỉnh Phật trụ thếchuyển pháp luân, đốt đèn pháp, hồi hướng công đức đã có nguyện chúng sinh dứt được khổ đau. Kế là tùy căn nghiệp bệnh tật của chúng sinh mà nguyện hiện thânđộ sinh. Từ việc tầm thường như “Hóa thân làm món ăn vơi đói lòng”, “Xin làm cầu thuyền chở sang sông”... cho đến “Nguyện làm y sĩ, dược phương” v.v... Việc hiện thânđộ sinh này được Tôn giả làm với tâm “Không tiếc lẫn dù là vật chi/ Thân cùng tài sản những gì/ Hạnh lành tất cả hướng về chúng sinh”, cùng với những lời nguyệnlợi ích như “Nguyện ai thấy được con thời ích tăng”, hoặc “Người thấy con, kẻ tin người ghét/ Cả hai nhà lợi lạc cùng nên/ Gièm phalăng nhục đảo điên/ Cũng thành kết một mối duyên Bồ-đề” v.v... Đây là dùng Tứ nhiếp pháp và Lục độ vạn hạnh để nhiếp hóa chúng sinh. Phát tâm như vậy vì hiểu rằng phải xả bỏ hết thì tâm mới thoát khổ, được Niết-bàn. Tức trước sau gì cũng phải xả bỏ, chi bằng bố thí trước cho chúng sinh.
Kệ 22 và kệ 23 nói việc phát tâm đi liền với tiến tu.
Kệ 24 trở đi là tán thán tâm Bồ-đề. Nêu tác dụng và giá trị của tâm Bồ-đề trong việc lợi mình lợi người.
4- Không buông lung3
Phần này gồm 48 bài kệ. Mỗi bài kệ có 4 câu.
Không buông lung được thể hiện qua các việc:
1- Siêng gìn giữluật nghi, giới đức.
2- Không được quên thệ nguyệnlợi ích chúng sinh, dù chỉ sát-na tâm.
3- Luôn tu tâm dưỡng tánh, là siêng trừ bỏ tham, sân, si.
4- Siêng hành thiện.
Vì sao không được buông lung các việc ấy? Vì thân người khó được, vì không có kẻ thù nào nguy hiểm như phiền não trong tâm. Nếu không dùng giới đức và sự tu hành khắc chế, thấu phá vô minh… thì muôn kiếp trầm luân, thân tâm đọa trong đường khổ, không thể cứu giúp chúng sinh. Trong quan hệ giao tiếp, dù chỉ hứa cho người vài vật nhỏ mà không giữ lời, để việc thất hứa thành thói quen, còn không tránh được nghiệp quỷ đói, huống là hứa làm lợi ích cho chúng sinh. Phải biết giặc phiền não nguy hiểm hơn kẻ thù, vì nó “dẳng dai vô thủy vô chung”, nhưng lại là thứ huyễn hư, chỉ cần có tuệ quang để chiếu phá thì “Giặc phiền não ấy một đi không về”, “Chớ nên nhu nhược không cần gắng tu”. Vì thế với 4 việc trên, không nên buông lung.
5- Giữ gìn chánh tri4
Là muốn nói đến sự tỉnh giácchánh niệm.
Phần này gồm 109 bài kệ. Mỗi bài kệ có 4 câu.
Trong phần này, giới lại được nhắc đến, nhưng là giới tâm. Chính là dùng chánh niệm buộc tâm điên dại. Nói cách khác, nếu có thể dùng tỉnh giác và chánh niệm buộc tâm điên đảo thì mọi công đức ngay đó hiện tiền. Kệ ghi: “Nếu làm được vậy thường khi/ Thì công đức ấy không gì quý hơn”. Vì vậy “Thà ta mất hết thân tài/ Quyết không tổn hại tâm này được đâu”. Việc đó thiết yếu đến nỗi “Chắp taythành khẩn khuyên nhau/ Giữ tâm cốt yếu gồm thâu hai điều/ Một là chánh niệm thường theo/ Hai là tỉnh giác lúc nào tâm lung”.
Phải quyết tâmthực hiện cho bằng được vì:
- Điều phục được chúng sinh tâm thì điều phục được chúng sinh ngoài tâm.
- Thú dữ, cừu nhân, địa ngục, la-sát, quỷ thần v.v. thảy đều từ tâm hiện. Tâm tịnh thì những thứ đó cũng mất.
- Nhờ tỉnh giác và chánh niệm mà từ tâm được trưởng dưỡng.
- Thiện hạnh theo đó tăng thạnh.
- Không có tỉnh giácchánh niệm thì tín, đa văn, tinh tấn, tụng kinh, khổ hạnh v.v... thảy đều vô công, vẫn dễ sa vào vòng tội lỗi.
- Không có chánh niệm thì không có tỉnh giác. Không có tỉnh giác thì không có chánh niệm. Không tỉnh giác thì chẳng thể nhớ đến pháp mà ứng dụng. Văn, tư, tu theo đó trôi xuôi.
Kệ 30 nhấn mạnh nếu đủ tín tâm, sẽ thực hànhchánh niệm dễ dàng.
Từ kệ 31 trở đi, dạy cách thực hànhchánh niệm.
- Tư duy rằng Phật và Bồ-tát có thể thấu suốt mọi niệm tưởng trong tâm mình, vì thế luôn phải biết tàm quý mà chánh tâm.
- Luôn để ý canh chừng tâm. Khi mầm ác manh nha trong tâm thì phải biết đó là cái nhân của tai họa, cần chấm dứt, chánh tâm trở lại. Tức khi tham, sân, ngã mạn, dối, khinh, ly gián, khen mình, chê người v.v. khởi lên thì phải tỉnh giác dứt bỏ. Kệ nói “Hãy như cây đứng, dứt làm ở yên”.
- Cần học, hiểu, tư duy… các kinh điển Đại thừa, nhất là luận của ngài Long Thọ, để có đủ đức tinthực hànhchánh niệm, để biết những giới cần thọ, những việc cần làm.
- Ăn mặc ngủ nghỉ vừa đủ.
- Sống ngăn nắp, không xả rác bừa bãi. Không vứt đồ bẩn trên đất sạch hay vào nước trong.
- Thường haysám hối.
- Những gì phạm giới, nhất quyết không làm.
- Không đảo mắt láo liên nhìn mọi thứ mà phải hạ tầm mắt để giữ tâm.
- Đi, đứng, nằm, ngồi đều luôn rõ biết thân đang làm gì, tâm đang thế nào. Tâm cần trụ pháp để không chạy quàng.
- Đi đâu, cần nhìn rõ trước sau rồi mới đi. Khi có việc muốn nhìn lui thì phải dừng chân rồi hãy xoay người lại nhìn. Tránh tạo tiếng ồn khi di chuyển, xê dịch.
- Khi ăn không ngậm cơm đầy miệng, không nhai ra tiếng, không há to miệng.
- Khi ngồi không duỗi chân ngang, hai tay không chà xát.
- Thường nói lời hòa dịu, thường lộ vẻ vui tươi, không nhăn mặt nhíu mày. Khi phát biểu không nên vung tay, to tiếng.
- Ngủ, đầu nên quay về hướng Bắc, hướng Thế Tôn nhập Niết-bàn. Duy trìtỉnh giác. Thức dậy chớ nằm nướng.
- Không kề cận người khác phái khiến sinh tai tiếng, dị nghị.
- Làm việc gì cần nhận thứcsuy xét việc nào nên làm, việc nào không nên làm, rồi hãy làm. Đối với việc giải trí thì “Giữa đám người xem phim tán chuyện/ Hãy đoạn tâm tham luyến việc này”.
- Khi làm việc đã định, cần chú tâm làm cho xong rồi hãy qua việc khác, tránh thân lăng xăng, tâm lăng xăng.
- Luôn quán thân người khó được, thân không bệnh, lại được an nhàn là việc khó, nên cần phảithực hànhan tâmbất động. Cũng quán thân này bất tịnh, không phải ta, chỉ là phương tiện đưa ta đến bờ giác. Nhưng không vì thế mà vô cớ thí xả thân, chỉ thí xả khi cần lợi ích chúng sinh.
- Khi được nhắc nhở khuyên răn, nên tận tình sửa sai.
- Cần tỉnh giác khi tâm khởi lăng xăngtán loạn. Không vướng vào việc khen chê, ly gián, lợi danh, ngã mạn, dối khinh v.v...
- Cần dừng dứt những việc không cần thiết cho việc tu hành.
- Sinh tâm tán thán và tùy hỷ với những thiện hạnh người đã làm được.
- Xem chúng sinh là Bồ-tát, nhờ họ mà mình được quả vịchánh giác.
- Không bàn pháp sâu với người thiếu trí. Không nói pháp tiểu cho người có trình độ. Không nói pháp cho người thiếu lễ. Không dùng chú thuậtâm mưu dối người.
- Hồi hướng mọi công đức cho chúng sinh, cho việc thành tựuchánh giác của mình và người.
Cuối cùng là bài kệtổng kết: “Tóm tắt, nghĩa không lơ tỉnh giác/ Là luôn luôn quán sát tự tâm/ Và nên y giáo phụng hành/ Chỉ xem toa thuốc không lành bệnh đâu”.
6- Nhẫn nhục
Phần này gồm 134 bài kệ. Mỗi bài kệ có 4 câu.
Nói đến nhẫn nhục vì có xâm hại và tổn thương, có bất như ý... Những thứ khiến người đời dễ khởi tâmsân hận. Bồ-tát, do thói quenhuân tập nhiều đời cũng khó tránh khỏi. Vì thế cần pháp đối trị, là dùng nhẫn nhụcđối trịsân hận. Vì sao phải đối trị sân hận? Vì sân hận đưa đến nhiều tác hại. Do đó mở đầu phần này là các bài kệ nói về sự tai hại của sân hận.
- Một giây sân hận có thể phá hủy các thiện hạnh đã tích lũy ngàn năm.
- Ôm giữ hận thù khiến hiện tại không thể thảnh thơi, an vui. An vui được là do không sân.
- Một gia chủsân hận, có thể bị giết bởi những người mình từng cưu mang, còn thân quyến bạn bè thì xa lánh. Dù bố thítràn trề mà sân hận thì vẫn cô độc.
- Muốn mà không được, không muốn lại gặp phải, là nhân đưa đến sân giận. Nhưng sân giận lại là nhân của “Ái biệt ly, chán ghét gặp hoài”. Nếu không phá bỏ sân giận thì bản thân sẽ bị hủy diệt.
Kệ 8 và 9 chỉ cách phá bỏ sân giận. Trừ sân giận thì quả của sân giận mới không xuất hiện. Đó là tập bình tâm đối với các việc bất như ý “Gặp gì cũng cứ như không”5. Muốn “như không” thì phải có tuệ quán phụ trợ, thấy rõ sự bất lợi của sân giận cũng như mặt tích cực trong việc tu hành của những thứ khiến mình sân giận (oan gia, gặp kẻ nói lời vu khống, gặp những cảnh bất như ý v.v...). Nên các bài kệ kế giải thíchlý do không nên sân giận.
Kệ 10 đến kệ 68 nêu lý do vì sao không nên sân giận.
- Với những nghịch cảnh mà bản thân không thể thay đổi được, như khi thời tiết không như ý hay bệnh tật xuất hiện, thì có sân giận cũng không thay đổi được, sao phải sân giận khi sân giận chỉ khiến mình khổ não, lại còn tổn hạicông đức. Với những nghịch cảnh có thể cứu vãn thì càng không nên sân giận, vì đã có biện phápcứu vãn, không cần phải sân giận.
- Nhờ có khổ, có bất như ý, mới có tâm xuất ly, không thì chìm đắm mãi trong các cõi.
- Ngoại đạo còn chịu được các khổ hạnh. Người tu Phật đâu thể không nhẫn được với chút khổ não để giải thoát.
- Người dũng mãnhtrí tuệ không chùn bước trước nghịch cảnh, vì thế cần nhẫn, không để các nghịch cảnh làm thối tâm.
- Mọi thứ trở nên dễ dàng nhờ huân thành thói quen. Cho nên, chỉ cần nhẫn quen với các khổ nhỏ, sẽ nhẫn dần được với các khổ lớn.
- Sân giận hay khiến mình nghĩ quấy và làm quấy, không chỉ tác hại cho người mà còn hủy hoại bản thân mình, vì thế không nên sân giận.
- Đau khổ giúp hết kiêu căng, chán sinh tử và biết xót thươngchúng hữu tình.
- Lý Nhân duyên - Nhân quảchi phốithế gian này, nên không có gì ra ngoài duyên sinh. Không có nhân, đủ duyên không thể có quả. Không phải tự dưng xuất hiệnoan gia và các bất như ý. Đều do mình gây tạo nghiệp bất thiện từ trước. Hiểu được thì không oán hờn, sân giận. Nếu mình không phải là duyên trong đó thì ngoại cảnh không thể tác động được mình. Nên khi quả đến, cần tỉnh giácchấp nhận.
- Mọi tội ác đều có quả khi đủ duyên, không cần mình phải sân giận rồi tạo ác trở lại. Chỉ thêm nhiều oan nghiệt, vay trả trả vay không dứt. Nhẫn được, vừa tránh tác hại trong hiện tại, vừa trả được báo nghiệp trong quá khứ, lại tăng trưởng được công đức.
- Do vô minh, người mới làm những việc bức hại ta, nếu sân giận họ thì không khác sân giận ngọn lửa vì nó đốt cháy. Đó là việc vô lý.
- Không có nghịch cảnh thì không có nhẫn lực, không có công đức. Vì thế oan gia có khả năng giúp ta tăng trưởngcông đức, nên cám ơn hơn là sân giận.
- Đối với lời vu khống có thể khiến người khác ghét mình, thì phải biết việc ghét hay thương đó không thể làm thay đổi được báo nghiệp của mình, nếu bản thân mình không tạo bất thiện nghiệp.
- Nếu người khiến ta bị mất lợi, thì phải biết lợi đó như mây nổi chiêm bao, chết không mang theo được, nhưng ác nghiệp hay thiện nghiệp thì theo mình đến cùng. Nhẫn được thì thành tựuthiện nghiệp. Vì lợi mà nổi sân thì “Phước bèn mất hết, còn tăng tội nhiều”.
- Nếu thấy người phá hạiTam bảo cũng không nên khởi tâm sân giận. Phải biết không có
gì suy hao. Mọi thứ đều có nhân duyên của nó. Không nên sân hận.
Kệ 69 nói đến việc tiến tu. “Khi đà thấy biết việc rồi/ Hãy nên nỗ lựctiến tu hạnh lành/ Đãi nhau bằng tấm chân tình/ Từ tâmgiải thoát, chớ hành khổ nhau”.
Kệ 70 đến kệ 79 dạy phá trừ sân giận tiếp.
- Với những ai tán thán người mình không ưa, thay vì nổi tâm sân hận, hãy khởi tâm vui theo. Đây là cách được chư Phật tán thán, khiến tâm tránh phiền não và thu nhiếp được người.
- Với những khổ não đang gặp, thay vì bực bộisân hận, cần quán những khổ nãohiện tại đang gặp so với khổ não ở địa ngục còn tăng gấp bội. Nếu không nhẫn được với cái khổ hiện tại thì khó tránh được cái khổ ở địa ngục. Chi bằng chịu nhẫn để được công đức mà còn thoát khổ lớn.
Kệ 80 đến kệ 89 luận để thấy vì sao Bồ-tát không nên khởi tâmsân hận với chúng sinh, cũng chẳng nên có tâm trả thù.
- Vì phát tâm Bồ-đề vô thượng là muốn chăm lo và ban vui tới mọi người, muốn mọi người được thọ phước lớn lao. Nếu thấy người có thể tự lựcbình an, có được chút lợi danh hay sự thanh thản mà đem tâm ghét hiềm là đi ngược với những gì mà mình đã phát tâm.
- Với niềm vui nhỏ của chúng sinh mà Bồ-tát không tùy hỷ được thì khó có thể khiến mình và người giác ngộ toàn vui. Dù người có gặp khổ đau thì đó cũng không phải là chỗ để mình vui mừng. Vì vui mừng khi thấy người khác khổ đau là cái nhân của địa ngục.
Đó là lý do vì sao Bồ-tát không nên khởi tâm sân giận chúng sinh, dù chúng sinh đối xử với mình thế nào.
Kệ 90 đến kệ 98 nói lên thực chất của sự ngợi khen. Lời ca tụng chỉ là một loại âm thanhvô thường, nó không mang đếntrường thọ, kiện khang, bình an hay hết bệnh đa mang cho mình. Tuy vậy, lại dễ khiến tâm mình tán loạn, phá các thiện pháp, không còn sự chán lìa.
Kệ 99 đến 111 nhấn mạnh mặt tích cực của những trái nghịch. Vì lời khen dễ khiến mình sinh cao mạn, phá hoại các thiện pháp, nên khi gặp kẻ trái nghịch, phải biết “Chính là người đã cứu ta/ Khỏi sa địa ngục đường tà”, là người giúp ta thoát khỏi lợi danh, là người giúp ta phát sinh nhẫn lực. Vì nếu không có tổn hại thì không thể có nhẫn lực. Cho nên phải coi kẻ trái nghịch phá hoại là ân nhân của mình. Đã là ân nhân thì không có tâm sân giận, chỉ có tâm cung dưỡng.
Kệ 112 đến kệ 118, nói về công đức giữa chúng sinh và Phật. “Chúng sinh và Phật cùng ngang phước điền”. Không phải ngang ở mặt trí đức cao siêu, mà ngang ở mặt làm lợi ích cho Bồ-tát. “Kể bao đối tượng ta nương/ Để tu chứng đạo, chúng sinh Phật đồng”. Bồ-tát phải nương vào lực hộ trì của chư Phật, nương vào giáo pháp Phật dạy mới có thể tu hành, nhưng phải nhờ chúng sinh mới có thể thực tế hóa được những gì đã đọc học đó. Công đức, trí tuệ cũng như nhẫn lực nhờ đó mà thành tựu. Vì vậy “Muốn thành Lục độ vô biên/ Hãy gieo giống phước lên trên ruộng này”. Đó là “Cúng dường tất cả chúng sinh/ Với tâm từ mẫn, vô biên phước tồn/ Vì là nhân của quý tôn/ Cũng như kính Phật Thế Tôn vô lường”.
Kệ 119 đến kệ 132 nói việc báo ân Phật không gì bằng khiến chúng sinh được an vui. Vì mọi việc làm của Phật đều nhằm giúp chúng sinh an vui. Nếu làm tổn hạichúng sinh chính là làm tổn thươngĐức Phật. Cần phảikính trọng tánh Phật mà Phật và chúng sinh đồng có. Từ đó đưa ra những lời phát nguyện, nguyện phát huy nhẫn nhục, dứt trừ sự tổn hại, làm lợi ích cho chúng sinh, cũng chính là làm lợi ích cho bản thân mình.
Kệ 133 và 134 nói về quả báo của việc không sân giận. Là được vui sướng, sống lâu, không bệnh, dung nhantuyệt trần, đức trí vang xa, được hưởng vinh quang, đời sau thoát khổ, thọ hưởnghạnh phúc như vua trời. Nếu làm chúng sinh được an vui thì hiện tạibản thân được an vui. Tương lai thành Chánh đẳng giác.
Chân Hiền Tâm
________________
(1) Theo bản dịch của Ni sưTrí Hải.
(2) Bản văn xuôi ghi là “Phát Bồ-đề tâm (Bồ-đề tâm nguyện)”. Bản của cư sĩ Nguyên Hiển cũng ghi “Phát Bồ-đề tâm”. Nghĩa được diễn giải trong phần này, đại ý thấy phù hợp với mấy từ “Bồ-đề tâm nguyện”, là những nguyện phát sinh từ việc phát tâm Bồ-đề. Đó là điều kiện để trưởng dưỡnggiữ gìn tâm Bồ-đề. Nghĩa là, cũng đều là phát tâm Bồ-đề nhưng không chỉ dừng ở dạng chung chung như “Trên cầu Phật đạo. Dưới hóa độ chúng sinh” mà ở dạng chi tiết hơn, đã lập thành nguyện hẳn hoi, là xả thân vì người qua những hình thứcchi tiếtcụ thể, rõ ràng.
(3) Bản văn xuôi ghi “Bồ-đề tâm hạnh”.
(4) Bản văn xuôi ghi “Chánh niệm tỉnh giác”, đồng với bản dịch của cư sĩ Nguyên Hiển.
(5) Bản văn xuôi là “chẳng để khuấy động niềm hỷ lạc trong ta.
PHẦN THỨ HAI BỒ-TÁT TỊCH THIÊN VÀ TÁC PHẨM NHẬP BỒ-TÁT HẠNH Chân Hiền Tâm
Phần trước đã nói về hành trạng của Bồ-tát Tịch Thiên và phần đầu của phẩm Nhập Bồ-tát hạnh với các chương: Lợi ích của tâm Bồ-đề, Sám hốitội nghiệp, Gìn giữ tâm Bồ-đề, Không buông lung, Giữ gìn chánh tri và Nhẫn nhục. Sau đây là các phần: Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ và Hồi hướng.
Tinh tấn
Phần này gồm 76 bài kệ. Mỗi bài kệ có 4 câu.
Kệ 1 nêu lý do vì sao phải tinh tấn.
Vì phải tinh tấn thì tâm Bồ-đề mới vững trú. Quả phúc dù tràn tuôn, nếu khôngtinh tấn thì mạch nguồn tâm linh khó động đến.
Kệ 2 giải thíchtinh tấn là siêng làm việc lành với tâm bất thối, cũng “không biếng nhác nằm dài/ Hay là tham đắm việc đời lăng xăng”.
Kệ 3 đến kệ 13 nói đến tác hại của biếng nhác.
Do tham vui và ngủ nhiều đã thành thói, lại không biết nhìn người mà ngẫm cho mình, không nhận ra sự vô thường của thân này, cũng không biết tạo nghiệp ác khi đủ duyên liền vào đường dữ, nên sinh biến nhác với việc tu tập mà luân hồisinh tửtriền miên. Khi vô thường đến lại kêu ca, không tạo nhân phúc mà muốn hưởng quả phúc.
Kệ 14 và kệ 15 nêu ưu khuyết điểm mà người đời đang có.
Khuyết là ham ngủ nghỉ và đuổi theo những thú vui thấp kém đưa người đến chỗ rối ren, tán loạn. Ưu là được thân người và có Chánh pháp, có thể nương đó làm thuyền bè qua biển khổ.
Kệ 16 đến kệ 18 khuyên không nên khiếp sợ, cũng không nên mặc cảm tự ty mà sinh tâm thối lui.
Hãy tu thiền định và quán ta người bình đẳng. Đó là pháp đổi vị, xem người như mình, rồi phát khởinăng lựctinh tấn, thì ngay cả “ruồi muỗi cũng chứng thành ngôi cao”.
Kệ 19 đến kệ 23 nêu được cái phúc có thân người, lại biết phân biệt xấu tốt v.v... nếu không xả giới Bồ-tát thì trước sau gì cũng chứng đạo.
Nay vì hạnh Bồ-đề, nên như người đi chữa bệnh, “chịu đau nhỏ trừ hại to” thì “khổ này có hạn, không lo kéo dài”.
Kệ 24 đến 26 nêu Như Lai là y vương, dạy người đều có phương pháp, đã “chữa lành vô số chứng nan y”.
Với việc bố thí, lúc đầu nên bố thí các vật nhỏ như lá rau v.v... Một khi trí tuệ phát sinh, nhận rõ thân này không khác lá rau thì việc bố thíthân thể không còn là việc khiến ta sợ hãi.
Kệ 27 đến kệ 30 nêu Bồ-tát dứt ác hạnh nên không khổ, có trí tuệ nên hết lo, dứt tà phân biệt thì thân tâmthanh tịnh, hóa giải tội khiên.
Một khi lực Bồ-đề đã đủ tiêu trừác nghiệp, tăng trưởngcông đức, Bồ-tát không còn tâm thối chuyển hay sợ hãi đối với các khó nhọc ở đời như hàng Thanh văn, nên không thấy chán ghétthế gian mà nguyện an trú trong chốn sinh tử để cứu độchúng sinh.
Kệ 31 đến kệ 35 nêu những thứ mà Bồ-tát dùng để tự lợi và lợi tha.
Đó là dục (mang ý muốnthoát nạn tai), tín, hỷ, xả, tinh tấn và phát nguyện. “Nguyện trừ vô số tội khiên/ Vì thân ta lẫn vô biên hữu tình”. Việc này không phải vài tháng vài năm mà xong. “Chỉ duy một đức trong đây/ Cũng cần vô số kiếp dày công tu”. Nếu không có sự tinh tấn diệt tận lỗi lầm thì khó thành tựu nguyện ước.
Kệ 36 đến kệ 39 là phần phản quan, thấy bản thân chưa làm được gì cho mình và người.
Chưa học pháp, chưa ứng dụng được pháp, chưa vì Phật hiến dâng, chưa ban sự vô úy cho người, chưa khiến người được hạnh phúc v.v... nên việc nhập thai chịu khổ của bản thân khó tránh khỏi.
Kệ 40 đến kệ 48 nói về dục (muốn cầu), là gốc “Làm phát sinh bao đức tốt lành”.
Muốn cầu diệu pháp thì phải “Tư duy khổ quảnghiệp nhân cho tường”. Cần thấy rõ đau thương hay thảnh thơi, mong muốn được thành tựu hay không thành tựu v.v... đều do tạo nhân thiện hay bất thiện. Hóa sinh từ liên hoa là do “tu nhân tích chứa phúc lành”. Đọa vào địa ngục dầu sôi lửa bỏng là do tạo nghiệp ác. Kết luậncần phảichuyên tu. “Muốn cầu thiện pháp, siêng lo việc lành/ Hãy đọc kinhKim cang tràng/ Dạy tu tự tín, thực hành điều hay”. Khi thực hành điều hay, cần xét nét kỹ càng có đủ sức? Nhắm không xong thì không làm, còn đã làm thì phải đến nơi đến chốn. Nếu không, việc bỏ lỡ và thoái lui ấy sẽ thành thói quen, huân vào tạng thức, ảnh hưởng đến tương lai. “Việc lành dang dở, quả thời dở dang/ Khổ đau cứ thế kéo dài”.
Kệ 49 đến kệ 63 nói về niềm tin.
Tin mình có khả năng đoạn hoặc chứng chân. Tự lợi và lợi thathành tựu là nhờ vào việc tin mình có khả năng thành Phật. Tin vào Chánh pháp, vào nhân quả, vào hạnh lành, vào bản thân, v.v… mới có thể vượt quađọa lạc, tiêu trừác duyên, ra khỏi sinh tử luân hồi. Niềm tin có thể giúp ta nhẫn được với các phiền não, không tạo ác nghiệp. Tự tin, không phải kiêu căng, ngã mạn. Tự tin có thể giúp vượt quaphiền não và các ác nghiệp. Tự mãn kiêu căng khiến sa vào đường ác lâu dài. “Mất toi phước lạc kiếp người, làm thân nô bộctrọn đời hẩm hiu”. Dùng đức tin khắc trừ được ngã mạn là kẻ chiến thắng. Niềm tin phải được nuôi dưỡngkiên trì, với tâm cương quyết phá trừ phiền não và thích thú bảo dưỡng hạnh lành.
Kệ 64 đến kệ 66 nói về hỷ.
Hỷ phát sinh nhờ hành thiện với tâm hân hoan, nhờ lợi tha v.v... Cái vui tạm bợ của năm dục người đời còn ham muốn, thiện nghiệp đưa đến cái vui Niết-bàn còn “đáng ham gấp mười”, nên Bồ-tát luôn hoan hỷ với việc tạo công đức.
Kệ 67 nói về xả.
Xả trước nhất là “Khi thân tâm đã mệt nhoài/ Thì nên dưỡng sức, tạm thời xả buông”. Việc gì làm xong cũng nên xả để còn làm việc khác.
Kệ 68 đến kệ 76 khuyên siêng tu chánh niệm một cách miên mật để hàng phụcvô minh.
Ngài đưa ra những ví dụ khá lý thú để cảnh báo sự nguy hiểm của phiền não nếu để nó tự do phát tán, cũng cảnh tỉnh người tu phải tỉnh giác với việc làm biếng, ham ngủ, đánh mất chánh niệm. Mỗi khi lỡ phạm lỗi thì nên có tâm tàm quý. Nên siêng tu chánh niệm và cần có minh sư chỉ dạy, mới mong thành tựuđạo nghiệp. Không buông lung thì tâm vui mà mọi việcviên thành.
Thiền định
Phần này gồm 187 bài kệ. Mỗi bài kệ có 4 câu.
Kệ 1 và kệ 2 nêu lý do vì sao phải tu thiền định.
Để trị tâm tán loạn. Tán loạn là nhân duyên của phiền não và vô minh. Do đâu mà tâm tán loạn? Vì gần thân tộc và đắm mê thế tục phồn vinh. Vì thế thân cần viễn ly và tâm cần viễn ly, là một mình ở nơi vắng vẻ và từ bỏ những tư tưởngthế tục.
Kệ 3 và kệ 4 nói tu là xa lìadanh lợi, xem thân bằng quyến thuộc như áng mây trời và miên mật thực hành thiền quán.
Phải Chỉ Quán đồng tu mới có thể “dẹp tan não loạn si mê”. Muốn được định tâm, phải lìa tham dục.
Kệ 5 đến kệ 8 luận về thân bằng quyến thuộc và sự được mất vô thường khiến sinh khổ não, ly tan.
Nếu đã mong giải thoát Ta-bà thì nên “dứt khoát lìa xa thân bằng”. Phần này dạy quán về thân tộc để phát tâmviễn ly.
Kệ 9 đến kệ 16 cảnh tỉnh việc thân cận phàm ngu.
Đã ly gia thì với hàng phàm phumê lầm cũng không thân cận. Phàm ngumê muội, tâm thái thường thay đổi, dễ nổi sân, hay tranh giành, ghen ghét, kiêu căng, thường luận bànlinh tinh, chê người khen mình, ít chịu nghe lời phải, thường xúi mình bỏ việc lành. Vì thế, thân cận chẳng lợi ích. Chi bằng “Gặp thì vui vẻ đón chào/ Không thân mật quá, xã giao vừa chừng/ Hãy theo cách của chính nhân/ Lạnh lùng như nước trăng rằm đêm thu”. Như ong hút mật, gặp duyên thì hóa, hết duyên tịch nhiên. Phần này dạy quán về phàm phu, giúp tăng trưởng hạnh viễn ly.
Kệ 17 đến kệ 20 luận về danh lợi.
Danh lợivô thường như áng mây trôi, nhưng vướng vào đó thì đa đoan, tranh giành, khổ não. Được rồi thường sinh tâm kiêu căng, chấp vào đó thì khi chết sẽ sinh sợ hãi. Bậc trí không tham luyếndanh lợi.
Kệ 21 đến kệ 24 luận về khen chê.
Ở thế gian, chúng sinh đa phần đều vì lợi danh. Tâm đó dẫn đến việc khen chê. Có người khen ắt có kẻ chê, có kẻ chê ắt có người khen, “Chúng sinh trăm tính trăm nhà”. Đó là lẽ thường nhiên ở đời. Nghèo thì bị miệt thị khinh khi, nhưng giàu cũng không tránh được tật đố ghen ghét. Vì thế chớ nên thân cận.
Kệ 25 đến 28 luận về lợi ích của việc độc cư trong rừng núi, bắt đầu bằng các từ “bao giờ...” như một mong muốn chưa thực hiện được. Đó là làm bạn với chim chóc yên vui, thiên nhiên khoáng đạt an nhàn, trăng thanh gió mát, sống với tâm khôngchấp thủ, không sợ trộm cắp, áo quần không cần v.v... Cũng dạy phát nguyện “Nguyện nay cắt đứt duyên đời/ Không còn tham luyếntrần ai thân bằng”.
Kệ 29 đến kệ 35 luận về thân bất tịnh để tăng trưởng hạnh viễn ly.
Sống thì xương thịt liền ngay nhưng chết thì phân tán, rữa nát. Sinh hay chết cũng chỉ một mình, chẳng ai có thể san sẻ dù là thân bằng quyến thuộc. Chi bằng “Một mình độc trú sơn lâm/ Lánh xa kẻ oán, người thân chẳng kề/ Tự xem đã chết thân này/ Thì khi chết thật còn ai khóc mình”.
Kệ 36 đến kệ 38 nói lợi ích của việc độc cư trong núi rừng, giúp sinh định tâm dễ dàng.
Không vướng kẻ hại người thương, ít điều phiền lo, niệm thế tục ngưng dứt... nên tâm được chuyên nhất, sâu vào tịnh chỉtinh minh, phá trừ mê muội, dứt phiền não lo.
Kệ 39 đến kệ 41 luận về tai họa của tham dục.
Do tham dục mà có sát sinh, mai mối cầu khẩn, tham ái gái đẹp.
Kệ 42 đến kệ 88 luận riêng về tai họa dâm ái.
Do dâm ái mà không thể tự làm chủ, đánh mất Niết-bàn thanh tịnh. Nhiều kệ luận về thực trạng của thân nữ nhi lúc còn sống và khi đã chết. Ngay khi còn sống thân người vốn đã bất tịnh. “Tóc móng dài chẳng cắt, miệng hôi”, phải dùng hương hoa xông ướp, huống là khi đã chết. Nhưng nó lại là thứ “làm cho tan nát cơ đồ nam nhi” không phải chỉ trong một đời mà trong nhiều đời. Vì thế cần giảm bớttham ái, chớ để tăng trưởng.
Thân tuy bất tịnh như thế, nhưng vì nó mà từ nhỏ đã phải bươn chải kiếm tiền nuôi thân, cưới vợ. Người nghèo thì lao động mệt nhoài. Kẻ giàu thì có khi do mưu sinh mà vợ chồng chia rẽ. Có người hám lợi bán thân. Kẻ thì đi làm mướn, “Thân tôi đòi chẳng được tự do”. Kẻ thì đăng cửa lính sa trường bỏ thây. Thực chất đều từ tham dục. “Tham tiền trải lắm khổ đau/ Làm ra cất giữ âu sầu sợ hao/ Vì tiền tâm lực tiêu nha/ Bao giờ mới thoát được ra khổ này”. Khổ không phải chỉ dừng ở đó, mà còn là nhân duyên của những khổ khác, “Vui giây lát khổ dài lâu/ Súc sinh quỷ đói về sau đọa đày”. Cho nên dạy cần phải thấy thân này bất tịnh, thấy sắc tài thảy đều tan hoại, thay vì tham những chiếc thân hôi thối, hãy tham “đóa liên đài tinh khôi”, lấy núi rừng làm chỗ an thân, tranh chấp không còn, thân dừng bôn ba, chẳng còn vướng bận danh lợi, tự do, tự tại … “Dưới trăng vằng vặc đêm thâu/ Hương rừng phảng phất gió đầu thu êm/ Vui thay ẩn sĩ tâm thiền/ Từ bi lan khắp hữu tình khổ đau”.
Kệ 89 là kệ chuyển tiếp, “Sau thiền quán họa tai năm dục/ Và quán về công đức yểm ly/ Đến phần tu quán Bồ-đề/ Dứt tâm phân biệt người ta rạch ròi”.
Kệ 90 đến kệ 104 chủ yếu dạy quán về mình và người để phá tâm phân biệt.
Chúng sinh cũng như tay chân của mình. Giữ chân tay đồng nghĩa lo cho thân mình. Điểm chung của mình và người là đều muốn tránh khổ tìm vui, thành thương mình thì nên thương cả chúng sinh. Khổ của mình, không liên quan đến người, nhưng do ngã chấp mà thành khó kham nhẫn. Khổ của người, dù thấy không liên quan đến mình, nhưng một khi “lắng nghe tận đáy tâm ta” thì “Như mình đau khổ, khó mà nhẫn kham”. Việc của Bồ-tát là xua tan khổ đau và mang an lạc đến muôn người.
Trong phần này, Bồ-tát Tịch Thiên đã nêu ra một số tà kiến để người tu biết mà tránh:
- Cho rằng khổ của người chẳng liên quan đến mình.
- Cho rằng thân sau chẳng phải thân này, nên chẳng sợ những tạo tác trong hiện tạiảnh hưởng đến tương lai, mặc tình phóng túng, tạo nhân khổ.
Hai thứ tà kiến trên phát sinh là do chấp ngã mà ra, thấy ta và người đều thật, ta tách hẳn người, ta hiện tại không dính gì đến ta tương lai.
- Cho rằng do tương tụcthời gian mà năm uẩn kết thành thân, thật không tự không tha, nên chẳng cần ai trừ khổ cho ai. Nếu không người không ta thì không có khổ đau. Thực tế đang có khổ đau thì biết mình và người chưa ai đạt đượctrình độ đó để không có việc cứu khổ.
- Cho rằng chẳng cần diệt khổ cho người, vì khổ không thực. Đúng là khổ không thực. Nhưng nếu vậy thì khi mình khổ cũng nên mặc kệ. (Thực tế thì, khi khổ chẳng ai dám đối diện với khổ mà luôn tìm cách né tránh, trừ diệt. Chính vì muốn né tránh mà có khi gây khổ cho người. Vì thế, biết khổ tuy không thực, nhưng với cơ duyên của mình và người trong hiện tại, vẫn phải dùng đến tâm vị thacứu khổ, cũng là diệt khổ cho mình).
- Cho rằng mình đã khổ, sao còn phát thêm cái tâm bi mẫn khiến mình khổ thêm. Không biết rằng “Thật khi thương khổ chúng sinh/ Thì không còn có sầu riêng chút nào”.
Kệ 105 đến kệ 110 nói về tâm quảng đại của Bồ-tát.
Phá cái chấp phát tâm bi mẫn khiến mình khổ thêm vừa nói trên. Nếu nỗi khổ của một người có thể trừ cái khổ của vạn người thì vẫn nên “Rước phiền đến bản thân ta”. Như trong kinh Tam ma địa vương, Bồ-tát Diệu Hoa Nguyệt1 “Biết vua mưu hại cho mình/ Vẫn cam chịu để vạn người sống an”. Không phải chỉ vậy mà còn dám “A-tỳ địa ngụchân hoan bước vào”. Bồ-tát lấy niềm vui của chúng sinh làm niềm vui của mình, lấy lợi íchtha nhân làm lợi ích của mình mà không tự đắc kiêu căng, không mong chờquả báo, “Vui làm thiện nghiệp không cầu lợi danh”, “Yêu người như thể yêu mình không hai”.
Kệ 111 đến kệ 120 dạy phá chấp ngã. Dùng vị tha phá vị ngã.
Chấp ngã, chẳng qua chỉ là một thói quen, thứ gì cũng quy về mình. Nhưng quy mình thì gặp nhiều tai họa mà vì người thì có công đức. Nên cần chuyển dần thói quenchấp ngã này, bằng cách thực hànhvị tha. Việc này có thể thực hành tốt vì thân tâm này vốn vô ngã, chỉ do chấp mà thành. Giờ muốn phá chấp này thì thay vì lợi ích cho bản thân, hãy lợi ích đến muôn người. Lợi ích thế nào? Những gì mình không muốn thì đừng làm với người. “Một lời nặng khiến mình khó nhẫn/ Những đớn đau cẩn thận tránh xa/ Như ta thương bản thân ta/ Hãy đem tâm ấy trải ra muôn người”. Kế là, gia trìthánh hiệuQuán Thế Âm để “Trừ bao khiếp sợ hữu tình trầm luân”. Mọi việclúc đầu thấy khó nhưng không nên thối tâm, vì thứ gì cũng do quen. Quen rồi sẽ thấy dễ dàng. Như với người nghe tên đã sợ, nhưng thân cận quen rồi, khi mất cũng sinh muộn phiền, thảy đều do thói quen. Cho nên, cần chuyển vị ngã thành vị tha để tự cứu mình và cứu người thoát khỏi khổ đau. Kệ nói “Đổi trao tha tự, tập quen/ Ấy là bí quyếtđi vào vô sinh”.
Kệ 121 đến kệ 124 nói về họa tai của việc chấp ngã.
- Do tham đắm thân mà sinh ra đủ thứ lo sợ.
- Vì cung phụng cho thân mà sinh ra sát sinh, trộm cướp, làm muôn loài sợ hãi.
- Vì danh lợi của bản thân mà có khi giết cha mẹ, trộm của Tam bảo, gieo nhân địa ngục.
Người có trí, không vì thân này mà làm những việc đẩy mình vào cõi khổ như vậy.
Kệ 125 đến kệ 129 nêu quả báo của vị tha và vị ngã.
- “Nếu cho hết tôi còn gì” là suy nghĩ đưa con người đến cửa ngạ quỷ. Chỉ khi suy nghĩ “của này để cho” mới có thể giúp con người đến cõi lành.
- Ai vì bản thân mà hại người khác sẽ rơi vào chốn khổ đau. Vì người chuốc lấy thương đau thì việc nào rồi cũng thành tựu.
- Muốn mình ở trên cao, sẽ rơi vào chốn vực sâu thấp hèn. Hạ mình nâng kẻ khác lên sẽ sinh vào chốn tốt lành.
- Sai người phục dịch cho mình, sau phải chịu cảnh tôi đòirẻ rúng. Đãi người, bạc mình sẽ thành vương tước sống đời cao sang.
Tóm lại, ích kỷ chỉ nghĩ đến mình thì lênh đênh thống khổ. Xả mình lợi người thì hạnh phúctriền miên.
Kệ 130 đến kệ 160 nói vì sao phải hành vị tha.
Chấp ngã là hành vi của phàm phu, lợi ích muôn nhà là hành vi của đấng Mâu Ni. Kẻ tu đạonếu không tập thực hànhvị tha thì khó mà thành tựuđạo quả. Tuy nói lợi tha nhưng cũng là lợi mình. Còn nếu lợi mình theo kiểu chấp ngã thì đó không phải lợi mình mà đang gây cái nhân khổ đau cho mình. Mọi tai họa xảy ra với mình đều do chấp ngã. Vì thế nên từ bỏ việc chấp ngã, thương người như thể thương thân. Phải luôn tâm nguyện rằng “Từ đây ta thuộc của toàn chúng sinh/ Chuyên mưu lợi ích hữu tình/ Ngoài một việc đó, không nên nghĩ gì”. Tài sản hay thân thể đều mang ra lợi ích cho chúng hữu tình.
Phần này còn dạy quán tâm thức của người đối với mình, để tránh như tâm thức của người. Phàm phu, đối với người hơn mình, thường khởi tâmđố kỵ, ghen ghét. Đối với kẻ kém mình, thường khởi tâmcoi thường, lấn lướt, chiếm đoạt. Đối với kẻ ngang mình, thường khởi tâm tranh nạnh hơn thua, nguyền rủa, và tìm cách dìm người. Chính vì lưu giữ các tâm trạng đó mà phàm phu trải vô số kiếp thống khổlưu linh. Kẻ tu đạo thì không như vậy. Chỉ tận tâm làm lợi lạcquần sinh. Làm được vậy thì dù chưa thành Phật cũng không còn trầm luân trong sinh tử.
Kệ 161 đến kệ 185 nêu hạnh của Bồ-tát.
- Tuân thủgiáo lýhành trì.
- Thường hànhlợi tha, chịu thay thống khổ cho người, nguyện nhận mọi khó khăn cho người.
- Kiểm tra từng tâm niệm của mình, thấy lỗi liền sửa, dù chỉ một lỗi nhỏ cũng không bỏ qua.
- Tán dươngtiếng tốt của người, còn đức mình nên ẩn.
- Được việc chớ tỏ ta đây, ngoan cường. Nên giữ phận thấp hèn, hầu chúng. Bỏ thói kiêu mạn.
- Không hiện tướng thô cứng. Cần cẩn thận trong mọi hành động.
- Hạnh lợi thakiên trì không bỏ.
- Chế tâm tham dụchiện hành.
- Răn tâm giữ giới, xả ác hành thiện.
- Tâm không buông lơi, dẹp giải đãi, thùy miên.
- Thường quán bất tịnh.
- Quên mình sống cho đại chúng.
- Lìa tham sân phụng sự muôn người.
Kệ 185 đến kệ 187 là nguyện hoàn tất những gì đã nguyện khi nhận rachấp ngã chỉ mang mình đến cõi khổ, cần chuyên tâmtu học pháp Tam-ma-đề.
Trong phần thiền định này, thấy xuất hiệnthiền quán khá nhiều. Đây là chỗ khác nhau giữa thiền Phật giáo và thiền ngoại đạo. Ngoại đạo lấy cái định an lạc ở các cõi làm đích đến, chỉ tập trung tu chỉ để đạt đượctịnh chỉ, ít dùng quán. Kẻ tu Phật dùng thiền quán, quán lý thực của các pháp, buông bỏ để có tịnh chỉ. Thiền quán này là nhân của tuệ trong định tuệbình đẳng. Định tuệ được đồng đẳng, sau mới thành tựuquả vị Phật. Ngoại đạo chỉ tập trung tu chỉ, là nhân của định, nên tuy có được thần thông, nhưng không được vô ngã và Bồ-đề vô thượng, bi từ khôngquảng đại, không đạt đượclậu tận thông.
Trí tuệ
Phần này gồm 167 bài kệ. Mỗi bài kệ có 4 câu.
Kệ 1 là chuyển tiếp. Nêu những gì nói trong phần thiền định cũng như các phần khác là cơ sở giúp phát sinh tuệ giác. Tuệ giác nói đây là chứng nhậptánh không.
Kệ 2 giới thiệutục đế và chân đế. Chân đế không thể dùng tâm phân biệt mà thấu đạt.
Kệ 3 đến kệ 5 nêu tuệ lực khác nhau giữa thiền gia và phàm ngu. Ngay với thiền gia, tùy năng lựctu hành mà cái thấy đã không như nhau, huống là phàm phu, thấy thứ gì cũng thật. Thiền gia thấy mọi thứ đều huyễn hóa. Do đây mà có thắc mắc, tranh cãi v.v...
Hỏi: Nếu mọi thứ là như huyễn thì cần gì tu?
Đáp: Thấy như huyễn là cái thấy của bậc đã sống được với tâm chân thật. Phàm phu chưa được nên cần phải tu, dùng huyễn pháp mà tu để nhận ra sự huyễn hóa này.
Kệ 6 đến kệ 8b xác định cái thấy thuộc tục đế chỉ là giả danh, do điên đảo mà thành. Phật nói các pháp vô thường, tuy cái thấy này đúng với những gì đang xảy ra ở thế gian, nhưng vẫn chỉ là lời dẫn đạo, vì thực chất các pháp vốn không, “Có đâu để diệt trong từng sát-na?”. Vì thế nói vô thường vẫn là phương tiệndẫn đạo thuộc tục đế, chưa phải là thắng nghĩasâu xa. Tuy vậy cái thấy “chỉ bền sát-na” mà nhà thiền nói là như huyễn, so với cái thấy của người đời thì “tạm là chân thật”. Như Phật dạy quán thân này bất tịnh, tuy chưa phải là cái thấy rốt ráo, lại trái với cái nhìn của người đời, nhưng cái quán đó không sai, vì thế những gì ngược đời chưa chắc đã không chân.
Kệ 9a đến kệ 40 là nêu các thắc mắc phản biện kèm với câu trả lời.
Hỏi: Nếu nói các pháp như huyễn thì cúng dườngcông đức thế nào?
Đáp: Phật thật thì đức thật. Phật huyễn thì đức huyễn.
Hỏi: Chúng sinh nếu huyễn khi chết đi tái sinh ra sao?
Đáp: Huyễn duyên còn tụ thì huyễn hình còn sinh. Như trò ảo thuật, còn duyên thì còn sinh, nhưng không vì yếu tốthời gian dài lâu mà thành thật chân. Chúng sinh huyễn thì sát sinh huyễn, bố thí huyễn, sinh tội huyễn và công đức huyễn. Đó là nhân duyênxuất hiệnvạn pháp như hiện này. “Chú thuật không thể sinh tâm huyễn/ Tâm không từ huyễn thuật sinh ra/ Nhân duyên đủ thứ hợp hòa/ Phát sinh các dạng vật và chúng sinh”.
Hỏi: “Nếu cho vạn pháp chân như/ Chỉ trên tục đế bày ra luân hồi/ Phật còn có thể luân hồi/ Thì Bồ-tát hạnh còn ai tu hành?”.
Đáp: Chúng hữu tình thì theo nguyên tắc huyễn duyên còn thì huyễn hình không diệt. Phật thì duyên sinh tử đã chấm dứt, nên dù ở mặt tục đế vẫn không sinh.
Hỏi: Nếu vọng thức không thành thì dùng gì duyên với cảnh tình huyễn hư?
Đáp: Cảnh đã huyễn thì có cảnh gì để duyên?
Hỏi: Huyễn nhưng do thức biến ra, thức này nhìn lại cảnh mình biến ra.
Đáp: Nếu cảnh là tâm thì tâm không thể thấy tâm. Phật dạy như vậy. Như gươm không thể tự chém mình.
Hỏi: Nó như ngọn đèn, tự chiếu sáng mình và chiếu sáng vật ngoài.
Đáp: Ánh sáng đèn không thể tự chiếu cũng chẳng chiếu vật khác. Vì nếu không có tối thì không gọi là chiếu sáng2.
Hỏi: Như gương xanh, khi soi vật thì vật xanh hiện hình, nhưng ngọc lưu ly thì không, không nương vật mà có. Cũng vậy, thức có hai loại: có và không nương các vật ngoài.
Đáp: Ví dụ đó không đúng. Vì lưu ly vốn tự xanh, không do duyên mà thành. “Chính vì có thức liễu tri/ Nên hay biết được đèn thời chiếu soi”. Nhưng nói thức tự soi chính nó thì không có căn cứ vì trong thắng nghĩa, tự và tha đều không3. Không có việc tâm tự ngắm tâm. Nên dù tự chiếu hay không, đều bất thành. Như nói con của gái vô sinh đẹp hay xấu đều vô nghĩa.
Hỏi: Nếu không có tự chứng phần, làm sao nhớ được những tâm qua rồi?
Đáp: Do tương quan với cảnh ngoài mà nhớ lại. Như gấu ngủ đông, tỉnh giấc thấy thân đau nhức, nhìn vết thương thì suy biết bị chuột cắn.
Hỏi: Như người biết được tâm người thì cũng biết được tâm mình.
Đáp: Điều đó không chắc vì như người được bùa linh có thể thấy mọi thứ mà không thể thấy mắt mình.
Hỏi: Nếu tự và tha đã không thể lập thì kiến, văn, giác, tri đều không?
Đáp: Mọi thấy biết đều không nên chấp thực, vì đó là nhân duyên của khổ sầu.
Hỏi: Huyễn duyên không ngoài tâm mà cũng không là một với dòng tâm?
Đáp: Không có pháp gì có thể không ngoài tâm mà cũng không là một với dòng tâm. Theo Duy thức, cảnh ngoài không thực. Theo Trung quán, tâm thức huyễn hư.
Hỏi: Luân hồi nương nơi thật tâm, nếu không tất cả đồng với hư vô?
Đáp: Nếu sinh tử nương nơi thật pháp thì tâm thànhđơn độc không tác dụng, vì không có pháp ngoài trợ duyên. Lại, nếu tâm lìa cảnh mà tồn tại thì chúng sinh đồng với Phật. Lập ra tông Duy Thức không chút lợi ích.
Hỏi: Dù biết vạn phápnhư huyễn nhưng làm sao dứt được sân si, như phù thủy tạo mỹ nhân lại sinh say đắm mỹ nhân?
Đáp: Đó là do quen nhận giả làm chân, quen với tham sân, không có ý thứctrừ diệt tham sân. Giờ cần tạo thói quentu tậptánh không. Quán các pháp không thật, bản thânpháp không tánh, cho đến khi thấy các pháp đều không. Sau đó trừ luôn cái chấp không đó thì không còn bận tâm đến không và có. Khi không và có không còn khởi thì tâm vắng lặng, không còn duyên với pháp xa gần, chứng cảnh giớitịch nhiên. Lúc đó vô tâm thỏa ước, thân Phật hiện ở nhân gian, chỉ do Bồ-tát nguyện mà có tâm cùng với hữu tình. Cũng do nguyện lực mà “Nên dù Phật đã tịch viên/ Vẫn còn lợi lạcvô biên hữu tình”. Như tháp linh Kim sí điểu vẫn còn năng lực chữa lành vết thương, là “Nhờ linh chú Bà-la-môn/ Gia trì lên đấy thuở còn xa xưa”.
Hỏi: Cúng dường tháp Phật vô tình thì được thành quả gì?
Đáp: Phật dù nhập diệt hay chưa nhập diệt, công đứccúng dường đều như nhau. Trên mặt tục đế hay thắng nghĩa đế, quả cúng dường ấy thể của nó là như. Phật thật thì quả thật. Phật không thật thì quả huyễn hư.
Hỏi: Cần chi phải thấy tánh không, chỉ cần kiến đế là thoát vòng trầm luân.
Đáp: Kinh Bát-nhã dạy muốn chứng Bồ-đề phải có tuệ không. Đại thừanếu không do Phật thuyết thì có gì chắc Tiểu thừa là chánh tông?
Kệ 41 đến kệ 56 là phần tranh luận về Đại thừa và Tiểu thừa.
Ngoài những tranh luận cho thấy sự phi lý hay hợp lý khi chấp nhậnTiểu thừa mà không chấp nhận Đại thừa (là của Phật thuyết), còn nêu bày cho thấy quả vị A-la-hán chưa sạch tập khí. Mọi tranh cãi xuất hiện là do không chứng nhập được phần tánh không mà kinh Bát-nhã nói. Dù là Đại A-la-hán, nếu khôngchứng nhập được phần tánh không này, tâm còn duyên với pháp thì khó mà an trú được Niết-bàn rốt ráo.
Hỏi: Chỉ cần quán vô thường là đủ thoát vòng trần ai.
Đáp: Không chứng nhập được tánh không, tức công năng nghiệp cũ4 vẫn còn, thì khó mà không khổ.
Hỏi: A-la-hán không còn ái thủ, nên không còn thọ thân sau để nói khổ.
Đáp: Khi vô minh còn thì dù không còn nhiễm ô vẫn chưa hết khổ5. A-la-hán chỉ mới đoạn được phần ái hiện hành, phần ái vi tế (khát áivô nhiễm) chưa hết, tức tâm vẫn còn chấp thật. Phần nào còn chấp thật, phần đó còn khổ. Nếu không có phần không quán này thì phiền não dù đã lắng, cũng lại sinh, như kẻ tu Vô tưởng định. Vì thế phải làm sao chứng nhập cho được phần tánh không của vạn pháp. Khi đã có không quán, thì trong chốn luân hồisinh tử, không còn tham vui sợ khổ, lòng từ trải khắp, độ người thoát mê. Cho nên, không vì việc chưa thông nghĩa lý mà bác bỏtánh không. Nên như lý tu không, dứt trừ nghi hoặc, thoát vòng trầm luân. Chứng nhậptánh không giúp trừ hai chướng phiền não và sở tri. Vậy muốn chóng được Phật quả, sao không chịu tu cái không ấy?
Hỏi: Quán tánh không khiến người ta sợ hãi.
Đáp: Do chấp thật mới sinh sợ hãi. Sợ hãi vì còn chấp cóthật ngã. Quán không sẽ khiến vô minhphiền não lắng dịu. Thật chẳng có ngã để sợ.
Kệ 57 đến kệ 59 luận để phá cái chấp cho sắc thân là ngã.
Kệ 60 đến kệ 69 luận để phá cái chấp cho thức tâm là ngã.
“Thức tâm sáu loại đều là huyễn hư”6. Phần phá chấp, dùng nhĩ thức làm ví dụ.
Kệ 70 đến kệ 74 luận về ngã với nhân quả.
Hỏi: Nếu nghiệp tạo ra sinh rồi diệt, không có ngã trong đó, thì luật nhân quả nương đâu vận hành? Ai chịu quả do nghiệp gây ra?
Đáp: Người tạo nghiệp đời này và người nhận quả trong tương lai không đồng7.
Hỏi: Nhưng với nhân quả trong hiện đời, cùng một căn thân thì sao?
Đáp: Nhân không thể đồng với quả. Như có cha rồi mới có con. Có nhân rồi sau đủ duyên mới có quả8.
Hỏi: Phật dạy trong kinh ai làm nấy chịu. Không thể bỏ qua việc này.
Đáp: Muốn ngăn kẻ ác tà nên Phât dạy như thế, để hiểu trong dòng tương tục, nhân quả không lìa nhau. Nhưng trong thắng nghĩa đế, tâm vị lai và quá khứ đều không, nên không có ngã trường tồn. Như cây chuối, lột ra từng bẹ thì không thấy gì nữa.
Kệ 75 đến kệ 77 luận nếu hữu tình không hiện hữu thì khởi bi tâm để cứu ai?
Đáp: Do si mê mà phải bày ra việc giả độ, chóng chứng Bồ-đề.
Hỏi: Ai chứng Bồ-đề?
Đáp: Do si tâm mà bày ra như vậy. Do trừ thống khổ mà bày ra huyễn tu và huyễn quả. Cuối cùng khuyên người “Chỉ nên bỏ mê lầm về ngã. Cách trừ ngã chấp tuyệt luân/ Hãy quán vô ngã triệt dần khổ đau”.
Kệ 78a đến kệ 87 luận phá sắc thân, trừ tham ái.
Kệ 88 đến kệ 92 luận phá thọ ấm.
Kệ 93 đến 101 luận về xúc để phá cái chấp cho căn và trần là thật.
“Nếu căn trần thức sum vầy/ Phát sinh nhận biết thể này không chân”. Từ đó liên hệ đến thọ và ái. “Tìm tông tích không người cảm thọ. Khi đà thấy được đến nơi/ Quả kia là ái diệt ngay tức thì”.
Kệ 102 đến kệ 105b luận phá cái chấp cho các thức là thật.
Từ đó kết luận “Vậy nên không thể cho rằng/ Sự sinh các pháp thật chân chút nào”.
Kệ 106a đến kệ 110, là phần tranh luận về tục và chân đế.
Hỏi: Nếu các pháp không thì tục đế không, sao lập hai đế? Nếu vì người mê mà lập hai đế thì làm thế nào để họ từ đau khổ được an vui? Dù có người đã được kinh nghiệm an vui của Niết-bàn, nhưng với người còn trong vòngsinh diệttương đối vẫn không khỏi nghi nan.
Đáp: Vô sinh là có. Vì không liễu đạt mà thành ngoa ngôn. Nhưng không vì đó mà Niết-bàn thành hư vô. Sự phân biệt có là do chưa liễu thoát. Khi ngộ được vạn pháp không chân thì đó là Niết-bàn. Lúc ấy không còn kiến lậptục đế, chân đế.
Hỏi: Tâm tương quan với cảnh, nếu cảnh không thật, tâm quán sát truy cầu có thật?
Đáp: Với chân đế, tâm đó không thật. Khi tánh không được chứng nhập, “không cần tâm nữa xét tra tâm này”. Cảnh một khi hiện rõ bản chấtkhông thật thì tâm tự không sinh, đó “Chính là tự tánh Niết-bàn an vui”.
Kệ 111 đến kệ 115, luận để phá cái chấp cho tâm và cảnh đều thật.
Kệ 116 đến kệ 153, tranh luận về sự sinh của vạn pháp.
Phá cái chấp cho vạn phápvô nhân sinh, do trời Tự Tại sinh, do ba tính đức sinh. Vạn pháp vốn không từ đâu đến cũng không diệt đi đâu. Chỉ do mê chấp mà thấy các thứ huyễn hư thành chân thật. Trong lý tánh xưa nay không vật, chẳng được, chẳng mất, chẳng kính, chẳng khinh v.v...
Kệ 154 đến kệ 165, nêu bày hiện trạng người đời đang vướng.
Do không nhận ratánh không của vạn pháp, chấp thật mọi thứ rồi quy ngã mà vướng vào luân hồikhổ não. Cũng chẳng ý thức được những khổ đau đó mà tìm cách vượt thoát.
Kệ 166 và kệ 167 là hai bài kệ tự hỏi bao giờ mình mới có thể dùng công đức của bản thân giúp dập tắt những khổ não cho chúng sinh, bao giờ mới có thể vận dụng tâm rỗng rang để khai thị cho chúng sinh ngộ được tánh không, phá bỏ chấp hữu.
Hồi hướng
Phần này gồm 58 bài kệ. Mỗi bài kệ có 4 câu.
Từ công đức tạo luận, Bồ-tát Tịch Thiên đã phát nguyện:
Kệ 1 là “Nguyện cho tất cả chúng sinh/ Noi gương Bồ-tát dấn mình lợi tha”.
Kệ 2 là nguyện mọi người được an vui, không còn sầu muộn, không còn bệnh khổ rên la.
Kệ 3 là nguyện mọi người được thảnh thơi, an nhiên như Bồ-tát.
Kệ 4 đến kệ 15 là nguyện chúng sinh ở địa ngục hết khổ.
Cảnh giớiđịa ngục biến thành cảnh giớiHoa nghiêmcực lạc. Chúng sinh cõi ấy vui theo hạnh Bồ-tát, thấy được thần Kim Cang, Đức Văn Thù để xa lìa mọi khổ đau.
Kệ 16 và kệ 17 là nguyện cho bàng sinh và ngạ quỷ hết khổ.
Bàng sinh thì thoát được nỗi kinh hoàng của mạnh yếu, không còn nồi da xáo thịt. Ngạ quỷ thì được vui ca thái bình.
Kệ 18 đến kệ 25 là nguyện cho nhân sinh hết khổ.
Nguyện nhân sinh thoát khổ hiện tại, được mọi điều như ý. Nguyện mọi ngườithực hiện hạnh vi tha.
Kệ 26 là nguyện cho chư thiên và thiện thần luôn quan tâm đến kẻ bị ách nạn, cô đơn, yếu, già, ngu si, tuyệt đường sinh nhai v.v…
Kệ 27 và kệ 28 là nguyện cho người người thoát được bát nạn, được kho vô tận, không tham, không sân, đầy đủ tín, trí, bi và thường nhớ được quá khứ.
Kệ 29 đến kệ 31 là nguyện cho người đời, dù thân tướng thế nào vẫn giữ được đạo đứcuy nghi, tránh ác hành thiện, thân gái chuyển thành thân nam.
Kệ 32 là nguyện cho chúng sinh được chư Phật hộ trì, lìa nghiệp ma, hành Bồ-tát đạo không mệt mỏi.
Kệ 33 đến kệ 41 là nguyện hữu tìnhđạt được quả phúc tối thượng, nơi nơi tạo phúc, cúng dường, nghe pháp, pháp âm vang khắp.
Kệ 42 đến kệ 46 là nguyện riêng cho giới xuất gia.
Lời kinh tiếng kệ vang xa, Tăng chúnghợp hòa, giới luật thường nghiêm, kẻ phạm giới biết hối cải, được người tôn kínhcúng dường, đạo tâm sáng rỡ. Tỳ-kheo đoạn trừ được tâm tán loạn tham ưu. Ni chúng thì hết cạnh tranh, tu hành tinh tấn.
Kệ 47 đến kệ 50 là nguyện chung cho cả hai hạng xuất gia và tại giaxa lìaác đạo, được phúc báu và sự hộ trì của chư Phật, chóng thành quả giác.
Kệ 51 đến kệ 56 là lời nguyện cho riêng bản thân Bồ-tát Tịch Thiên.
- Với tự lợi thì đời đờixuất giatu hành, nhớ được quá khứ, khi cần hỏi pháp, Bồ-tát Văn Thù liền xuất hiện, ăn uốngđạm bạc, vui thiền tịch duyệt chốn rừng sâu.
- Với lợi tha thì mong lợi ích cho hằng sa chúng, “Trí bi vô tận, độ đời vô biên”, nơi nào còn chúng sinh thời ngài còn đến đó độ họ thoát khỏitrầm luân, cũng xin lãnh hết mọi khổ nạn cho chúng sinh, nguyện được như công hạnh của Văn Thù.
Kệ 57 là nguyện Tam bảotrường tồnthế gian, mang an vui đến mọi người.
Kệ 58 là lời kính lễ đối với Bồ-tát Văn Thù, người đã giúp ngài khai phát thiện tâm. Ngài cũng kính lễ hàng Bồ-tát đã khiến giới-định-tuệ của ngài được tăng trưởng.
Kết luận
Nhập Bồ-tát hạnh là tập luận nói về hạnh của Bồ-tát. Phát tâm Bồ-đề, thọ giới Bồ-tát rồi, dần dà đều phải trang bị cho mình những đức hạnh mà Bồ-tát phải có, gọi là nhập Bồ-tát hạnh. Luận nói rõ về hạnh của Bồ-tát, từng chi tiết kỹ càng, kèm với những giải thích giúp người từ bỏ những suy nghĩ không tương ưng với hạnh của Bồ-tát. Những chi tiết ấy được lồng trong các tiêu đề lớn như Trí tuệ, Hồi hướng v.v... giúp hành giảtu Phậtnhận địnhvấn đề một cách tổng quát rõ ràng trước khi vào phần chi tiết.
Thọ giới Bồ-tát nghĩa là ta đã chấp nhận việc phát tâm Bồ-đề, tự giác, giác tha, giác hạnhviên mãn. Nói đến giác thì không thể thiếu định tuệ. Muốn có định tuệ thì giới phải giữ, cũng không thể thiếu sám hốitội nghiệp, tinh tấn, nhẫn nhục v.v... những thứ giúp một vị Bồ-tát vượt thoát ách nghiệp chúng sinh từng gây tạo trong quá khứ, thành tựutự lợi và lợi tha trong tương lai. Cho nên, đã thọ giới Bồ-tát thì nên xác định rõ về giới mình đã thọ, xác định rõ về những gì cần thực hiệntương ưng với danh nghĩa mình đang có. Tùy phần tùy lực mà làm để có công đứchồi hướng cho những gì chưa thực hiện được trong tương lai. Không phải thọ Bồ-tát rồi thì giới luậtbuông lung, định tuệ không màng, chỉ phát huy thêm đời sốngthế tục, như thực trạng hiện nay đang xảy ra trong giới cư sĩ. Thọ cho vui, cho có danh xưng với đời.
Chân Hiền Tâm
_______
(1) Bản văn xuôi.
(2) Dùng nhân duyên để phá chữ “tự chiếu” của ngọn đèn. Đây là phần luận phá tướng sanh trong phẩm Phá tam tướng của luận Trung quán.
(3) Khi đã nói đến “tự” tức nói ở mặt chân đế thì chân đế “không”, không tự cũng không tha.
(4) Chỉ cho chủng tửtập khí.
(5) Muốn chỉ đến cái khổ của Biến dịch tử.
(6) Câu cuối kệ 59.
(7) Ý là kẻ thọ quả xuất hiện thì người tạo nghiệp đã mất. Điều này chứng minh không có ngã. Vì ngã thì trường tồnbất biến.
(8) Ý nói mọi thứ đều hình thành theo duyên. Có nhân, đủ duyên thành tựu quả, nhân và quả không phải một, tức không có ngã gieo nhân và gặt quả.
(Nguyệt San Giác Ngộ Số 283 & 284)
SÁCH ĐỌC THÊM : NHẬP HẠNH BỒ TÁTTịch Thiên - Nguyên Hiển Việt dịch (sách) NHẬP BỒ TÁT HẠNHTịch Thiên (Shantideva)- Việt dịch: Thích NữTrí Hải (sách) BỒ TÁT HẠNH Santideva (Tịch Thiên) - Thích Trí Siêu dịch (sách) BỒ TÁT HẠNH TRONG KINH VIÊN GIÁC Thích Nguyên Tịnh Con ĐườngBồ Tát (Chương 1) Lợi Lạc Của Tâm Bồ Đề. Con ĐườngBồ Tát (Chương 2) Sám Hối Nghiệp Tội. Con ĐườngBồ Tát (Chương 3) Tâm Bồ Đề Nguyện. Con ĐườngBồ Tát (Chương 4) Thực Hành Tâm Bồ Đề. Con ĐườngBồ Tát (chương 5) Bảo Vệ Tỉnh Biết Con ĐườngBồ Tát (Chương 9) Trí TuệSiêu Việt. Tiểu truyện về ngài Tịch Thiên Những khía cạnh đạo đức trong Nhập Bồ-đề hành luận của Tịch Thiên Ý nghĩa phước và chuyển phước trong đạo đức học của Tịch thiên