VẠN PHÁP QUI TÂM LỤC
Thiền Sư Tổ Nguyên
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Đắc Pháp
Sự phu diễn chánh pháp công đức vượt hơn hằng sa. Lưu truyền chí lý, phúc lợi hơn hư không lớn. Hằng sa vô số, hư không lớn vô ngần. Việc lợi sanh thí pháp công đức vượt hơn hai thí dụ nầy – Cớ sao công đức vô lượng như vậy? – Một là làm cho người chưa tin trở thành chánh tín, nhiếp về một niệm chẳng dong ruổi tìm cầu bên ngoài. Hai là khiến người đã tin giúp thành quán lực, lý và hạnh kiên cố, mau chứng bồ đề, giống như đi xe rộng lớn. Dựng lập Bảo Phường (tàng kinh các). Như đi thuyền chắc chắn đến bờ giác.
Kinh Lăng Nghiêm nói: “Phật bảo A Nan! Nếu lại có người mang bảy báu chứa đầy cả mười phương hư không, đem dâng cho chư Phật như vi trần, và thừa sự cúng dường mà tâm không chút sơ sót, ý ông nghĩ sao? Người nầy dùng nhơn duyên bố thí cho chư Phật như vậy được phước nhiều chăng?”
A Nan đáp: Hư không vô tận, trân bảo vô ngằn. xưa có chúng sanh thí Phật bảy quan tiền, khi xả thân còn được làm vị chuyển luân vương. Huống lại hiện tại, hư không vô cùng, Phật độ đầy khắp mà đều thí trân bảo, thì cùng kiếp nghĩ bàn cũng không hết được cái phước của người nầy, rằng sao lại có bờ mé?
Phật bảo A Nan! Chư Phật Như Lai, nói không hư dối. Nếu lại có người thân tạo đủ bốn trọng tội và mười ba la di tội, chỉ trong chớp mắt liền trải qua địa ngục A Tỳ ở phương nầy hay phương khác, cho đến địa ngục vô gián khắp mười phương đều trải qua. Nếu người nầy chỉ khởi một niệm rằng “đem pháp môn nầy khai thị cho chúng sanh ở mạt kiếp”, thì tội chướng người nầy liền theo niệm ấy mà tiêu diệt. Biến địa ngục khổ mà họ đã thọ thành nước an lạc, được phước còn hơn người bố thí bảy báu trước gắp trăm, ngàn, muôn ức, như vậy cho đến tính, đếm, thí dụ không thể kịp. Tán thán và hoằng dương kinh nầy lợi ích không ngằn”.
Kinh Kim Quang Minh nói: “Thí pháp cho người có năm điều lợi ích thù thắng. Những gì là năm? Một là pháp thí gồm lợi, tài thí không bằng. Hai là pháp thí hay làm cho chúng sanh ra khỏi ba cõi, còn phước của tài thí chẳng ra khỏi dục giới. Ba là pháp thí hay tịnh pháp thân, còn tài thí của tăng trưởng nơi sắc. Bốn là pháp thí vô tận, còn tài thí có chừng. Năm là pháp thí hay đoạn được vô minh, còn tài thí chỉ đè được tham ái. Cho nên, nầy thiện nam tử! Công đức vô lượng vô biên khó thể thí dụ”.
Lại Kinh Kim Cang nói: “Bố thí bảy báu đầy khắp tam thiên đại thiên thế giới, chẳng bằng thọ trì bốn câu kệ và vì người khác giảng nói thì phước của người ấy còn hơn sự bố thí bảy báu kia”.
Như có người thiện nam tín nữ nào, phát tâm khắc bản in bố thí truyền bá, khiến pháp giới chúng snah đốn ngộ tối thượng thừa, đều đến cõi Phật, đồng chứng bồ đề, thì công đức vô biên, khó nói hết.
Vạn pháp qui tâm lục
Nói thẳng chẳng dấu diếm
Hay mở mắt thanh tịnh
Khéo chỉ tâm niết bàn.
Ba đạo từ đây vào
Trăm nhọc chớ tìm ngoài
Có người in trăm bản
Hơn thí một thuyền vàng.
Nhứt tâm là tổng tướng của muôn pháp, muôn pháp là biệt tướng của nhứt tâm. Tâm có hai loại chơn vọng chẳng đồng. Nương vào chơn tâm mau chứng bồ đề. Đuổi theo vọng tâm thì trôi nổi trong sanh tử. Chơn tâm vọng tâm nên biết là bản thể. Chơn tâm là cái biết mầu nhiệm: không biết mà biết. Vọng tâm là cái biết của thức: có biết mà biết. Không biết mà biết thì viên minh tịch chiếu. Có biết mà biết thì niệm niệm sanh diệt.
Đại sư khởi lòng từ, mượn văn vấn đáp để biện minh chơn tâm, chỉ trần nẻo tu chứng. Từ đầu chí cuối mỗi lời đều khế lý. Quyển Lục nầy truyền bá ở đời như ngọn đèn sáng suốt hay phá được đêm dài vạn kiếp, mà thẳng đến Bảo sở. Thực là pháp quí, hẳn là pháp quí. Tôi xem quyển Lục nầy không thôi, và lại đọc nó đề làm lời bạt.
Thể Như Cư Sĩ Lưu Phương kính bạt.