THIẾU THẤT LỤC MÔN
Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải
Nhà xuất bản Tôn Giáo, Hà Nội 2009
HUYẾT MẠCH LUẬN
Khởi lên
ba cõi, thảy gồm về một tâm. Chư Phật trước sau cùng lấy
tâm truyền tâm, chẳng tạo ra
văn tự.
Hỏi: Nếu chẳng tạo ra
văn tự, lấy gì là tâm?
Đáp: Nay người hỏi ta, đó chính là tâm của người. Ta đáp lời người, đó chính là tâm của ta. Nếu ta không có tâm, nhân đâu hiểu được việc đáp người? Nếu người không có tâm, nhân đâu hiểu được việc hỏi ta? Nên hỏi ta đó chính là tâm của người.
Từ
vô số kiếp
đến nay, hết thảy mọi
hành vi,
vận động, mọi lúc,
mọi nơi, đều chính là gốc tâm của người, đều chính là gốc Phật của người. Tâm chính là Phật, cũng là như thế. Trừ tâm ấy ra, rốt cùng không Phật nào khác có thể được. Lìa tâm ấy ra,
không có lý nào tìm được Bồ-đề Niết-bàn.
Tự tánh vốn
chân thật, không phải nhân, không phải quả. Pháp tức là nghĩa của tâm,
tự tâm là Bồ-đề,
tự tâm là Niết-bàn. Nếu nói rằng ngoài tâm có Phật với Bồ-đề có thể được,
thật không có lý như vậy.
Phật với Bồ-đề cùng ở nơi nào? Như có người dùng tay nắm bắt
hư không, được chăng?
Hư không vốn chỉ có tên gọi, không có
tướng mạo, không thể nắm giữ, không thể
buông bỏ. Vậy nên nắm bắt cái không chẳng thể được. Ngoài tâm mà tìm Phật, rốt cùng chẳng thể được. Phật chính là
tự tâm mà thành, do đâu lại lìa tâm mà tìm Phật bên ngoài? Chư Phật trước sau cũng chỉ nói một tâm này.
Tâm chính là Phật, Phật chính là tâm. Ngoài
tâm không có Phật. Ngoài Phật không có tâm. Nếu nói rằng ngoài tâm có Phật, Phật ở nơi nào? Ngoài tâm đã không có Phật, sao khởi lên việc thấy Phật? Trước sau
tuần tự dối nhau, không
hiểu rõ được tâm mình, liền bị cảnh vật vô tình bên ngoài sai sử, không chút
tự do. Nếu vẫn không có
lòng tin, chỉ tự dối mình
vô ích, Phật không có lỗi gì.
Chúng sanh điên đảo, không rõ biết rằng tâm mình chính là Phật. Nếu biết tâm mình là Phật, chẳng nên tìm Phật ở ngoài tâm.
Phật không
cứu độ Phật. Dùng tâm để tìm Phật, ấy là không rõ biết Phật, nhưng ngoài tâm mà tìm Phật đều là những người không rõ biết tâm mình là Phật.
Cũng không thể đem Phật ra
lạy Phật, không thể đem
tâm niệm Phật.
Phật không
tụng kinh, Phật không
giữ giới, Phật không
phạm giới. Phật không giữ không phạm, cũng không tạo các
việc lành dữ.
Như muốn tìm Phật, cần thấy được tánh. Tánh chính là Phật.
Nếu không thấy tánh,
niệm Phật,
tụng kinh,
ăn chay,
giữ giới thảy đều
vô ích.
Niệm Phật được
nhân quả,
tụng kinh được
thông minh,
giữ giới được sinh lên
cõi trời,
bố thí được
phước báo, nhưng tìm Phật thì rốt cùng chẳng thể được.
Nếu tự mình không
sáng tỏ, nên
học hỏi nơi các bậc
thiện tri thức đã thấu rõ nguồn gốc
sanh tử.
Nếu không thấy tánh thì chẳng gọi là
thiện tri thức. Nếu chẳng như
vậy thì dù có giảng nói được
mười hai bộ kinh cũng không khỏi vòng
luân hồi sinh tử, chịu khổ trong
ba cõi, không lúc nào ra khỏi.
Xưa có tỳ-kheo
Thiện Tinh tụng được
mười hai bộ kinh nhưng vẫn không tự
thoát khỏi luân hồi, vì không thấy được tánh. Tỳ-kheo
Thiện Tinh còn như vậy, người đời nay giảng được năm ba
bộ kinh đã xem đó là hết thảy pháp Phật, thật là
ngu si.
Nếu không rõ được
tự tâm, tụng đọc những thơ văn
nhàn rỗi đều chẳng dùng vào đâu được. Nếu
quyết lòng tìm Phật, phải thẳng hướng đến chỗ thấy tánh. Tánh ấy chính là Phật.
Phật là người
tự tại, là người vô sự, không tạo tác.
Nếu không thấy tánh, suốt ngày
mê muội, hướng ra bên ngoài nhọc sức cầu Phật, rốt cũng chẳng được.
Tuy rằng chẳng gì có thể được, nhưng nếu cầu được
hiểu biết cũng nên
học hỏi nơi bậc
thiện tri thức, phải khẩn thiết khổ cầu, khiến cho tâm
hiểu rõ được việc lớn
sinh tử, chớ để năm tháng luống qua, tự dối mình
vô ích.
Như có
của báu chất bằng núi cao, có
quyến thuộc nhiều như cát
sông Hằng,
mở mắt nhìn thấy đó, nhắm mắt còn thấy được sao? Nên biết rằng các
pháp hữu vi đều là
ảo mộng.
Nếu không gấp rút tìm thầy
học đạo,
một đời luống qua
vô ích. Cho dù tánh Phật vốn tự có,
nếu không nhờ nơi thầy, rốt lại cũng không rõ được. Không nhờ nơi thầy mà hiểu được, việc ấy rất hiếm có.
Như tự mình sẵn có duyên lành nắm hiểu được ý thánh thì chẳng
cần phải học hỏi nơi bậc
thiện tri thức. Đó là những người sinh ra đã sẵn biết, sở học
vượt trội hơn người.
Nếu chưa rõ biết, phải
chuyên cần khó nhọc mà
học hỏi, nhờ nơi
kinh điển để được rõ biết.
Như tự mình rõ biết, không học cũng biết, chẳng giống như những người
mê lầm không thể
phân biệt trắng đen, dối xưng
lời Phật dạy, nói pháp sai dối,
bêu xấu chư Phật. Những hạng
si mê ấy
thuyết pháp như mưa tuôn, hết thảy đều là ma thuyết, chẳng phải
Phật thuyết. Thầy là vua ma,
đệ tử là dân ma.
Người ngu mê chịu theo sự sai sử theo cảnh ngoài, chẳng biết phải rơi vào biển khổ
sanh tử, nhưng những kẻ không thấy tánh mình lại dối xưng là Phật. Những hạng
chúng sinh ấy đều là những kẻ mắc tội lớn, dối gạt hết thảy những
chúng sinh khác, làm cho phải rơi vào
cảnh giới của ma.
Nếu không thấy tánh thì dù
thuyết giảng được
mười hai bộ kinh, thảy đều là ma thuyết. Ấy là
quyến thuộc của ma, chẳng phải hàng
đệ tử Phật. Đã không phân được trắng đen,
dựa vào đâu mà
thoát khỏi được sanh tử?
Nếu thấy tánh tức là Phật, không thấy tánh tức là
chúng sanh. Nếu như
lìa bỏ tánh
chúng sinh mà riêng có tánh Phật có thể được, thì hiện nay Phật tại nơi nào? Tánh
chúng sanh chính là tánh Phật, ngoài tánh ra không có Phật. Phật chính là tánh. Ngoài tánh mình ra, không Phật nào có thể được. Ngoài Phật ra,
không tánh nào có thể được.
Hỏi:
Nếu không thấy tánh thì những việc như
niệm Phật,
tụng kinh,
bố thí,
giữ giới,
tinh tấn, làm nhiều việc phước, có
thành Phật được chăng?
Đáp: Không thể được.
Lại hỏi: Do đâu mà không thể được?
Đáp: Bất cứ pháp nào có thể được đều là
pháp hữu vi. Đó là
nhân quả, là
thọ báo, chính là
pháp luân hồi. Không
thoát khỏi được
sinh tử, bao giờ mới
thành đạo Phật?
Thành Phật ấy là thấy tánh.
Nếu không thấy tánh, có nói về
nhân quả cũng là pháp
ngoại đạo. Nếu là Phật, chẳng học theo pháp
ngoại đạo. Phật là người không có nghiệp, không có
nhân quả.
Chỉ cần
tồn tại bất cứ pháp nào có thể được, thảy đều là
bêu xấu Phật,
dựa vào đâu mà thành tựu? Chỉ cần có sự
vướng mắc nơi một tâm, một khả năng, một chỗ
hiểu biết, một
quan điểm, đều không thể
thành Phật.
Phật không có giữ, không có phạm. Tánh của tâm vốn là không, cũng chẳng dơ chẳng sạch. Các
pháp không có chỗ tu, không có chỗ chứng, không nhân,
không quả. Phật không
giữ giới, Phật không tu
việc thiện, Phật không làm việc ác, Phật không
tinh tấn, Phật không lười nhác. Phật là người không tạo tác.
Chỉ cần có tâm
vướng mắc, không thể thấy Phật. Phật không phải là Phật, chớ nên
tìm cách hiểu về Phật.
Như không rõ được
ý nghĩa ấy thì mọi lúc
mọi nơi đều là không thấu rõ được tâm mình.
Nếu không thấy tánh mà lúc nào cũng nuôi cái
tư tưởng không tạo tác, đó là người mang tội lớn, là người
ngu si lạc vào trong chỗ
vô ký không, mê mẩn như người say rượu, chẳng
phân biệt được tốt xấu.
Nếu muốn
tu pháp không tạo tác, trước
cần phải thấy tánh, sau đó mới dứt hết các mối
lo nghĩ,
duyên tưởng.
Nếu không thấy tánh mà
thành Phật đạo,
thật không thể có.
Có người
bác bỏ nhân quả, hung hăng tạo nghiệp dữ, nói bậy rằng nghiệp dữ vốn là không, làm việc ác không có tội. Người như vậy phải đọa vào
địa ngục Vô gián đen tối,
vĩnh viễn không có ngày ra. Nếu là người có trí, chẳng nên có
kiến giải như thế.
Hỏi: Nếu như hết thảy
hành vi vận động lúc nào cũng chính là
bản tâm, vì sao thân xác trong lúc
vô thường không thấy được bản tâm?
Đáp:
Bản tâm thường
hiện hữu ngay
trước mắt, chỉ tại người không nhìn thấy.
Hỏi: Tâm nếu đang
hiện có, vì sao lại không thấy?
Đại sư hỏi lại: Ông đã từng
nằm mộng chăng?
Đáp: Đã từng
nằm mộng.
Lại hỏi: Trong khi
nằm mộng, có phải là thân của ông chăng?
Đáp: Đúng là thân của tôi.
Lại hỏi: Như
lời nói,
việc làm của ông với
bản thân ông là khác hay chẳng khác?
Đáp: Chẳng khác.
Đại sư dạy: Nếu đã chẳng khác thì thân ấy chính là
pháp thân của ông.
Pháp thân ấy lại chính là
bản tâm của ông.
Tâm ấy từ
vô số kiếp
cho đến nay, so với
hiện giờ vẫn không khác biệt, chưa từng chịu
sinh tử,
không sinh ra không diệt mất, không thêm không bớt, không sạch không dơ, không tốt không xấu, không đến không đi. Chẳng có đúng sai, cũng không có
hình tướng nam nữ, không tăng không tục, không già không trẻ, không thánh không phàm, cũng không Phật không
chúng sanh, không có
tu chứng, không có
nhân quả, cũng không gân cốt
sức lực, cũng không có
tướng mạo, đồng như
hư không, không thể nắm giữ, không thể
buông bỏ, núi sông tường đá không thể ngăn ngại, ra vào qua lại
thần thông tự tại, qua núi
năm uẩn,
vượt sông sinh tử, hết thảy các nghiệp đều không thể
trói buộc được
pháp thân ấy.
Tâm ấy
mầu nhiệm tinh tế khó thấy. Tâm ấy chẳng đồng với
hình tướng. Tâm ấy là chỗ người người đều nhìn thấy giữa
rõ ràng sáng tỏ diễn ra
vô số hành vi động tác đưa tay nhấc chân, nhưng chợt khi hỏi đến lại chẳng ai nói được gì, khác nào như người máy gỗ. Thảy đều là tự mình nhận dùng tâm ấy, vì sao lại không rõ biết?
Phật dạy rằng, hết thảy
chúng sinh đều là người mê, do đó mà tạo nghiệp, rơi vào dòng sông
sinh tử, muốn thoát ra lại bị chìm xuống, chỉ vì không thấy được tánh mình.
Nếu như
chúng sinh không
mê muội, tại sao khi hỏi những chuyện đang xảy ra như vậy lại chẳng có lấy một người hiểu được? Tự mình nhấc tay động chân, vì sao lại không rõ biết?
Cho nên biết rằng lời của bậc thánh vốn chẳng sai, do người mê tự mình không
hiểu rõ được. Cho nên biết rằng pháp này thật khó hiểu thấu, duy chỉ có Phật mới hiểu thấu pháp này, còn hàng trời, người cùng với hết thảy
chúng sinh đều không hiểu thấu được.
Như
trí huệ sáng suốt hiểu thấu được tâm này mới gọi là tánh của pháp, cũng gọi là
giải thoát, không bị
sinh tử trói buộc. Hết thảy các pháp đều không
trói buộc được người ấy, nên gọi là
Đại Tự Tại Vương
Như Lai, cũng gọi là Không thể nghĩ bàn, cũng gọi là Thánh thể, cũng gọi là
Trường sinh bất tử, cũng gọi là
Đại tiên. Danh xưng tuy khác nhau nhưng vẫn là cùng một
bản thể.
Bậc
thánh nhân phân biệt khắp thảy
mọi việc, đều chẳng lìa
tự tâm.
Tâm lượng rộng lớn,
ứng dụng không cùng. Khi ở nơi mắt thì thấy được
hình sắc, khi ở nơi tai thì
nghe được âm thanh, khi ở nơi mũi thì ngửi được mùi hương, khi ở nơi lưỡi thì biết được
mùi vị,
cho đến hết thảy mọi
hành vi vận động đều là
tự tâm. Chỉ cần dứt hết
ngôn ngữ nói năng thì bất cứ lúc nào cũng là
tự tâm.
Cho nên nói rằng,
hình sắc của đấng
Như Lai không
cùng tận,
trí huệ của ngài cũng vậy.
Hình sắc không
cùng tận, đó chính là
tự tâm. Chỗ
nhận biết của tâm có thể khéo
phân biệt hết thảy,
cho đến mọi
hành vi, mọi chỗ
ứng dụng, thảy đều là
trí huệ.
Tâm không có
hình tướng,
trí huệ cũng không
cùng tận.
Cho nên nói rằng,
hình sắc của đấng
Như Lai không
cùng tận,
trí huệ của ngài cũng vậy. Cái
thân hình sắc do
bốn đại hợp thành chính là
phiền não. Cái
thân hình sắc tất phải có
sinh diệt.
Pháp thân thì
thường trụ mà không trụ ở bất cứ đâu.
Pháp thân của
Như Lai thường không
biến đổi.
Cho nên trong kinh dạy: “Chúng sinh nên biết rằng mỗi người đều tự có tánh Phật.” Ngài Ca-diếp chỉ là nhận hiểu được tánh mình. Tánh mình tức là tâm. Tâm tức là tánh. Đó tức là đồng với tâm chư Phật. Chư Phật trước sau chỉ
truyền tâm này. Trừ tâm này ra, không Phật nào có thể
chứng đắc.
Chúng sanh điên đảo không biết
chính tâm mình là Phật, suốt ngày
hối hả chạy tìm bên ngoài,
niệm Phật,
lạy Phật, biết Phật ở nơi nào? Chẳng nên có chỗ thấy biết như vậy. Chỉ cần biết được tâm mình, ngoài tâm
thật không có Phật nào khác.
Kinh dạy rằng: “Hết thảy
hình tướng đều là
hư vọng.”Lại dạy rằng: “Dù ở nơi đâu cũng có Phật.”
Chính tâm mình là Phật, đừng nên đem Phật ra
lạy Phật. Cho dù có những
tướng mạo chư Phật,
Bồ Tát bất chợt
hiện ra trước mắt,
nhất định cũng không
lễ kính. Tâm ta
vắng lặng rỗng không, vốn không có những
tướng mạo ấy. Nếu chấp giữ
hình tướng tức là ma, thảy đều rơi vào
tà đạo. Nếu là
không thật, chỉ
từ tâm mà khởi, tức không cần lạy. Người lạy là không biết, người biết thì không lạy. Lạy tức bị
ma thâu nhiếp. Vì sợ người học không biết được nên phải
phân biệt nói rõ như thế.
Trên
thể tánh của
chư Phật Như Lai hoàn toàn không có những
tướng mạo như vậy. Phải luôn nhớ trong lòng, chỉ cần thấy những
cảnh giới khác lạ thì
nhất định không nhận giữ, cũng
không sinh ra
sợ hãi, không nên
nghi hoặc. Tâm ta
xưa nay thanh tịnh, đâu lại có những
tướng mạo như thế?
Cho đến các
hình tướng như trời, rồng, dạ-xoa,
quỉ thần, Đế-thích,
Phạm vương... cũng
không sinh lòng
kính trọng, cũng không sợ sệt.
Tâm ta
xưa nay vắng lặng rỗng không. Hết thảy
tướng mạo đều là tướng
giả dối, chỉ cần đừng chấp giữ nơi
hình tướng. Nếu đã
đạt được đến chỗ hiểu Phật, hiểu pháp, chợt thấy những
tướng mạo của Phật,
Bồ Tát... mà sinh lòng
kính trọng, liền tự rơi xuống
địa vị chúng sanh.
Như muốn nhận hiểu ngay, chỉ cần đừng chấp giữ hết thảy
hình tướng là được,
ngoài ra không còn lời nào khác, thảy đều không chắc thật.
Huyễn ảo không tướng nhất định, chính là pháp
vô thường. Chỉ cần
không chấp giữ
hình tướng, hợp với ý của bậc thánh. Cho nên kinh dạy rằng: “Lìa hết thảy các tướng, liền gọi là chư Phật.”
Hỏi: Do đâu mà không được
lễ lạy chư Phật, Bồ Tát?
Đáp:
Thiên ma Ba-tuần, a-tu-la cũng hiện
thần thông, có thể tạo ra
tướng mạo Bồ Tát. Mọi cách
biến hóa đều là
ngoại đạo, thảy đều không phải là Phật. Phật chính là tâm mình, chớ
sai lầm bái lạy.
Phật là tiếng phiên âm theo
Phạn ngữ, dịch nghĩa là tánh giác.
Giác, đó là chỗ
linh diệu rõ biết, ứng tiếp
tùy thời luôn
phù hợp với sự vật, sự việc. Nhíu mày chớp mắt, đưa tay nhấc chân, thảy đều là chỗ
linh diệu rõ biết của chính mình.
Tánh chính là tâm, tâm chính là Phật, Phật chính là đạo, đạo chính là thiền.
Chỉ một chữ thiền, không phải chỗ kẻ phàm bậc thánh có thể suy lường được. Thấy ngay được tánh mình gọi là thiền. Nếu chẳng thấy tánh mình, không phải là thiền. Cho dù có giảng nói được ngàn kinh muôn luận,
nếu không thấy được tánh mình thì chỉ là
phàm phu, chẳng phải pháp Phật.
Đạo lớn sâu thẳm, không thể do
lời nói mà nhận hiểu,
kinh điển dựa vào đâu mà đạt tới? Chỉ cần thấy được tánh mình thì dù không biết một chữ cũng được đạo. Thấy được tánh chính là Phật.
Thể
sáng suốt xưa nay vốn
thanh tịnh, không có nhớp nhơ
lẫn lộn. Hết thảy lời lẽ
giảng thuyết đều là bậc
thánh nhân từ nơi tâm mà khởi thành chỗ dùng. Chỗ dùng đó vốn
xưa nay không có tên gọi,
lời nói còn không đạt tới được,
mười hai bộ kinh dựa vào đâu mà đạt tới?
Đạo vốn tự
thành tựu trọn vẹn, chẳng
do nơi tu chứng. Đạo không phải là
âm thanh,
hình sắc,
mầu nhiệm tinh tế khó thấy. Như người uống nước, nóng lạnh tự biết, không thể nói cho người khác biết.
Chỉ riêng
Như Lai có thể biết được,
ngoài ra các hàng trời, người... thảy đều không rõ biết. Kẻ
phàm phu trí tuệ không
đạt đến, cho nên mới có việc chấp giữ
hình tướng, không biết rằng tâm mình
xưa nay vốn
vắng lặng rỗng không.
Mê lầm chấp giữ
hình tướng cùng với hết thảy các pháp, liền rơi vào
ngoại đạo.
Nếu
hiểu biết các pháp đều từ nơi tâm sinh, không nên có sự chấp giữ. Chấp giữ tức là không
hiểu biết. Nếu thấy được tánh mình rồi,
mười hai bộ kinh thảy đều chỉ là những
chữ nghĩa suông. Ngàn kinh muôn luận chỉ là để làm cho rõ được tâm. Vừa nghe đã nhận hiểu được thì cần chi dùng đến kinh luận?
Chân lý rốt ráo dứt sạch
ngôn từ.
Kinh luận là
ngôn từ, thật chẳng phải đạo. Đạo vốn không lời, lời lẽ giảng nói là
hư vọng.
Nếu đêm
nằm mộng thấy những
hình tướng như lầu gác, cung điện, các loài voi ngựa,
cho đến cây cối, rừng già... không được sinh lòng ưa muốn
vướng mắc. Hết thảy đều là những chỗ thác sinh. Phải luôn ghi nhớ trong lòng, khi
lâm chung không được chấp giữ
hình tướng, liền trừ bỏ được
chướng ngại. Tâm nghi vừa thoáng khởi lên liền bị
ma thâu nhiếp.
Pháp thân xưa nay vốn
thanh tịnh, không nhận chịu. Chỉ vì
mê lầm nên không rõ, không biết, nhân nơi đó mà vọng sinh nhận chịu
nghiệp báo. Vì thế sinh ra mê đắm
vướng mắc, chẳng được
tự tại. Chỉ cần rõ biết được
thân tâm xưa nay liền không còn bị đắm nhiễm. Nếu từ cõi thánh mà vào cõi phàm,
thị hiện đủ muôn loài, đó là tự mình
chúng sinh.
Cho nên, bậc
thánh nhân dù thuận dù nghịch cũng đều được
tự tại, hết thảy các nghiệp đều không thể
trói buộc, vốn thành bậc thánh
đã lâu rồi. Vị ấy có
oai đức lớn, hết thảy
các loại nghiệp báo đều bị bậc thánh ấy
chuyển hóa,
thiên đường địa ngục chẳng làm gì được vị ấy.
Kẻ
phàm phu thần thức mê muội, không bằng như bậc
thánh nhân trong ngoài đều
sáng suốt thấu rõ. Nếu có lòng nghi liền chẳng làm. Nếu làm tức rơi vào trôi lăn trong
sinh tử, về sau
hối hận cũng không còn chỗ cứu vớt. Nghèo hèn khốn khổ thảy đều
do nơi vọng tưởng sinh ra. Nếu thấu hiểu được tâm này,
lần lượt khuyên bảo nhau, chỉ cần lấy chỗ không làm mà làm, liền vào được chỗ thấy biết của
Như Lai.
Người mới
phát tâm,
thần thức thảy đều không
an định. Nếu như trong
giấc mộng nhiều lần thấy cảnh lạ cũng không nên khởi lòng nghi. Thảy đều
do nơi tâm mình khởi nên, chẳng phải từ ngoài đến.
Nếu như trong mộng thấy có vầng ánh sáng
hiện ra rõ ràng lớn hơn cả
mặt trời, đó là mọi
tập khí còn sót lại đã dứt sạch, thấy được tánh cõi pháp. Nếu có việc ấy tức là đã
thành đạo, nhưng chỉ được tự biết, không được nói cùng người khác.
Hoặc ở giữa vườn cây
vắng lặng, trong khi đi đứng nằm ngồi mắt nhìn thấy vầng ánh sáng, dù lớn dù nhỏ, không được nói cùng người khác, cũng không được sinh lòng chấp giữ, đó cũng là ánh sáng của tánh mình.
Hoặc ở trong nhà tối, trong khi đi đứng nằm ngồi mắt nhìn thấy ánh sáng chẳng khác gì ban ngày, không được lấy làm
quái lạ, thảy đều là do tâm mình sắp
hiển lộ.
Hoặc đêm
nằm mộng thấy trăng sao
rõ ràng, cũng là do các duyên trong tâm mình sắp dứt hết, không được nói cùng người khác.
Khi
nằm mộng nếu thấy mình mê mẩn như đi giữa vùng
đen tối, đó là do tâm mình có nhiều
phiền não nặng nề ngăn che, có thể tự biết.
Nếu thấy được tánh mình, chẳng cần
đọc kinh niệm Phật.
Học rộng biết nhiều
vô ích,
thần thức càng thêm mê tối. Tạo ra
kinh điển vốn chỉ là để nêu rõ tâm, nếu rõ biết tâm thì cần gì xem kinh điển?
Nếu từ cõi phàm nhập vào cõi thánh, nên dứt sạch các nghiệp,
nuôi dưỡng tinh thần, sống
an phận qua ngày. Nếu vẫn còn nhiều nóng giận, phải
chuyển hóa tâm tính. Nếu trái ngược với đạo, tự dối mình
vô ích.
Bậc
thánh nhân tự tại giữa
sanh tử, ra vào ẩn hiện không
nhất định, hết thảy các nghiệp đều không thể
trói buộc.
Bậc thánh phá dẹp
tà ma. Hết thảy
chúng sinh chỉ cần thấy được tánh mình,
tức thời dứt sạch mọi
tập khí còn lại,
thần thức không
mê muội, khi đó liền nhận hiểu được ngay.
Chỉ ngay trong lúc này muốn thật hiểu đạo, đừng chấp giữ hết thảy các pháp, dứt hết các nghiệp,
nuôi dưỡng tinh thần,
tập khí còn lại rồi cũng sẽ dứt,
tự nhiên sáng rõ, chẳng cần
giả dối dụng công.
Ngoại đạo không nhận hiểu được ý Phật,
hết sức dụng công,
trái với ý thánh. Suốt ngày
bó buộc trong việc
niệm Phật, theo kinh, thần tánh mê mờ, chẳng
thoát khỏi luân hồi.
Phật là người
nhàn rỗi, cần gì phải
bó buộc trong việc rộng
cầu danh lợi, sau này có ích gì?
Chỉ những người không thấy tánh mới
tụng kinh niệm Phật,
miệt mài học tập, ngày đêm
thực hành theo đạo, ngồi hoài chẳng nằm,
học rộng nghe nhiều, cho những việc ấy là pháp Phật. Những
chúng sinh như vậy thảy đều là
bêu xấu pháp Phật.
Chư Phật trước sau chỉ nói một việc thấy tánh.
Mọi việc vô thường,
nếu không thấy tánh lại dối xưng là
chứng đắc quả
Vô thượng Bồ-đề, đó là người
phạm tội lớn.
Trong mười vị
đệ tử lớn của Phật, ngài A-nan là nghe nhiều đệ nhất, đối với nghĩa Phật lại không rõ biết, chỉ học được chỗ nghe nhiều.
Hàng
đệ tử Thanh văn,
Duyên giác và
ngoại đạo đều không hiểu được nghĩa Phật, chỉ hiểu các việc
tu chứng, rơi vào vòng
nhân quả. Ấy là
nghiệp báo chúng sanh, không ra khỏi
vòng sanh tử. Trái ngược ý Phật, đó là hạng
chúng sinh bêu xấu Phật, dẹp phá không có tội.
Kinh dạy rằng: “Hạng nhất-xiển-đề
không sinh lòng tin, dẹp phá không có tội.”
Như có
tín tâm, ấy là Phật ở
địa vị người.
Nếu không thấy tánh, chẳng
thể đạt được
địa vị gì. Chê bai sự
hiền lương tốt đẹp của người khác, tự dối mình
vô ích.
Trải qua những sự
lành dữ, đều có
nhân quả rõ ràng.
Thiên đường,
địa ngục chỉ ngay
trước mắt. Kẻ ngu không có
lòng tin, dù đang sống giữa
địa ngục tối tăm cũng không hay không biết. Đó chỉ vì
nhân duyên nghiệp báo nặng nề, cho nên không có
lòng tin.
Ví như người mù không tin có ánh sáng, dù có nghe
giảng giải vẫn không tin. Chỉ vì mù mắt nên chẳng
dựa vào đâu mà
nhận biết được ánh sáng
mặt trời. Kẻ ngu cũng như thế. Hiện nay phải đọa vào các loài
súc sinh, sinh vào chỗ nghèo hèn, hạ tiện, sống dở chết dở. Tuy chịu khổ như thế mà hỏi đến lại nói rằng: Tôi nay
vui sướng lắm, chẳng khác nơi
thiên đường. Cho nên biết rằng, hết thảy
chúng sinh dù sinh ra ở chỗ
vui sướng cũng không hay không biết.
Những người xấu ác chỉ là do
nhân duyên nghiệp báo nặng nề
che lấp nên không thể phát
lòng tin, chẳng phải
do nơi người khác.
Nếu thấy được rằng tâm mình là Phật, chẳng
cần phải cạo bỏ râu tóc, dù là
cư sĩ tại gia cũng vẫn là Phật.
Nếu không thấy tánh, cạo bỏ râu tóc vẫn là
ngoại đạo.
Hỏi: Hàng
cư sĩ tại gia có
vợ con, chẳng dứt trừ
dâm dục,
dựa vào đâu mà được thành Phật?
Đáp: Chỉ nói việc thấy tánh, không nói việc
dâm dục.
Do nơi không thấy tánh, chỉ cần thấy tánh thì việc
dâm dục xưa nay vắng lặng rỗng không, chẳng
giả dối đoạn trừ cũng chẳng tham đắm
vướng mắc. Vì sao vậy? Tánh mình vốn là
thanh tịnh, tuy ở trong thân xác do
năm uẩn tạo thành nhưng
xưa nay vẫn
thanh tịnh, không thể
nhiễm ô.
Pháp thân xưa nay vốn không nhận chịu, không đói không khát, không lạnh không nóng, không bệnh, không
ân ái, không
quyến thuộc, không khổ vui, không tốt xấu, không ngắn dài, không mạnh yếu.
Xưa nay vốn không một vật có thể được, chỉ nhân nơi việc chấp giữ cái
thân hình sắc này là có, liền có các tướng như
đói khát, lạnh nóng, bệnh chướng...
Nếu không chấp giữ
mọi việc làm đều
tùy ý, giữa
vòng sinh tử được
đại tự tại,
chuyển hóa hết thảy các pháp, ngang với bậc
thánh nhân thần thông tự tại không ngăn ngại, dù ở đâu cũng được
an ổn. Nếu tâm còn có chỗ nghi,
nhất định không
vượt qua được bất cứ
cảnh giới nào, không làm được việc quan trọng nhất, không
thoát khỏi vòng
luân hồi sinh tử. Nếu thấy được tánh, hàng chiên-đà-la cũng có thể
thành Phật.
Hỏi: Chiên-đà-la giết hại tạo nghiệp, vì sao có thể thành Phật?
Đáp: Chỉ nói việc thấy tánh, không nói việc tạo nghiệp. Mặc tình tạo các nghiệp khác nhau, hết thảy các nghiệp cũng không thể
trói buộc. Từ
vô số kiếp
đến nay, chỉ
do nơi không thấy tánh mà phải đọa vào
địa ngục, do đó mà tạo nghiệp
sinh tử luân hồi. Kể từ khi thấy biết được tánh mình thì không còn tạo nghiệp.
Nếu không thấy tánh,
niệm Phật không tránh được mọi
nghiệp báo, đừng nói là việc giết hại mạng sống. Nếu thấy tánh, tâm
nghi ngờ tức thời dứt sạch, nghiệp giết hại cũng chẳng làm gì được.
Hai mươi
bảy vị tổ sư ở
Ấn Độ chỉ
lần lượt truyền tâm ấn. Nay ta đến xứ này cũng chỉ truyền một tâm, không nói đến
giữ giới,
bố thí,
tinh tấn,
khổ hạnh,
cho đến những việc như vào nước lửa, lên vòng gươm, ngày ăn
một lần, ngồi hoài chẳng nằm, hết thảy đều là
pháp hữu vi của
ngoại đạo.
Nếu nhận hiểu được thì tánh
linh diệu rõ biết mọi
hành vi,
vận động chính là tâm của chư Phật. Chư Phật trước sau chỉ nói việc
truyền tâm,
ngoài ra không pháp nào khác. Nếu nhận hiểu được pháp này thì kẻ
phàm phu không biết một chữ cũng vẫn là Phật.
Nếu không nhận hiểu được tánh
linh diệu rõ biết của chính mình,
ví như có
xả thân vô số lần để mong tìm Phật cũng không thể được.
Phật, cũng gọi là
pháp thân, cũng gọi là
bản tâm. Tâm ấy không có
hình tướng, không
nhân quả, không gân cốt, tựa như
hư không, không thể nắm giữ, chẳng đồng như
vật chất ngăn ngại, chẳng đồng như
ngoại đạo. Tâm ấy chỉ riêng
Như Lai có thể nhận hiểu được,
ngoài ra hết thảy
chúng sinh mê muội không nhận hiểu được. Tâm ấy không lìa ngoài cái
thân hình sắc do
bốn đại hợp thành. Nếu lìa tâm ấy, tức không thể
vận động, chỉ là cái thân
vô tri như cây cỏ, như gạch vụn.
Thân này là vô tình, do đâu mà vận động? Nếu
tự tâm mình động,
cho đến ngôn ngữ,
hành vi,
vận động, thấy nghe
nhận biết, thảy đều là tâm động.
Khi tâm động thì chỗ dùng cũng động.
Động tức là chỗ dùng của tâm. Ngoài động không có tâm, ngoài
tâm không có động.
Động chẳng phải là tâm, tâm chẳng phải là động. Động vốn không có tâm, tâm vốn không có động.
Động chẳng lìa tâm, tâm chẳng lìa động. Động không phải chỗ tâm lìa,
tâm không phải chỗ động lìa.
Động là
công dụng của tâm,
công dụng là chỗ động của tâm.
Động tức là dụng, dụng tức là động, không động thì không có dụng.
Thể của dụng vốn là không,
tánh không vốn chẳng có động. Động và dụng đồng với tâm, tâm vốn không động.
Cho nên kinh dạy rằng: “Động mà không có chỗ nào động.”
Vì thế, suốt ngày thấy mà chưa từng thấy, suốt ngày nghe mà chưa từng nghe, suốt ngày cảm nhận mà chưa từng cảm nhận, suốt ngày biết mà chưa từng biết, suốt ngày đi, ngồi mà chưa từng đi, ngồi, suốt ngày giận, vui mà chưa từng giận, vui.
Cho nên kinh dạy rằng: “Dứt sạch mọi
ngôn ngữ, diệt hết mọi
tâm tưởng.”
Những
công năng thấy, nghe, nhận, biết vốn tự
vắng lặng hoàn toàn.
Cho đến mọi
cảm xúc như giận, vui... mọi
cảm giác như
đau đớn, ngứa ngáy... nào khác chi
người gỗ, chỉ theo suy tìm những
cảm giác,
cảm xúc ấy liền không thể được.
Cho nên kinh dạy rằng: “Nghiệp ác liền có
quả báo khổ, nghiệp thiện liền có
quả báo lành, đâu chỉ là nóng giận đọa vào
địa ngục,
vui vẻ được lên
cõi trời.”
Nếu biết
bản tánh của những
cảm xúc như giận, vui... vốn thật là không, chỉ cần
không chấp giữ liền
thoát khỏi các nghiệp.
Nếu không thấy tánh mà
tụng kinh, quyết không
dựa vào đâu mà được thoát nghiệp.
Giảng giải không cùng, lược nêu những lẽ chánh tà như thế, cũng chỉ là sơ sài thôi vậy.
Có bài tụng rằng:
Pháp ta truyền đến xứ này,
Độ người mê muội, cứu người
ngu si.
Một hoa năm cánh đúng kỳ,
Tự nhiên hưng thịnh Thiền quy rộng truyền.
Đuốc hồng rộng mở khóa vàng,
Rẽ con sóng ngọc bè sang sông rồi.
Năm nhà chỉ một pháp thôi,
Lời cùng ý tận không người không ta.