THIẾU THẤT LỤC MÔN
Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải
Nhà xuất bản Tôn Giáo, Hà Nội 2009
NGỘ TÁNH LUẬN
Nói chung, đạo lấy
tịch diệt làm thể, việc
tu tập lấy sự
lìa bỏ hình tướng làm
tông chỉ. Cho nên kinh dạy rằng: “Tịch diệt chính là Bồ-đề, vì đã dứt hết mọi
hình tướng.”
Phật là giác, nghĩa là
tỉnh thức, rõ biết. Người có tâm
tỉnh thức, rõ biết, hiểu được đạo Bồ-đề cho nên xưng là Phật.
Kinh dạy rằng: “Lìa bỏ hết thảy mọi
hình tướng, liền gọi là chư Phật.” Cho nên biết rằng mọi
hình tướng có đó chính là cái tướng “không tướng”, không thể dùng mắt để thấy, chỉ có thể dùng trí để biết. Nếu ai
nghe được pháp này mà phát sinh một niệm tin nhận, đó là đã
phát khởi pháp
Đại thừa, liền vượt thoát ngoài
ba cõi.
Ba cõi đó chính là
tham lam,
sân hận và
si mê. Khi
chuyển hóa được tham, sân, si
trở thành giới, định, huệ liền gọi là vượt thoát ngoài
ba cõi.
Nhưng tham, sân, si cũng không có tánh thật, chỉ
do nơi chúng sinh gọi tên. Nếu thường quay vào
tự tâm soi rọi rõ biết sẽ thấy rằng tánh của tham, sân, si chính là tánh Phật. Ngoài tham, sân, si ra
thật không riêng có tánh Phật nào khác.
Kinh dạy rằng: “Chư Phật
xưa nay thường ngụ trong
ba độc mà
nuôi dưỡng các
pháp thanh tịnh, thành bậc
xuất thế.”
Ba độc đó, chính là tham, sân, si.
Nói pháp
Đại thừa hay
Tối thượng thừa đều là nói đến chỗ sở hành của Bồ-tát. Không gì không là pháp ấy, lại cũng không có gì là pháp ấy. Suốt ngày
tu pháp ấy mà chưa từng
tu pháp, đó là
Phật thừa. Kinh dạy rằng: “Vô thừa là
Phật thừa.”
Như có người nào rõ biết rằng sáu căn là
không thật,
năm uẩn đều là tên gọi giả tạo, cầu tìm khắp trong đó cũng không có chỗ nào chắc thật, nên biết rằng người ấy đã hiểu được
lời Phật dạy. Kinh dạy rằng: “Nơi tụ hội của
năm uẩn gọi là
thiền viện.
Soi sáng trong tâm, mở thông rõ biết tức là pháp
Đại thừa. Không nhớ tưởng bất cứ pháp nào nên gọi là
thiền định.” Nếu như
hiểu rõ được lời dạy này thì dù trong khi đi đứng nằm ngồi cũng đều là
thiền định.
Rõ biết tâm là không, gọi là thấy Phật. Vì sao vậy?
Mười phương chư Phật đều dùng chỗ
tâm không ấy. Không thấy ở nơi tâm gọi là thấy Phật.
Lìa bỏ tâm không tham tiếc gọi là sự
bố thí lớn lao.
Không còn
xao động và yên định, đó gọi là phép
ngồi thiền cao tột. Vì sao vậy? Người
phàm tục thảy đều hướng theo
xao động, hàng
tiểu thừa thảy đều hướng theo yên định, nên nói rằng
vượt qua khỏi chỗ
ngồi thiền của người
phàm tục và hàng
tiểu thừa gọi là pháp
ngồi thiền cao tột. Nếu nhận hiểu được điều này thì hết thảy các
tướng không lìa mà tự cởi mở, hết thảy các bệnh không trị mà tự khỏi. Đó đều là nhờ sức định của pháp thiền cao tột.
Lấy tâm để
cầu pháp là mê, không lấy tâm
cầu pháp là ngộ. Không
trói buộc vào
văn tự gọi là
giải thoát. Chẳng nhiễm
sáu trần gọi là giữ được pháp. Lìa khỏi
sinh tử gọi là
xuất gia. Không còn
thọ lãnh thân
đời sau gọi là được đạo. Chẳng sinh
vọng tưởng gọi là Niết-bàn. Chẳng ở trong
vô minh gọi là
trí huệ lớn. Chẳng còn nơi nào
phiền não gọi là nhập vào Niết-bàn. Chẳng còn nơi nào có
hình tướng gọi là
bờ bên kia.
Khi mê có bờ bên này, khi
ngộ không có bờ bên này. Vì sao vậy? Người
phàm tục thảy đều hướng về ở nơi bờ bên này. Nếu là người
hiểu rõ được pháp
Tối thượng thừa, tâm chẳng ở nơi bờ bên này, cũng chẳng ở nơi
bờ bên kia, nên có thể lìa cả đôi bờ. Nếu thấy
bờ bên kia khác với bờ bên này, ấy là trong tâm
thật không có
thiền định.
Phiền não gọi là
chúng sanh,
tỉnh giác rõ biết gọi là Bồ-đề, chẳng phải là một, cũng chẳng phải khác nhau, chỉ phân cách
do nơi mê với ngộ mà thôi. Khi mê có cõi thế để ra khỏi, khi ngộ chẳng có cõi thế nào để có thể ra khỏi.
Trong
pháp bình đẳng không thấy rằng kẻ
phàm phu khác với bậc thánh. Kinh dạy rằng: “Pháp
bình đẳng đó, người
phàm tục không
thể nhập vào, bậc
thánh nhân không thể
thực hành.
Pháp bình đẳng đó, chỉ có bậc
Đại Bồ Tát và
chư Phật Như Lai thực hành được.” Nếu thấy rằng sống khác với chết, động khác với tĩnh, đều gọi là không
bình đẳng. Không thấy
phiền não khác với Niết-bàn, đó gọi là
bình đẳng. Vì sao vậy? Vì
phiền não với Niết-bàn cũng cùng một
tánh không.
Vì thế, hàng
tiểu thừa dứt
phiền não, nhập Niết-bàn đều là
hư vọng, nên bị
vướng mắc nơi Niết-bàn.
Bồ Tát biết tánh thật của
phiền não là không, liền chẳng
lìa bỏ không, nên
thường trụ nơi Niết-bàn.
Niết-bàn đó, niết mà
không sinh, bàn mà không tử. Vượt thoát
sinh tử gọi là vào Niết-bàn.
Tâm không còn có chỗ đến đi, liền vào Niết-bàn. Cho nên biết rằng Niết-bàn chính là
tâm không.
Chư Phật vào Niết-bàn, đó là nơi không còn
vọng tưởng.
Bồ Tát vào
đạo trường, đó là nơi không còn
phiền não. Nơi
thanh nhàn tịch tĩnh tức là không có tham, sân, si.
Tham là cõi Dục (
Dục giới), sân là cõi Sắc (
Sắc giới), si là cõi
Vô sắc (
Vô sắc giới). Nếu tâm khởi sinh một niệm, liền vào trong
ba cõi. Một niệm trong tâm vừa dứt, liền ra khỏi
ba cõi. Cho nên biết rằng
ba cõi sinh diệt, muôn pháp có không đều chỉ do một tâm này.
Nói chỉ một tâm này, tưởng như là phá vỡ hết muôn vật vô tình tre cây, ngói đá. Nhưng nếu biết rằng “tâm” cũng chỉ là một tên gọi giả tạo, không có
thực thể, thì liền biết được cái tâm tự
tịch tĩnh, cũng không phải có, cũng chẳng phải không. Vì sao vậy? Kẻ
phàm tục thảy đều hướng đến sinh tâm nên gọi là có. Hàng
Tiểu thừa thảy đều hướng đến diệt tâm nên gọi là không. Chư Phật,
Bồ Tát chưa từng sinh tâm, chưa từng diệt tâm, nên gọi là tâm chẳng có chẳng không. Tâm chẳng có chẳng không, đó gọi là
trung đạo.
Cho nên biết rằng, dùng tâm để học pháp thì tâm với pháp đều mê. Không dùng tâm để học pháp thì tâm với pháp đều ngộ. Mê, đó là mê ở nơi ngộ. Ngộ, đó là ngộ ở nơi mê. Người có được cái thấy chân chánh thì biết rằng tâm vốn
không không, liền vượt thoát cả mê và ngộ. Không có
mê ngộ mới gọi là thấy biết chân chánh.
Sắc, chẳng phải tự là sắc,
do nơi tâm nên là sắc. Tâm chẳng phải tự là tâm,
do nơi sắc nên là tâm. Cho nên biết rằng cả hai tướng tâm và sắc đều có
sinh diệt.
Có, đó là đối với không. Không, đó là đối với có. Như vậy gọi là cái thấy
chân thật.
Cái thấy
chân thật thì chẳng có gì là không thấy mà cũng chẳng có gì thấy. Thấy khắp
mười phương mà chưa từng thấy. Vì sao vậy? Vì không có gì để thấy, vì thấy được cái không thấy, vì thấy mà không phải là thấy.
Những gì người
phàm tục nhìn thấy đều gọi là
vọng tưởng. Nếu
đạt đến tịch diệt không nhìn thấy mới gọi là cái thấy
chân thật.
Do tâm và cảnh đối nhau mà phát sinh cái thấy. Nếu trong không
khởi tâm thì ngoài
không sinh cảnh, do đó mà tâm và cảnh đều
thanh tịnh, mới gọi là cái thấy
chân thật. Khi
hiểu biết được như vậy mới gọi là thấy biết chân chánh.
Không thấy hết thảy các pháp, gọi là
đắc đạo. Không hiểu hết thảy các pháp, gọi là hiểu pháp. Vì sao vậy? Vì không thấy cả chỗ thấy và không thấy, vì không hiểu cả chỗ hiểu và không hiểu. Cái thấy không thấy mới gọi là cái thấy
chân thật. Cái hiểu không hiểu mới gọi là cái hiểu
chân thật.
Cái thấy
chân thật đó, chẳng phải thấy ngay
trước mắt mà thấy, cũng là thấy chỗ không thấy. Cái hiểu
chân thật đó, chẳng phải hiểu ngay
trước mắt mà hiểu, cũng là hiểu chỗ không hiểu. Nếu có chỗ hiểu đều gọi là không hiểu. Không có chỗ hiểu mới gọi là cái hiểu
chân thật. Hiểu và chẳng hiểu đều chẳng phải là hiểu.
Kinh dạy rằng: “Không
lìa bỏ trí huệ, gọi là
ngu si.” Nếu tâm là không thì hiểu với không hiểu đều là
chân thật. Nếu tâm là có thì hiểu với không hiểu đều là
hư vọng.
Như khi hiểu rồi thì các pháp đuổi theo người. Như khi chưa hiểu thì người đuổi theo các pháp. Nếu các pháp đuổi theo người thì không phải pháp cũng thành pháp. Nếu người đuổi theo các pháp thì pháp cũng thành không phải pháp.
Nếu người đuổi theo các pháp thì các pháp pháp đều là
hư vọng. Nếu pháp đuổi theo người thì các pháp đều là
chân thật.
Vì
thế cho nên bậc
thánh nhân không dùng tâm để
cầu pháp, cũng không dùng pháp để cầu tâm, không dùng tâm để cầu tâm, cũng không dùng pháp để
cầu pháp. Do đó mà
tâm không sinh pháp,
pháp không sinh tâm,
tâm pháp đều
vắng lặng nên thường trong định.
Tâm
chúng sinh vừa sinh thì pháp
Phật diệt. Tâm
chúng sinh vừa diệt thì pháp Phật sinh. Tâm sinh thì
pháp chân thật diệt.
Tâm diệt thì
pháp chân thật sinh. Rõ biết hết thảy các pháp thảy đều không
phụ thuộc nhau, đó gọi là người
đắc đạo. Rõ biết
tâm không phụ thuộc hết thảy các pháp, người như
thế thường ở trong
đạo tràng.
Khi mê có tội, khi
hiểu rõ thì không còn có tội. Vì sao vậy? Vì tánh của tội là không. Khi mê thì không tội thấy là có tội. Nếu như
hiểu rõ rồi thì tội chính là không tội. Vì sao vậy? Vì tội vốn chẳng ở tại đâu cả.
Kinh dạy rằng: “Các
pháp không thật tánh, thật dùng thì chớ nghi. Có nghi liền thành tội.” Vì sao vậy? Vì tội
do nơi nghi ngờ mà sinh. Nếu hiểu được như
vậy thì tội nghiệp đời trước liền tiêu mất hết.
Khi mê thì sáu thức,
năm ấm đều là pháp
phiền não sanh tử. Khi ngộ thì sáu thức,
năm ấm đều là pháp Niết-bàn không
sanh tử. Người
tu hành không
cầu đạo ở bên ngoài. Vì sao vậy? Rõ biết tâm chính là đạo. Khi được tâm rồi,
thật không có tâm nào để được. Khi
đắc đạo rồi,
thật không đạo nào để đắc. Nếu ai nói dùng tâm
cầu đạo mà được, đều gọi là
tà kiến.
Khi mê thì có Phật, có pháp. Khi ngộ thì không Phật,
không pháp. Vì sao vậy? Chỗ ngộ ấy chính là
Phật pháp.
Người
tu đạo, thân diệt thì đạo thành, cũng như vỏ hạt nứt thì mầm cây sinh. Cái
thân nghiệp báo này
liên tục biến đổi vô thường, không một pháp chắc thật. Chỉ nên
tùy theo đó mà không ngừng
tu tập, không được chán lìa
sinh tử, cũng không được đắm
mê sinh tử. Chỉ thường trong mỗi niệm đều không
vọng tưởng thì ngay
trong đời này có thể chứng Niết-bàn
hữu dư,
lìa bỏ thân này sẽ được
Vô sinh pháp nhẫn.
Khi mắt nhìn thấy
hình sắc, chẳng nhiễm nơi
hình sắc, khi tai nghe
âm thanh, chẳng nhiễm nơi
âm thanh, như vậy đều là
giải thoát. Mắt không
trói buộc vào
hình sắc thì mắt là cửa mở
đạo thiền. Tai không
trói buộc vào
âm thanh thì tai là cửa mở
đạo thiền.
Nói
tóm lại, thấy cái tánh thật của
hình sắc thì lúc nào cũng
giải thoát. Thấy cái tướng của
hình sắc thì lúc nào cũng là
trói buộc. Không bị
phiền não trói buộc, liền gọi là
giải thoát,
ngoài ra không có
giải thoát nào khác.
Người khéo quán xét
hình sắc thì
hình sắc chẳng sinh nơi tâm, tâm chẳng sinh nơi
hình sắc, nên
hình sắc với tâm cùng
thanh tịnh. Khi không có
vọng tưởng thì mỗi tâm là một
cõi Phật. Khi có
vọng tưởng thì mỗi tâm là một
địa ngục.
Chúng sanh tạo thành
vọng tưởng, lấy tâm sinh tâm nên thường ở trong
địa ngục.
Bồ Tát quán xét thấy rõ
vọng tưởng, không lấy tâm sinh tâm nên thường ở trong
cõi Phật.
Nếu không lấy tâm sinh tâm thì tâm nào cũng vào cõi không, niệm nào cũng về cõi tĩnh, từ
cõi Phật này đến
cõi Phật khác. Nếu lấy tâm sinh tâm thì tâm nào cũng không tĩnh lặng, niệm nào cũng về cõi động, từ
địa ngục này
trải qua địa ngục khác.
Nếu
trong một niệm khởi tâm, liền có hai
nghiệp lành dữ, có
thiên đường địa ngục. Nếu
trong một niệm không
khởi tâm, liền không có hai
nghiệp lành dữ, cũng không có
thiên đường địa ngục.
Tự thể vốn chẳng phải có, chẳng phải không. Nơi người
phàm tục là có, nơi bậc thánh là không. Bậc
thánh nhân không có tâm ấy nên
lòng dạ rỗng suốt, rộng bằng trời đất. Khi tâm được
niết bàn tức không thấy có Niết-bàn. Vì sao vậy? Vì tâm chính là Niết-bàn. Nếu ngoài tâm thấy có Niết-bàn, đó gọi là
vướng mắc vào
tà kiến.
Hết thảy
phiền não đều là
hạt giống Như Lai, vì
do nơi phiền não mà được
trí huệ. Nhưng chỉ có thể rằng
phiền não sinh
Như Lai, không thể nói rằng
phiền não chính là
Như Lai.
Vì thế nên
thân tâm là đồng ruộng,
phiền não là
hạt giống,
trí huệ là mầm chồi,
Như Lai là lúa thóc. Phật tại trong tâm như
trầm hương ở trong cây. Nếu
phiền não dứt sạch thì Phật từ trong tâm mà
hiển lộ. Nếu gỗ mục hết thì
trầm hương từ trong cây mà lộ ra. Do đó biết rằng ngoài cây không có
trầm hương, ngoài
tâm không có Phật. Nếu ngoài cây có hương, tức là hương khác. Nếu ngoài tâm có Phật, tức là Phật khác.
Trong tâm có
ba độc thì gọi là cõi dơ nhớp xấu ác. Trong
tâm không có
ba độc thì gọi là cõi nước
thanh tịnh.
Kinh dạy rằng: “Nếu làm cho cõi nước không
thanh tịnh, dơ nhớp xấu ác đầy dẫy, tất không thể có việc chư
Phật Thế Tôn từ trong đó
hiển lộ.”
Không
thanh tịnh, dơ nhớp xấu ác tức là
vô minh,
ba độc. Chư
Phật Thế Tôn tức là
tâm thanh tịnh giác ngộ.
Hết thảy
ngôn ngữ không gì không là pháp Phật. Nếu chỗ nói năng của mình thường là không thì nói suốt ngày mà vẫn là đạo. Nếu chỗ nói năng của mình thường là có thì
lặng im suốt ngày mà vẫn không phải đạo. Cho nên đấng
Như Lai lời nói chẳng nương theo
im lặng,
im lặng chẳng nương theo
lời nói,
lời nói không lìa
im lặng. Hiểu thấu được chỗ nói và im này thì lúc nào cũng ở trong tam-muội. Lúc hiểu mà nói thì nói cũng
giải thoát. Lúc không hiểu mà
im lặng thì
im lặng cũng
trói buộc. Cho nên, nếu
lời nói lìa khỏi tướng thì nói cũng gọi là
giải thoát,
im lặng mà
vướng mắc nơi tướng thì
im lặng cũng chính là
trói buộc.
Tánh của
văn tự vốn là
giải thoát.
Văn tự không thể tạo ra sự
trói buộc, sự
trói buộc tự đến tạo ra
văn tự.
Pháp không có cao thấp. Nếu thấy có cao thấp tức chẳng phải pháp.
Chẳng phải pháp, ấy là cái bè. Đúng pháp, ấy là người tu. Người tu cưỡi trên bè ấy liền
vượt qua chỗ chẳng phải pháp, tức được đúng pháp.
Nếu nói theo người
thế tục thì có
nam nữ, có sang hèn. Nếu nói theo
đạo pháp thì không có
nam nữ, sang hèn. Vì
thế cho nên vị
thiên nữ đã
ngộ đạo mà không biến mất
hình tướng nữ.
Xa Nặc rõ lẽ thật, Ninh Di nhận là hèn hạ, đó thảy đều là không có
nam nữ sang hèn, chỉ do một tướng mà ra. Vị
thiên nữ trong suốt mười hai năm cầu
hình tướng nữ, rốt cùng chẳng được. Như vậy tức biết rằng
trong suốt mười hai năm cầu
hình tướng nam cũng chẳng thể được. Mười hai năm, đó là chỉ cho
mười hai nhập.
Lìa
tâm không có Phật, lìa Phật không có tâm. Cũng như lìa nước không có băng, lìa băng không có nước.
Nói lìa
tâm không có Phật, chẳng phải là nói lìa xa cái tâm, chỉ dạy đừng
vướng mắc vào cái tướng của tâm. Kinh dạy rằng: “Không thấy
hình tướng, gọi là thấy Phật.” Đó là nói lìa cái tướng của tâm.
Nói lìa Phật không có tâm là nói Phật từ trong tâm
hiển lộ. Tâm có thể
sinh Phật, nên Phật
từ tâm mà sinh, nhưng Phật lại chưa từng sinh tâm. Cũng như cá sinh ở nước, nước không thể sinh cá. Muốn thấy cá thì chưa thấy cá trước đã thấy nước. Muốn thấy Phật thì chưa thấy Phật trước đã thấy tâm. Như
vậy thì biết rằng, khi thấy cá rồi không còn nước, khi thấy Phật rồi chẳng còn tâm. Nếu chẳng quên tâm, ấy là vẫn còn bị tâm
mê hoặc. Nếu chẳng quên nước, ấy là vẫn còn bị nước làm mê.
Chúng sinh với Bồ-đề cũng
ví như nước với băng. Bị
ba độc nung đốt nên gọi là
chúng sanh. Do ba pháp
giải thoát mà được
thanh tịnh nên gọi là Bồ-đề. Bị ba tháng
mùa đông làm cho đông lại nên gọi là băng. Do ba tháng
mùa hạ làm cho tan chảy nên gọi là nước. Nếu
lìa bỏ băng, tức không có nước nào khác. Nếu
lìa bỏ chúng sinh, tất không có Bồ-đề nào khác.
Nên biết rõ rằng tánh của băng tức là tánh của nước, tánh của nước tức là tánh của băng.
Chúng sinh tức là Bồ-đề.
Chúng sinh với Bồ-đề
cùng chung một tánh, như ô đầu và phụ tử vốn cùng một nguồn gốc, chỉ do chế biến mà khác nhau. Mê và ngộ là
cảnh giới khác nhau nên có hai tên gọi là
chúng sinh và Bồ-đề. Rắn
hóa thành rồng không đổi vảy, kẻ phàm
biến thành bậc thánh vẫn không đổi mặt. Chỉ cần biết rằng, tâm thì
trí huệ soi chiếu bên trong, thân thì
giới luật tinh khiết bên ngoài.
Chúng sinh độ Phật,
Phật độ chúng sanh, đó gọi là
bình đẳng.
Chúng sanh độ Phật, đó là
phiền não sinh
giác ngộ.
Phật độ chúng sinh, đó là
giác ngộ dứt
trừ phiền não. Chẳng phải là không có
phiền não, chẳng phải là không có
giác ngộ. Cho nên biết rằng, không có
phiền não thì chẳng lấy gì sinh ra
giác ngộ. Không có
giác ngộ thì không lấy gì dứt
trừ phiền não. Nếu còn mê thì
Phật độ chúng sinh, nếu ngộ rồi thì
chúng sinh độ Phật. Vì sao vậy? Phật không tự thành, đều do
chúng sinh độ thành.
Chư Phật xem
vô minh như cha sinh,
tham ái như mẹ đẻ.
Vô minh và
tham ái đều là tên gọi khác của
chúng sinh.
Chúng sinh với
vô minh cũng như bàn tay phải với bàn tay trái,
thật không khác biệt.
Khi mê ở bên bờ này, khi ngộ ở bên bờ kia. Nếu rõ biết
tâm không, chẳng nhìn thấy các
hình tướng, liền lìa khỏi mê và ngộ. Đã lìa khỏi
mê ngộ, cũng không có
bờ bên kia.
Như Lai không ở bờ bên này, cũng không ở
bờ bên kia, cũng không ở giữa dòng.
Giữa dòng là hàng
Tiểu thừa, bờ bên này là kẻ
phàm tục,
bờ bên kia là Bồ-đề.
Phật có
ba thân:
Hóa thân,
Báo thân và
Pháp thân. Nếu
chúng sanh thường trồng căn lành, tức
Hóa thân thiện, thường tu
trí huệ tức
Báo thân hiện, thường rõ biết
pháp vô vi tức
pháp thân hiện.
Bay khắp
mười phương,
tùy phương tiện mà
cứu độ, đó là
Hóa thân của Phật. Dứt trừ
mê hoặc,
tu tập pháp lành,
thành đạo trên núi Tuyết, đó là
Báo thân của Phật. Không nói, không dạy,
vắng lặng thường trụ, đó là
Pháp thân của Phật.
Như luận cho thấu lý thì một Phật còn không có, làm sao có ba thân? Nói
ba thân chỉ là dựa theo trí người có bậc cao, bậc vừa, bậc thấp. Người thấp trí mê nơi việc
tu phước, thấy có
Hóa thân Phật. Người trung trí mê nơi việc dứt
trừ phiền não, thấy có
Báo thân Phật. Người cao trí mê nơi việc
chứng đắc Bồ-đề, thấy có
Pháp thân Phật.
Bậc có
trí tuệ vượt trội hơn hết thì trong tâm soi chiếu
vắng lặng tròn đầy, rõ biết tâm chính là Phật, chẳng
dựa vào tâm để được Phật.
Do đó biết rằng
ba thân cùng với muôn pháp đều không thể nắm giữ, không thể chỉ bày. Như thế tức là
tâm giải thoát,
thành tựu đạo lớn. Kinh dạy rằng: “Phật không
thuyết pháp, không độ
chúng sanh, không chứng Bồ-đề.” Là nói nghĩa như thế.
Chúng sanh tạo nghiệp, nghiệp tạo
chúng sanh. Đời nay tạo nghiệp,
đời sau chịu
quả báo, chẳng bao giờ thoát được. Chỉ có bậc chí nhân ngay nơi thân này không tạo các nghiệp nên chẳng chịu
quả báo. Kinh dạy rằng: “Không tạo các nghiệp
tự nhiên đắc đạo.” Phải đâu là lời luống dối đó sao?
Người có thể tạo thành nghiệp, nghiệp không thể tạo thành người. Nếu người tạo nghiệp thì nghiệp với người cùng sinh ra. Nếu người không tạo nghiệp thì nghiệp với người cùng diệt mất. Do đó mà biết rằng nghiệp là do người tạo, người là do nghiệp sinh. Nếu người không tạo nghiệp thì nghiệp không do người mà sinh. Cũng như người có thể
mở rộng đạo, đạo không thể
mở rộng người. Những người
phàm tục đời nay
thường xuyên tạo nghiệp lại
mê lầm nói là không có
quả báo, chẳng phải là khổ lắm sao!
Bằng như luận cho thấu lý thì tâm trước tạo, tâm sau nhận chịu, làm sao có lúc thoát được? Nếu như tâm trước không tạo thì tâm sau không phải nhận chịu, há có thể
mê lầm mà thấy có
nghiệp báo được sao?
Kinh dạy rằng: “Tuy tin là có Phật nhưng nói Phật
tu khổ hạnh, đó gọi là
tà kiến. Tuy tin là có Phật, nhưng nói Phật chịu
quả báo ăn lúa ngựa, đó gọi là chưa đủ
lòng tin, gọi là nhất-xiển-đề.
Hiểu rõ được pháp của bậc thánh thì gọi là
thánh nhân. Hiểu pháp của
thế tục thì gọi là
phàm phu. Chỉ cần
lìa bỏ pháp của
thế tục,
thành tựu pháp của bậc thánh thì
phàm phu liền
trở thành thánh nhân.
Những người ngu ở
thế gian chỉ cầu được
thánh nhân ở nơi xa xôi, chẳng tin rằng
tâm trí huệ rõ biết chính là
thánh nhân.
Kinh dạy rằng: “Trong đám người không có
trí huệ, đừng giảng nói kinh này.” Đó là muốn nói việc tâm hiểu được pháp.
Người không có
trí huệ không tin rằng
chính tâm này hiểu được pháp sẽ
thành thánh nhân, chỉ muốn cầu ở xa xôi, học ở bên ngoài, ưa mến
hình tượng Phật giữa cõi không, cùng với những việc như ánh sáng,
hình sắc, hương thơm... thảy đều rơi vào
tà kiến,
cuồng loạn đánh mất
bản tâm.
Kinh dạy rằng: “Nếu thấy rằng các tướng chẳng phải là tướng, liền thấy
Như Lai.” Tám vạn bốn ngàn
pháp môn, thảy đều do một tâm này
sinh khởi. Nếu tướng của tâm bên trong
vắng lặng, đồng như
hư không, liền lìa thoát được cội gốc của tám vạn bốn ngàn căn bệnh
phiền não trong
thân tâm.
Kẻ
phàm phu đang sống lo chết, vừa lo no đói, đều gọi là
mê lầm lớn. Cho nên bậc chí nhân chẳng tính việc trước, chẳng lo việc sau, chẳng làm thay đổi việc
hiện tại, lúc nào cũng
quay về nơi đạo.
Đêm ngồi tụng kệ rằng:
Canh một
đoan nghiêm ngồi kiết-già,
Tinh thần lặng chiếu, trải lòng xa.
Xưa nay sinh diệt không thực có,
Sao phải nhọc lòng diệt diệt sinh?
Muôn pháp thảy đều
như ảo hóa,
Tự tánh vốn không, sao phải trừ?
Nếu rõ tánh
tâm không hình tướng,
Vắng lặng sáng rõ
tự như như.
Canh hai thần ngưng càng sáng lặng,
Tâm không nhớ tưởng, tính
chân như.
Muôn hình
vạn cảnh thảy về không,
Vướng mắc có không càng thêm bệnh.
Tánh pháp
xưa nay chẳng có không,
Phàm tục mê lầm phân tà, chánh.
Nếu thường đúng pháp
vô phân biệt,
Ai bảo
phàm phu khác thánh nhân?
Canh ba tâm lặng đồng
hư không,
Mười phương cõi pháp khắp biến thông.
Núi sông vách đá không ngăn ngại,
Thâu tóm vào trong
thế giới đồng.
Tánh thật
thế giới,
chân như tánh,
Không cả tánh thật, hàm chứa hết.
Chẳng riêng chư Phật được như thế,
Hết thảy
hữu tình đều không khác.
Canh tư chẳng còn diệt với sinh,
Cõi pháp lặng bình như
hư không.
Chẳng đến, chẳng đi, chẳng
khởi diệt,
Chẳng có, chẳng không, chẳng sáng tối.
Chẳng thấy các pháp, được mắt Phật,
Chẳng có danh xưng, được Phật danh.
Chỉ người
giác ngộ mới thật hiểu,
Kẻ mê như người mù đi quanh!
Canh
năm trí huệ sáng
vô biên,
Trải ba ngàn cõi không động niệm.
Muốn thấy
chân như,
bình đẳng tánh,
Nơi việc
trước mắt đừng sinh tâm.
Lý sâu
mầu nhiệm không lường hết,
Chớ cố đuổi tìm chỉ nhọc công.
Tâm không một
niệm biết thật cầu,
Nếu
khởi tâm cầu, thật chưa biết!
Có bài tụng
chân tánh rằng:
Chân tánh xưa nay vốn nhiệm mầu,
Dứt lìa hết thảy gốc tình sâu.
Quán chiếu lẽ không quên diệt sạch,
Chân thân tỏa sáng lặng tròn đầy.