THIỀN SƯ VÀ TƯ TƯỞNG GIÁC NGỘ
Như Hùng
Chân Nguyên xuất bản 1987
Thiền Sư
THANH ĐÀM
1. Hành trình tìm đến Giác Ngộ
2. Tác phẩm Pháp Hoa Đề Cương
3. Công án tham cứu về chân tâm của Thanh Đàm
I. HÀNH TRÌNH TÌM ĐẾN GIÁC NGỘThiền Sư Thanh Đàm một trong những
danh tăng đời Nguyễn. Ngài
xuất gia tu học với
Thiền Sư Đạo Nguyên vào năm 1807. (
Đạo Nguyên Thiền Sư lúc bấy giờ đang chủ trì
Thiền Viện Nguyệt Quang một tổ đình của
môn phái Chân Nguyên)
Một hôm
Thanh Đàm hỏi
Thiền Sư Đạo Nguyên-
Tâm không phải ở trong thân, cũng không phải ở ngoài thân, cũng không phải ở chặng giữa. Vậy tâm
rốt cuộc nằm ở đâu ?
Đạo Nguyên mỉm cười và trao cho ông
bài kệ:
Ứng dụng theo thời
Gặp vật thấy cơ
Chân tính như nhưTrong ngoài
chẳng nệ.
(
Tùy thời ứng dụngNgộ vật kiến cơ
Tính
bản như như
Hà quan
nội ngoại)
Cả
cuộc đời của
Thanh Đàm tựu thành được
giác ngộ cũng nhờ vào đề án
tham cứu nầy. Ngay từ đầu
Thanh Đàm đã không rơi vào
trường hợp như ngài
A Nan là phải đi hết chặng đường
chấp tâm ở trong ngoài, trên giữa thân. Tra vấn mạnh nhất của
Thanh Đàm là tâm nằm ở đâu? Trong
kinh Thủ Lăng Nghiêm đức Phật hiển lộ cho ngài
A Nan về
chân tính thường còn, không thể
y cứ vào một
căn tính mà có thể cho đó là tâm, không khởi lên
phân biệt chấp trước vào đâu, nếu rời
tiền trần có tính
phân biệt, thì đó mới thật là tâm.
Đề cập về Tâm là đề cập đến một cấu trúc qua nhiều giai tầng và
phức tạp nhất. Nhưng nó là
then chốt quan trọng, yếu tính
quyết định tối hậu trong việc
đạt được giác ngộ.
Nếu không nắm chắc được nó là cái gì thì khó mà tựu thành được
sự nghiệp giải thoát.
Dĩ nhiên không thể dùng
suy luận mà có thể lý giải được tâm, hình như nó mênh mang không nằm trong
tiêu đề hay định lý của
quan niệm. Nếu dùng
suy luận thì vô tình nhốt kín nó vào khuôn khổ đã được bao bọc bằng thứ định lý hẳn chắc không giúp được gì cho tiến trình vượt thoát.
Đồng ý là
chúng ta phải có khái niệm về nó, nhưng không có nghĩa y vào khái niệm nầy mà ta
quả quyết đó là tâm. Nhưng nếu tách rời ra khỏi
quan niệm thì
chúng ta mù mờ trước những mênh mang
diệu dụng của tâm.
Con đường để
đạt đến giác ngộ, trước hết phải khơi dậy cái linh năng
tri giác, quật tung làm hiển nở
bản tâm thanh tịnh của mỗi người.
Cũng một cái tâm nầy, mà
chúng ta điên đảo tử sinh và cũng chính cái tâm nầy ta mới vượt thoát được
sống chết.
Hình ảnh của
Huệ Khả trong bao năm trời dong ruổi không biết làm thế nào để
đạt được sự
an tâm. Khi gặp
Bồ Đề Đạt Ma ngài thưa: “Tâm con chưa an xin thầy an cho”.
Bồ Đề Đạt Ma đáp “Đem tâm ngươi ra đây ta an cho”
Huệ Khả ngập ngừng lưỡng lự sau một phút rồi thưa: “Con tìm mãi nhiều năm mà không thấy”
Bồ Đề Đạt Ma đáp: “Ta đã
an tâm cho ngươi rồi đó.”
Huệ Khả bừng
giác ngộ sau khi nhận được sự
tương hợp với
Bồ Đề Đạt Ma.
Bàn về Tâm nhiều
học giả Phật giáo y vào những cách giản dị và
minh bạch nhất,
mô tả tâm có ba
phương cách thứ lớp.
Phương diện thứ
nhất thể hiện về mặt ngoài,
hoạt động gọi là “Dụng” bao hàm những
tác động của cả Tám Thức và
chức năng như tình cảm
trừu tượng yêu, ghét,
dục vọng,
lý trí, tưởng tượng, ký ức,
hoài cảm v.v… đây là điều hẳn nhiên mà trong
chúng ta ai cũng có thể trực tiếp thể nghiệm và cảm nhận điều nầy. Nếu có cái nhìn đúng mức ta sẽ nắm được hay có được một
ý niệm cụ thể trong những tiến trình hưng khởi của nó. Nếu một
ý niệm về
trừu tượng khởi lên, chăm chú ta sẽ thấy cái
biến động của tâm dẫn dắt
ý thức của ta theo một
chức năng khác, nhìn kỹ ta có thể
tìm ra những ngõ ngách để thấy mức độ biến hiện của nó theo những cảm năng khác nhau. Nếu
chúng ta bén gót theo từng ngõ ngách và
phong tỏa tất cả những động tác, đó cũng có thể là cách thức trắc nghiệm đúng mức về nó vậy.
Phương diện thứ nhì là “tướng” còn gọi là
bản chất hay hình thể. Đó có nghĩa là tự thức. Tự thức có nghĩa là
ý thức được những
biến động hưng khởi của
ý thức.
Ý thức một cách
minh mẫn sáng suốt không còn năng tri,
sở tri, không còn có
ý thức và bị
ý thức, không còn có khuynh hướng của
nhị nguyên, mà phải hợp nhất
trở thành một thể độc nhất trong mọi
cảm quan. Đề cập đến tự thức là đề cập đến
bản chất của Tâm, đây không phải là những
tác động do sự sai sửa của
tri thức khơi lên sự vọng động
không thật, nhưng là cái
tri thức ở những
giá trị đích thực của nó. Khi một
tâm thức đã được
mở rộng không còn nằm trong
giới hạn của những
ý thức sai biệt, kẻ này có thể
thong dong và không bị ngăn ngại bởi những sai sử hạn cuộc.
Kiểm soát tâm ý một cách
tự nhiên trong sự
minh mẫn trong sáng,
hoàn toàn của
tâm linh chiếu rọi,
soi sáng hành trình đập phá tan hoang những trì trệ do
vô minh chủ động. Làm chủ và phát động
tâm thức theo
bản chất ngàn năm vốn
tiềm ẩn trong mỗi
chúng ta, đó là, bộ mặt nghìn đời,
bản lai diện mục của chính mình.
Dĩ nhiên dây chưa phải là
cứu cánh tuyệt đối trong
hành trình chiêm nghiệm được tự thể, vẫn còn nằm ở bờ bên này của
giải thoát chứ chưa thật sự bước vào ngôi nhà
tịch nhiên, đây chỉ là
con đường dẫn ta đến bến bờ, chứ chưa phải là lộ trình
hoàn tất được
sự nghiệp.
Nếu không khéo
chúng ta sẽ
lạc lối. Với Thiền, Ngộ là chặt đứt và
tiêu diệt chặng đường đưa ta đi đến
giải thoát, cần nhất là phải “đạt ý quên lời” “được cá quên nơm” dùng bè để qua sông tới
bờ bên kia đâu cần bè nữa.
Điểm mấu chốt nhất
vượt qua tất cả những sự
chấp trước, không bị ngăn ngại chính cái chiếu diệu biến hiện, phải
đạt đến cái Tâm điểm
cuối cùng,
hoàn toàn của Tâm, đó là cái “không”,
hoàn toàn tự do,
hoàn toàn vô sự
sáng tỏ. Cái
tính không, trạm viên,
sáng tỏ, linh năng, trống rỗng nhưng
năng động là “Thể” của Tâm ! Đây không phải là cái thể
thuần nhất hay
cụ thể và cái không này không có nghĩa
hư không, trống rỗng. Lại càng không có nghĩa phủ nhận
tính chất của nó. Đây có thể là biểu hiện nay
biểu thị về cái tính của các pháp. “Sắc tức thị không, không tức thị sắc”
biểu thị về
hình tướng cũng có thể là không hay ngược lại, nếu dùng
quan niệm của
ý thức hay dùng
ngữ ngôn để
diễn tả ta sẽ rơi vào
sai biệt. Chỉ có sự cảm nhận vượt ra ngoài khuôn mẫu và
tác động may ra ta mới thể nghiệm được cái
hoàn toàn tự do của Tâm.
Dĩ nhiên những
hé mở về 3
phương diện đó, chỉ nhằm cho ta một khái niệm,
đơn thuần chứ thật ra Tâm vượt ra ngoài tất cả, không một
ngữ ngôn nào có thể
diễn tả trọn vẹn được nó. Nó bao
trùm khắp sơn hà
đại địa không nơi nào là không có nó. Là cái
toàn thể rộng lớn,
ý thức con người làm sao có được một
quan niệm đúng mức trong đó. Nó là cái chiếu diệu
thường hằng bất khả
luận bàn.
Kinh điển Bát Nhã thường hay cảnh giác:
Ngôn ngữ đã dứt
Tâm hành cũng xong
Thấm nhuần an lạcTự tâm tịch tĩnhBài kệ Đạo Nguyên trao cho
Thanh Đàm có
ảnh hưởng trực tiếp tới câu hỏi
Thanh Đàm đã đặt ra như thế nào? “Ứng dụng theo thời, gặp vật thấy cơ” mà
Đạo Nguyên đề cập đến,
phải chăng duyên theo những biến hiện của
dòng tâm để khơi dậy
cơ duyên thực ngộ? Và
phải chăng cái dụng đúng mức nào đó sẽ là nhịp cầu trao gởi giữa những đối tượng với tâm tư vốn đã huân chứa cái thể tròn nhiên nầy? Một cái
tâm linh năng chiếu rọi cả
càn khôn, và một cái tâm mênh mang mù mờ trước những ngõ hẻm
đen tối của
cuộc đời, đàng nào rồi cũng chứa đựng cả một
hành trình và kết quả khác nhau như chính sự
quyết định rõ rệt
phân minh ở hai lối. Nếu có được một
giả hợp hỗ tương nào đó trong việc nương nhau vốn đã dung chứa ở trong tâm tư mỗi người,
tuy nhiên nếu phân định
ranh giới giữa những
phổ cập ấy, nhìn kỹ sẽ thấy được ngăn chia rõ rệt và lối
đi vào hay ra khác nhau. Tuy vậy nó vẫn phát động từ một gốc gác, thâu tóm được điều này
ngọn ngành ấy
tự nhiên gãy đổ. Thâu tóm không phải không có quá trình, một ngăn cách dù
không giới hạn đúng mức, nhưng là hố thẳm nghìn
trùng không có đáy, muốn
vượt qua không sẩy chân xuống đó,
nếu không có được sự chuẩn bị
siêu việt há không phải luống công nhọc sức hay sao? Có phải đó là điều mà
Đạo Nguyên muốn nhắn bảo cho
Thanh Đàm hay không? Tương quan nào lại không phải cái tương duyên
cần thiết, đích thực cho
giác ngộ châm ngòi? Nhưng nếu trước đó không thâu trọn thì làm sao
tìm ra được
ý nghĩa nầy. Cần nhất phải khơi thông những trì trệ ứ đọng cho
hành trình thâu tóm ấy ! Những ngăn ngại cũng có thể tạo nên
hãi hùng cho những ai không
quyết tâm vượt thoát. Còn
ngoài ra tất cả đều
vô nghĩa như chính cái
vô nghĩa của
cuộc đời.
Đạo Nguyên đã khẳng định điều này qua hai câu cuối “Chân tính
như như, trong ngoài chẳng nệ” Nó vốn là thế đó. Cái
chân tính như như trước sau y vậy, chưa hề sứt mẻ, và cũng chưa một ai vén mở thấy nó lớn dài, to nhỏ khác biệt, trước sau?
Quan niệm đều
vỡ tung, những hưng trổi của
quá khứ,
hiện tại,
vị lai,
đâu đó như một vì sao rụng giữa bầu trời mênh mang sáng rực. Nó trùm kín và cũng có thể thơ mộng
tuyệt đẹp nhất trong
cuộc đời. Cái
tự do thong dong trên đỉnh non cao ngút ngàn của những gì cao nhất cũng vẫn không
tìm ra bóng dáng của nó. Nó cũng có thể bé tí ti như cây kim, hay ngược lại vĩ đại như
hư không,
hoàn toàn tùy vào khả năng
hoán chuyển chính cái khơi dậy đó. Trong ngoài làm sao
câu nệ khi đã không có
giới hạn năng tri
sở tri.
Đạo Nguyên còn ngăn chận cái lầm chấp cố hữu trong mỗi
con người, nên đã trao cho
Thanh Đàm một
bài kệ trong ngày ông
thọ giới cụ túc (
tỳ kheo).
Trán
phóng hào quang đâu phải Phật
Dưới chân mây trắng chửa là Tiên
Hãy nuôi trâu nọ cho
cường trángHôm sớm cày sâu đám ruộng mình.
(Quang phóng mi gian vô
Phật đạoVân sinh
túc hạ vị ngôn tiên
Nhiêu quân bảo dưỡng ngưu phi tráng
Triêu tịch thục canh bỉ thốn điền)
Bài kệ thứ hai nầy như một răn dạy
ngăn ngừa hơn là một
công án tham cứu cho
Thanh Đàm. Và sự nhắc nhở
tối hậu của
Đạo Nguyên là phải lo “Trâu” (
tượng trưng cho Tâm ở trong
thập mục ngưu đồ) một khi đã được
minh mẫn sáng suốt thì mới có thể cày bừa kỹ càng
dòng tâm. Đừng bao giờ tìm cầu tâm bên ngoài. Chỉ có cái Tâm của mình mới
giải quyết cho chính mình.
Những
tác phẩm do
Thanh Đàm sáng tác gồm có:
-
Pháp Hoa Đề Cương
-
Tâm Kinh Trực Giải
II. TÁC PHẨM PHÁP HOA ĐỀ CƯƠNGPháp Hoa Đề Cương là một
tác phẩm nghiên cứu biên khảo rất
giá trị.
Thanh Đàm đã khơi dậy những
bí ẩn đang ngự tìm trong
kinh Pháp Hoa với nhãn quan của
Thiền Học. Ngài
đọc kinh với
cốt cách của
Thiền Sư và
luận bàn với
tâm thức đã thực ngộ. Văn của
Thanh Đàm viết gọn
diễn tả trọn vẹn được tinh yếu,
nếu không đọc với con mắt khác thường thì khó mà
tìm thấy giá trị vô cùng trong đó. Lối thuật dụng
Thanh Đàm dùng đến là chen lẫn thơ kệ. Đây là nhịp cầu gạch nối điểm bùng lên giữa đối tượng và
nhận thức. Và cũng là
phương tiện giúp người đọc
cảm thấy dễ chịu cho đôi mắt và
tâm hồn.
Tư tưởng giải thoát của
Thanh Đàm thể hiện một cách gọn ghẽ trong bài Bạt nói về năm chữ “Diệu Pháp
Liên Hoa Kinh”.
Thiền Sư Thanh Nguyên có lẽ là
huynh đệ với
Thanh Đàm đã
ca tụng tán dương sách
Pháp Hoa Đề Cương trong bài tựa cho sách này.
Bích
thanh đàm xuất
diệu liên hương
Hoa mục chi tiêu tổng pháp cương
Minh chính nhất thừa khai tối quảng
Đạo trung tâm yếu thị hoằng dương
Quần
phương hội ngộ
viên tâm tịnh
Chúng
đẳng đế quan nhập lý trường
Thanh tịnh liên hoa quang
pháp giớiTỳ lư tính hãi diễn
chân thường.
Dịch:
Hồ xanh trong biếc nẩy sen thơm
Kinh mục nêu bày nghĩa
đại cươngMinh chính nhất thừa đà
quảng báĐạo trung tâm yếu lại hoằng dương
Quần vương tỏ ngộ tâm viên tịnh
Đại chúng đồng tham lý vĩnh trường
Thanh tịnh sen kia ngời
pháp giớiTự tính Tỳ Lô khéo xiển dương.
Để có khái niệm về văn của
Thanh Đàm ta hãy đọc bài bạt nói về “Diệu Pháp
Liên Hoa Kinh”
“Diệu là chỉ cho
tâm thanh tịnh xưa nay. Tâm nầy từ
vô thủy đến nay tùy duyên bất biến,
bất biến tùy duyên, nơi thánh không thêm, nơi phàm không bớt, lấm không dơ rửa không sạch,
lặng lẽ tròn đầy
pháp giới,
mênh mông đầy khắp
hư không. Tâm là nguồn gốc của chư Phật mà cũng là
Phật tính của
chúng sanh,
nguyên không có tướng trạng mà mọi tướng trạng đều từ đó phát hiện, vốn là
chân không mà cái không cũng từ đấy sinh ra. (Tâm ấy) giống như viên ngọc
ma ni trong vắt, không có màu sắc mà mọi màu sắc có thể
tự do xuất phát, cũng như biển giác lặng đầy ảnh chiếu
lục trần mà không nhận một
hạt bụi, là họa sư vẽ nên mười
pháp giới, là mẹ
trí huệ của tất cả các
đức Như Lai.
Kinh Hoa Nghiêm có nói:
“Nếu ai muốn
hiểu biếtCác
đức Phật ba đờiHãy
quan sát pháp giớiTất cả do tâm tạo.”
Mục đích tối hậu của sự
tu tập là tâm ấy vậy. Hỏi: “tâm
linh diệu như thế thì làm sao mà nắm được?” Đáp:
Ngôn thuyết và
biểu thị không thể nắm được
chân tâm.
Kinh Pháp Hoa nói rằng:
“Thôi thôi ! đừng nên nói
Pháp ta mầu khó nghĩ
Những kẻ
tăng thượng mạnNghe thấy chẳng kính tin.”
Cái
bản thể bất động,
tịch nhiên, chiếu rọi của Tâm, không
thể đạt được bằng suy tư
luận bàn. Nó không có tướng trạng, bặt hết mọi
ngôn thuyết,
móng tâm động niệm đều sai, lấy gì để
quan niệm tư duy? Tâm phát sinh ra mọi pháp, những
luân lưu vận chuyển cũng
từ tâm mà ra, nhưng nó không có tướng trạng. Đừng khởi những
chấp tướng vướng pháp, cứ để nó
thong dong trong
tâm thức linh diệu. Hãy
quay về để
khám phá cái nhiệm mầu đang ở trong ta.
Bài tụng về cái Diệu của Diệu như sau:
“Không hình không trạng cũng không tên
Mầu nhiệm trong lòng một điểm linh
Thường tịch viên thông soi
pháp giớiBản lai thanh tịnh rạng chân tinh
Từ đây phát hiện nên chư Phật
Do đấy thành ra có
chúng sinhĐứa con
nghèo khổ lưu linh mãi
Quên mất người cha của tự mình.”
Đề cập đến chữ “Pháp”
Thanh Đàm viết:
“Pháp là tất cả
mọi vật, là sự
ứng dụng của
Diệu Tâm.
Diệu Tâm là nguồn thiêng của
mọi vật. Pháp là Tâm, Tâm là Pháp. Pháp là
tùy duyên của
Diệu Hữu khi không nhiễm thì gọi là
Diệu Pháp. Tâm là ứng vật của
chân không, khi không vướng vào trần thì gọi là
chân tâm. Mượn cái gì mà nói được về chân tâm? Nói về
diệu pháp thế nào để không ngăn ngại sự tu chứng? Các
pháp môn để
tu chứng thì nhiều
vô lượng, ta phải tìm
pháp môn nào gần nhất để
đi vào. Vả lại các pháp tuy
vô số mà bất quá đều quy vào căn, trần và thức. Ba thứ nầy đều do
Diệu Tâm hiển hiện, cho nên thường nói “pháp
từ tâm sinh khởi, tâm là nguồn pháp.” Một niệm nghĩ lúc
ban sơ đã khiến cho
biến hóa vạn cách,
trôi nổi liên tiếp,
sinh diệt luân hồi, cho mãi đến bây giờ vẫn còn đuổi theo
vọng tưởng, quên mất
chân tính giống như anh chàng Diễn Nhã quên đầu nhận bóng. Nay muốn khai thị và
đốn ngộ nguồn tâm thì trước hết phải biết rằng thức là huyền ảnh, trần là
hoa đốm hư không, cả hai thứ đều không thể xử dụng làm căn cứ để
tu hành, phải lấy căn làm
phương tiện gần gũi nhất để
tu tập. Tại sao vậy?
Tại vì trần không có tự thể, do căn mà phát hiện, như mắt
nhận thấy hoa đốm giữa
hư không.
Vì vậy cho nên nói rằng trần là hư hoa không có tự thể. Thức cũng không có tự thể thực hữu, nhờ trần cho nên mới
sinh diệt và qua lại được. Đã
sinh diệt qua lại tức là
vô thường. Chỉ có
căn tính mới là thường tại, nên
Phật bảo căn tính nầy là Diệu Căn, căn pháp là
Diệu Pháp. Căn pháp dù do tâm
hiện ra, như
mặt trăng thứ hai
xuất hiện khi ta đè lên mí mắt, nhưng
mặt trăng thứ hai cùng với
mặt trăng thứ nhất là một, lúc đè lên mí mắt thì có, lúc biết thì không có thế thôi. Khi có
vọng tưởng thì
căn tánh là cái
chân tâm thứ hai vậy. Khi ở trong
trạng thái vô tướng linh tri, thì
chân tâm là cái
chân tâm thứ nhất. Tuy vậy
căn tính và linh tri cùng
một thể, chỉ khi mê thì thấy có
căn tính, khi ngộ thì
căn tính không còn.
Căn tính ấy cũng là một với
bản thân thanh tịnh xưa nay không hư huyễn như Trần và Thức. Cho nên Phật chỉ bày rằng
căn tính là
nhân địa gần nhất cho sự
tu hành, khiến cho
chúng sinh có thể
đi vào chân tâm bằng cánh cửa
căn tính, vào dòng, trở nên đầu nguồn thấy được tâm thể
xưa nay của mình.
Hỏi: Tại sao không
chỉ thẳng cái thứ nhất là
Diệu Tâm xưa nay, mà lại chỉ cái thứ hai là
Căn Tính để làm
phương tiện tu hành ?
Đáp: Tâm vốn vô hình làm sao mà chỉ? Trước kia tôi đã nói
một lần rồi:
ngôn thuyết và
biểu thị không nắm được tâm. Tuy vậy dù tâm vô hình, nhưng sự
ứng dụng của căn lại có vết tích, vì có vết tích nên có thể chỉ bày, khiến cho người
tu học có thể nhìn vết tích của sự
ứng dụng, do ánh sáng ấy mà về được tâm.
Hỏi: Dấu vết ấy ở đâu ?
Đáp: Ở trên đối tượng
lục trần. Do sắc mà có cái thấy, do thanh mà có cái nghe,
lục trần là dấu vết
ứng dụng của
lục căn. Nay muốn nắm được dấu vết của căn thì phải
quán sát cái thấy cái nghe nơi đối tượng
sắc thanh. Nên biết rằng
công dụng của căn là
công dụng của Tâm, căn
nhận thức là tâm
nhận thức, cái khác nhau là căn có tới sáu
công dụng mà Tâm chỉ có một
bản thể tinh minh. Các
đức Phật truyền cho nhau căn pháp nầy, các vị tổ truyền cho nhau
Tâm Tông ấy. Đó là
bí quyết mà các kinh chỉ bày để đắc
căn bản trí.
Pháp ấn truyền giữ qua các
thời đại cũng lấy cái ấy để phát giác
sơ tâm.
Chứng ngộ mau hay chậm là vì
căn cơ rộng hay hẹp. Nên biết rằng pháp này được đặt tên
tùy theo trường hợp và địa phương, tuy
sai biệt vô cùng mà cũng chỉ pháp ấy. Lại cũng nên biết là
danh hiệu của chư Phật và
đề mục của các linh cũng đều là
biệt hiệu cảu pháp ấy.
Hỏi: Tâm ấy làm sao mà trao truyền ?
Đáp:
Đức Thế Tôn đưa lên một nhành hoa
Ca Diếp mỉm cười, sau đó các tổ truyền lại
giữ gìn,
trường hợp khác nhau, chỉ có người
giác ngộ mới tự biết lấy.
Hỏi:
Tu trì làm sao ?
Đáp: “Thôi, Thôi” đó là
phương pháp.
Thiền Sư Đạo Xuyên nói:
“Tri âm tự khắc tùng theo gió
Trăng trong gió mát đất trời nhàn
Lại nói:
Nắm được ở tâm
Ứng được nơi tay
Tuyết gió hoa trăng
Trời đất
lâu dàiCứ hễ canh năm gà gáy sáng
Xuân về hoa núi nở ngàn nơi.”
Hỏi: “Mục đích
tối hậu là gì?”
Đáp: “Phổ Hóa
Hòa Thượng nói: Tìm chỗ đi tới không được”
Và
bài kệ trong
kinh Hoa Nghiêm cũng nói:
“Nghiêng mình làm lễ trước biển
Chân Tính Hoa Nghiêm và trước tất cả các bậc
quang minh biến chiếu trước
thế giới trang nghiêm do
hạnh nguyện Phổ Hiền thiết lập trước kho tàng
pháp giới Chân Như !”
Thôi xin chào, xin chào ! Có
bài kệ về Pháp của
Pháp như sau:
“Vạn Pháp tuy nhiều không đếm xiết
Chung quy cũng chỉ thức, căn, trần
Huyễn duyên dư ảnh dù không thực
Chân tri chính kiến vẫn
bao dungGặp thầy chỉ dạy đường
mê ngộThấy Phật
tìm ra lẽ
sắc khôngNếu muốn lên mau bờ bến giác
Con đường trước mặt chớ lần khan.”
Cả
cuộc đời và
tư tưởng của
Thanh Đàm hiển nở đều nằm nơi
bài kệ ban đầu mà
Đạo Nguyên đã trao. Ở đó qua
tác phẩm trên ta thấy ngài đã
thâm nhập vào cái Tâm rộng lớn dung chứa
mọi vật, nhưng không hề ngăn ngại và
cản trở. Tất cả đều là
diệu dụng lưu xuất, nếu nắm được,
tử sinh vô nghĩa trước dòng đời nổi trôi.
Chỉ một niệm khởi lên thôi,
biển tâm ào ào chuyển động, gió
bát phong cuốn mất
tâm linh huyền diệu, cửa
tử sinh thoáng hiện đè nén lên
tâm thức,
mộng huyễn ảo
xuất hiện, mù mịt trước ngưỡng cửa đuổi bắt tìm tâm, ở trong ngoài, trên mí mắt v.v…
đâu đâu cũng chỉ thấy càng
truy tầm tìm kiếm lại càng phải lạc loài, chơ vơ không nơi bám tựa. Tìm đâu khi cả
càn khôn nầy đang rực lửa đốt cháy? và thấy gì mà
tốn công đeo đuổi nắm bắt cái
không thật ?
Then chốt cuối cùng nếu không bật tung thì làm sao
đi vào biển
trí tuệ Chân Như. Vận dụng, gõ
liên tục vào chính cái đang đè nén đó, may ra mới
tìm thấy ngõ ngách. Nương vào tướng trạng để phăng ra đầu mối đích thực. Nhưng nhớ đừng lấy niệm đè niệm, đừng lấy tâm đè tâm.
Thanh Đàm Thiền Sư dẫn dắt ta tìm đến cái Tâm và để rồi
cuối cùng duy nhất còn lại hai chữ “Thôi, thôi”
diễn tả bản thể bất động của Tâm. Trong kinh
Kim Cương Trưởng Lão Tu Bồ Đề chấp tay cung kính bạch Phật rằng: “Hy hữu thay
Đức Thế Tôn ! ngài thường nhớ nghĩ và
bảo hộ các vị
Bồ Tát. Ngài khéo
dạy bảo các vị
Bồ Tát. Bạch
Thế Tôn nếu có người
phát tâm Bồ Đề muốn cầu quả Phật thì:
“Làm sao
hàng phục vọng tâm ?
Làm sao an trụ
chân tâm ?
Hai lối đó là hai nỗi thắc mắc không cùng trong mỗi
chúng ta,
vọng tâm và
chơn tâm ranh giới nào là điều thật, đây có phải là hai thể hay là một
duy nhất đó là Tâm?
Đức Phật nhiều lần phá bỏ
ngã chấp và
pháp chấp để
hiển lộ nên cái
chân tâm tròn đầy. Một câu nói trở nên bất hủ đó là “Bốn mươi chín năm
thuyết pháp ta chưa từng nói một lời” Nếu
ngã chấp và
pháp chấp không
san bằng tiêu hủy thì muôn kiếp vẫn phải trôi lăn, dù đó là những lời dạy của Phật.
Nhứt thiết
hữu vi phápNhư
mộng huyễn bào ảnhNhư lộ diệc như điển
Ưng tác
như thị quán.
Dịch:
Tất cả các
pháp hữu viKhác nào
mộng huyễn bào ảnhNhư sương,
ảnh tượng, điện chớp
Thường nên
quan sát như thế.
III. CÔNG ÁN THAM CỨU VỀ CHÂN TÂM CỦA THANH ĐÀMNhằm giúp
độc giả dễ dàng trong việc
tham cứu về
Chân Tâm, ngài đưa ra ba
công án, dù rằng ba
công án nầy mang
tính chất suy luận hơn là đẩy thẳng vào Tâm.
Tuy nhiên cũng là cách gợi lên cho ta một
ý niệm. Nếu xử dụng đúng mức trong việc
truy tầm nguồn gốc hưng dậy của
ý thức may ra ta vén mở được
hình hài tỏa hương
bất diệt.
Thanh Đàm đưa ra ba
nghi vấn ở ba
công án. Nếu,
không đại nghi thì làm sao
đại ngộ được. Cũng có thể nghi là ngộ và không có cái ngộ nào mà trước đó không nghi:
1.
Thế Tôn xuất thế bởi vì đâu
Tuyên thuyết liên hoa pháp nhiệm mầu
Thử hỏi
cả đời sao chửa nói ?
Gần khi
nhập diệt mới truyền trao.
(
Thế Tôn xuất thử dĩ hà duyên ?
Chữ vị
liên hoa đại sự yên
Hà nãi
trung gian do vị thuyết
Niết Bàn tưởng cận thỉ ban tuyên)
2. Từ
Tây Phương đến chỉ tám tông
Sao chín năm luôn mặt úp tường ?
Có phải vì
căn cơ chửa chín ?
Chín rồi mới
hiển lộ chân không ?
(Tây lai trực vị chỉ
tâm tôngHà nãi
cửu niên diện bích trung ?
Tất đã
đầu cơ cơ vị thục
Thục thời nhiên hậu hiển
chân không ?)
3.
Huệ Năng được ấn pháp
Kim CươngSao phải chạy về Nam Lĩnh Dương ?
Không ở ngay đây tuyên
pháp ấn ?
Biết đâu
chân tính vẫn
mơ màng ?
(
Huệ Năng đắc pháp ấn
Kim CươngHà nãi tiền quy Nam Lĩnh Dương ?
Bất đán
vị tha tuyên
pháp ấnCái tri
nhân tính thượng
mê man ?)
Ba
nghi vấn đưa ra để
tham cứu:
“Tại sao Phật phải đợi đến lúc gần
nhập diệt mới chịu
thuyết kinh Pháp Hoa ?
2.
Bồ Đề Đạt Ma qua
đông độ để chỉ bày
tâm tông, tại sao lại phải ngồi nhìn vách chín năm, hay là tại chưa thực sự
giác ngộ ?
3.
Huệ Năng nếu
quả thật đắc pháp với
Ngũ Tổ, tại sao không ở ngay đó để hoằng đạo mà phải chạy về Lĩnh Nam ?
Và một
công án khác mà
Thanh Đàm thường ưa xử dụng, đó là:
Niệm:
Hay lắm,
Thuần ĐàHay lắm,
Thuần ĐàTụng:
Không nói ngắn chẳng nói dài
Ngắn dài tốt xấu thảy đều sai
Tìm hay lại hóa người chê vụng
Bắn sẻ ai dè sói chực ngay
Công danh cái thế màng sương sớm
Phú quí kinh nhân
giấc mộng dài
Chẳng hiểu
bản lai vô nhứt vật
Công lao uổng phí
một đời ai.
Thanh Đàm nhờ
thành tựu được
sơ tâm ban đầu qua
bài kệ của
Đạo Nguyên. Ngài đã xử
dụng ý lực bình sinh trong việc gõ
liên tục vào nội tại, những bùng vỡ của
Thanh Đàm cũng có thể trước đó ngài rơi vào một vài
nghi vấn đặt lại. Dù rằng 3
nghi vấn ngài đã trao lại hãy còn nằm trong
suy luận, cũng có thể từ những đặt lại
ý thức đó lại rơi vào dấu hỏi lớn và một khi đã
giải quyết xong
dòng tâm chuyển mình tìm đến
thế giới của
tự do. Và để rồi sau đó trong
công án cuối mà
Thanh Đàm hay xử dụng đưa ra một luận cứ phủ định tất cả những
quan niệm dù đó là một
lập luận, ngay cái dùng để phủ định đó lại phủ định ngay cái phủ định. “ngắn dài tốt xấu thảy đều sai”.
Thanh Đàm sáng tác bài thơ “Tìm Tâm” có
âm hưởng tiếng trống đánh rất
ngộ nghĩnh, vui vui:
Ngang lưng đeo trống đối tri âm
Duỗi thẳng hai tay đánh trống tâm
Tập tập tìm tâm, tâm tất tập
Tìm tâm, tâm tập, tập tìm tâm
Âm thanh hợp vận âm trùng họa
Tịch chiếu Tâm tông, tức tập Tâm
Trăng sáng gió thanh thường
tự tạiTìm tâm chẳng được, nghĩ tìm Tâm
Thôi nhé, tâm ta chẳng thể tầm
Tìm tâm dẫu được chẳng
chân tâmMang đèn xin lửa thêm
điên đảoThà đứng bên sông hát khúc ngâm.
(Kiên kình yêu cổ đối tri âm
Thư thủ
vô vi phách cổ tâm
Tâm tập, tầm tâm, tâm tắc tập
Tầm tâm, tâm tập, tập tầm tâm
Cổ thanh hợp vận tùng thanh họa
Tịch chiếu tâm tông tức tập tầm
Minh nguyệt thanh phong trường
tự tạiTầm tâm bất đắc, tức tầm tâm
Chỉ chỉ ! Ngô tâm bất khả tầm
Tầm tâm túng đắc tắc
phi tâmTương đăng cầu hỏa tư
điên đảoBất nhược song tiền
thủ nhất ngâm)
Biết khi nào mới tìm được cái
chân tâm đang chơi vơi giữa
tử sinh, còn móng
ý niệm để tìm thì muôn kiếp cũng không gặp được. Nó mênh mang, bàng bạc, bao
trùm khắp tất cả, ở trong ở ngoài tìm đâu ?