CHƯƠNG THỨ MƯỜI
BƯỚC CHÂN THỨ MƯỜI LUI LẠI
TRỞ VỀ SỰ IM LẶNG:
SỰ CHUYỂN ĐỘNG TOÀN DIỆN CỦA TÂM THỨC
TỪ ĐỨC KIÊN NHẪN TRONG PHẬT GIÁO TỪ
NGUYÊN THỦY ĐẾN ĐẠI THỪA VÀ
KIM CANG THỪA MẬT TÔNG TÂY TẠNG
I. Kiên Nhẫn Trong Phật Giáo Và Trong Văn Chương Của Rilke, Faulkner và Nguyễn Du.
II. Kiên Nhẫn Trong Phật Giáo và Kiên Nhẫn Trong Thần Học Thiên Chúa Giáo và Trong Các Tôn Giáo Khác
I. KIÊN NHẪN TRONG PHẬT GIÁO VÀ TRONG VĂN CHƯƠNG CỦA RILKE, FAULKNER Và NGUYỄN DU.
Từ nhan đề và
chủ đề của chương này
cho đến sự khai triển
thành hình cụ thể xuất hiện như một
tiếng gọi lên đường trở về Hy Mã Lạp Sơn của
tâm thức, người viết phải
trải qua một lộ trình
kiên nhẫn của
chữ nghĩa và của sự tự
phá hủy của chính
chữ nghĩa để đối mặt với sự
vô nghĩa lớn rộng của mọi kiến trúc
ý niệm xoay tròn bên ngoài mà không hẳn là cái ở bên ngoài và bên trong, “trong” và “ngoài” lôi kéo mọi sự
vận hành điên đảo của
tâm thức. Nếu chương này viết có giọng điệu khô khan và đây đó đột hiện đôi ba chữ Phạn, Chữ Pàli, chữ
Tây Tạng, chữ Đức hay chữ Hy Lạp thì người đọc cũng nên
kiên nhẫn suy nghĩ rằng mọi sự phô trương
chữ nghĩa chỉ lường gạt được những hạng người thích phô trương
chữ nghĩa, rằng chính
thể tính của
chữ nghĩa là tự phô trương ra cái
vô nghĩa của tất cả sự tự biệt lập, tự ngăn cách và tự mãn của cái mà người ta quen gọi là “cá thể”, “cá vật”, “cá nhân”, “cá nhân vận năng chủ nghĩa” hay cái người ta thường gọi là “cá tính”. Nói một cách khác, người viết và người đọc
cần phải kiên nhẫn suy nghĩ đôi ba lần đáng được
suy nghĩ xoay tròn bên ngoài cái mà người ta quen gọi là đức
kiên nhẫn mà chính đức
kiên nhẫn không hẳn là cái ở bên trong lôi kéo một sự
vận hành điên đảo của
ý thức tiềm thức,
vô thức, hạ thức, thượng thức,
trí thức, lập thức, ẩn thức,
hiện thức, siêu thức. Đức
kiên nhẫn không phải là một cái gì đằng xa lôi kéo sự
vận hành của một cái gì rất gần như cái gọi là “cá thể”, “cá nhân”, “cá vật”, và “cá tính”; đức
kiên nhẫn cũng không phải là một cái gì đó rất gần như là “tâm thức”, “tâm trạng” và “tâm lý” mà cái gọi là “chủ thể” có thể làm chủ được mỗi khi cái gọi là “cá thể” tự
giải thích phô trương là “chủ thể”.
Bỏ ra ngoài
ý niệm thông thường của thung lũng
ý thức như “chủ thể”, “khách thể”, “cá thể”, “tập thể”, “biệt thể”, “lập thể”, “siêu thể”, và tất cả những dạng thể và
biến thể có thể có được cái gọi là “hiện thể”,
chúng ta cùng nhau
kiên nhẫn lên đường trở về thể tính và tính thể của đức
kiên nhẫn trong
ý nghĩa siêu việt của
Phật Giáo. Vừa đọc tới đây, người ta có thể thiếu
kiên nhẫn,
bực mình, ngáp và tự hỏi không biết người viết sẽ dẫn mình đi đến đâu.
Có thể tạm cho một định nghĩa về sự thìếu
kiên nhẫn là: không
chịu đựng nổi cái
ý thức rằng mình thiếu
kiên nhẫn. Từ đó đẻ thêm một
giả định nghĩa về sự thiếu
kiên nhẫn: không
chịu đựng nổi sự
chịu đựng Nói một cách gọn trong
tinh thần triết lý chơi chữ và
ngôn ngữ Việt Nam: không chịu nổi tất cả cái mà người
Việt Nam gọi là nổi như: nổi về, nổi ở, nổi đi, nổi đứng, nổi nhớ, nổi thương, nổi buồn, nổi đau,
nỗi lòng, nỗi niềm, nỗi nào, nông nổi, khó nổi, lắm nổi, mỗi nổi. Trong
tinh thần triết lý Vĩệt Nam, sự không
kiên nhẫn và sự thiếu
kiên nhẫn và sự đánh mất
kiên nhẫn là sự thay đổi
chuyển hóa từ chữ nổi (dấu hỏi) đến chữ nỗi (dấu ngã). Nói một cách triết lý hơn nữa, tất cả câu hỏi đều bị té ngã thành một nỗi, mọi nông nỗi của
con người hiện nay. Tất cả các triết lý về sự
kiên nhẫn là sự
kiên nhẫn của chính triết lý: triết lý
chịu đựng nổi tất cả dấu hỏi,
chịu đựng nổi tất cả mọi nông nỗi và hỏi cho
tới nơi: “Biết hỏi có nghĩa là: biết chờ đợi dù là chờ đợi trọn
một đời người. Điều
chính yếu là đúng thời, nghĩa là đúng giây phút,
đúng lúc và có được một sự
Kiên Nhẫn chính đáng.” (Heidegger, Einfuehrung in die metaphisik, trang 157: “Fragen Koennen heist: warten koennen, sogar ein leben lang. Die rechte Zeit, d.h. der rechte Augenblik und das rechte ausdauem”). Bây giờ
chúng ta có thể đi đến một
ý thức mơ hồ nào đó rằng sự
kiên nhẫn có nghĩa là: “biết chờ đợi, dù là chờ đợi trọn
một đời người”. Và
ý thức có thể
rõ ràng hơn nữa: sự
kiên nhẫn chính đáng là
kiên nhẫn thì có nghĩa rằng ăn ở, đi đứng, lưu trú với tiết nhịp
thời gian chính yếu, trúng tiếp, trúng nhịp, ăn khớp với sự
biến dịch tự nhiên của tất cả trong tất cả, của một trong một, của tất cả trong tất cả, của một trong tất cả, của tất cả trong một. Sự
kiên nhẫn bùng lóe chiếu rực lên trong giây phút liên thu, không phải chỉ bùng lên rồi tắt, mà ngược lại: cháy bùng lên và
lặng lẽ soi rực chiếu sáng
liên tục tất cả lộ trình của sự
vận hành tâm thức. Sự
kiên nhẫn chính là sự
kiên nhẫn của
thời gian chính yếu không phải là
thời gian của đồng hồ và niên lịch: “hãy chờ đợi một cách khiêm tốn và
kiên nhẫn, đợi giờ phút khai sinh ánh sánh rực ngời mới lạ”. Ở đâv
thời gian không thể làm
tiêu chuẩn đo lường. Một năm có kể gì: khi mình là nghệ sĩ thì có nghĩa là
nảy nở như cây lá không hề bức thúc nhựa cây, đứng vững lại một cách tín thành trong tất cả ngọn gió lớn của
mùa xuân, không hề
sợ hãi nao núng rằng
mùa hạ không
trở lại nữa.
Mùa hạ nhất định sẽ đến. Nhưng
mùa hạ chỉ đến cho những kẻ nào biết chờ đợi, chờ đợi một cách
trầm lặng và cởi mở như là mình đã có cả
vĩnh cửu trước mắt mình. Tôi đã học được điều ấy mỗi ngày bằng bao nhiêu cơn
đau đớn, bằng bao nhiêu nỗi
đau khổ mà tôi vẫn
cảm tạ:
KIÊN NHẪN VẪN LÀ TÂT CẢ - “GEDULD IS ALLES” (rainer Maria Rilke, xin đọc Rilke của Phạm Công Thiện, trang 27, 1969, Cornell University Library, Wason PT 2635, 165, 275, NUL 72-2451). Những
lời nói dẫn của
đại thi hào Đức Rilke đáng được
kiên nhẫn trích lại
một lần nữa nơi đây vì chính Rilke là mộl thi sĩ
suốt đời ăn nằm
trọn vẹn tất cả những
ý nghĩa của sự
kiên nhẫn. Và cũng chính Rilke là nhà thơ đã sống
trọn vẹn với
tinh thần đạo lý Phật Giáo mà
chúng ta còn nhìn thấy lại trong mấy bài thơ
tuyệt vời của Rilke về
Đức Phật như bài thơ nhan đề: “Đức Phật trong sự
quang vinh hiển ngời”; Rilke
tôn kính gọi
Đức Phật là “trung tâm điểm của tất cả mọi
trung tâm điểm, căn nguyên của mọi căn nguyên” (Mitte Aller Mitte, Kern Der Kerne) và
ca tụng: “Trong
pháp thân Đức Phật đã bắt đầu/một cái gì đó mà sáng rực
lâu dài hơn những
mặt trời...” Vài
suy nghĩ kiên nhẫn về đức
kiên nhẫn trong
Phật giáo đã được viết ra trong ánh sáng của
Kinh luận Phật giáo từ
nguyên thủy cho đến toàn bộ Đại thừa Phật giáo gồm luôn cả
Kim Cương thừa của
Mật tông Tây Tạng; ngòi bút của người viết đã được hướng dẫn bởi
một thế lực khủng khiếp của “một cái gì đó sáng rực
lâu dài hơn tất cả những mặt trời”.
Vâng lệnh theo
truyền thống tôn nghiêm của
luận thuyết Phật giáo, người viết
tôn kính khởi đầu bằng sự
quăng bỏ cả thân, khẩu, ý của mình xuống dài sát mặt đất để phụng ngưỡng
đức Phật qua câu
kệ tán tụng của
đại sư Nàgàrjuna (
Long Thọ) trong phần mở đầu của
Trung Luận (Mùlamadhya-makakàrika) mà
tư tưởng vĩ đại khủng khiếp đã soi đường ngườì viết bước đi từng
bước một một cách
kiên nhẫn trên
con đường trở về đỉnh núi cao nhất của
nhân loại,
Hy Mã Lạp Sơn của triết lý
Tuyết sơn của
đạo lý từ Đông sang Tây, một cái gì cao ngất mà tất cả
ý thức con người phải sụp đổ:
Anirodham Anutpàdam Anucchedam Asàsvatam /
Anekàrtham Anànàrtham Anàgramam Amrgamam /
Yah Pratityagamutpàdam Prapancopasamam Sivam /
Desayàmàsa Sambuddhah Tam Vande Vandatàm Varam.
Việt dịch:
Con xin phụng ngưỡng đấng
Toàn Giác, bậc
Tôn Sư siêu việt nhất, người đã
thuyết giảng cái không ngừng cái không khởi, cái không tiêu mất, cái không còn lại, cái không giống, cái không khác, cái không đi; người đã
thuyết giảng lý
duyên khởi, cái tương phát tương khởi đồng nhịp (pratìyasamutpàda) , sự an nghỉ
tuyệt vời của những
vọng thức,
vọng niệm,
vọng tưởng, vọng ý,
vọng ngữ,
vọng ngôn, hý ngôn,
hý luận, dị tưởng, biệt tưởng, động tưởng, tán ý, hoằng tương, động ý-sự an dịu của những động niệm, những
tư tưởng tản mạn (prapancopasama) , sự an dịu
giải thoát diệu huyền tuyệt diệu tốt lành (siva) (
toàn thể quyển
Trung Luận của
Long Thọ đã được tôi dịch xong từ chữ Phạn từ 3 năm nay mà tôi vẫn
kiên nhẫn giữ lại vì chưa tiện xuất bản. P.C.T. 1994).
Chỉ có bốn câu kệ mở đầu trên của
Long Thọ (Nàgàrjuna) mà phải dịch ra Việt ngữ dài dòng như trên, thế mà người viết vẫn chưa diễn được hết tất cả
ý nghĩa súc tích của
Long Thọ, bốn câu kệ trên của Nàgàrjuna có
sức mạnh công phá đữ dội gấp triệu lần phương trình nguyên tử của Einstein (
thực ra Einstein không đáng được đem ra
so sánh ở đây với Nàgàrjuna, vì Einstein nằm ở bình diện khác của kiến trúc
vọng niệm, còn Nàgàrjuna thì
phá hủy tất cả mọi bình diện và
phá hủy tất cà sự
vận hành của động niệm). Không phải
tình cờ ngẫu hứng người viết mở đầu bài viết vài
suy nghĩ kiên nhẫn về đức
kiên nhẫn bằng sự trích dẫn và
diễn dịch bốn câu kệ trên của
Long Thọ, vì chính
bài kệ tán mở đầu trên
Trung Luận (Mùlamadhyamakakàrika) chính là “trung tâm điểm của tất cá mọi
trung tâm điểm, căn nguyên của tất cả mọi căn nguyên” để
chúng ta nhảy thẳng vào tính thể và
thể tính của sự
kiên nhẫn trong
Phật giáo.
Chúng ta chưa đủ chuẫn bị
tinh thần để hiểu ra ngay
ý nghĩa súc tích của bốn câu kệ trên.
Chúng ta cần phải kiên nhẫn chờ đợi một giây phút nào đó bất ngở khi tất cả
điều kiện đã được
thể hiện đúng lúc thì bốn câu kệ trên bừng vỡ
sáng ngời lên “hơn cả những mặt trời”. Hai chữ Phạn nặng nghĩa nhất trong bốn câu chữ Phạn trên của
Long Thọ là chữ Pratityasamutpàda và chữ Prapancopasama;
thực ra Pratityasamutpàda chỉ cỏ nghĩa
quen thuộc “lý duyên khởi” và Prapancopasama có
nghĩa không quen thuộc là “an định những động niệm vọng thức”,
tuy nhiên, tất cả
vấn đề không phải chỉ giản dị như thế, và
vấn đề của
chúng ta không phải chỉ là
vấn đề tìm hiểu ý nghĩa chính xác, mà
vấn đề căn bản nhất,
vấn đề sống chết chính là sự
vận hành di động liên tục của tất cả những
kiến thức tâm thức, và chính sự
vận hành chuyển động của tất cả
ý niệm tản mạn là cái đi ngược lại đức
kiên nhẫn; sự
kiên nhẫn đúng nghĩa
siêu việt trong
Phật giáo chính là: làm an nghỉ, làm
an định những động tưởng tán ý, tức là
ý nghĩa của chính chữ Prapancopasama trong bốn câu kệ chữ Phạn ở trên của
Long Thọ. Khi
suy nghĩ về đức
kiên nhẫn trong
Phật giáo và khi mở đầu trích dẫn bốn câu kệ của
Long Thọ để ngưỡng phụng
đấng Thế Tôn,
hốt nhiên chúng ta đã được nhảy thẳng vào
trung tâm điểm của đức
kiên nhẫn trong Phật gíáo:
Kiên Nhẫn là sự an nghỉ của tất cả
vận hành ý niệm;
Kiên Nhẫn là đi ngoài sự
phân biệt ý niệm, đi ra ngoài sự
vọng tưởng tán mạn, đi ra ngoài sự
phân biệt ý niệm, đi ra ngoài sự tưởng tượng
sai lạc, đi ra ngoài sự phóng đại của
tâm thức, đi ra ngoài
tác động của
ngôn ngữ và
ý niệm, đi ra ngoài sự đùa chơi của chính
chữ nghĩa đối với
chữ nghĩa, đi ra ngoài tất cả kiến trúc
vọng thức mà chữ Phạn gọi là Nisprapanca và chữ
Tây Tạng gọi là Sprospa medpa. Điều quan trọng nữa khiến cho
chúng ta cần phải kiên nhẫn lưu ý: sự đi ra ngoài cũng chỉ là sự kiến trúc của
vọng thức và
vọng tưởng. Như thế
chúng ta cần phải kiên nhẫn đi lại từ
bước đầu, đi lùi lạỉ
xa hơn nữa và
thể hiện một cách
kiên nhẫn sự
vận hành của chính
ý niệm kiên nhẫn trong sự
tu hành của
Phật giáo nguyên thủy và của
Đại thừa cùng với
Mật tông Tây Tạng.
Nhiều khi người thường
nói nhiều về đức
kiên nhẫn lại là người thiếu mất
kiên nhẫn nhiều nhất. Chính người viết đã phải tự nhận “thân chứng” sự thiếu mất
kiên nhẫn trong đủ mọi dạng thái
tế nhị và
phức tạp. Càng thiếu
kiên nhẫn thì càng thấy thấm thía
ý nghĩa cô quạnh của hai chữ “kiên nhẫn”. Tìm cho ra tất cả
lý do để
cắt nghĩa sự thiếu mất
kiên nhẫn thì cũng khó khăn như tìm cho ra tất cả
lý do để
cắt nghĩa sự
hiện diện của đức
kiên nhẫn. Có lẽ
ý thức (hay
tiềm thức) đã
thôi thúc khiến mình đi tìm
lý do để
cắt nghĩa cái này (và cái kia), đó là một sự thiếu mất
kiên nhẫn của
chính tâm thức
bất mãn trong giây phút
hiện tại. Sự
bất mãn bùng dậy
từ ý thức
leo lét của
hiện diện đìu hiu, lôi kéo bóng tối của tương lai vồ chụp lên
không gian lung lay và nghiền nát
quá khứ thành tro tàn đầy khói trắng. (Đôi khi cũng cần nói “văn chương” một tí để phủ lấp sự thiếu mất
kiên nhẫn của chính
ngôn ngữ diễn đạt). Người thiếu
kiên nhẫn thường khi
hay nói nhiều, nói “phóng đại”, nói nhừa nhựa lòng thòng như văn phong của Faulkner (chỉ khi viết văn thì Faulkner mới viết
lê thê lòng thòng còn
trong đời sống thường nhật thì Faulkner rất
ít nói. Đôi khi cũng cần ăn nói lạc đề một chút,
đang lúc viết về đức
kiên nhẫn trong
đạo Phật mà lại đề cập Faulkner, không khác gì
gián tiếp đề nghị với người đọc đừng đọc bài viết này và hãy đi tìm đọc Faulkner để thể nghiệm đức
kiên nhẫn cho đôi mắt mỏi mệt sau một ngày lao lung với sinh kế
chịu đựng; lạc đề mà vẫn nhập đề : chỉ có Faulkner là nhà văn Mỹ
duy nhất đã
sử dụng chữ “endurance” và chữ “endure” một cách
thiên tài u ẩn mà một ngàn trang
giải thích ý nghĩa của đức
kiên nhẫn cũng không đủ lôi dậy
ma lực kỳ quái của
âm hưởng ngữ động trong
văn chương kiên nhẫn của Faulkner, một trong vài ba bút pháp lì lợm
kiên nhẫn nhất của nền
văn học hiện đại).
Sự
bất mãn đối với nỗi
im lặng nặng nề của
đời sống làm cho mình trở nên
ồn ào (
ồn ào âm thầm trong đầu hay
ồn ào thể hiện ra ngoài trong
cử chỉ điệu bộ), lúc nào mình cũng
cảm thấy bức bách; có cái gì
thường xuyên thôi thúc mình động đậy không ngừng; lúc nào mình cũng
cảm thấy bận rộn và không có
thì giờ (hoặc có
thì giờ quá nhiều để lúc nào cũng thấy
thì giờ là cơn
bức bách nghẹt thở), lúc nào cũng
mong đợi một cái gì khác xảy đến và thường tình thì chẳng có gì xảy đến; và thế rồi một hôm bỗng có cái gì thực sự xảy đến: cái chết vùng vẫy
xuất hiện một cách lì lợm
kiên nhẫn; cái chết
xuất hiện một cách đúng mẹo luật
văn phạm, đúng chính tả, như chữ nhẫn phải viết dấu ngã. Cái chết
xuất hiện một cách tàn nhẫn như chữ nhẫn trong chữ Tàu: tất cả
ý nghĩa hình nhi hạ học của đức
kiên nhẫn đã được
sử dụng một cách cụ thể hữu hình và rất gợi hình qua chữ nhẫn với bộ đao đè lên trên bộ tâm: cái đao thêm một nét, thành mũi dao nhọn (nhận) đặt lên trên trái tim;
kiên nhẫn có nghiã là
chịu đựng cho lưỡi dao nhọn kề sát lên trên trái tim.
Tinh thần kiên nhẫn Việt Nho đã lộ nguyên hình trong chữ nhẫn (muốn thấy nhẫn gợi hình một cách
rùng rợn thế nào, xin
kiên nhẫn nhìn cái hình vẽ lưỡi dao đời
thái cổ ở Tàu trong quyển sách đáng nhớ của L. Wieger, Chinese Characters, Their Origin. Etym Ology, Histori, Classification and Signification. A Thorough Study from Chinese Documents, 1965, trang 141-142, và nhất là trang 365). Còn
tinh thần kiên nhẫn của Việt đạo được
thể hiện và bao dong chứa đựng trong chữ “súc” của
Đạo Đức Kinh (chương 51: “Đạo
sinh chi, đức súc chi. . . Cố
Đạo sinh chi, đức súc chi...), bất ngờ lóe bừng lên sự “thụ nhận”,
chịu đựng mũi dao nhọn,
chịu đựng gánh lấy sự tự
trách nhiệm trước nỗi
ly hương cùng độ của dân tộc trong sự
kiên nhẫn của ánh sáng
tâm linh: “thụ quốc chi cấu, thị vi xã tắc chủ, thụ quốc bất tường thị vi
thiên hạ vương” (
Đạo Đức Kinh, chương 78: “chịu đựng những sự nhơ bẩn
ô nhục,
hoạn nạn của quê hương,
chịu đựng những điều không làm
tai họa,
hoạn nạn của quê hương...”); lúc nào cũng phải
chịu đựng “chính ngôn nhược phản”,
thực hiện đức
kiên nhẫn việc
thống trị cái khí, “chuyên khí” (
Đạo Đức Kinh, chương 10), thường luôn “dốc một lòng giữ sự trầm lặng” (thủ lĩnh đốc, DDK, chương 16) trong cơn gió bàng bạc thổi từ rặng núi Cấm (Thiên Cấm Sơn) của đất
Việt Nam,
ứng hiện trong quẻ Khiêm trong đất có núi địa chung hữu sơn của Việt Dịch. Sự Khiêm Nhẫn đã được
thành tựu trọn vẹn trong thân
thế sự nghiệp của một
triết gia vĩ đại nhất của quê hương tức là Nguyễn Bỉnh Khiêm ở thế kỷ XVI, (không phải
tình cờ ngẫu nhiên mà đỉnh núi cao nhất của Triết Lý
Tư Tưởng Việt Nam lại mang tên là Bỉnh Khiêm). Ngoài Nguyễn Bỉnh Khiêm,
Việt Nam còn giữ lại
mãi mãi lời thơ giấu kín của Nguyễn Du, người đã
thể hiện toàn triệt Việt Phật trong bài thơ bất ngờ “Lương
chiêu minh thái tử phân kinh thạch đài” mà
tinh thần của Việt Phật đã được nói lên trong câu “ngã độc
kim cương thiên biến linh” (ta, Nguyễn Du, đã
đọc kinh Kim Cương đến hàng ngàn lần). Tất cả
ý nghĩa của hai chữ
kiên nhẫn trong
ngôn ngữ Việt Nam đã tựu thành quyết liệt và
quyết định trong
ý thức ly tướng (ly
nhất thiết chư tướng) của
thi hào Nguyễn Du với mấy chữ “vô
tự thị chân kinh” (ngã độc
kim cương thiên biến linh / Kỳ trung áo
chỉ đa bất minh / Cập đáo phần kinh thạch đài hạ / Tài tri vô
tự thị chân kinh). Trước bốn câu thơ này, Nguyễn Du đã nhắc lại
Huệ Năng,
lục tổ Thiền tông nhân loại, đại
thiền sư Việt Nam sinh tại Lãnh Nam, miền đất xưa của
Việt Nam.
Từ Huệ Năng đến Nguyễn Du, tất cả dòng
Thiền tông Việt Nam đều được khai phát
bí mật từ kinh
Kim Cương,
Bát Nhã ba la mật đa. Đức
kiên nhẫn và khiêm nhẫn của Việt Phật (được
thể hiện từ Huệ Năng đến Nguyễn Du qua
kinh Kim Cang) đã
cưu mang và
chuyển hóa toàn triệt Việt Nho, Việt Lão và Việt Dịch, không phải để
trở thành một thứ “tam giáo đồng nguyên” như
thiên hạ lầm tưởng mà là một cái gì rất bướng rất bỉnh, rất bướng bỉnh mà Nguyễn Du gọi là “vô tự”. Do đó, triết lý (viết thường) và Triết Lý (viết hoa) của
Việt Nam có thể được gọi là “Triết Lý Vô Tự” mà đức
Kiên Nhẫn và Khiêm Nhẫn đã được chuyển tính qua “nhẫn nhục
ba la mật” của
Kinh Kim Cang:
Nhẫn Nhục không phải là
Nhẫn Nhục, mới được gọi là
Nhẫn Nhục.
Kiên nhẫn đọc đi đọc lại
kinh Kim Cang đến hàngngàn lần,
kiên nhẫn thấy rằng mình mù mờ không hiểu gì cả, rồi cứ
tiếp tục kiên nhẫn đọc đi đọc lại
Kinh Kim Cang đến vài trăm ngàn lần nữa, một hôm bỗng nhiên hàng trăm ngàn triệu
chữ nghĩa bỗng bùng vỡ nát bấy ra và
thị hiện thành ra “vô tự”.
Kiên nhẫn đi và
kiên nhẫn lại,
cố gắng kiên nhẫn trong từng giây phút mà vẫn không thấy đâu là
kiên nhẫn cả; mình
ý thức một cách tàn nhẫn cả trăm ngàn lần rằng mình không có
kiên nhẫn, rằng mình vẫn thiếu mất
kiên nhẫn. Cứ
tiếp tục xô đẩy sự thiếu mất
kiên nhẫn đến độ
cuối cùng thì bỗng nhiên sự thiếu mất
kiên nhẫn cùng độ chính là sự
kiên nhẫn lâu dài nhất nằm ẩn giấu trong
ý thức nẩy lửa hừng hực rằng sự
kiên nhẫn không có thực và sự thiếu mất
kiên nhẫn chỉ là sự thiếu mất của một cái gì vốn
bản tính là thiếu mất, tức là thiếu mất cái thiếu mất. Cái gì đó đã bị thiếu, bị mất, cái gì có mà thiếu mất thì
chà đạp thống trị mình,
bức bách mình; nhưng cái không có lại càng
bức bách chà đạp mình còn nặng nề hơn tất cả
hữu thể. Cái có và cái không, cái vừa có vừa không có, cái không có và
không không, vừa
không không có vừa
không không không, chính tất cả
lý luận văn tự tứ cứ này xô đẩy mình
trong vòng điên đảo đốt cháy của cái gọi là “sự thiếu mất kiên nhẫn”. Đức
Kiên Nhẫn trong
đạo Phật không phải
kiên nhẫn hiểu theo bất cứ
phạm trù tứ cú nào (
lý luận sơ đẳng mà bất cứ người nào mới bắt đầu học Phật đều phải
thân chứng, khẩu chứng và ý chứng
toàn diện thì mới mong bước vào mảnh đất nhỏ nhất của
sơ địa để
tiêu diệt trí thức “thông thái,
uyên bác,
đa văn, đa kiến” của
phàm phu tính) . . .
Bước đầu tiên
đi vào đức
kiên nhẫn trong
đạo Phật là: “có một cái gọi là kiên nhẫn” (hữu nhi
bất không); bước thứ hai là: “không có cái gọi là kiên nhẫn” (không nhi bất hữu); bước thứ ba là: “vừa có cái gọi là
kiên nhẫn vừa không có cái gọi là kiên nhẫn” (diệc hữu diệc không; chữ Phạn gọi là “ubhayasamkì-rnàtma"; bước thứ tư là: vừa không có cái gọi là
kiên nhẫn vừa không có cái không có kiên nhẫn” (bất hữu
bất không,
phi hữu phi không) chữ Phạn gọi là: ubhayaprati-sedhasvabhàvatà). Đây là bốn
bước đầu tiên thấp nhất để bước vào đức
Kiên Nhẫn trong
đạo Phật. Tất cả mọi sự
xuyên tạc và hiểu sai
ý nghĩa đức
Kiên Nhẫn trong
đạo Phật đều bị kẹt trong
tứ cú phân biệt.
II. KIÊN NHẪN TRONG PHẬT GIÁO VÀ KIÊN NHẪN TRONG THẦN HỌC THIÊN CHÚA GIÁO VÀ TRONG CÁC TÔN GIÁO KHÁC
Tất cả
ý nghĩa siêu việt (siêu
tứ cú, việt
bách phi) trong tất cả
kinh luận của
Phật Giáo (từ
nguyên thủy cho đến Đại thừa và
Kim cang thừa Mật tông nói về đức
Kiên Nhẫn, đều nằm trong bước nhảy
tuyệt vời, phóng ra ngoài “tứ cú
phân biệt, bách phi” (
vọng kiến của
không gian và
thời gian giả định) . Tất cả triết lý Đông Tây, tất cả
tôn giáo đều
ca tụng đức
Kiên Nhẫn, nhưng tất cả đều bị kẹt trong
tứ cú phân biệt và
bách phi giả định (dù là
thần học phủ định, loại
thần học cao tuyệt tột đỉnh, “théologie négative”, tức là theologia negativa, loại
thần học phủ định
xuất hiện trong
tác phẩm của Pseudo-Dionysius, Scotus Erigena, Meister Eckhart và Nicholas of Cusa, tất cả những loại
thần học Thiên Chúa Giáo này vẫn còn vướng kẹt trong
tứ cú phân biệt và
bách phi giả định, như khi Nicholas of Cusa định nghĩa
Thượng Đế là “trung tâm của
trung tâm,
cứu cánh của
cứu cánh,
danh hiệu của
danh hiệu, tính thể của tính thể,
vô thể của vô thể” thì tất cả định nghĩa này đã bị phá vỡ trong
Trung Luận của
Long Thọ và
thập bát không của
Bát Nhã). Có thể có người nói rằng đạo nào cũng dạy
kiên nhẫn và tất cả
thánh nhân của mọi
tôn giáo đều dạy
kiên nhẫn, nhưng người ta vẫn chưa thấy rằng tất cả
ý nghĩa của đức
Kiên Nhẫn trong
Phật Giáo đều
hoàn toàn triệt để khác hẳn tất cả
ý nghĩa của hai chữ Kìên Nhẫn trong mọi
đạo lý tôn giáo khác. Sự khác biệt
sơ đẳng nhất là đức
Kiên Nhẫn trong
Phật Giáo không nằm kẹt trong
Tứ Cú phân biệt, và sự khác biệt
trầm trọng nhất,
tế nhị nhất và khó hiểu nhất là
Không Nhẫn, và từ một luồng ánh sáng lộng lẫy khác, được gọi thấp hơn là:
Vô Sinh Pháp Nhẫn (chữ Phạn gọi là Anutpattika - dharma - ksàntih).
Vô Sinh Pháp Nhẫn là
kinh nghiệm siêu việt của đức
Kiên Nhẫn toàn diện mà tất cả mọi thứ
kiên nhẫn khác đều là những thứ
kiên nhẫn giả danh,
phụ thuộc,
phiến diện và mang
tính cách phàm phu tục tử. Tất cả những sự
kiên nhẫn khác đều là
kiên nhẫn không đúng
chính nghĩa như thực. Đối với
đạo Phật, tất cả sự
Kiên Nhẫn nào còn kẹt trong tứ cứ
bách phi, còn kẹt trong
tứ tướng (nhân, ngã,
chúng sinh, thọ già) đều không phải là
Kiên Nhẫn trong
đạo Phật. Tất cả
đạo lý hay
tôn giáo nào giảng dạy đức
Kiên Nhẫn mà
không chấp nhận rằng “tất cả hành là
vô thường; tất cả hành là khổ; tất cả pháp đều vô ngã” thì vẫn chưa phải là
Kiên Nhẫn hiểu theo
đạo Phật. Tất cả mọi sự
Kiên Nhẫn nào không khởi phát từ “nhất thiết pháp vô ngã” thì đều là sự
Kiên Nhẫn trá hình, chưa thực sự là
Kiên Nhẫn như thực: cái
kiên nhẫn khủng khiếp
bí mật nhất của chính sự chuyển động
tâm thức nẩy lửa
trực nhận rằng không có cái gọi là
Kiên Nhẫn và cũng không có cái gọi là “pháp” hiểu theo điệu “hữu pháp” và “vô pháp”, mà cái không có ở đây phá vỡ cái không có của
Tứ Cú và của
chủ nghĩa Hư Vô quốc tế. Nói gọn: “nhất thiết pháp không” (Sarvadharmasùnyatà). Đứng trên bình diện cao tột khác, “nhất thiết pháp không” (Sarvadharmasùnyatà) chỉ là cái “không tánh”
viên dung, viên nhập, tương dung tương nhiếp với 19 thể diệu tánh và thể diệu tánh, làm thành 20
Không Tánh của
Bát Nhã (theo
pháp số của bộ Đại
Bát Nhã Pancavimsati Sàhasrikà Prajnàpàramità). Còn riêng về
vô sinh pháp nhẫn thì chưa hẳn cao tột nhất, vì chỉ là nhẫn thứ 4 trong
ngũ nhẫn của
Bát Nhã ba la mật kinh Nhân vương hộ quốc (như là
phục nhẫn,
tín nhẫn,
thuận nhẫn,
vô sinh nhẫn và nhẫn
tịch diệt;
thực ra có tới 14 đức
Kiên Nhẫn, vì mỗi nhẫn ờ đây đều có thượng nhẵn, trung nhẫn và hạ nhẫn; từ
phục nhẫn cho đến vô sinh nhẫn đều có thượng trung và hạ; chỉ
trừ ra nhẫn
tịch diệt, đức nhẫn tột nhẫn thì chỉ có thượng và trung mà thôi).
Trong bộ
Hoa Nghiêm Kinh thì
Vô Sinh Pháp Nhẫn đứng vào
hạng thứ ba trong
Thập Nhẫn, và chính
Như Không Nhẫn mới là đức
Kiên Nhẫn cao nhất để
thành tựu Vô Ngại Nhẫn Địa của tất cả
Bồ Tát, để
nghiêm tịnh tất cả
Phật độ, để đến được tất cả
pháp xứ thậm thâm, để
thông đạt tất cả đạo
ba la mật.
Đại Bồ Tát thành tựu Như Không Nhẫn thì
đạt được thân
Như Lai (Mười đức
Kiên Nhẫn trong Phẩm
Thập Nhẫn là:
âm thanh nhẫn,
thuận nhẫn,
vô sinh pháp nhẫn,
như huyễn nhẫn, như diệm nhẫn, như mộng nhẫn, như hưởng nhẫn, như ảnh nhẫn,
như hóa nhẫn,
như không nhẫn). Nơi đây chỉ mới đề cập
đại khái về những dạng thái đa dạng của đức
Kiên Nhẫn trong
đạo Phật;
con đường kiên nhẫn dẫn đến đức
Kiên Nhẫn trong
đạo Phật còn rất dài và cần khai triển lần lần từ rộng đến sâu, từ thấp đến cao. Bước đi từng bước từ kinh đến luận, người viết sẽ
kiên nhẫn mở rộng ra tất cả khía cạnh ẩn kín của đại nhẫn. Có
kiên nhẫn đi qua tất cả
con đường của
Phật Giáo,
từ tạng kinh Pàli và những kinh Sanskrit
cho đến tạng kinh Tây Tạng, rồi
kiên nhẫn trở về với đôi ba câu thơ kệ
súc tích như đoạn kệ thứ 184 sau đây trong
kinh Pháp cú (Dhammapada) bằng tiếng Pàli thì
chúng ta mới
giựt mình nhìn thấy lại được tất cả rực sáng
tuyệt vời mà tất cả
giáo lý Phật Giáo đã được cô đọng tập trung đến độ
cuối cùng của khả năng
ngôn ngữ loài người trong hai câu kệ dưới đây:
Khantì paramam tapo titikkhà
Nibbànam paramam vadanti buddhà
Xin dịch ra
văn xuôi:
Chư Phật dạy rằng Sự
Kiên Nhẫn Chịu Đựng là sự
tu hành khổ hạnh cao
tuyệt đỉnh /
Niết Bàn cao
tuyệt đỉnh .
(Bản
dịch Kinh Pháp Cú của
Hòa Thượng Thích
Minh Châu đã không được tôi
sử dụng ở đây, cũng như bản dịch của
Hòa Thượng Thích
Trí Đức cũng thế; hai bản dịch khác nhau của nhị vị
Hòa Thượng chỉ được dùng để
lưu hành cho
quảng đại quần chúng dễ hiểu,
vì lợi ích cho
chúng sanh.
Công đức lớn lao của nhị vị rất đáng ngưỡng mộ. Tôi tự dịch lấy và theo sát nguyên tác Pàli hơn những bản dịch có sẵn. Lời chú thích này cũng
áp dụng cho những bài
kế tiếp mỗi khi tôi trích dẫn kệ thơ tiếng Pàli của
Kinh Pháp Cú hay bất cứ kinh nào khác bằng chữ Pàli, chữ Sanskrit và chữ
Tây Tạng. Sự
kiên nhẫn học Phật
tối thiểu đòi hỏi thế...)
Chúng ta chưa đủ chuẩn bị sự
tu dưỡng tâm linh để
giựt mình trực nhận tất cả
thần lực vĩ đại và
Phật lực vô bìên chứa đựng trong hai câu thơ kệ ngắn gọn ở trên,
chúng ta hãy
kiên nhẫn bước lại từ
bước đầu một lần nữa (và nhiều lần nữa) trong những bước đi dậm chân tại chỗ...
Sự
phân biệt cặn kẽ giữa sự
kiên nhẫn này với sự
kiên nhẫn khác chỉ là
công dụng của
vọng tưởng biến kế sở chấp trong
thế giới ngôn thuyết. Ngược lại với
công dụng là
vô công dụng, nhưng
vô công dụng hạnh (
kinh Lăng Già gọi là Anàbhogacaryà: “không
mục đích, không tiêu điểm, không dụng, không công, không
chủ đích, không có cái gọi là “tối hậu tựu thành” theo nghĩa Hy Lạp telos trong triết lý Plato và rõ rệt cao
siêu nhất là trong triết lý Aristote”;
trong đời sống
Phật Giáo không thể nào có nghĩa rằng người
tu hành chỉ sống bập bềnh,
tà tà trôi nổi theo kiểu
chịu đựng nhẫn nhục một cách
thụ động hèn nhát.
Trái lại vô công dụng hạnh (Anàbhogacaryà) là sự tự
dụng công triệt để với tất cả những khả tính
cuối cùng của sức
kiên nhẫn chịu đựng của tại tính để phá vỡ tất cả mọi thứ
kiên nhẫn tầm thường của hạng
phàm phu,
ngu phu, trẻ con (bala, bàlaprithagjana) và quay ngược lại tự
chuyển hóa tất cả mọi hình thái
kiên nhẫn (của
phàm phu,
ngoại đạo,
thanh văn,
bích chi Phật) thành ra cái
kiên nhẫn phi
kiên nhẫn và cái phi
kiên nhẫn kiên nhẫn của cái gọi là “thánh trí tự chứng” hay “thánh trí tự giác” của chư Phật (chữ Phạn
đặc biệt của
kinh Lăng Già gọi là “Pratyàtmàryajnàna”).
Cảnh giới của
ngôn thuyết không phải là
cảnh giới của
tự giác thánh trí (
tự giác thánh trí cảnh giới là prayàmàryajnànagocara, tức là
lãnh vực tâm linh, lãnh địa cảnh giớỉ được
thể hiện bởi
trí tuệ cao quí
linh thiêng từ tận
móng tâm thức, nội tính sâu thầm nhất của cái gọi là
tự chứng tự giác). Sự tự thức
vận hành quay ngược
chuyển hóa trọn vẹn chính là cái gọi là
chuyển y (
thuật ngữ của
kinh Lăng Già gọi là Paràvritti, chuyển xoáy
trọn vẹn, quay ngược lại tất cả
ý thức, chẳng những đối với tất cả
ý thức tầm thường mà đến ngay cả “ý thức siêu việt” theo điệu Kant và theo điệu Husserl cũng phải được xoay chuyển
triệt để và chẳng gì còn giữ lại
ngoài ra tự tính bản nhiên
trong sạch trọn vẹn. Chỉ từ trong
cảnh giới (gocara) của
thánh trí tự giác (pratyàtmàryajnàna) mới bất ngờ bừng sáng lên
ý nghĩa lạ lùng của đoạn kệ thứ 184 trong
kinh Pháp Cú (Dhammapada) bằng tiếng Pàli: “Chư Phật dạy rằng sự
kiên nhẫn chịu đựng là sự
tu hành khồ hạnh cao
tuyệt đỉnh /
Niết Bàn cao
tuyệt đỉnh...” (Khanti paramam tapo titikkhà nibbànam paramam vadanti buddhà) mà
chúng ta đã được lắng nghe
một lần ở trên.
Chúng ta vẫn chưa đủ sự chuẩn bị
tâm thức để đón nhận tất cả
ý nghĩa phi thường của đoạn kệ trên của
Kinh Pháp Cú. Sự tự chuẩn bị
tâm thức sẵn sàng để đón nhận
thánh trí,
tinh thần cởi mở phơi phới để đón nhận
chánh trí (samyagjnàna, một trong
ngũ pháp của
Kinh Lăng Già) lòng
mải miết thiết tha
cầu đạo, lòng chờ đợi
son sắt chuẩn bị đón nhận một cái gì
chuyển hóa sự
ngu xuẩn lớn lao của đời mình thành ra sự
tự giác, cũng chính là tinh nghĩa của chữ Phạn Ksànti (người Tàu dịch Ksànti là
Nhẫn Nhục, nhưng chữ Phạn Ksànti còn có nghĩa: “dự bị sẵn sàng chuẩn bị
tinh thần để đón nhận sự
hiểu biết, đón nhận như thực chân thức”). Thế là từ
bước đầu đến đây,
chúng ta chỉ bước đi dọ dẫm để chuẩn bị đón nhận một thứ dự thức nào đó về đức
Kiên Nhẫn trong
Phật Giáo:
thực ra, chính sự chuẩn bị
tinh thần ấy đã là tinh nghĩa của sự
kiên nhẫn trong phức ghĩa của chữ Phạn Ksànti!
Chúng ta đã bước vào tinh nghĩa
sơ đẳng của
Kiên Nhẫn;
chúng ta đã chuẩn bị sẵn sàng để đón nhận sự
hiểu biết về một cái gì đó gọi là Phật Nhẫn.
Tuy nhiên, sự chuẩn bị
tinh thần của
chúng ta vẫn còn nằm trong
cảnh giới của
phàm phu tục tử;
chúng ta vẫn chưa
đi vào được bên trong
cảnh giới của
tự giác thánh trí.
Chúng ta đã
cố gắng nỗ lực hết sức để bước vào
cảnh giới của
thánh trí tự giác (prayàmàryajnànagocara), nhưng
chúng ta vẫn luôn luôn bị hất ra ngoài và bị lọt mãi vào
trong vòng ngôn thuyết văn tự, vì chính sự
nỗ lực sức
miệt mài cố gắng để
tìm hiểu ý nghĩa của sự
kiên nhẫn đã là một chướng lực và làm trở ngại cho việc
tự chứng tự giác;
công dụng (Àbhga) của
ngôn thuyết văn tự (chữ Phạn
Lăng Già gọi là Désanàpàthakathàm, cái gọi là “ngôn thức
văn tự,
ngôn thuyết ngữ đạo”, “désanàpàthakathàm”, là cái đi ngược lại với
cảnh giới của
thánh trí tự giác) chỉ là
phân biệt cặn kẽ sự
kiên nhẫn này với sự
kiên nhẫn khác và
bỏ quên lòng từ bi; sự
kiên nhẫn của
ngôn thuyết văn tự vẫn chưa phải là
Kiên Nhẫn trong
đạo Phật, vì
kiên nhẫn chỉ thực sự là
kiên nhẫn mỗi khi đó là Sự
kiên Nhẫn phát xuất từ
vô công dụng hạnh theo
nghĩa kinh Lăng Già (chữ Phạn của
vô công dụng hạnh, Anàbhogacaryà còn có nghĩa là: “sự không cần
cố gắng không cần
nỗ lực, không cần dụng công”).
Vô công dụng hạnh (anàbhogaryà) của
diệu trí tự giác (pratyàtmàryajnàna) được “phương tiện
thiện xảo hóa” qua lòng
đại bi (mahàkarunà) của
Bồ Tát: “Kiên
Nhẫn Ba La Mật (Ksànti-pàramità) chỉ được
thành tựu trọn vẹn mỗi khi có
Đại Bi đối với tất cả chúng sanh” (theo di
bản kinh Bát Nhã bằng
ngôn ngữ Khotan (được khai quật từ vùng sa mạc Tân Cương: Khotanese Buddhist Texts, nguyên tác do H.W. Bailey xuất bản, trang 54-61). Chẳng những
Kiên Nhẫn Ba La Mật chỉ thực sự là
kiên nhẫn Ba La Mật lại còn tương nhiếp và phải tương nhiếp với tất cả
Ba La Mật khác (tương nhiếp với
bố thí ba la mật,với
trì giới ba la mật, với
tinh tấn ba la mật, với
thiền định ba la mật, với
bát nhã ba la mật trong
lục ba la mật; với
phương tiện thiện xảo ba la mật, với
nguyện ba la mật, với
lực ba la mật, với
trí ba la mật trong
thập ba la mật).
Tính cách tương nhiếp đã được
nhấn mạnh dứt khoát trong phẩm
Lục độ tương nhiếp của Bộ Đại
Bát Nhã ba la mật. Chẳng những thế, chẳng những
lục độ ba la mật tương nhiếp với
thập ba la mật mà
thập ba la mật lại còn phải tương nhiếp với bách
ba la mật trong lòng sâu thẳm
không đáy của
Tư Tưởng Bát Nhã. Sau cùng mà chưa hẳn sau cùng, trăm
ba la mật lại
trở về tương nhiếp với một chữ A
duy nhất. Tất cả tương nhiếp với một và một tương nhiếp với tất cả. sự tương nhiếp tròn trĩnh vĩ đại này chính là ý nglĩa siêu
vô tự tính của
Bất Nhị trong
Phật Giáo.
Bất Nhị có
nghĩa đen là không hai nhưng vẫn không kẹt vào cái một, vì Một là tất cả, mà tất cả là
nhất thiết pháp không. “Nhất Thiết Pháp Không” được
thành tựu nghịch hướng trong đoạn kệ thứ 184 trong
Kinh Pháp Cú: “Chư Phật dạy rằng sự
Kiên Nhẫn Chịu Đựng là sự
Tu Hành Khổ Hạnh cao
tuyệt đỉnh /
Niết Bàn tuyệt đỉnh...” (Khantì Paranam Tapo Titikkhà / Nibbànam Paramam Vadanti Buddhà). Muốn hiểu cho ra đoạn kệ 184 này của
Kinh Pháp Cú,
chúng ta cần phải ngừng lại với
Kinh Lăng Già một
thời gian dài. Từ
cảnh giới của
thánh trí tự giác (Pratyàtmàryajnànagocara) của
Kinh Lăng Già,
Chúng ta sẽ thấy được sự
liên hệ trực tiếp giữa sự
Kiên Nhẫn và
vô công dụng hạnh (Anàbhogacaryà), giữa
Kiên Nhẫn và Tự Ciác
Thánh Trí, giữa
Kiên Nhẫn và
Phân Biệt Vọng Tưởng (vikalpa), giữa
Kiên Nhẫn và
Ngôn Thuyết Văn Tự (desanàpàthakathàm), giữa
Kiên Nhẫn và
Tam Tự Tánh (chữ Phạn gọi
Tự Tánh là Svabhàva), giữa
Kiên Nhẫn và 108 câu hỏi của kẻ
cầu đạo: Nói đến
Kiên Nhẫn là phải nói đến
Niết Bàn (như đoạn kệ 184 trong
Pháp Cú kinh đã mở đường cho lộ trình
cầu đạo). Nhưng “nói đến, nói về” có nghĩa thế nào đối với
Kiên Nhẫn trong
đạo Phật ?
Thể tính của
ngôn thuyết văn tự (desánàpàtha-kathàm) vẫn đối nghịch với
tự giác thánh trí ?
Kiên Nhẫn, theo
tinh thần Lăng Già và theo cả
tinh thần Bát Nhã, phải
xuất hiện với
hình thức ngôn thuyết: “Kiên Nhẫn là phi Kiên Nhẫn” ? Chỉ có thể gượt qua “ngôn thuyết văn tự” khi mà
chúng ta đã đẩy được “ngôn thuyết văn tự” cho
tới nơi và tới chốn
cuối cùng của
ý thức phân biệt. Sự
phân biệt cặn kẽ giữa sự
kiên nhẫn này với tất cả những sự
kiên nhẫn khác vẫn là
công dụng hữu hiệu nhất để cho sự chuẩn bị
tinh thần đón chờ đợt
đột nhập bất thần của sự
im lặng đời sống tâm thức tĩnh lặng diệu thần của
vô công dụng hạnh (anàbhogacaryà).
Bây giờ
chúng ta hãy
đi thẳng vào sự
Kiên Nhẫn trong
Kinh Lăng Già. Tại sao bắt đầu sự
Kiên Nhẫn với
Kinh Lăng Già mà không bằng những kinh khác ?
Lần lượt chúng ta sẽ sống với sự
Kiên Nhẫn trong những
kinh điển chính yếu khác. Nhưng bây giờ chỉ có
Kinh Lăng Già mới mở ra
công dụng đáng
dụng công nhất trong sự phá vỡ mọi kiến trúc
ý niệm để khai hiến
đời sống phạm hạnh tuyệt vời của
vô công dụng hạnh. Chính
Kinh Lăng Già cũng đã khai mở
Lịch Sử Việt gam trong
ý nghĩa triết lý của Sử Tính và Việt Tính,
con đường cho Kinh
Bát Nhã đóng
vai trò quyết định tất cả sự
vận hành chính yếu cửa Sử Tính Dân Tộc.
Tỳ Ni Đa Lưu Chi, vị Tổ đầu tiên của
Thiền Tông Việt Nam, là
đệ tử của
Tổ Tăng Xán, đệ tam Tổ
Thiền Tông từ
Bồ Đề Đạt Ma cho đến Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, chỉ có
Kinh Lăng Già là cơ sở
tinh thần sự
nuôi dưỡng đời sống tâm linh cùa việc “bất lập
văn tự,
giáo ngoại biệt truyền” (không phải
ngẫu nhiên vua Lý Thái Tông ở thế kỷ XI đã có câu thơ đáng nhớ trong bàí kệ truy tán
Tổ sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi: “hạo hạo
Lăng Già nguyệt”), đến khi
Lục Tổ Huệ Năng của miền Lãnh Nam
Việt Nam xuất hiện thì mới được linh hiện
trọn vẹn tất cả khí phách
phi thường của
Bát Nhã và đặt lên
nền móng bất di bất dịch của cái không
nền móng trong suốt dòng
tư tưởng đạo lý và triết lý
Việt Nam. Trăng
Lăng Già và Sen
Bát Nhã tương nhiếp
với nhau để
quyết định trọn vẹn Sử Tính của Việt Tính dân tộc.
Kiên Nhẫn trong
kinh Lăng Già đã được khai thuyết như thế nào ? Thế nào
Kiên Nhẫn mới đúng là
Kiên Nhẫn thực sự, được nhìn từ
Tự Giác Thánh Trí của
kinh Lăng Già ?
Kiên Nhẫn trong
đạo Phật khác hẳn Kíên Nhẫn của
ngoại đạo như thế nào ? Trước khi
tìm hiểu những
vấn đề này một cách
sâu rộng tưởng cũng nên nhắc rằng theo
Kinh Lăng Già thì
Kiên Nhẫn Ba La Mật được
phân biệt thành ba loại: thứ nhất là
Kiên Nhẫn Ba La Mật có
tính cách thế gian, thứ hai là
Kiên Nhẫn Ba La Mật có
tính cách vượt
thế gian, thứ ba là
Kiên Nhẫn Ba La Mật có
tính cách vượt xuất ra ngoài
thế gian một cách cao siêu tột đỉnh nhất (theo bản dịch đời Lưu Tống 424-454 của
Cầu Na Bạt Đà La, bản dịch xưa nhất ở Tàu còn lưu lại: “thế gian
nhẫn nhục ba la mật”, “xuất
thế gian nhẫn nhục ba la mật” và “xuất
thế gian thượng thượng
nhẫn nhục ba la mật”). Tại sao
Kiên Nhẫn Ba La Mật lại được
phân biệt thành ba loại ?
Kiên Nhẫn Ba La Mật có
tính cách thế gian tương nhiếp với
tính cách “biến kế sở chấp” (parikalpita) của
tri thức;
Kiên Nhẫn có
tính cách xuất thế gian tương nhiếp vơi
tính cách “y tha khởi” (paratantra) của
tri thức, còn
Kiên Nhẫn Ba La Mật có
tính cách xuất thế gian thượng thượng lạí tương nhiếp tính thể “viên thành thật” (parinispanna) của
thánh trí (àryajnàna).
Kiên Nhẫn trong
đạo Phật chỉ thực đúng nghĩa là
Kiên Nhẫn như
thực chứng mỗi khi đột hiện đợt
chuyển y tâm thức (paràvritti) trong dòng biển
A lại da thức (alayavijnàna),
nền móng không
nền móng của tất cả dạng thái
ý thức (
bát thức:
nhãn thức,
nhĩ thức,
tỷ thức,
thiệt thức,
thân thức,
ý thức,
mạt na thức và
a lại da thức). Trong đợt
chuyển y toàn triệt của
ý thức,
vô thức,
tiềm thức hạ thức, thượng thức và
hiển thức,
con người không còn là
con người nữa và
trở thành thánh nhân đại sĩ; kẻ sống một cách bình thản
ung dung không
nỗ lực không
cố gắng, không
mục đích (
vô công dụng hạnh, với lòng
Đại Bi bao la đối với tất cả
chúng sinh,
hiện thân của
Kiên Nhẫn Ba La Mật xuất thế gian thượng thượng từ lòng sâu thắm
tuyệt vời lặng lẽ của cảnh gìới
thánh trí tự giác,
xa lìa tất cả
văn tự ngôn thuyết,
xa lìa tất cả
vọng tưởng phân biệt,
trực nhận như sấm nồ rằng tất cả 108
vấn đề nhất của kẻ
cầu đạo chỉ là 108 phi
vấn đề, trong đó có
vấn đề Kiên Nhẫn Ba La Mật đã được chuyển
hiện thành ra phi
vấn đề, phi
Kiên Nhẫn Ba La Mật, vì Kỉên
Nhẫn Ba La Mật và cả
Kiên Nhẫn Ba La Mật xuất thế gian thượng thượng cũng chỉ là một
đại mộng trong
Đại Mộng thượng thượng của
Nhất Thiết Pháp Không bài thơ vĩ đại nhất của
vũ trụ, lãng đãng
thênh thang như câu thi tán của
kinh Lăng Già: “viễn ly chư
đoạn thường /
thế gian hằng như mộng / trí bất đắc
hữu vô / nhi hưng
đại bi tâm” và
bạo động một cách bất ngờ
lặng lẽ như một triệu
mặt trời nổ bấy trên cao “nhất thiết vô
niết bàn /
vô hữu niết bàn phật /
vô hữu Phật
niết bàn /
viễn ly giác sở giác...”
chúng ta vẫn chưa được chuẩn bị đủ
thần trí để đón nhận tất cả
ý nghĩa phong phú của những câu tán thi này:
chúng ta cần phải bắt đầu lại từ lúc
ban đầu, theo điệu điệp khúc “"bắt đầu lại từ đầu” của Plato và của cả Husserl; chẳng những thế thôi mà
cần phải bắt đầu lại từ cái
ban đầu không có
ban đầu (
vô thủy không) bắt đầu
kiên nhẫn đọc lại
trọn vẹn Kinh Lăng Già và
tìm hiểu thế nào là
Kiên Nhẫn Ba La Mật có
tính cách thế gian,
Kiên Nhẫn Ba La Mật có
tính cách xuất thế gian,
Kiên Nhẫn Ba La Mật có
tính cách xuất thế gian thượng thượng.
Chúng ta phải bắt đầu thực sự
kiên nhẫn đọc đi đọc lại
trọn vẹn Kinh Lăng Già thì ba loại
Kiên Nhẫn trên may ra được
hiện ra một cách “như nghĩa”, một cách “viên thành thật” trong “hạo hạo
Lăng Già nguyệt”:
Thế giới kiên nhẫn chỉ
hiện ra mỗi khi
tự tâm kiên nhẫn hiện ra đồng lúc.