CHƯƠNG SÁU
BƯỚC CHÂN THỨ SÁU LÊN ĐƯỜNG THỰC HIỆN
VIỆC TRỞ VỀ SỰ IM LẶNG:
SỰ CHUYỂN ĐỘNG TOÀN DIỆN CỦA TÂM THỨC
TRONG TƯ TƯỞNG PHẬT GIÁO MẬT TÔNG
CỦA HÓA THÂN TÂY TẠNG CHOGYAM TRUNGPA.
I. Tư Tưởng Phật Giáo Kim Cang Thừa Của Bồ Tát Hóa Thân Chogyam Trungpa.
II. Tinh Thần Hài Hước
I. TRÌNH BÀY TƯ TƯỞNG PHẬT GIÁO MẬT TÔNG CỦA HÓA THÂN TÂY TẠNG SƯ TRƯỞNG CHOGYAM TRUNGPA Ở HUÊ KỲ HIỆN NAY.
Sư trưởng Chogyam Trungpa cũng như Tarthang Tulku, đều là những bậc đại
lạt ma Tây Tạng nổi tiếng nhất hiện nay ở
Tây phương. Chogyam Trungpa đã dạy
Phật Pháp cho người
Tây phương bằng một số sách viết thẳng vần tiếng Anh. Cả hai vị này có
ảnh hưởng rất sâu đậm đối với
thế hệ thanh niên
Tây phương hiện nay. Những
văn thi sĩ
lãnh đạo phong trào văn nghệ Beat Generation dạo trước như thi sĩ
nổi tiếng khắp
thế giới hiện nay Allen Ginsberg và Gary Snyder đều
trở thành môn đệ của Chogyam Trungpa.
Cũng như Tarthang Tulku, Chogyam Trungpa cũng là bậc
Bảo Quý (tiếng
Tây Tạng gọi là Rinpoche, nghĩa là “quý báu”, giáo phẩm cao nhất trong
Phật Giáo Tây Tạng tương đương với
Thượng Tọa và
Hòa Thượng của
Việt Nam dù tuổi đời của Tarthang Tulku mới 53 và Chogyam Trungpa chỉ khoảng ngoài 44 tuổi).
Cả hai vị này đều lại được
giáo hội Phật Giáo Tây Tạng truy nhận từ lúc còn rất nhỏ bé là
Bồ Tát Hóa thân,
hiện thân (Tulku). Tarthang Tulku là
hóa thân thị hiện của
sư trưởng tông Phái Nyingma và nối tiếp dòng tu Tarthang trong
truyền thống Mật tông Padmasambhava; còn Chogyam Trungpa là
hậu thân thứ mười một của
Sư Trưởng Trungpa Tulku thuộc
tông phái Kagyu và nối tiếp dòng
tu viện Surmang trong
truyền thống Mật tông Marpa và Milarepa.
Chogyam Trungpa rời bỏ
Tây Tạng năm 1959
Trung Quốc chiếm đóng Tây Tạng tỵ nạn di tản ba năm ở
Ấn Độ. Rồi đến Anh quốc 4 năm học
Tôn giáo tỷ giảo và
tâm lý học ở
đại học trường Oxford, rồi năm 1970 thì Chogyam Trungpa đến định cư ở Huê Kỳ,
xây dựng nhiều
Phật học viện và viết năm sáu quyển sách bằng tiếng Anh, như quyển Born In Tibe, quyển The Myth of Freedom và Glimpses of Abhi-Dharma. Chogyam Trungpa cũng là một thi sĩ với tập thơ tiếng Anh Mudra. Quyển sách
nổi danh nhứt của Chogyam Trungpa là Cutting through Spiritual Materialism (chặt đứt
xuyên qua Chủ nghĩa duy vật theo điệu
tâm linh), quyển này đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng.
Hai vị
đại sư Tây Tạng này đều có tư thế rất cởi mở và
phóng khoáng không bị
nô lệ trói buộc vào những
mong đợi vô minh của
tín đồ, và
sự nghiệp hoằng pháp của hai vị
tu sĩ trẻ tuổi
Tây Tạng này thực sự là
vô cùng lớn rộng sâu đậm ở
Tây phương. Những vị
tu sĩ và
cư sĩ trẻ tuổi
Phật Giáo Việt Nam ở hải ngoại đáng nên nhìn kỹ lại mình và nhìn lại Tarthang Tulku và Chogyam Trungpa để cười lớn lên một trận cười qua
tinh thần hài hước như Chogyam Trungpa viết nơi chương Sense of Humor trong quyển Cutting through Spiritual Materialism mà
chúng tôi xin
trích dịch dưới đây:
II. TINH THẦN HÀI HƯỚC
“Đề tài này sẽ trở nên
thú vị hơn, khi ta tìm coi cái chi là cái
tinh thần đi ngược lại tính hài hước, cái gì không là
tinh thần hài hước. Sự đánh mất tính hài hước dường như khởi phát từ
thái độ tư thế mình đối với cái gọi là “dữ kiện nan giải”, “thực tế khó khăn”, “sự kiện ngặt
nghèo khó cải được” (“Hard Fact”).
Mọi sự
việc đời sống trở nên
vô cùng khó khăn quá đổi chính thực, quá đổi
nghiêm trọng, không khác gì một thây
ma di động ỳ ra đó. Chàng ta sống trong
tình trạng đau đớn khổ sở, nét mặt lúc nào cũng lộ ra nỗi
đau đớn dày vò, quằn quại. Chắc hẳn chàng ta đã
trải qua bao nỗi tang thương gì đó,
va chạm “thực tế phủ phàng”, thành ra trở nên quá đổi
nghiêm nghị trang trọng
đứng đắn, khắc khổ, đến nổi hắn ta
di động như một thây ma
xác chết. Sự cứng rắn
nghiêm khắc của điệu bộ thây ma ấy quả thực là trái nghịch hẳn
tinh thần hài hước. Điều ấy giống như
tình trạng mình bị ai đứng sau lưng cầm một thanh kiếm bén nhọn đưa sau gáy. Nếu ta không
tham thiền cho đàng hoàng, không ngồi thẳng lưng yên lặng thì sẽ bị kẻ sau lưng chực sẵn để chẻ kiếm vào người. Hoặc nếu ta không đối xử với
đời sống một cách
thích đáng thẳng thắn, trực tiếp, thì sẽ có ai đó chực để đập chém ta. Chính đó là
ý thức tự thân đang
quan sát bản thân, tự
quan sát dè dặt một cách không
cần thiết. Những gì mình làm đều bị
thường trực dòm ngó,
kiểm soát.
Thực ra không phải tên đại ca
anh chị nào đang
dòm ngó; chính cái tôi phóng đại đang tự
đề phòng kiểm soát! Một khía cạnh khác của
con người tôi đang
dòm ngó tôi, ở đằng sau lưng tôi, chực sẵn đó để chém tôi, chực sẵn đó để điềm chỉ sự thất bại của tôi. Sống
trong đời theo điệu ấy thì chẳng có gì
vui sướng cả, chẳng có gì là hài hước cả. Cái điệu sống trang trọng khắc nghiệt ấy có
liên hệ với
vấn đề mà tôi thường gọi là “chủ nghĩa
duy vật theo điệu tâm linh” (Spiritual materialism). Cái thứ
chủ nghĩa duy vật tâm linh thường tự
lý luận lãi nhãi
đại loại như vầy: “vì tôi là
thành phần một tông hệ
thiền gia đặc thù, thuộc
giáo hội và tổ chức
giáo hội, vì
trách nhiệm dấn thân
phục vụ đạo pháp, tôi phải là một thanh niên hay một
thiếu nữ đứng đắn đàng hoàng, lễ chùa
tụng kinh đầy
thành tâm gương mẫu. Tôi phải giữ khuôn thước, lề lối, mẫu mực,
tiêu chuẩn giáo hội. Nếu tôi không làm tròn bổn phận
trách nhiệm thì tôi sẽ bị
chỉ trích phán xử và thành ra hạng người thân tàn
kiệt quệ,
vô ích với
cộng đồng đạo pháp”. Chính đó là nỗi
đe dọa khởi phát từ sự trang trọng
chững chạc, từ sự chết đứng
trong đời sống cái chết ở đây phải được hiểu như sự
chấm dứt chận đứng lại mọi tiến trình
sáng tạo sâu thẳm. Chính cái
thái độ này đẻ ra cảm
thức giới hạn chật hẹp, sự cứng đơ khô cằn trong thể xác
tinh thần; không còn chỗ nào để đi đứng ăn nói
di động cho
thoải mái.
Các anh các chị có thể hỏi tôi như thế này: “Vậy thì
truyền thống giáo lý,
đạo lý cao cả ra làm sao nữa ? Tất cả đều dạy ta phải
giữ gìn giới luật,
tu hành nghiêm chỉnh đàng hoàng Làm thế nào
chúng ta có thể
giải hòa điều hợp những
giới luật này với
tinh thần hài hước ?” Đây này,
chúng ta hãy cùng
nghiên cứu câu hỏi này một cách
thích đáng đàng hoàng hơn. Có
phải chăng những điều luật, kỷ luật,
tu hành luân lý,
đạo đức, đã thực sự được
xây dựng trên
thái độ hoàn toàn có
tính cách phê phán
kết án theo điệu “cái tốt”
chống lại “cái xấu” ? Có phải
đạo lý tâm linh cao cả quả thực bênh vực khuyên dạy ta phải
đánh đuổi điều ác bởi vì ta đứng bên bờ ánh sáng, bên phe hòa bình ? Có phải
đạo lý dạy ta phải
chống lại phe khác cái phe “không ra gì, đáng gạt ra ngoài, không ai thèm muốn”, cái phe
xấu xa, đen đúa ? Đây là một câu hỏi quan trọng. Nếu
giáo lý linh diệu chứa đựng
đạo lý trí huệ thì
nhất quyết không thể nào có cái gọi là đánh giặc, chiến tranh phe phái,
tranh đấu giành cái này cái kia. Khi còn có kẻ nào chỉ lo
tranh đấu tranh chiến, chỉ lo
cố gắng phòng thủ hoặc tấn công thì hành động kẻ ấy chắng có gì
thiêng liêng đáng kính cả;
thái độ kẻ ấy chỉ là quá tầm thường
thế tục,
nhị nguyên; đó chỉ là rơi vào
tình thế mê đồ, hỗn chiến, giao tranh của bãi chiến trưởng Ta không thể coi
giáo lý vĩ đại, cao siêu theo điệu ngây ngô khờ khệt như vậy, nghĩa là
cố gắng làm người tốt, theo “cái thiện” và đánh phá
tiêu trừ “cái ác”. Điệu đó đúng là điệu cải lương phim ảnh cao bồi Hollywood–ngay trước khi phim
kết thúc, ta đã thừa biết
rõ ràng phe “chính” sẽ không
bị giết và phe “tà” sẽ được phá tan
tiêu trừ. Hiểu
đạo lý theo điệu này quả thực là
ấu trĩ non nớt khờ dại; thế mà chính
chúng ta thường chỉ tạo ra những
hoàn cảnh đại loại như vậy, theo điệu môi mép như sự
tranh đấu “tâm linh” , sự
thành tựu chứng đắc “tâm đạo”.
Nói như thế không có nghĩa là tôi cho rằng phải để cho
tinh thần hài hước được buông thả lộng hành một cách
điên cuồng hỗn loạn. Tôi chỉ nói đến cái gì khác hơn.
Nếu
chúng ta nhìn
con đường tu hành như một bãi chiến trường thì
chúng ta quả thực quá
yếu đuối, bạc nhược,
thấp hèn. Vì
lúc ấy sự
tinh tấn trên đường đạo phải
lệ thuộc vào mức độ đất đai
chinh phục của mình và của những kẻ khác,
lệ thuộc vào mức độ
tinh thần tiêu cực mà mình đã
tiêu trừ. Đó chỉ là sự
lệ thuộc tương đối với mức độ
đen tối mà mình đã
tiêu trừ được để từ đó có thể khai sinh ra ánh sáng
đối đãi tương đối. Đó thực quả là quá
yếu đuối bạc nhược, mình khó gọi đó là
giải phóng hay
tự do hay
giải thoát (mukti), hay
niết bàn (nirvana). Mình đã “đạt đạo”, “chứng đắc”,
đạt đến sự “giải thoát” vì đã chiến thắng một cái gì khác; đây quả thực là
tương đối hạn chế, còn mang
tinh thần lệ thuộc vào một cái gì đó, chứ chưa đúng
nghĩa giải thoát,
tâm chứng giác ngộ.
Tôi không muốn làm
tinh thần hài hước trở nên một cái gì quá
nghiêm trọng; tôi sợ
thiên hạ sẽ
trở thành nghiêm trọng đối với cái
tinh thần hài hước này. Nhưng vì muốn thực sự hiểu thế nào là cái tính cứng đơ, cứng nhắc
vô hồn trong đời sống như một
xác chết thây ma, thì mình khó tránh
biến đổi tinh thần hài hước trở nên một cái gì có vẻ
nghiêm chỉnh,
trịnh trọng. Cảm tính hài hước có nghĩa là sự nhìn thấy cả hai
cực điểm của một
hoàn cảnh, đúng như thế nào thì
y như thế ấy, nhìn thấy từ một chỗ nhìn bay rộng ở trên cao, cái nhìn từ trời cao chiếu xuống (Sense of humour means seeing both poles of a situation as they are, from an aerial point of view). Ở đời này đều có cái tốt và có cái xấu, và mình nhìn thấy cả hai với cái nhìn bao quát toàn cảnh như ở từ trời cao vọng xuống. Rồi từ đó mình bắt đầu
cảm thấy rằng những
con người nhỏ bé kia ở
dưới đất như một bầy kiến đang giết hại lẫn nhau, đang làm
ái tình với nhau, đang yêu đương
vớ vẩn hay chỉ đáng thế thôi, chỉ là những
con người bé nhỏ; tất cả mọi thứ ấy đều trở nên quá
vô nghĩa nhỏ mọn, khi mình thấy họ tỏ vẻ làm ra việc
hệ trọng làm lớn chuyện
tranh đấu hơn thua, hay chuyện làm
ái tình thế này thế nọ, khi mình thấy vậy, mình thấy ngay khía cạnh
mỉa mai của mọi
ồn ào la lối, điều
phát biểu thế này thế kia của
thiên hạ người đời. Nếu
chúng ta cố gắng mệt nhọc để
xây dựng một cái gì đó thực
vô cùng ý nghĩa,
vô cùng vững mạnh, đầy uy thế
uy lực, như điệu nói
trịnh trọng “Tôi đang thực sự khao khát
tìm kiếm một cái gì đó. Tôi đang thực
sự cố gắng
tranh đấu chống lại những
sai lầm,
lỗi lầm của tôi”, hay “Tôi đang thực lòng
cố gắng trở nên cao cả tốt đẹp”,
lúc ấy mọi điều ấy đều mất đi sự
nghiêm chỉnh đứng đắn và
trở thành một con cọp giấy; sự việc ấy quả thực là
mỉa mai vô cùng.
Tinh thần hài hước dường như khởi phát từ một niềm
vui sướng bao la trùm phủ hết mọi sự, một niềm vui lớn rộng đủ chỗ trống trãi dàn ra một
tình thế hoàn toàn cởi mở, vì đó là niềm vui không vướng bận vào trận chiến giao tranh giữa “cái này” với “cái kia”. Niềm
vui sướng lớn mạnh phát triển ra thành một
tình thế thống quát, khả dĩ nhìn thấy hoặc
cảm thấy được
toàn diện lãnh địa cơ sở lộ thiên.
Tình thế cởi mở này không gợi chút
mảy may hạn định, chật hẹp, không gợi chút
mảy may trang trọng, chửng chạc, gượng ép. Nếu mình
hết sức cố gắng coi
cuộc đời như một “đại cuộc trầm trọng”, nếu mình
cố gắng cưỡng đặt trên
đời sống một điệu dáng
trịnh trọng, cơ hồ như một cuộc
thương lượng làm ăn to tát thì quả thực là quá tức cười. Tại sao cơ sự lại quan trọng đến thế ? Có người
chịu khó tham thiền đúng cách với một tư thái
chính xác 100% hay 200%. Quả thực là
đại cuộc quan trọng Thực là quá tức cười. Ngược lại cũng có người khác lại
cố gắng phát triển tính hài hước, bất cứ đối với mọi điều gì cũng
đùa cợt, cũng
tìm thấy điều khôi hài trong
mọi nơi, mọi kẻ ngách. Điều ấy thực sự là một trò chơi sao mà quá
đứng đắn, thành ra cũng hóa ra khôi hài nữa.
Khi mình
cảm thấy đầy sự
căng thẳng đến độ mình phải nghiến răng cắn lưỡi,
lúc ấy bất thần có cái gì bỗng thọc nhột vào người mình, vì mình đã đẩy sự
căng thẳng quá độ chịu đựng; đó là điều quá
phi lý khi mình phải
trải qua những sự
cực đoan như vậy. Cường độ
cực đoan lại
trở thành hài hước, một cách tự động.
Có một
câu chuyện Tây Tạng về một ông thầy tu
từ bỏ đời sống luân hồi hỗn độn và
quyết định sống trong một
hang núi để
tham thiền suốt ngày đêm. Trước đó, ông thưởng hay
suy nghĩ liên miên về sự
phiền não, khổ sở của
kiếp người. Tên ông là Ngonagpa ở vùng Langru, tiếng
Tây Tạng có nghĩa là “Lão Mặt Đen ở vùng Langru”, vì ông ta không bao giờ
mỉm cười với ai cả, và nhìn mọi sự
trong đời đầy dẫy
đau đớn,
đen tối. Ông nhập động
tu thiền nhập định trong nhiều năm
đằng đẳng rất trang trọng
trang nghiêm, khắc khổ, và
vô cùng chân thành,
chí tâm, cho mãi đến một ngày kia, ông nhìn lên
bàn thờ và thấy ai dâng cúng ông một hòn lam ngọc to tướng Lúc ông nhìn món quà tặng cúng đường ấy của
đệ tử, ông bỗng thấy một con chuột bò ra
cố gắng kéo lôi hòn ngọc. Chú chuột không tài nào làm việc ấy được, bèn chạy vô hang để kêu rủ một chú chuột khác. Cả hai chú chuột
cố gắng lôi kéo hòn ngọc to tướng nhưng không thể nào làm được. Chúng bèn kêu nhau chít chít, gọi thêm tám chú chuột nữa ra trợ giúp, và sau cùng kéo lôi được hòn ngọc vào trong hang chúng Lúc đó là lần đầu tiên thầy Ngonagpa mới vụt
cười ầm lên, rồi cứ
tiếp tục mỉm cười. Đó là lần đầu tiên thầy được đưa vào cõi
mở rộng thênh thang luồng sáng
giác ngộ bất thần.
Như thế ta thấy là
tinh thần hài hước không phải chỉ là kể chuyện
đùa cợt hay nói giễu chơi
chữ nghĩa, không phải
cố gắng khôi hài, một cách
cố ý. Khôi hài đúng nghĩa là nhìn thấy được cái
trớ trêu, cái cắc cớ,
mỉa mai ở thế đâu lưng đấu cật của những
cực đoan cực điểm, phải thấy như thế để khỏi bị kẹt vào việc xem trọng sự việc trên đời, để đừng trang trọng chơi giỡn cái trò mãi miết
hy vọng hoài mong
sợ hãi, hoảng hốt.
Đó là
lý do cắt nghĩa tại
sao kinh nghiệm trên đường
tâm linh thực là có
ý nghĩa, quan trọng là
lý do cắt nghĩa tại sao sự
thực hành thiền định là
kinh nghiệm vô nghĩa nhất và không có gì quan trọng cả.
Vô nghĩa là vì mình không đặt sự quan trọng vào việc
phán đoán giá trị ở đó. Chỉ khi nào mình được
thể nhập trọn vẹn vào
hoàn cảnh không quan trọng
hoàn cảnh vô nghĩa của sự
mở rộng thênh thang ấy, mà không bị kẹp vào óc
phán đoán giá trị của cái này cái kia, thì
lúc ấy mình mới bắt đầu thấy được tất cả mọi trò chơi, trò đùa của
đời sống chung quanh mình. Một kẻ nào đó chẳng hạn
cố gắng nghiêm khắc và có vẻ
long trọng nghiêm trang trong việc
tu hành,
cố gắng làm một người cao cả
gương mẫu. Nếu có ai
xâm phạm làm
mất lòng hoặc
lăng nhục kẻ ấy, thì hắn ta dễ coi trọng việc ấy và trả đủa đánh đập lại ngay. Nếu ta
thể hiện mọi điều
thuận theo cái
vô nghĩa, cái vô quan trọng
căn bản của hiện thể (the basic insignificance of what is) thì
lúc ấy mình mới thấy được tính hài hước trong điệu loại trang trọng hợm hĩnh kia, cái điệu bộ kênh kiệu của hạng người cứ thích làm ra cho to chuyện đối với những điều
thực ra chẳng quan trọng gì cả
trong đời sống này.
Chúng ta vừa đọc qua những gì Chogyam Trungpa viết về
tinh thần khôi hài, những gì
đại sư nói trông rất
dễ hiểu và giản dị, nhưng
thực ra đó là cả
tinh túy của
Phật Giáo Mật tông Tây Tạng mà
đại sư đã đúc gọn lại vào một câu: “Trí huệ
Mật tông là đem
niết bàn vào trong luân hồi”. Điều này nghe có vẻ
chướng tai gai mắt làm
sửng sốt tâm thần. Trước khi đạt tới mức độ của
Phật Giáo Mật tông thì ta còn
cố gắng từ bỏ luân hồi, và
nỗ lực đạt tới
Niết Bàn. Nhưng rồi sau đó ta phải
nhận ra sự
phù phiếm của mọi
nỗ lực cố gắng và
lúc ấy ta
trở thành nhập một với
Niết Bàn, một cách
trọn vẹn toàn triệt (Tantrio wisdom brings nirvana into samsara. This may sound rather shocking. Before reaching the legel of tantra, you try to abandon samsara and strive to achieve nirvana. But eventually you must realize the futility of striving and then become completely one with nirvana). Và một câu cao siêu khác của
đại sư đáng ghi nhớ: “mình chỉ có thể hiểu được cái
tinh túy của
Niết Bàn bằng cách nhìn sâu thẳm vào
tinh túy của luân hồi” (You can only understand the essence of nirvana by looking into the essence of samsara). Đó cũng là bài học lớn nhất mà
đại Bồ Tát Long Thọ đã để lại cho
nhân loại: đỉnh núi cao nhứt chỉ là một với hố thẳm sâu nhất.
Dĩ nhiên là như thế, nhưng muốn thấy được như thế,
cần phải trải qua bao cơn
đau đớn không thể còn
chịu đựng nổi nữa, rồi vụt
nhận ra rằng nỗi
đau khổ lớn lao nhất cũng chính là cánh cửa
bùng nổ ra cơn
vui sướng nhứt, bay trên tận đỉnh đầu
nhật nguyệt.
Chùa
Việt Nam, Los Angeles 8/8/83