Trong đạo Phật về tông Tịnh Độ (1) có bảy bộ kinh (2) là nguyên tắc (3) cũng như biện chứng pháp (4), đã có truyền tích từ xưa đến nay giữa các nước như: Trung Quốc, Việt Nam, Triều Tiên, Nhựt Bản v.v… Nhưng được lưu hành và căn bản đặc điểm hơn, chỉ có ba bộ:
1.Kinh Vô Lượng Thọ. 2.Kinh Quán Vô Lượng Thọ. 3.Kinh A Di Đà.
Mà kinh Di Đà đây, xưa kia kết tập bằng chữ Bắc Phạn (Sanskrit) (5), lại được phiên dịch (6) và sớ sao (chú giải) (7) ra chữ Tàu.
Nước ta tại Bắc Việt có thầy Sa Môn hiệu là Thông Duệ (Trụ trì chùa Phước Long, làng Phù Lãng, huyện Vũ Giang, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh) đã khắc bản ấn hành từ đời vua Tự Đức (1847-1883).
Đến nay (1952-1953), lại được thầy LÊ PHƯỚC BÌNH dịch âm và dịch nghĩa ra tiếng Việt.
Đã biết trong tông Tịnh Độ có nhiều phương pháp tu trì mà dễ nhứt không pháp nào hơn pháp “Trì danh niệm Phật” của kinh này. Nó rất được phổ biến nên dù ở trình độ nào cũng đều có thể thực hành được cả…
Mặc dù ở đời, trường hợp của mỗi người có khác nhau (như kẻ làm quan, người làm ruộng v.v…) nhưng nếu biết tin tưởng lời Phật dạy thì ai cũng có thể vừa tu tập theo pháp môn niệm Phật này, vừa sinh hoạt hằng ngày, cho đến việc gia đình, xã hội cũng không bỏ dở.
Mà pháp môn niệm Phật đây, chính là pháp phương tiện để thực hiện được TỰ TÁNH DI ĐÀ, DUY TÂM TỊNH ĐỘ nếu ai chuyên niệm được nhứt tâm không tán loạn.
Hơn nữa, lời vàng của đấng Thích Tôn đã thốt ra đâu phải là nguồn triết lý viễn vông không bổ ích. Nếu chúng ta chịu khó công phu tu tập thì sẽ thấy lợi ích rõ ràng. Từ xưa đến nay, biết bao người đã đạt mục đích (giải thoát hiện tiền vãng sanh tịnh độ) như trong kinh này đã nói.
Quý bạn cứ tin đi, trong tre lúc nào cũng có lửa, nếu bạn gia công cọ (cưa) thì lo gì lửa nọ không nảy ra. Lý nhứt tâm niệm Phật cũng thế. Phật với ta đồng một thể tánh: Phật là người đã làm được thì không lẽ gì mà chúng ta đây không làm được. Vậy chúng ta cứ niệm, cứ tu đi, theo lời đức Thích Tôn đã dạy, đã thực hành cũng như mười phương chư Phật đã nói, đã thực hành và cũng đều khen ngợi pháp môn niệm Phật của tông Tịnh Độ này.
Điều căn bản và duy nhứt là phải hiểu sự, lý cho rõ ràng và luôn luôn thực hành không gián đoạn thì kết quả chắc chắn không sai.
Thế thì pháp môn niệm Phật này há không phải là một diễm phúc của chúng ta trong đời hiện tại… mãi đến tương lai ư?
Sau khi dịch xong, thầy Sa Môn LÊ PHƯỚC BÌNH có đưa bản thảo đến nhờ tôi khảo đính và chú thích để phổ biến quần chúng. Tôi nhứt tâm tùy hỷ vì nhận thấy pháp môn này rất xứng hợp thời cơ, nên nơi đây tôi xin trân trọng giới thiệu cùng quý bạn.
Và tôi nguyện đem công đức này hồi hướng lên tam bối, cửu phẩm, cầu cho tứ ân tam hữu, cả pháp giới chúng sanh, đồng sanh An Dưỡng quốc, phổ nguyện đồng sanh An Dưỡng quốc.
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
PHƯỚC HẬU TỰ
CẦN THƠ TRÀ ÔN
Ngày vía đức Địa Tạng Bồ Tát năm Quý Tỵ
Phật lịch: 2516 - Dương lịch: 1953
Hòa thượng Thích Khánh Anh
(1)Tịnh Độ tông là một học phái giữa Phật giáo nước Tàu, chủ trương về niệm Phật vãng sanh, thờ đức Phổ Hiền làm sơ tổ. Đời Tấn ngài Huệ Viễn xướng lên pháp môn Tịnh Độ tại núi Khuôn Lư, tỉnh Chiết Giang, đoàn kết thành Liên Xã, được 123 người niệm Phật vãng sanh Tịnh độ. (2)Bảy bộ kinh: 1.- Vô Lượng Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (hai cuốn). 2.- Đại A Di Đà Kinh (hai cuốn). 3.- Vô Lượng Thọ Kinh (hai cuốn). 4.- Quán Vô Lượng Thọ Kinh (một cuốn). 5.- A Di Đà Kinh (một cuốn). 6.- Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thụ Kinh (một cuốn). 7.- Cổ Âm Thinh Vương Đà La Ni (một cuốn). (3)Nguyên tắc: có sự có lý (chiết môn, nhiếp môn) mà niệm Phật tức là niệm tâm.
(4)Biện chứng pháp: Có tâm có cảnh, tịnh hạnh tịnh nguyện, mà tâm tịnh tức độ tịnh.
(5)Kinh A Di Đà phiên dịch đây thuộc về Đại thừa Bồ Tát tạng, xem cái đồ biểu dưới đây:
i.Sau Phật 100 năm. ii.Sau Phật 500 năm.