AN SĨ TOÀN THƯ
KHUYÊN NGƯỜI NIỆM PHẬT
CẦU SINH TỊNH ĐỘ
Nguyên tác: Tây Quy Trực Chỉ
Chu An Sỹ - Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải
Nhà xuất bản Tôn Giáo 2016
Quyển Một: Cương yếu của pháp môn Tịnh độ
Ngài A-nan thưa thỉnh
Kinh Đại A-di-đà chép rằng: Một hôm,
dung nhan của
đức Thế Tôn bỗng dưng có sự
biến chuyển [
trang nghiêm] khác thường, ngài A-nan liền thưa thỉnh
nguyên do.
Đức Phật dạy: Sự thưa hỏi của ông hôm nay
lợi lạc còn hơn cả việc
cúng dường tất cả các vị
Thanh văn,
Duyên giác cùng
bố thí cho hết thảy
chư thiên,
nhân dân,
cho đến tất cả các loài
hữu tình trong
bốn cõi thiên hạ. Lại cho dù
trải qua nhiều kiếp
tiếp tục cúng dường bố thí như vậy, nhiều hơn gấp trăm ngàn lần, cũng không thể
lợi lạc bằng sự thưa hỏi này. Vì sao vậy? Vì hết thảy
chư thiên cho đến các bậc đế vương,
nhân dân trong
cõi người, tất cả đều nhờ câu hỏi của ông hôm nay mà được [truyền dạy]
pháp môn giải thoát.”
Lời bàn
Xét theo đây thì có thể thấy rằng,
pháp môn Tịnh độ không chỉ là thuyền từ cứu vớt
nhân loại, mà cũng là ngọn đuốc soi đường
giải thoát cho
chư thiên, phải
thận trọng chớ nên khinh thường.
Hai lần nêu rõ cõi
Cực LạcKinh A-di-đà chép rằng: “Về phương tây, cách đây mười vạn ức
cõi Phật, có
một thế giới tên là
Cực Lạc. Ở cõi ấy có
đức Phật hiệu A-di-đà hiện nay đang
thuyết pháp. Xá-lợi-phất! Tại sao cõi ấy gọi là Cực Lạc? Vì nơi ấy
chúng sinh không có những sự
khổ não, chỉ hưởng các điều
vui sướng, nên gọi là
Cực Lạc.”
Nhân duyên quá khứKinh Đại A-di-đà chép rằng: “Cách đây
vô lượng kiếp, có
đức Phật hiệu là
Thế Tự Tại Vương ra đời
hóa độ chúng sinh. Lúc bấy giờ có vị đại
quốc vương đến nghe
thuyết pháp, được
tức thời giác ngộ, liền
từ bỏ ngôi vua
xuất gia tu tập, thành một vị tỳ-kheo hiệu là
Pháp Tạng, nay chính là
đức Phật A-di-đà.
“Khi ấy, tỳ-kheo
Pháp Tạng đối trước
đức Phật Thế Tự Tại Vương mà phát 48 lời
đại nguyện, vì muốn
cứu độ chúng sinh nên ngài
hết sức tinh tấn tu hành,
đạt đến địa vị Bồ Tát.
“Bồ Tát ấy bên trong
tu tập trí tuệ, bên ngoài tu tạo
phúc đức, đối với hết thảy
mọi việc trong
thế gian, không một việc gì ngài không thấy biết. Sau đó lại thác sinh vào
cảnh giới của tất cả
chúng sinh,
hóa hiện hình thể giống như họ,
thông hiểu ngôn ngữ của họ, để nhân đó
giáo hóa cho tất cả. Vì thế, trên từ
thiên đế, dưới đến các loài côn trùng, không một
chúng sinh nào ngài không mong muốn
cứu độ cho được
siêu sinh về
thế giới Cực Lạc.”
Tròn nguyện xưa,
thành quả Phật
Kinh Đại A-di-đà chép rằng: “Đức Phật A-di-đà
trải qua nhiều đại a-tăng-kỳ kiếp
thực hành hạnh
Bồ Tát, không nề mọi sự gian khổ, từ trong tay ngài thường
hóa hiện ra đủ
các loại y phục,
thức ăn,
âm nhạc,
cho đến những thứ thiết yếu nhất để
bố thí,
ban cho tất cả
chúng sinh, khiến cho hết thảy đều được
vui mừng,
hoan hỷ. Ngài
phát tâm Bồ-đề đã
trải qua vô số trăm ngàn vạn
ức kiếp mới được
thành tựu 48 lời
đại nguyện đã
phát khởi trước đây rồi
chứng đắc quả vị Phật. Cho nên,
vô số chúng sinh trong
mười phương, chỉ cần một niệm
quy y liền được
vãng sinh về cõi nước của ngài.”
Bốn mươi tám
đại nguyệnĐại nguyện thứ nhất:
Sau khi ta
thành Phật, nguyện trong cõi nước của ta
tránh khỏi ba đường ác:
địa ngục,
ngạ quỉ,
súc sanh,
cho đến không có cả các loài trùng bọ biết bò, biết bay, biết động đậy...
Đại nguyện thứ nhì:
Sau khi ta
thành Phật, nguyện trong cõi nước của ta không có
nữ giới. Tất cả
chư thiên,
loài người cho đến các loài trùng bọ biết bò, biết bay, biết động đậy... trong
vô số thế giới khác, nếu được sinh về cõi nước của ta đều sẽ
hóa sinh từ
hoa sen quý trong hồ nước bằng
bảy báu.
Đại nguyện thứ ba:
Sau khi ta
thành Phật, nguyện
chúng sinh trong cõi nước của ta khi muốn ăn liền có trăm vị ngon lạ
tự nhiên hiện ra trong bát quý bằng
bảy báu. Sau khi ăn xong thì bát ấy
tự nhiên biến mất.
Đại nguyện thứ tư:
Sau khi ta
thành Phật,
chúng sinh trong cõi nước của ta khi cần đến
y phục thì vừa nghĩ đến liền có ngay đúng
như ý muốn, không bao giờ phải cần đến những việc cắt, may, nhuộm, sửa...
Đại nguyện thứ năm:
Sau khi ta
thành Phật, nguyện trong cõi nước của ta từ mặt đất lên tận
hư không đều có những cung điện lầu gác
xinh đẹp, có đủ các hương thơm
vi diệu hợp thành. Hương thơm ấy xông khắp các
thế giới trong
mười phương. Những
chúng sinh nào ngửi được mùi hương ấy đều
phát tâm tu theo hạnh Phật.
Đại nguyện thứ sáu:
Sau khi ta
thành Phật, nguyện cho
chúng sinh trong cõi nước của ta đều
thương yêu kính trọng lẫn nhau, không có lòng
ganh ghét oán giận.
Đại nguyện thứ bảy:
Sau khi ta
thành Phật, nguyện cho
chúng sinh trong cõi nước của ta đều không có các tâm
tham lam,
sân hận và
si mê.
Đại nguyện thứ tám:
Sau khi ta
thành Phật, nguyện cho
chúng sinh trong cõi nước của ta đều cùng một tâm lành, không
nghi ngờ lẫn nhau. Có điều gì vừa muốn nói ra thì
tự nhiên đều hiểu được ý nhau.
Đại nguyện thứ chín:
Sau khi ta
thành Phật, nguyện cho
chúng sinh trong cõi nước của ta đều không nghe biết đến những danh từ chỉ sự
bất thiện, huống chi là thật có những điều ấy.
Đại nguyện thứ mười:
Sau khi ta
thành Phật, nguyện cho
chúng sinh trong cõi nước của ta đều biết rõ
thân thể là hư huyễn, không có tâm tham đắm.
Đại nguyện thứ mười một:
Sau khi ta
thành Phật, nguyện cho
chúng sinh trong cõi nước của ta tuy có phân ra
loài người và
chư thiên khác nhau, nhưng đều có hình thể toàn một màu
vàng ròng,
vẻ mặt đoan chánh
đẹp đẽ.
Đại nguyện thứ mười hai:
Sau khi ta
thành Phật,
ví như chư thiên và
loài người trong khắp
vô lượng thế giới mười phương thảy đều
chứng quả Thanh văn,
Duyên giác, cũng không có khả năng biết được tuổi thọ của ta được bao nhiêu vạn
ức kiếp.
Đại nguyện thứ mười ba:
Sau khi ta
thành Phật,
ví như chư thiên và
loài người trong cả ngàn ức
thế giới mười phương thảy đều
chứng quả Thanh văn,
Duyên giác, đều một lòng cùng nhau tính đếm số lượng
chư thiên,
loài người trong cõi nước của ta, cũng không thể biết được số lượng ấy.
Đại nguyện thứ mười bốn:
Sau khi ta
thành Phật, nguyện cho
chúng sinh trong cõi nước của ta đều có
thọ mạng dài lâu
vô số kiếp, không ai có
thể tính đếm được.
Đại nguyện thứ mười lăm:
Sau khi ta
thành Phật, nguyện cho
chúng sinh trong cõi nước của ta thảy đều được
thọ hưởng những sự khoái lạc không khác gì các bậc tỳ-kheo đã dứt sạch
lậu hoặc.
Đại nguyện thứ mười sáu:
Sau khi ta
thành Phật, nguyện cho
chúng sinh trong cõi nước của ta đều trụ nơi
địa vị chánh tín, lìa xa mọi
tư tưởng điên đảo,
phân biệt, các căn đều
tịch tĩnh, dừng lắng
cho đến lúc
đạt được Niết-bàn.
Đại nguyện thứ mười bảy:
Sau khi ta
thành Phật, sự
thuyết giảng kinh điển và
tu hành đạo pháp đều nhiều hơn gấp mười lần so với chư Phật.
Đại nguyện thứ mười tám:
Sau khi ta
thành Phật, nguyện cho tất cả
chúng sinh trong cõi nước của ta đều rõ biết hết thảy những kiếp
quá khứ, biết được mọi sự việc đã xảy ra trong trăm ngàn muôn ức na-do-tha kiếp.
Đại nguyện thứ mười chín:
Sau khi ta
thành Phật, nguyện cho tất cả
chúng sinh trong cõi nước của ta đều được
thiên nhãn, nhìn thấy khắp trăm ngàn ức na-do-tha
thế giới.
Đại nguyện thứ hai mươi:
Sau khi ta
thành Phật, nguyện cho tất cả
chúng sinh trong cõi nước của ta đều được
thiên nhĩ, nghe tiếng
thuyết pháp của trăm ngàn ức na-do-tha chư Phật. Nghe rồi liền có thể tin nhận vâng làm theo.
Đại nguyện thứ hai mươi mốt:
Sau khi ta
thành Phật, nguyện cho tất cả
chúng sinh trong cõi nước của ta đều được
tha tâm trí, rõ biết được
tâm niệm của hết thảy
chúng sinh trong trăm ngàn ức na-do-tha
thế giới.
Đại nguyện thứ hai mươi hai:
Sau khi ta
thành Phật, nguyện cho tất cả
chúng sinh trong cõi nước của ta đều được phép
thần túc, chỉ
trong khoảng thời gian của một niệm có thể
vượt qua được trăm ngàn ức na-do-tha
thế giới.
Đại nguyện thứ hai mươi ba:
Sau khi ta
thành Phật,
danh hiệu của ta vang truyền khắp
vô số thế giới trong
mười phương. Hết thảy chư Phật đều
xưng tán công đức của ta cùng
ca ngợi thế giới thù thắng của ta. Hết thảy
chư thiên,
loài người,
cho đến các loài trùng bọ biết bò, biết bay, biết động đậy... khi
nghe được danh hiệu của ta, chỉ cần
phát khởi tâm lành mừng vui
hoan hỷ, ta sẽ khiến cho đều được sinh về
thế giới của ta.
Đại nguyện thứ hai mươi bốn:
Sau khi ta
thành Phật,
hào quang trên đỉnh đầu của ta chiếu sáng
rực rỡ nhiệm mầu, hơn cả ánh sáng của
mặt trời mặt trăng đến trăm ngàn vạn lần.
Đại nguyện thứ hai mươi lăm:
Sau khi ta
thành Phật,
hào quang của ta chiếu sáng đến
vô số cõi
thế giới. Hết thảy
chư thiên và
loài người,
cho đến các loài trùng bọ biết bò, biết bay, biết động đậy... khi được thấy
hào quang của ta rồi thảy đều
sinh khởi lòng từ, làm
việc thiện, rồi tất cả đều được sinh về
thế giới của ta.
Đại nguyện thứ hai mươi sáu:
Sau khi ta
thành Phật,
chư thiên và
loài người trong
vô số cõi
thế giới,
cho đến các loài trùng bọ biết bò, biết bay, biết động đậy... khi được
hào quang của ta chiếu vào
thân thể liền được
thân tâm từ hòa hơn cả
chư thiên.
Đại nguyện thứ hai mươi bảy:
Sau khi ta
thành Phật,
chư thiên và
loài người trong
vô số cõi
thế giới, nếu có ai
phát tâm Bồ-đề, vâng giữ
trai giới,
thực hành sáu pháp ba-la-mật, tu các
công đức,
hết lòng phát nguyện được sinh về
thế giới của ta, thì khi người ấy
lâm chung ta sẽ cùng với
đại chúng hiện đến
trước mặt,
tiếp dẫn người ấy sinh về
thế giới của ta, làm bậc
Bồ Tát trụ ở
địa vị không còn
thối chuyển.
Đại nguyện thứ hai mươi tám:
Sau khi ta
thành Phật,
chư thiên và
loài người trong
vô số cõi
thế giới, nếu có ai được nghe
danh hiệu của ta liền
thắp hương,
dâng hoa, dùng các thứ đèn đuốc, cờ phướn
trang nghiêm,
cúng dường trai tăng,
xây dựng chùa tháp,
giữ gìn trai giới thanh tịnh, làm các
việc thiện, một lòng nhớ nghĩ đến ta, cho dù chỉ trong một ngày một đêm không
gián đoạn, cũng
chắc chắn sẽ được sinh về cõi
thế giới của ta.
Đại nguyện thứ hai mươi chín:
Sau khi ta
thành Phật,
chư thiên và
loài người trong
vô số cõi
thế giới, nếu có ai
hết lòng tin tưởng muốn được sinh về cõi
thế giới của ta, chỉ cần niệm rõ lên
danh hiệu của ta mười tiếng, hết thảy liền được sinh về cõi
thế giới của ta, chỉ
trừ ra những kẻ phạm vào
năm tội nghịch hoặc
phỉ báng Chánh pháp.
Đại nguyện thứ ba mươi:
Sau khi ta
thành Phật,
chư thiên và
loài người trong
vô số cõi
thế giới,
cho đến các loài trùng bọ biết bò, biết bay, biết động đậy... nếu như trong những
kiếp trước đã từng làm các việc ác, nay được nghe
danh hiệu của ta liền
hết lòng sám hối, quay sang làm thiện, vâng
giữ giới luật,
thọ trì kinh điển,
phát nguyện được sinh về
thế giới của ta, thì khi
lâm chung liền không bị đọa vào trong
ba đường ác, thẳng tắt một
đường sinh về
thế giới của ta, mọi chỗ mong cầu đều được
như ý.
Đại nguyện thứ ba mươi mốt:
Sau khi ta
thành Phật,
chư thiên và
loài người trong
vô số cõi
thế giới, nếu ai được nghe
danh hiệu của ta liền cúi đầu
sát đất lễ lạy cung kính, mừng vui
tin tưởng phát tâm ưa muốn tu theo hạnh
Bồ Tát, liền được hết thảy
chư thiên và người đời
kính trọng.
Đại nguyện thứ ba mươi hai:
Sau khi ta
thành Phật, hết thảy
nữ nhân trong
vô số cõi
thế giới, nếu được nghe
danh hiệu của ta liền mừng vui
tin tưởng,
phát tâm Bồ-đề, sinh lòng
chán ghét thân nữ. Sau khi
lâm chung liền không còn phải thọ sinh làm thân nữ.
Đại nguyện thứ ba mươi ba:
Sau khi ta
thành Phật, những
chúng sinh nào sinh về cõi
thế giới của ta đều là hàng
Bồ Tát Nhất sinh bổ xứ,
trừ ra những vị có
phát nguyện sinh về những
thế giới khác để
giáo hóa chúng sinh, tu hạnh
Bồ Tát,
cúng dường chư Phật, liền được
tùy ý sinh về phương ấy. Ta sẽ
dùng sức oai thần khiến cho vị ấy
giáo hóa được hết thảy
chúng sinh đều
phát khởi lòng tin, tu hạnh Bồ-đề, hạnh
Phổ Hiền, hạnh
tịch diệt,
Phạm hạnh thanh tịnh, hạnh cao trổi nhất, cùng với hết thảy các
hạnh lành.
Đại nguyện thứ ba mươi bốn:
Sau khi ta
thành Phật, những
chúng sinh nào ở
thế giới của ta muốn sinh về
thế giới khác liền được
như ý nguyện nhưng không còn phải đọa vào trong
ba đường ác.
Đại nguyện thứ ba mươi lăm:
Sau khi ta
thành Phật, các vị
Bồ Tát trong
thế giới của ta dùng đủ loại
hương hoa, cờ phướn,
trân châu,
chuỗi ngọc, cùng với đủ mọi thứ phẩm vật
cúng dường, muốn hiện đến
vô số cõi
thế giới để
cúng dường chư Phật, liền chỉ
trong khoảng thời gian của một
bữa ăn có
thể hiện đến khắp
mọi nơi.
Đại nguyện thứ ba mươi sáu:
Sau khi ta
thành Phật, các vị
Bồ Tát trong
thế giới của ta nếu muốn dùng đủ mọi thứ phẩm vật để
cúng dường vô số chư Phật trong
mười phương, liền
tức thời hiện đến trước các vị Phật ấy với đầy đủ mọi thứ phẩm vật.
Cúng dường rồi, ngay trong ngày ấy chưa đến giờ thọ trai đã kịp
trở về.
Đại nguyện thứ ba mươi bảy:
Sau khi ta
thành Phật, các vị
Bồ Tát trong
thế giới của ta
thọ trì kinh pháp, tụng đọc,
giảng thuyết, liền có đủ
biện tài trí tuệ.
Đại nguyện thứ ba mươi tám:
Sau khi ta
thành Phật, các vị
Bồ Tát trong
thế giới của ta có thể
giảng thuyết hết thảy các pháp, được
biện tài trí tuệ không hạn lượng.
Đại nguyện thứ ba mươi chín:
Sau khi ta
thành Phật, các vị
Bồ Tát trong
thế giới của ta đều được
sức mạnh như
lực sĩ Kim cang Na-la-diên ở
cõi trời,
thân thể đều toàn một màu sáng đẹp như vàng
tử ma, có đủ
ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp,
giảng kinh hành đạo không khác gì chư Phật.
Đại nguyện thứ bốn mươi:
Sau khi ta
thành Phật, cõi
thế giới của ta
thanh tịnh soi chiếu khắp
vô lượng thế giới trong
mười phương. Các vị
Bồ Tát nếu muốn nhìn vào trong cây quý để thấy được hết thảy những
cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh trong khắp
mười phương, liền
tức thời nhìn thấy
hiện ra đầy đủ như trong tấm
gương sáng ở ngay
trước mặt.
Đại nguyện thứ bốn mươi mốt:
Sau khi ta
thành Phật, những vị
Bồ Tát trong cõi
thế giới của ta, dù có ít
công đức cũng có thể thấy biết được cây bồ-đề nơi
đạo tràng của ta cao đến bốn ngàn do-tuần.
Đại nguyện thứ bốn mươi hai:
Sau khi ta
thành Phật, hết thảy
chư thiên và
loài người cùng với
vạn vật trong cõi
thế giới của ta đều
trang nghiêm thanh tịnh,
sáng suốt đẹp đẽ,
hình dáng và màu sắc đều
đặc biệt kỳ diệu, nhiệm mầu
tinh tế đến mức không ai có thể nói hết được.
Chúng sinh dù có
đạt được thiên nhãn cũng không thể
phân biệt gọi tên hay tính đếm được hết mọi thứ trong
thế giới của ta.
Đại nguyện thứ bốn mươi ba:
Sau khi ta
thành Phật, hết thảy
chúng sinh trong cõi
thế giới của ta,
tùy theo chí nguyện, nếu muốn
nghe pháp liền
tức thời được nghe.
Đại nguyện thứ bốn mươi bốn:
Sau khi ta
thành Phật, hết thảy hàng
Bồ Tát hay
Thanh văn trong cõi
thế giới của ta đều có đủ
trí tuệ,
thần lực, trên đỉnh đầu cũng có
hào quang chiếu sáng, tiếng nói phát ra vang rền, lưu loát,
giảng kinh hành đạo đều không khác với chư Phật.
Đại nguyện thứ bốn mươi lăm:
Sau khi ta
thành Phật, các vị
Bồ Tát ở những phương khác được nghe
danh hiệu của ta đều
quy y tinh tấn, đều được phép Tam-muội
thanh tịnh giải thoát. Các vị trụ yên nơi phép tam-muội này thì chỉ trong
thời gian một
ý niệm khởi lên đã có thể
cúng dường vô số chư Phật mà vẫn không rời khỏi
thiền định.
Đại nguyện thứ bốn mươi sáu:
Sau khi ta
thành Phật, các vị
Bồ Tát ở những phương khác được nghe
danh hiệu của ta đều
quy y tinh tấn, đều được phép Tam-muội
Phổ đẳng, từ đó
cho đến khi
thành Phật luôn thường được nhìn thấy
vô số chư Phật.
Đại nguyện thứ bốn mươi bảy:
Sau khi ta
thành Phật, các vị
Bồ Tát ở những phương khác được nghe
danh hiệu của ta đều
quy y tinh tấn, liền được ngay
địa vị không còn
thối chuyển.
Đại nguyện thứ bốn mươi tám:
Sau khi ta
thành Phật, các vị
Bồ Tát ở những phương khác được nghe
danh hiệu của ta đều
quy y tinh tấn, liền được ngay các bậc
nhẫn nhục từ thứ nhất, thứ hai
cho đến thứ ba, đều được phép Tam-muội
thanh tịnh giải thoát. Các vị trụ yên nơi phép tam-muội này thì chỉ trong
thời gian một
ý niệm khởi lên đã có thể
cúng dường vô số chư Phật mà vẫn không rời khỏi
thiền định.
Đức Phật Thích-ca dạy rằng: “Khi tỳ-kheo
Pháp Tạng đối trước
đức Phật Thế Tự Tại Vương phát khởi những lời
đại nguyện ấy thì cõi đất
chấn động,
chư thiên rải hoa báu xuống như mưa để
xưng tán. Giữa không trung có tiếng
ngợi khen xưng tán, rằng tỳ-kheo này
quyết định sẽ
thành Phật.”
Giải thích danh hiệuKinh A-di-đà chép rằng: “Đức Phật ấy vì sao có
danh hiệu là A-di-đà? Này Xá-lợi-phất,
đức Phật ấy có
hào quang vô lượng, chiếu sáng khắp các cõi nước trong
mười phương, không gì có thể ngăn ngại được, nên có
danh hiệu là A-di-đà.”
Lại cũng chép rằng: “Thọ mạng của
đức Phật ấy cùng với
nhân dân trong cõi nước là
vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp, nên có
danh hiệu là A-di-đà.”
Cung điện, hồ báu
Kinh Đại A-di-đà chép rằng: “Ở cõi nước của Phật A-di-đà, tất cả
giảng đường,
tinh xá đều
tự nhiên hình thành bằng
bảy món báu. Lại có
bảy món báu làm thành lầu đài, lan can...
thù thắng hơn gấp trăm ngàn lần so với cung điện của
Thiên đế ở
cõi trời Tha hóa tự tại nơi
thế giới Ta-bà này.
Ngoài ra, những cung điện của các vị
Bồ Tát,
Thanh văn ở
thế giới Cực Lạc cũng đều như thế.
“Chư thiên và
con người ở đó mỗi khi cần đến
y phục,
thức ăn uống,
âm nhạc mầu nhiệm... đều được
tùy ý hóa hiện ra. Đối với cung điện để cư trú, các vị chỉ cần
tùy ý nói ra màu sắc, mức độ cao thấp, lớn nhỏ, muốn làm bằng một món báu, hai món báu
cho đến vô số các món báu, liền sẽ
lập tức hóa hiện đúng
như ý muốn.
“Tuy nhiên, có những vị được
tùy ý hóa hiện cung điện lớn nhỏ như thế,
lơ lửng giữa
hư không, lại cũng có những vị không thể
tùy ý hóa hiện, và chỉ có cung điện ở trên mặt đất bằng các món báu. Đó là do
trong đời trước khi các vị
cầu đạo,
tu tập phước đức có khác biệt nhau. Chỉ riêng các thứ
y phục,
thức ăn uống thì tất cả đều
bình đẳng như nhau.
“Bên trong và bên ngoài các cung điện cũng
tự nhiên hóa hiện các dòng suối, ao hồ, hoặc làm bằng một, hai món báu, lớp cát bên dưới đáy cũng bằng một, hai món báu, chẳng hạn như hồ bằng
vàng ròng thì cát ở đáy hồ bằng bạc trắng, hồ bằng
thủy tinh thì cát ở đáy hồ bằng
lưu ly... Nếu ao hồ được làm bằng ba, bốn
cho đến bảy món báu thì cát ở đáy hồ cũng
hóa hiện tương tự như vậy. Bên trong các ao hồ ấy đều chứa loại nước có đủ
tám công đức,
trong sạch thơm tho,
mùi vị như nước
cam lộ.
“Giữa những nơi ấy lại có trăm loài hoa lạ, mỗi cành đều có hàng ngàn chiếc lá,
tỏa ra màu sắc, ánh sáng đã khác lạ mà hương thơm cũng khác lạ, ngào ngạt tỏa lan, không thể
mô tả hết bằng lời.”
Nhạc trời, mưa hoa
Kinh A-di-đà chép rằng: “Ở
cõi Phật ấy
thường có nhạc trời, mặt đất toàn bằng
vàng ròng. Suốt ngày đêm đều có mưa hoa mạn-đà-la từ trời rơi xuống.
Chúng sinh ở cõi ấy thường vào mỗi buổi sáng sớm dùng vạt áo trước nâng lên hứng lấy hoa trời
xinh đẹp, rồi
mang đi cúng dường mười
vạn đức Phật ở các phương khác. Khi đến giờ ăn thì
quay về dùng cơm rồi
đi kinh hành.”
Cây báu ven hồ
Kinh Đại A-di-đà chép rằng: “Ven bờ các ao hồ báu đều có
vô số cây thơm chiên-đàn,
hoa quả tốt lành, hương thơm lan tỏa. Lại có
hoa sen đủ các màu che kín mặt nước. Lại có cây bằng
bảy món báu mọc thành hàng lối. Những cây thuần một món báu thì từ thân cây
cho đến cành lá
hoa quả đều thuần một món báu. Những cây bằng hai món báu thì tất cả đều bằng hai món báu. Cứ như vậy mọc thành hàng lối ngay ngắn, cành nhánh chuẩn mực, trổ hoa hài hòa, kết quả
đều đặn,
cho đến bao bọc khắp cả
thế giới ấy, không thể dùng mắt nhìn thấu hết.”
Cây báu, lưới báu
phát âm vi diệuKinh A-di-đà chép rằng: “Ở
thế giới Cực Lạc, khi gió lay động các hàng cây báu cùng những tấm lưới báu, liền phát ra
âm thanh vi diệu, giống như trăm ngàn tiếng nhạc
đồng thời vang lên. Bất kỳ ai được nghe
âm thanh hòa hợp ấy đều
tự nhiên sinh tâm nhớ nghĩ đến Phật, Pháp và Tăng-già.”
Nước tắm,
hương hoa đều
mầu nhiệmKinh Đại A-di-đà chép rằng: “Người được sinh về
thế giới Cực Lạc, mỗi khi
bước xuống ao hồ để tắm rửa, nếu muốn nước ngập chân thì được vừa ngập chân, nếu muốn nước lên đến đầu gối, đến lưng hoặc đến cổ, đều
lập tức được
như ý muốn. Nếu muốn nước ấm hơn hoặc lạnh hơn cũng đều được
như ý.
“Sau khi tắm xong, mỗi người đều lên ngồi giữa tòa
hoa sen,
tự nhiên có gió lành
vi diệu nhẹ thổi qua, lay động các hàng cây báu, vang
lên tiếng âm nhạc. Gió lay các đóa
hoa sen báu tỏa lên hương thơm khác lạ vây quanh các vị
Bồ Tát,
Thanh văn đang ngồi bên trên.
“Nhìn mút tầm mắt, mọi thứ đều sáng đẹp lộng lẫy.
Hương hoa thơm lan tỏa không gì
sánh bằng. Đến lúc hoa nào chớm tàn thì
lập tức có gió xoáy cuốn đi ngay.
“Trong
đại chúng có người muốn nghe
thuyết pháp, có người muốn nghe
âm nhạc, có người muốn ngửi
hương hoa,
cho đến có người không muốn nghe gì cả, tất cả đều được
như ý muốn mà không hề gây trở ngại cho nhau.”
Chim hót
pháp âmKinh A-di-đà chép rằng: “Ở
thế giới Cực Lạc có đủ các loài chim
kỳ diệu đủ màu sắc như
bạch hạc,
khổng tước,
anh vũ, xá-lợi, ca-lăng-tần-già,
cộng mạng... Các loài chim này, suốt ngày
thường xuyên phát ra
âm thanh hòa nhã. Những
âm thanh ấy
diễn đạt đầy đủ các
pháp như năm căn lành,
năm sức,
bảy phần Bồ-đề,
Tám thánh đạo. Những
chúng sinh ở cõi ấy được nghe
âm thanh như vậy rồi đều tự mình nhớ nghĩ đến Phật, nhớ nghĩ đến Pháp, nhớ nghĩ đến Tăng-già.”
Kinh lại chép rằng: “Các loài chim ấy đều do
đức Phật A-di-đà vì muốn cho tiếng
thuyết pháp được truyền ra khắp nơi nên mới
biến hóa tạo thành.”
Cảnh tượng thù thắngKinh Đại A-di-đà chép rằng: “Các vị thượng
thiện nhân ở
thế giới Cực Lạc đều có tuổi thọ
vô lượng vô số kiếp, có khả năng nhìn xa nghe khắp,
quan sát từ xa, nghe tiếng nói từ xa.
Tướng mạo các ngài đều
đoan nghiêm tốt đẹp, không ai có các tướng xấu.
Thể tánh các ngài đều
trí tuệ dũng kiện, không có ai tầm thường,
ngu si. Hết thảy những
ý niệm của các ngài không bao giờ
trái với đạo đức, nên
biểu lộ ra những lời
bàn luận đều là
chính trực,
tốt đẹp, người người đều
thương yêu kính trọng nhau, không hề có sự
ganh tỵ ghen ghét. Các vị đều rõ biết những
việc đời trước, dù
trải qua đã hàng
vạn kiếp cũng đều nhớ biết
rõ ràng. Các vị cũng rõ biết cả những chuyện
quá khứ,
hiện tại và
vị lai trong khắp các
thế giới mười phương, lại cũng rõ biết cả tâm ý của hết thảy
chúng sinh trong khắp
thiên hạ, cũng biết cả việc mỗi
chúng sinh ấy đến kiếp nào, năm nào sẽ được
độ thoát thành người, được sinh về
thế giới Cực Lạc.”
Thức ăn uống
tự nhiên hóa hiệnKinh Đại A-di-đà chép rằng: “Những người được
vãng sinh về
thế giới của
đức Phật A-di-đà, khi đến giờ ăn nếu muốn dùng chén bát bằng bạc liền có chén bát bằng bạc, hoặc có người muốn dùng chén bát bằng vàng, hoặc bằng
lưu ly,
cho đến được làm bằng hạt châu
minh nguyệt hay hạt châu ma-ni, đều
lập tức được
hóa hiện theo
ý muốn. Trong bát ấy lại
hiện ra đầy đủ
thức ăn có trăm
mùi vị, dù nhiều cũng không thừa, dù ít cũng không thiếu. Sau khi ăn xong thì tất cả đều
tự nhiên tiêu tán hết, không hề còn lại những
thức ăn thừa. Hoặc cũng có
trường hợp chỉ cần nhìn thấy màu sắc, ngửi thấy mùi hương thì
tự nhiên no đủ. Mỗi khi ăn xong thì chén bát
tự nhiên mất đi, đến lúc muốn ăn lại
tự nhiên hiện ra như trước. Sự khoái lạc
mầu nhiệm ở
thế giới ấy chỉ kém hơn
cảnh giới Niết-bàn mà thôi.”
Sự
tu tập thích hợpKinh Đại A-di-đà chép rằng: “Ở
thế giới Cực Lạc,
nhân dân có những người ở trên mặt đất
giảng kinh,
tụng kinh, nghe kinh, hoặc suy ngẫm
đạo lý hay
ngồi thiền. Lại có những người ở trên
hư không giảng kinh,
tụng kinh, nghe kinh, hoặc suy ngẫm
đạo lý hay
ngồi thiền. Những người chưa
chứng đắc quả Tu-đà-hoàn sẽ nhân đó được
chứng đắc quả Tu-đà-hoàn, những người chưa
chứng đắc quả Tư-đà-hàm sẽ nhân đó được
chứng đắc quả Tư-đà-hàm,
cho đến những người chưa
chứng đắc quả A-la-hán hoặc
Bồ Tát bất thối chuyển, đều sẽ nhân đó được
chứng đắc quả A-la-hán hoặc
Bồ Tát bất thối chuyển. Mỗi vị như thế đều
tùy theo tư chất riêng của mình mà
đạt được sự
vui vẻ thích ý.”
So sánh dung mạoĐức Phật hỏi ngài A-nan: “Ví như có người
ăn mày đứng cạnh một vị đế vương thì
hình tướng,
dung mạo có thể sánh cùng nhau chăng?”
Ngài A-nan thưa rằng: “Bạch
Thế Tôn, người
ăn mày dung mạo xấu xí, làm sao có thể sánh được với vị đế vương?”
Đức Phật dạy: “Vị đế vương kia tuy cao quý, nhưng nếu lại
so sánh với vị
Chuyển luân Thánh vương thì cũng chẳng khác gì một
kẻ ăn mày.
Chuyển luân Thánh vương tuy cai trị
bốn cõi thiên hạ, nhưng nếu so với Đao-lợi
Thiên vương thì kém hơn đến trăm ngàn vạn lần,
thật không thể sánh kịp. Đao-lợi
Thiên vương nếu đem so với vị
Thiên vương của
cõi trời Tha hóa tự tại thì lại kém xa đến trăm ngàn vạn lần,
thật không thể sánh kịp. Thế nhưng vị
Thiên vương cõi trời Tha hóa tự tại nếu đem so với các bậc thượng
thiện nhân cùng chư
Bồ Tát ở
thế giới Cực Lạc của
đức Phật A-di-đà thì lại kém xa đến trăm ngàn vạn lần,
thật không thể nào sánh kịp.”
Tu tập pháp quán được thấy Phật
Kinh
Thập lục quán có chép việc bà Vi-đề-hy là hoàng hậu của vua Tần-bà-sa-la, nhân khi con trai bà là A-xà-thế làm việc
thí nghịch, giết cha để cướp ngôi, [nên sinh lòng
chán ngán] không muốn ở cõi Ta-bà đầy uế trược này nữa,
phát tâm cầu sinh về cõi
Tây phương Tịnh độ.
Đức Phật dạy bà Vi-đề-hy
tu tập 16 pháp
quán tưởng. Khi bà
thực hành tu tập đến pháp quán thứ 7 thì đã thấy được hồ báu bằng
lưu ly ở cõi
Cực Lạc, từ xa được trông thấy
đức Phật A-di-đà,
tướng hảo quang minh, ngự giữa
hư không, bên trái có
Bồ Tát Quán Thế Âm, bên phải có
Bồ Tát Đại Thế Chí.
Khi ấy
đức Phật Thích-ca liền
thọ ký cho bà Vi-đề-hy cùng 500 thị nữ đều sẽ được
vãng sinh về
Tây phương Tịnh độ. Đây chính là nhờ
tu tập,
áp dụng các pháp
quán tưởng Phật dạy mà được
vãng sinh.
Tuy nhiên,
đức Phật Thích-ca cũng có nói với bà Vi-đề-hy rằng: “Bà vốn còn là người phàm,
tâm tánh yếu ớt kém cỏi, nay nhờ có
Như Lai đem
phương tiện dễ dàng chỉ dạy cho nên mới được
vãng sinh.”
Vì thế,
Đại sư Liên Trì có nói rằng: “Các pháp quán [trong
Quán kinh]
hết sức sâu xa huyền diệu, [người đời nay
căn tánh kém cỏi] chỉ nên giữ theo phần
căn bản đại lược.”
Giữ theo phần
căn bản đại lược, đó chính là nói đến việc
trì niệm danh hiệu đức Phật A-di-đà.
Niệm Phật được thấy Phật
Đức Thế Tôn khi
thuyết giảng kinh Đại A-di-đà đã nói đầy đủ về
thế giới Cực Lạc có các sự
trang nghiêm. Phật dạy ngài A-nan rằng: “Ông hãy
đứng dậy chỉnh trang
y phục,
chắp tay cung kính, quay mặt về phương tây mà
đảnh lễ đức Phật A-di-đà.” Ngài A-nan
y theo lời dạy,
cung kính lễ Phật rồi bạch rằng: “Nay con nguyện được nhìn thấy
đức Phật A-di-đà cùng với
thế giới Cực Lạc và tất cả
đại chúng các vị
Bồ Tát,
Thanh văn nơi cõi ấy.”
Phát nguyện như thế vừa xong thì
đức Phật A-di-đà
lập tức phóng hào quang chói sáng, soi chiếu khắp hết thảy các
thế giới. Khi ấy ngài A-nan liền nhìn thấy
đức Phật A-đi-đà,
dung mạo uy nghi sừng sững như tòa núi lớn bằng
vàng ròng.
Bốn chúng trong
pháp hội khi ấy đều được nhìn thấy, lại cũng được nhìn thấy cả cõi
Cực Lạc trang nghiêm thanh tịnh. Ngay vào
lúc ấy, những người mù đều
tự nhiên sáng mắt, những người điếc
tự nhiên được nghe, những người câm
tự nhiên nói được, những người què
tự nhiên có thể
đứng dậy đi, khắp các
cõi địa ngục,
ngạ quỷ cũng đều
nhất thời được hưởng sự
an ổn, mừng vui. Các nhạc khí của
chư thiên ở
cõi trời không ai chạm đến cũng
tự nhiên vang
lên tiếng nhạc.
Niệm Phật được
vãng sinhKinh A-di-đà chép rằng: “Như những kẻ nam, người nữ có lòng lành, nghe giảng nói về Phật A-di-đà, bèn
chuyên tâm niệm
danh hiệu ngài, hoặc một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bảy ngày,
nhất tâm không
tán loạn. Người ấy khi
lâm chung liền thấy
đức Phật A-di-đà cùng các vị
thánh chúng hiện ra trước mắt. Khi
mạng chung tâm không điên đảo, liền được sanh về cõi
Cực Lạc của
đức Phật A-di-đà.”
Lại cũng chép rằng: “Nếu ai có
lòng tin, nên
phát nguyện sanh về cõi ấy.”
Lời bàn
Đoạn kinh này chính là
yếu chỉ của trọn
bộ kinh,
nhấn mạnh ở sự
chuyên tâm niệm
danh hiệu Phật,
đạt đến mức
nhất tâm không
tán loạn.
Vãng sinh không phải việc dễ dàng
[Kinh A-di-đà chép rằng:]
Đức Phật bảo ngài Xá-lợi-phất: “Không thể chỉ có chút ít căn lành,
phước đức,
nhân duyên mà được sinh về cõi
Cực Lạc.”
Lời bàn
Phần trước có nói: “Nếu ai có
lòng tin, nên
phát nguyện sinh về cõi ấy.” Cho nên,
lòng tin là điều thiết yếu để bước vào
pháp môn này. Nếu người không có
niềm tin thì không thể
niệm Phật. Không thể
niệm Phật thì đó chính là không có căn lành, không có
phước đức, không có
nhân duyên.
Pháp môn này như nước
cam lộ, nếu như
rốt cuộc ta lại không có phần, lẽ nào không phải là
đau đớn đáng tiếc lắm sao! Mỗi khi tôi
tụng kinh vừa đến câu này thì
tự nhiên cảm thấy toàn thân rúng động, có khi khởi lòng thương cảm
rơi lệ như mưa. Đến lúc bình tâm mới tự
an ủi mình rằng: “Chỉ sợ không
khởi tâm cầu
vãng sinh mà thôi. Nếu như đã có thể tin nhận
đức Phật A-di-đà là có thật, thì đó chính là căn lành của ta; nếu như đã có thể
phát tâm Bồ-đề tha thiết, thì đó chính là
phước đức của ta; nếu như đã có thể
trì niệm được
thánh hiệu của
đức Như Lai, thì đó chính là
nhân duyên của ta. [Đầy đủ căn lành,
phước đức,
nhân duyên, thì] có lý nào lại không được vãng sinh?”
Kinh Pháp Hoa nói rằng: “Trong tâm khởi sinh niềm
vui mừng lớn, tự biết ngày sau sẽ được
thành Phật.”
Lời dặn dò sau chót
[Kinh A-di-đà chép rằng:]
Đức Phật bảo ngài Xá-lợi-phất: “Như có người nào trước đã
phát nguyện, hoặc nay vừa
phát nguyện, hoặc sau này sẽ
phát nguyện sinh về
cõi Phật A-di-đà, thì những người ấy đều được
địa vị không còn
thối chuyển đối với
quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Những người ấy hoặc đã được sanh, hoặc nay được sanh, hoặc sau này sẽ được sanh về cõi ấy.”
[Kinh lại cũng chép rằng:] “Vì vậy, Xá-lợi-phất, các ông nên
tin theo lời ta và chư Phật đã nói.”
Lời bàn
Chúng sinh trong
ba cõi cũng giống như người bị vây hãm trong thành,
gấp rút tìm đường, mong ra khỏi nhưng không có cách nào. Đến khi
may mắn mở ra được một cửa thành, có thể theo đó thoát ra mà nhanh chóng
quay về quê cũ, lẽ nào lại bỏ qua mất cơ hội ấy hay sao?
Pháp môn Tịnh độ chính là
con đường giúp người thoát ra khỏi thành bị vây hãm, có thể nhanh chóng
quay về quê cũ. Đức Thích-ca
Như Lai đại từ đại bi,
thương xót những người bị vây hãm trong thành ắt phải chịu giết hại, nên mới khai mở
con đường thẳng tắt này, giúp người nhanh chóng thoát ra.
Đoạn kinh văn này chính là
lời dặn dò đinh ninh sau chót, không chỉ dạy người tin sâu những lời do chính
đức Như Lai nói ra, mà còn là tin nhận lời của
chư Phật mười phương,
quả thật là
tâm bi mẫn
hết sức thâm thiết.
Chúng ta thọ nhận
ân đức lớn lao của Phật [chỉ bày
pháp môn này], không biết làm sao
báo đáp, chỉ có thể tự mình
cố gắng y theo lời dạy
tu hành, lập nguyện
sâu rộng,
cầu sinh Tịnh độ mà thôi.
Nay kính cẩn mang
pháp môn này truyền lại, chỉ bày cho người
đời sau.