1. Như mọi người
Một ngày đầu Xuân năm nào, tôi [1]
mang tiếng khóc oa oa
chào đời, ngơ ngác trong
thế giới loài người. Được
cha mẹ thương yêu nuôi nấng, suốt quãng đời ấu thơ, tôi chỉ biết cắp sách đến trường rồi về nhà. Lớn lên lo
học lấy bằng cấp để đi làm kiếm ăn. Học xong bằng kỹ sư, tìm được sở làm
chắc chắn, tôi nghĩ đến chuyện
lập gia đình. Theo tôi đây là tiến trình
tự nhiên của
mọi người trong
xã hội. Nhìn
xung quanh anh em, bạn bè
ai nấy đều có công ăn
việc làm và
lập gia đình nên tôi cũng phải mau mau lập
gia thất. Khổ thay cái
thời gian dễ cặp kè yêu đương nhất là ở học đường, nhưng lúc đó cha me tôi thường nhồi vào đầu tôi là con phải lo học thành tài, đừng có lăng nhăng trai gái, không đi đến đâu rồi thân tàn ma dại. Vì thế tôi lo cặm cụi vào sách vở, không dám ngóc đầu
để ý tới các cô, các chị. Bây giờ trong sở làm đâu phải là chỗ đi tìm vợ. Túng thế tôi phải
cầu cứu tới
bà con bạn bè mách bảo làm mai. Nhờ trời thương,
cuối cùng tôi cũng cưới được một cô vợ. Cưới vợ thì cưới như bao nhiêu người chứ thực sự tôi không biết thế nào là tình yêu. Ai làm sao, tôi làm vậy!
Hồi xưa lúc còn
độc thân tôi chỉ có hai chân. Cưới vợ xong tôi có thêm hai chân nữa là bốn chân. Đáng lý ra có bốn chân thì phải đi nhanh hơn hai chân, nhưng
loài người không giống như loài vật khác. Nay có bốn chân nhưng đi đứng lại ngượng ngạo, khó khăn hơn, hai chân muốn đi phía này, hai chân muốn đi chỗ khác,
giằng co bên này kéo bên kia. Rồi vợ chồng bắt đầu hục hặc khó chịu
với nhau. Thấy thế
cha mẹ hai bên khuyên nhủ: thôi ráng có mụn con đi thì vợ chồng sẽ
vui vẻ hòa thuận lại
với nhau. Là con
hiếu thảo, nghe bề trên nói có lý nên
chúng tôi đồng ý cho sinh ra một đứa con trai đầu lòng. Và như thế tôi lại có thêm hai chân nữa, tức là sáu chân. Cứ mỗi lần có thêm hai chân là tôi đi đứng chậm hẳn lại.
Hồi trước có bốn chân thì
giằng co hai chiều, bây giờ có sáu chân thì
giằng co ba chiều. Chồng muốn một đàng, vợ muốn một nẻo, con muốn một ngả. Tưởng đâu có con thì
gia đình êm ấm, ai dè náo loạn hơn. Đi làm
cực nhọc kiếm tiền nuôi
vợ con, tưởng họ
biết ơn và thương mình hơn, nhưng vợ không bao giờ
hài lòng, hết
than phiền lại trách móc, còn thằng con hết khóc lại phá. Nhiều lúc chịu hết nổi, đầu óc tôi
căng thẳng như sắp nổ phải to tiếng quát tháo. Mỗi lần như vậy vợ tôi lại giận hờn, không thèm nói chuyện cả tuần, còn con thì
sợ hãi lánh xa, không khí
gia đình trở nên ngột ngạt khó thở.
"Phước bất trùng lai, họa vô đơn chí". Kinh tế
xã hội xuống dốc, hãng của tôi phải thải nhân viên, không may có tôi ở trong đó. Thế là hôm trước hôm sau tôi
trở thành kỹ sư thất nghiệp. Từ lâu tình cảm giữa hai vợ chồng đã không
tốt đẹp gì, không ai hiểu ai. Nay tôi thất nghiệp ở nhà, đi ra
đi vào chạm mặt nhau lại càng khổ sở khó chịu hơn nữa. Vợ tôi thường kiếm cớ đi ra ngoài để tránh mặt tôi. Bỗng một hôm nàng báo cho tôi một tin sét đánh: nàng đang làm đơn ly dị! Vừa buồn vừa giận, tôi há hốc miệng không nói nên lời, không ngờ nàng tàn nhẫn chơi tôi một vố đau quá!
Vài ngày sau,
cha mẹ tôi đi nghỉ hè bị
tai nạn xe cộ qua đời. Thất nghiệp, vợ bỏ,
cha mẹ chết. "Trời ơi! Lúc đó tôi chỉ biết kêu trời mà thôi. Trời ơi! Ông trời có mắt hay không? Sao ông để cho tôi khổ quá vậy nè Trời"! Tôi bị khủng hoảng
tinh thần, mất ăn
mất ngủ, mặt mày bơ phờ hốc hác đi lang thang
bất định trên đường phố, đầu óc như ngây như dại. May thay gặp được thằng bạn cũ, nó kéo tôi vào quán cà phê ngồi nhâm nhi
trò chuyện. Hỏi han biết được nỗi khổ của tôi, nó liền rủ tôi
đi chùa giải khuây. Sau này tôi mới biết anh ta là một
Phật tử thuần thành. Mỗi cuối tuần nó lái xe ngang nhà đón tôi lên chùa,
ban đầu chưa quen nên tôi
đi theo cho đỡ buồn. Đến chùa tôi vào
chánh điện xá chào Phật vài cái qua loa
lấy lệ rồi tìm một góc
trò chuyện hoặc
ngắm nhìn bà con cô bác. Dần dà nó dụ tôi vào nghe thầy
thuyết pháp. Trời ơi! (lại kêu trời nữa) từ xưa
đến nay tôi cứ nghĩ chùa chiền là chỗ
mê tín dị đoan để cho mấy ông
bà già đến cúng vái
cầu xin, nhưng sau vài lần
nghe pháp, tôi thấy thấm thía như được nước
cam lồ rót vào tim
xoa dịu vết thương lòng. Sau vài tháng
tới lui cảnh chùa, tôi xin quy-y
tam bảo và bắt đầu
tu học. Được thầy
giảng đạo Phật là đạo
cứu khổ,
nguyên nhân của khổ là
vô minh và
ái dục. Muốn hết khổ thì phải tu, phải sửa, cái gì hư hỏng thì sửa lại cho
tốt đẹp. Tu sửa như vậy còn được gọi là
chuyển hóa, chuyển
phiền não thành
bồ đề, khổ đau thành
hạnh phúc. Trong cái họa ngầm có cái may, nhờ gặp cảnh khổ thất nghiệp, vợ bỏ,
cha mẹ chết, xui xẻo đủ chuyện nên tôi mới có duyên biết đến đạo, chứ
nếu không khổ như vậy chắc tôi không bao giờ
để ý đến
đạo Phật và
tiếp tục cho đó là một loại
mê tín thờ cúng.
2. Đi tìm ý nghĩa
Ta từ đâu đến, sinh ra đời để làm gì và chết sẽ đi về đâu? Một người
bình dân như tôi sẽ
trả lời: "Ta từ bụng mẹ chui ra, sinh ra đời để sống như bao nhiêu người khác và chết thì
trở về với cát bụi. Thế là hết cuộc đời!" Mới nghe thấy xuôi tai nhưng
thực tế không phải
đơn giản như vậy.
Sinh ra đời để sống như bao nhiêu người là sao? Là ăn, ngủ, đi làm kiếm tiền nuôi
gia đình, lớn tuổi về hưu, già bệnh rồi chết! Ăn ngủ cho sướng cái thân, đi làm kiếm tiền cũng để nuôi thân và nuôi những người thân. Nhìn kỹ một chút thì
bản tính tự nhiên của
con người là đi tìm
sung sướng hạnh phúc, không ai dại gì đi tìm khổ đau. Tôi làm theo bao nhiêu người khác vì tôi tin rằng làm như thế sẽ có
hạnh phúc. Trên đời này ai cũng đi tìm
hạnh phúc, từ kẻ
cùng đinh hạ tiện cho tới
quốc vương, tổng thống, ngay cả những người
từ bỏ cuộc đời đi tu cũng vì muốn tìm một sự
an lạc hạnh phúc
chân thật. Cái
bản năng đi tìm
hạnh phúc này hình như đã có từ kiếp nào rồi. Một đứa trẻ sơ sinh, khi đói nó biết khóc đòi ăn, được mẹ cho bú thì yên ngay. Con nít nào cũng thích kẹo bánh, ngay cả người lớn cũng hảo ngọt, được ai ăn nói
dịu dàng khen ngợi thì
sung sướng hoan hỷ.
Trở lại câu hỏi: Ta từ đâu đến? Sinh ra đời để làm gì? Chết đi về đâu? Câu hỏi đầu và câu hỏi cuối
đa số chúng ta không
để ý và nhiều lúc không muốn nghĩ tới vì nó có vẻ siêu hình. Nhưng sinh ra đời để làm gì thì chắc bạn sẽ
đồng ý với tôi là sinh ra đời để sống và trong lúc sống
mọi người đều đi tìm
hạnh phúc.
Làm sao có được hạnh phúc?
Trở lại câu chuyện hồi nãy, tôi nghĩ rằng khi có được bằng kỹ sư thì tôi sẽ
hạnh phúc. Nhưng khi đậu xong bằng kỹ sư tôi chỉ
sung sướng được hai ngày rồi hết. Sau đó tôi nghĩ chuyện đi kiếm
việc làm. Có
việc làm rồi tôi nghĩ đến chuyện cưới vợ để
xây dựng mái ấm
hạnh phúc. Nhưng sống với vợ một
thời gian không thấy
hạnh phúc, tôi nghĩ nếu có con thì chắc sẽ đem lại
hạnh phúc. Có con rồi thì ôi thôi, còn tệ hơn nữa!
Cuối cùng hạnh phúc đâu không thấy mà thấy toàn chuyện
buồn phiền,
thất vọng. Nhưng còn may cho tôi là gặp được bạn lành biết đạo, cứu tôi ra khỏi cơn khủng hoảng. Trong
xã hội hiện nay có rất nhiều người lâm vào
hoàn cảnh như tôi và họ xuống dốc luôn, rơi vào nghiện ngập, rượu chè, hút sách hoặc tự tử. Đi tìm
hạnh phúc mà chỉ thấy khổ đau!
Cuộc đời thật là oái ăm! Nói
vậy thì hơi oan cho đời, vì oái ăm hay không là do mình tạo chứ không phải tại người hay
hoàn cảnh bên ngoài. Vì không
hiểu biết (
vô minh) nên ta lầm tạo nghiệp xấu và phải lãnh chịu quả khổ. Muốn hết khổ thì phải
học hỏi và tu sửa.
3. Tu cái gì?
Khi được hỏi: Anh tu cái gì?
Đa số thường
trả lời: "Tôi
tu Thiền hoặc tu Tịnh Độ". Theo
nghĩa đen, tu có nghĩa là sửa, như thế thì
tu Thiền là sửa Thiền, tu
Tịnh Độ là sửa
Tịnh Độ. Nhưng
Thiền và Tịnh Độ đâu có gì
cần phải sửa vì đó là những
pháp môn của Phật để lại. Nếu vậy bạn sẽ đáp: "Tôi tu theo
pháp môn Thiền, hoặc tu theo
pháp môn Tịnh Độ". Nói như thế rõ nghĩa hơn nhưng vẫn chưa
trả lời "tu cái gì". Tu cái gì tức là sửa cái gì? Bạn sửa cái gì theo
pháp môn Thiền, sửa cái gì theo
pháp môn Tịnh Độ? Bạn chọn theo những
pháp môn đó để sửa cái gì ?
Tôi có tánh
tham lam, nóng giận, lo sợ, những tánh này làm tôi khổ sở,
bất an. Tôi tu để sửa những tánh xấu này (
tu tâm sửa tánh). Do đó nếu được hỏi tu cái gì thì tôi sẽ đáp là tôi
tu tánh tham,
tu tánh sân,
tu tánh sợ.
Tu chuyển hay diệt?
Có người nghĩ tu là phải
diệt trừ (đoạn)
phiền não. Người khác lại
quan niệm tu là chuyển
phiền não thành
bồ đề. Hãy lấy
thí dụ về mưa. Khi sắp mưa, mây đen kéo đến phủ đầy trời rồi
sấm sét nổi lên và cơn mưa bắt đầu trút xuống. Tạnh mưa bầu trời
trở lại quang đãng không còn một bóng mây đen. Như thế ta có thể nói mây đen đã biến mất (hay được
diệt trừ). Nhưng thật ra mây đen đã chuyển thành nước mưa rơi xuống đất. Sau cơn mưa,
ánh nắng chiếu soi, những vũng nước mưa kia sau vài giờ lại biến mất. Nhưng kỳ thật những vũng nước đó đã chuyển thành hơi bay lên không trung tụ lại thành mây.
Khi
phiền não không còn thì ta nói
phiền não đã được
diệt trừ, nhưng theo
tinh thần Đại Thừa thì
phiền não đã chuyển thành
bồ đề. Vì thế trong
Duy Thức học có một danh từ gọi là
Chuyển Y, có nghĩa là khi tất cả những
chủng tử được chuyển từ
bất tịnh thành tịnh rồi thì A Lại Gia Thức chuyển thành
Bạch Tịnh Thức hay
Đại Viên Cảnh Trí. Và khi đó
chúng sinh kia
trở thành Phật,
thái tử Siddharta chuyển
thành Phật Thích Ca.
Tu
chạy trốnTu là sửa và cũng có nghĩa là chuyển. Muốn vậy phải có
trí huệ,
trí huệ giống như
mặt trời,
phiền não giống như sương mù và mây đen. Khi
mặt trời mọc thì sương mù, mây đen đều tan biến. Nơi nào có ánh sáng thì bóng tối không
thể hiện hữu. Chư
Bồ Tát nhờ có
trí huệ nên ra vào
sinh tử độ sinh không
mệt mỏi chán nản (vô
quái ngại), không có
sợ hãi (
vô hữu khủng bố). Nhưng có người lại tưởng tu là tránh né
cuộc đời,
chạy trốn phiền não nên họ tìm một chỗ yên thân sống qua ngày, không muốn ai
quấy rầy.
Ban đầu tu hành rất cần thầy lành bạn tốt, cần một
hoàn cảnh thuận tiện, một nơi
yên ổn thanh tịnh nhưng đó là
thời gian đầu để tập luyện
tu tâm sửa tánh chứ không phải để
chạy trốn. Sau một
thời gian tu học, ta
cần phải đối diện tiếp xúc với
cuộc đời để
quán chiếu phát triển
trí huệ, khai mở
tâm từ bi.
Hoa sen không thể nở trong lâu đài cẩm thạch mà mọc ở trong ao bùn.
Phương tiện và
mục đíchMục đích của tu là sửa những tánh xấu (
phiền não) cho nên ta cần những
phương tiện pháp môn như Thiền, Tịnh, Mật,
tụng kinh,
trì chú, v.v... Nhưng nhiều người hay
lầm lẫn giữa
phương tiện và
mục đích (
cứu cánh), họ nghĩ tu là phải
ngồi thiền, hoặc
niệm Phật,
tụng kinh,
trì chú cho nhiều. Tu như vậy gọi là
tu luyện. Luyện tức là làm tới làm lui, làm thật nhiều cho quen giống như luyện võ,
một thế võ được tập dợt cả trăm lần suốt ngày cho
thuần thục.
Dĩ nhiên tu
cần phải luyện, nhưng sự luyện tập đó phải có
ích lợi và
hiệu quả. Sau một
thời gian tu luyện ta phải thấy tánh xấu giảm đi và tánh tốt
tăng trưởng. Ngược lại nếu
tu luyện nhiều mà tánh xấu không bớt thì phải kiểm lại
pháp môn có
thích hợp không? Mải lo luyện
pháp môn mà không nghĩ tới
sửa tánh thì không phải là tu. Có người chuyên
trì chú Đại Bi, tụng mấy trăm biến một ngày, tụng đến nỗi
hết hơi kiệt sức và cho đó là tu. Đây là luyện
chú Đại Bi giống như
trường hợp thiền sư Từ
Đạo Hạnh[2]
nhập thất luyện
chú Đại Bi để có phép
trở về đánh
pháp sư Đại Điên trả thù cho cha. Sau khi giết được
Đại Điên, Từ
Đạo Hạnh mới
ăn năn và bỏ đi tu thực sự.
Phương tiện là trì
Đại Bi mà
mục đích là để giết người. Tất cả
thần chú (mantra) hay
đà la ni (dharani) đều
xuất phát từ Kinh,
chúng ta không học kinh để hiểu nghĩa
tu hành mà muốn
tu tắt, lấy riêng những bài chú làm thành khóa tụng, biến pháp tu thành một việc
thần quyền.
Thần chú linh thiêng bất khả tư nghì nhưng phải được
áp dụng một
cách thông minh
đúng đắn, ta phải
tu tâm sửa tánh thì
tha lực của
thần chú mới giúp ta mau
thành tựu.
Hành giả mật tông Tây Tạng trước khi
tu luyện một pháp
quán tưởng nào đều phải đầy đủ ba điều:
phát bồ đề tâm,
xa lìa tham lam chấp ngã, và
hiểu rõ tánh Không[3].
Nếu không đầy đủ ba điều trên thì dù
tu luyện có
thần thông phép tắc cũng thành
ma đạo.
Có người chuyên trì
tụng kinh Pháp Hoa và cho đó là tu. Trì tụng nhiều như
thiền sư Pháp Đạt nhưng tâm
ngã mạn đảnh lễ Lục tổ Huệ Năng đầu không chấm đất, hoặc "một
ni cô tụng kinh Pháp Hoa 30 năm, nhưng tâm chưa dứt niệm sắc thinh nên
kiếp sau đọa làm thân ca kỹ, tiếng thanh sắc đẹp thường bay ra
mùi thơm như hoa sen"[4]. Trì
tụng kinh chú là tụng để lời kinh
thâm nhập vào tâm nhưng đó chưa phải là hành. Trì tụng là
bước đầu,
kế tiếp phải
thực hành theo lời kinh để tu sửa. Trì
Đại Bi mà không sống từ, bi, hỷ, xả; tụng
Pháp Hoa mà không hiểu và sống với
tinh thần Pháp Hoa, đó không phải tu theo nghĩa sửa mà là luyện với tâm mong cầu sở đắc.
Càng
niệm Phật, tâm ta càng
thanh tịnh vắng lặng không bị
phiền não xao xuyến thì nên niệm nhiều hơn. Càng
tụng kinh ta càng hiểu đạo, bớt
chấp trước đắm nhiễm
cuộc đời thì nên tụng nhiều hơn. Nhưng nếu nghe thầy dạy tụng nhiều, tâm ta không
hoan hỷ, càng tụng càng mệt, càng khó chịu thì nên xin thầy một
pháp môn khác
thích hợp với
căn cơ và thể tạng của mình. Kinh chú hay
pháp môn giúp ta tu sửa chứ không phải để nhồi sọ hay luyện phép. "Như Lai
thuyết pháp như chiếc bè để qua sông chứ không phải để đội lên đầu hay vác trên vai mà đi[5]".
4. Ý Tình Thân
Bình thường các
triết gia hay đặt câu hỏi Ta là ai? Ở đây
chúng ta đặt lại câu hỏi Ta là gì? Và đi
xa hơn nữa, Ta làm gì? Theo
đạo Phật cái Ta không có thật mà chỉ là một
ảo tưởng, một
giả danh được đặt trên
năm uẩn (xem
Vô ngã[6]). Trong
năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức), sắc thuộc về
sắc thân, còn bốn uẩn kia thuộc về tâm. Tâm chỉ có tên mà không có
hình tướng nên gọi là danh (nama). Trên
giáo lý con người chỉ là danh-sắc (nama-rupa) không hơn không kém, nhưng ở đây tôi đứng trên
phương diện tương đối của
thế gian, tạm lấy những
quan niệm của người đời mà nói chuyện, trong nhà Phật gọi đó là "thế
giới tất đàn", một trong
Tứ Tất Đàn[7] (catvari siddhanta), tức là bốn
tiêu chuẩn để trình bày
sự thật.
Con người là một loài
hữu tình, tiếng Phạn là sattva, tức là có tình cảm. Vì có tình cảm nên mới có
phiền não. Sau đây là một
thí dụ về tiến trình của tình cảm.
Trong một bữa tiệc
ăn uống với bạn bè, tôi
để ý thấy cô Tám là người
hoạt bát, ăn nói
vui vẻ có duyên. Về nhà,
hình ảnh của cô Tám cứ lởn vởn
hiện ra trong đầu óc tôi. Nếu tôi chỉ có Ý nhớ, nghĩ, tưởng về cô Tám thôi rồi
chấm dứt ở đó thì không có chuyện gì đáng nói. Nhưng sau khi nhớ, nghĩ, tưởng về cô Tám thì trong tôi nảy sinh ra một thứ tình, đó là ưa mến. Khi Ý nhớ lại những điệu bộ,
cử chỉ ăn nói
duyên dáng của cô Tám thì (Tình) tôi lại càng ưa mến cô ấy! Khi Tình ưa mến thì nó khiến cho Ý phải
suy nghĩ đủ mội cách để làm quen và gần gũi. Sau khi nặn đầu bóp trán với trăm mưu ngàn kế thì
Ý nghĩ ra được một cách. Và muốn
thực hiện cách đó thì Ý phải nhờ đến Thân và Khẩu. Thân phải tìm đến nhà cô Tám để Khẩu nói chuyện tỏ Tình.
Trong nhà Phật thường nói đến bộ ba "Thân, Khẩu, Ý", gọi là
tam nghiệp vì đó là ba cánh cửa tạo nghiệp. Nay có thêm Tình là một
yếu tố quan
trọng không kém trong
vấn đề tạo nghiệp nên cần được thêm vào. Để
đơn giản hóa
vấn đề, tôi sẽ giữ con số ba, nghĩa là xếp Khẩu và Thân lại làm một vì khẩu là một phần của
thân thể. Như vậy
chúng ta sẽ có một bộ ba mới là Ý, Tình, Thân.
Hằng ngày mỗi khi Ý
suy nghĩ, nhớ tưởng thì ta cho là Ta
suy nghĩ, nhớ tưởng. Khi Tình yêu ghét,
vui buồn thì ta cho là Ta yêu ghét,
vui buồn. Khi Thân đi đứng,
cử động, nói năng, làm việc thì ta cho là Ta đi đứng,
cử động, nói năng, làm việc. Nói cách khác, tất cả
chúng ta đều vô tình
công nhận Ý, Tình, Thân chính là Ta, là mình. Vì thế nên tôi tạm gọi ba anh này là Ba Mình, Ba Mình cần được hiểu là ba cái mà
chúng ta tin và tưởng đó là ta, là mình.
Theo
thế gian, ta có thể nói
con người là một tổng hợp của Ý, Tình, Thân.
1/ Thế nào là ý tình thân?
a) Ý: là
ý thức hay tâm ý, tức khả năng
nhận thức,
hiểu biết,
phân biệt, suy tư,
nghĩ tưởng, v.v...
b) Tình: là tất cả những tình cảm mà ta cảm nhận được như: vui, buồn, yêu, ghét, giận, hờn,
đam mê, lo sợ, ghen tức, v.v...
c) Thân: là những gì thuộc về
thân thể như
cử chỉ, nói năng, hành động và
thái độ.
Ba cái này luôn đi chung và
liên quan rất
mật thiết với nhau.
Xưa nay vấn đề Tình hay tình cảm không được đề cập tới vì người ta xem nó thuộc về tâm hay
tâm sở, nhưng nay tôi lọc nó ra thành một phần riêng vì nó có một
tác dụng đặc biệt và quan trọng
trong đời sống
con người. Tâm là một danh từ bao quát. Trong
ngũ uẩn thì
sắc uẩn thuộc về thân còn bốn uẩn kia: thọ, tưởng, hành, thức thuộc về tâm.
Ý thức,
Mạt Na thức và
A lại Da thức cũng thuộc về tâm. Đương nhiên ở đây Ý và Tình cũng thuộc về tâm, nhưng mỗi cái có
công năng khác nhau.
Khi sự vật xảy ra theo Ý của tôi (vì tôi cho
ý kiến của tôi đúng) thì Tình của tôi
vui mừng,
hân hoan sung sướng, và Thân của tôi
thoải mái, nhẹ nhàng,
dễ chịu ...
Nhưng khi sự vật xảy ra trái Ý tôi thì Tình của tôi
buồn bực, giận hờn,
lo âu và Thân của tôi sinh ra
bệnh hoạn, hốc hác,
mệt mỏi, ...
Khi cô Tám làm đúng
như Ý tôi muốn thì
tự nhiên tôi có
cảm tình và sẽ có một
thái độ dễ thương, cởi mở và
thân thiện với cô ấy.
Khi anh Bảy làm trái Ý tôi thì tôi mất
cảm tình với anh và từ đó tôi sẽ có những
cử chỉ,
thái độ lạnh lùng,
xa lạ, thù ghét.
Khi những đứa con của tôi
nghe lời và làm đúng ý tôi thì tôi thấy
chúng nó rất
dễ thương, nhưng khi chúng không
nghe lời và làm trái ý tôi thì tôi buồn giận và thấy chúng khó thương.
Qua
thí dụ về cô Tám ở trên, ta thấy vì tâm ý có những
suy nghĩ, nhớ tưởng như vậy nên mới đưa đến tình cảm như vậy. Vì có tình cảm như vậy nên mới sinh ra
cử chỉ và
thái độ như vậy.
Ý nghĩ → Tình cảm →
Thái độĐây là
đi theo chiều Ý, Tình, Thân.
Tôi nghĩ rằng vào chùa là mình phải
lịch sự dễ thương. Vì (ý) nghĩ như thế nên mỗi khi gặp ai trong chùa là (thân) tôi đều
mỉm cười chắp tay cúi đầu chào. Trong chùa có cô Sáu hay đến
lễ Phật, mỗi khi thấy tôi làm như thế, cô ta cũng
mỉm cười chắp tay đáp lại. Qua sự
mỉm cười chắp tay chào qua chào lại như thế mà tôi và cô Sáu nảy sinh
thiện cảm với nhau. Vì nghĩ như vậy nên tôi mới làm như vậy. Vì làm như vậy nên sinh ra tình cảm như vậy.
Ý nghĩ →
Thái độ → Tình cảm
Đây là
đi theo chiều Ý, Thân, Tình.
Dù
đi theo chiều nào đi nữa, một khi cái bánh xe Ba Mình (Ý,Tình, Thân) này bắt đầu chuyển (cái này sinh ra cái kia) thì nó sẽ tự động quay tiếp và gây ra
hạnh phúc hay khổ đau.
2/ Vấn đề trục trặc
Bình thường nếu cái bánh xe Ba Mình này quay
đều đặn thì không có gì khổ hết! Nhưng
thực tế nó luôn luôn có
vấn đề trục trặc, không quay suông sẻ được. Xin lấy vài
thí dụ để hiểu.
Ý và Tình không
tương ưngSau khi chào qua chào lại, tôi và cô Sáu thấy mến nhau. Tôi bắt đầu chú ý đến cô ta nhiều hơn. Nhờ thế tôi biết được cô ấy hay
đi chùa vào ngày rằm và mồng một. Do đó tôi
cố gắng đến chùa vào những ngày này để có dịp gặp và làm quen với cô Sáu. Ý tôi nghĩ như vậy nên Tình của tôi chớm nở
hy vọng. Nhưng qua vài lần nói chuyện, tôi
khám phá ra cô Sáu đã có người yêu và sắp làm đám cưới! Tim tôi bỗng se thắt lại và đầu tôi choáng váng. Về nhà
ý thức tôi làm việc như chong chóng, tôi thấy mình không thể yêu được, vì ý tôi không
cho phép tôi yêu cô nữa. Nhưng con tim (tình) của tôi nó cứ muốn yêu cô ta.
Ngạn ngữ Pháp có câu: "Con tim có những
lý do của nó mà
lý trí không thể biết được" (le coeur a ses raisons que la raison ne connait point, Blaise Pascal). Đến đây Ý (
lý trí) và Tình (cảm) bắt đầu
xung đột dữ dội làm tôi mất ăn
mất ngủ,
Thân thể mệt mỏi, hốc hác, thật là khổ sở!
Theo quan niệm bình dân, ý (
lý trí) nằm ở trong đầu, còn tình cảm nằm ở trong tim hay trong lòng. Bởi vậy khi
thất tình, người ta hay
biểu lộ nó qua hình vẽ "con tim rướm máu". Khi ý và tình (hay đầu và tim) đi đôi
với nhau thì mọi sự
an ổn. Khi ý và tình đi ngược thì sinh ra
giằng co khổ sở.
Thương yêu không đúng chỗ thì người đời
chửi rủa, lên án và mình sẽ mang
mặc cảm tội lỗi. Nhưng nếu
hy sinh tình cảm để theo
lý trí thì tim sẽ mang một vết thương lòng.
Trong ba anh, Ý được
xem như anh cả, Tình là anh thứ hai, còn Thân là em út. Ý và Tình
thường hay chống
trái nhau, còn Thân thì
dễ dãi nghe lời hai anh, sai đâu làm đó, nhưng nhiều khi nó cũng
cứng đầu khó dạy.
Ý và Thân không
tương ưngHồi nhỏ khi mới được sinh ra tôi đâu có biết uống rượu hút thuốc là gì. Sau này lớn lên
giao du với bạn bè, rủ nhau hút thuốc uống rượu.
Ban đầu chỉ hút vài điếu, uống vài ly cho vui rồi từ từ sinh ra nghiện ngập. Đến khi nghiện rồi thì không thể bỏ được, ngày nào cũng phải
ít nhất hai bao thuốc lá và một chai rượu.
Gần đây nhờ
bà con họ hàng nhắc nhở, (
ý thức) tôi biết rõ hút thuốc làm hại phổi, uống rượu hại gan, có thể lao phổi hoặc viêm xơ gan. Nhưng đến giờ mà không có thuốc và rượu thì tay chân tôi
bủn rủn, cổ khô miệng đắng, bao tử cào cấu,
toàn thân yếu lả, không làm ăn gì được.
Thân thể tôi không chịu
nghe lời ý (
lý trí) tôi nữa.
Ý muốn cai rượu cai thuốc nhưng
thân thể chống lại không theo. Người nào cai được thì
xem như Ý thắng, còn không cai được thì
Thân thắng thế.
Tình và Thân không
tương ưngTrong lớp học có cô Linda người Mỹ rất đẹp làm tôi say mê
để ý. Nhưng cô ta có tánh kỳ thị, không ưa người da vàng. Vì thân tôi là người da vàng nên tình của tôi không thành! Tình muốn nhưng tại Thân nên sự không thành.
Trên đây là vài
thí dụ về sự chống trái giữa Ba Mình (Ý, Tình, Thân). Nhưng không
cần phải chờ đến khi Ba Mình chống trái mới
sinh chuyện. Nhiều khi chúng
đồng ý hợp tác với nhau cũng đưa đến
đau khổ như thường.
Khi Ý có những
ý nghĩ đen tối, cho rằng ai cũng ghét mình,
nói xấu mình thì làm sao Tình vui cho được. Lúc đó Tình sinh ra
buồn bực,
âu sầu, rồi từ từ
Thân xa lánh không muốn
tiếp xúc với
mọi người. Khi thấy mình xa lánh,
buồn bực, khó chịu thì đâu ai dám lại gần nói chuyện
vui vẻ. Và như thế (tình) mình lại buồn thêm và Ý
tin chắc là người đời xấu ác.
Ý
đen tối nuôi dưỡng Tình sầu, làm
Thân thể héo mòn.
Thân thể héo mòn
trở lại nuôi dưỡng Tình sầu và làm cho Ý càng thêm
đen tối. Đây là cái
vòng lẩn quẩn của
cuộc đời. Từ cái khổ này đưa đến cái khổ khác (gọi là
Khổ Khổ) khó mà thoát ra được.
* Tại sao bánh xe Ba Mình không ngừng quay cho ta đỡ khổ?
Ba Mình không thể ngưng làm việc được. Nếu muốn nó ngưng thì ta phải làm cho Ý ngừng trước rồi từ từ Tình và Thân sẽ ngưng sau.
Nếu muốn cho Ý ngừng thì có ba cách:
1)
Ngồi thiền nhập định, không khởi một
ý niệm,
ý nghĩ,
ý tưởng.
2) Ngủ không mơ. Nếu ngủ mà mơ thì trong giấc mơ
Ý thức vẫn làm việc, trong
Duy Thức Học gọi là "mộng trung ý thức".
Thí dụ trong mơ thấy
ma quỷ rượt bắt thì hoảng sợ, tim đập mạnh, người
toát mồ hôi.
3) Bất tỉnh nhân
sự hoặc rơi vào coma.
Ba cách trên không phải dễ
thực hiện:
1-
Đa số chúng ta không phải là
hành giả Du Già (Yogi) hay
thiền sư nên khó mà
nhập định (samadhi) dứt bặt tâm ý được.
2- Ngủ không mơ có thể được, nhưng chẳng lẽ ta cứ
nằm ngủ suốt ngày suốt đêm sao?
3- Bất tỉnh nhân
sự hoặc coma thì chắc
chúng ta không muốn, mà muốn cũng khó làm.
Động cơ khiến cho Ba Mình làm việc không ngừng chính là
nghiệp lực. Mà
nghiệp lực đâu phải mới có đây, nó đã có từ
đời nào rồi, trước khi ta được sinh ra trong kiếp này. Bình tâm nhìn lại, Ba Mình không phải lúc nào cũng làm cho ta khổ đau. Khi Ba Mình (Ý, Tình, Thân) làm việc
hòa thuận với nhau thì nó cũng cho ta
hạnh phúc, dù
hạnh phúc đó phù du tạm bợ.
5. Phiền não
1/ Đi tìm
phiền nãoTham, sân, si được xem là ba
phiền não lớn nhất của
chúng sinh. Trong các sách
phổ thông thường nêu ra 10 thứ
phiền não, đó là: tham, sân, si, mạn, nghi,
thân kiến,
biên kiến,
tà kiến,
kiến thủ,
giới cấm thủ.
Tuy nhiên phiền não còn được chia ra nhiều loại
tùy theo Kinh Luận khác nhau.
Phiền não được dịch từ Kilesa (pali) hoặc Klesa (sanskrit), có nghĩa là những tính
bất thiện (akusala), theo
Thanh Tịnh Đạo luận gồm có 10[8]: tham (lobha), sân (dosa), si (moha), mạn (mana),
tà kiến (ditthi), nghi (vicikiccha),
hôn trầm (thina),
trạo cử (uddhacca),
vô tàm (ahirika), vô quí (anottappa).
Ngoài chữ
phiền não, ta còn có chữ nội kết hay
kiết sử (samyojana) cũng
gồm có 10:
thân kiến (sakkaya-ditthi), nghi (vicikiccha),
giới cấm thủ (silabbata-paramasa),
tham dục (kama-raga),
sân hận (vyapada), tham sắc (rupa-raga), tham
vô sắc (arupa-raga), mạn (mana),
trạo cử (uddhacca),
vô minh (avijja). Gọi là
kiết sử vì các tánh xấu này
trói buộc sai sử ta trong
sinh tử, gọi là nội kết vì nó kết tụ lại trong tâm hay trong
con người của ta.
Trong 51
tâm sở của
Duy Thức Học[9] có nói về 6
căn bản phiền não (mulaklesa) và 20
tùy phiền não (upaklesa).
Sáu
căn bản phiền não: tham, sân, si, mạn, nghi,
ác kiến.
Hai mươi
tùy phiền não: phẫn, hận, phú, não, tật, xan, cuống, siểm, hại, kiêu,
vô tàm, vô quí,
trạo cử,
hôn trầm,
bất tín,
giải đãi,
phóng dật,
thất niệm,
tán loạn,
bất chánh tri.
Theo
Câu Xá Luận (Abhidharmakosasastra), do ngài
Thế Thân (Vasubhandhu) trước tác khi còn theo
Tiểu Thừa[10],
gồm có 46
tâm sở, trong đó có[11]:
Sáu
căn bản phiền não:
vô minh,
phóng dật,
giải đãi,
bất tín,
hôn trầm,
trạo hối.
Hai đại
bất thiện:
vô tàm, vô quí.
Mười tiểu
phiền não: phẫn, hận, phú, não, tật, xan, cuống, siểm, hại, kiêu.
Trên đây tạm gọi là đi tìm
phiền não trong
Kinh Luận. Ta thấy sự
phân chia và sắp xếp các
phiền não không giống nhau, nó
tùy thuộc vào
quan điểm của các
luận sư thời xưa, và
tùy theo giáo lý Nguyên Thủy hay
Đại Thừa.
Ngoài ra có vài
tâm sở rất
quen thuộc của
đời sống hàng ngày mà
Duy Thức Học đã
bỏ quên như:
- từ, bi, hỷ, lạc: có thể thêm vào trong 11
tâm sở thiện.
- ái (yêu), ố (ghét), ai (buồn), ưu (lo), khủng (sợ): có thể thêm vào 20
tùy phiền não.
Phiền não là một danh từ
đặc biệt của
đạo Phật và
trở thành quen thuộc đối với người
Phật tử, nhưng khi muốn
phân tách đó là gì thì không phải chuyện dễ cho những ai không có khái niệm về
tâm lý học
Phật giáo như
Duy Thức hoặc
A Tỳ Đàm. Qua vài định nghĩa của
Kinh Luận thì
phiền não là những
tâm sở bất thiện, thuộc
hành uẩn, nhưng đối với người
bình thường như bạn và tôi thì
phiền não được hiểu là những
cảm giác buồn bực, khó chịu,
bất an, lo sợ,
ganh ghét, chán nản,
bất mãn, v.v... thuộc
thọ uẩn. Đứng trên danh-sắc (nama-rupa) hay
thân tâm thì
hành uẩn và
thọ uẩn đều thuộc về danh hay tâm, nhưng trên
tác dụng thì hai cái có sự khác biệt.
Bình thường chúng ta nói tâm tham, tâm sân, và xem tham, sân là hai
phiền não thuộc về tâm, điều này cũng đúng. Nhưng nếu nhìn kỹ, ta sẽ thấy là do
Ý nghĩ gì mới khiến lòng tham nổi lên,
Ý nghĩ gì mới khiến lòng sân nổi lên. Tham và sân không thể
tự nhiên khởi lên được. Chữ tâm (citta) theo tiếng Hán có nghĩa là tim hay lòng và nhiều khi nó cũng được hiểu là Ý. Do đó tâm thường mang
hai nghĩa: Ý và Tình (tâm ý và tâm tình). Tim hay lòng chính là Tình.
Từ sự
phân tách trên, tôi xếp những
ý nghĩ (hay
tư tưởng)
bất thiện vào Ý, và những
cảm giác bất thiện (tức
phiền não) vào Tình. Bởi vì tôi nghĩ xấu anh Ba, cho rằng anh
nói xỏ và chửi xéo tôi nên tôi mới
nổi giận. Mỗi khi Ý có những
ý nghĩ bất thiện thì đương nhiên làm phát sinh ra
cảm giác (Tình)
buồn phiền. Do đây tôi xem
phiền não thuộc về Tình, còn
nguyên nhân gây ra
phiền não thuộc về Ý.
2/
Phiền não từ đâu đến?
Mỗi khi bị
phiền não, khổ đau,
chúng ta có
thói quen đổ lỗi cho người và sự vật bên ngoài. Tôi[12] buồn khổ vì người đời
ác độc,
tham lam, ích kỷ! Chủ đuổi tôi,
vợ con hất hủi, bạn bè khinh chê, v.v... Tôi vô tội, đâu có làm gì ác! Chính những người khác làm tôi khổ. Tôi chỉ là một nạn nhân đáng thương xót!
Sau khi
học Đạo, tôi hiểu được mọi khổ đau xảy đến đều do mình tạo chứ không phải tại người khác. Vì không biết
cách sống, không biết
kiểm soát ba nghiệp (thân, khẩu, ý) nên tôi đã làm những hành động đưa đến khổ đau. Trong
ba nghiệp thì Ý
dẫn đầu.
Kinh Pháp Cú[13] (Dhammapada), phẩm Song Yếu (Yamaka Vagga) có nói:
Ý
dẫn đầu các pháp
Ý làm chủ, ý tạo
Nếu với ý
ô nhiễmNói lên hay hành động
Khổ não bám
theo sauNhư xe, chân vật kéo.
Ý
dẫn đầu các pháp
Ý làm chủ, ý tạo
Nếu với
ý thanh tịnh
Nói lên hay hành động
An lạc bước
theo sauNhư bóng, không rời hình.
Tại
vô minh hay ái dục?
Trong Kinh
Bảo Tích (Ratnakuta) có kể một ví dụ: một người cầm cục gạch ném vào con chó. Bị trúng gạch đau quá, con chó liền rượt theo cục gạch sủa tức tối. Con chó không biết thủ phạm làm cho nó đau không phải là cục gạch mà là người ném gạch. Cũng vậy cái làm cho ta
đau khổ không phải sự vật bên ngoài mà là sự
vô minh của ta.
Vô minh có nghĩa là không
sáng suốt, không
hiểu biết. Nhưng không
hiểu biết cái gì?
Trong kinh dạy đó là sự không thấu hiểu về
tính cách vô thường,
vô ngã và
duyên sinh của sự vật. Do không hiểu nên mới tham đắm,
ưa thích và
vì vậy nên bị
trói buộc.
Ở đây tôi đi
xa hơn một chút và hỏi tiếp là Ai
vô minh hay cái gì không hiểu biết?
Đức Phật dạy
Vô Ngã mà tại sao tôi cứ hỏi Ai hoài?
Con người được
cấu tạo bởi
năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức), nói gọn hơn là
danh sắc hay
thân tâm.
Thân thể có
hình sắc, còn tâm chỉ có tên gọi (danh). Theo
Duy Thức Học, tâm
gồm có tám thức, trong đó
Ý thức được xem là chủ nhân
tác nghiệp. Do đó nếu hỏi Ai
vô minh thì ta có thể
trả lời là Ý
vô minh. Ở đây muốn
đơn giản hóa
vấn đề mà nói như vậy chứ
sự thật phức tạp hơn nhiều.
Ý thức không thể
độc lập tự tung tự tác mà phải
cộng tác với 51
tâm sở và những
chủng tử hiện hành từ A Lại Gia Thức.
Trở lại câu hỏi
đau khổ tại
vô minh hay tại ái dục? Ta có thể đáp là:
tại vì Ý
vô minh nên mới sinh ra
ái dục dẫn đến khổ đau. Trong
mười hai nhân duyên,
vô minh được xếp hàng đầu và ái đứng hàng thứ tám.
Vô minhMuốn định nghĩa
vô minh (avijja hay avidya) là gì không phải chuyện dễ. Vì mỗi
truyền thống, mỗi trường phái đều có sự định nghĩa riêng.
Thí dụ: Theo
Nguyên Thủy,
vô minh là không biết
luật nhân quả,
Tứ Đế, 12
nhân duyên.
Theo
Đại Thừa,
vô minh là không
nhận ra được
thật tánh của các pháp.
Theo
Thiền tông,
vô minh là không biết ông chủ,
bản lai diện mục,
chân tâm.
Theo
Kinh Kim Cang, chấp vào
sắc tướng âm thanh là
vô minh.
Theo
Kinh Lăng Nghiêm,
bất giác không ngộ được
bản tâm chân không diệu hữu là
vô minh.
Theo Kinh
Bát Nhã, không biết
Tánh Không của các pháp là
vô minh.
Theo
Kinh Pháp Hoa và
Niết Bàn, không
nhận ra được
Phật tánh là
vô minh.
Theo
Duy Thức, chấp các pháp
hiện hữu ngoài thức là
vô minh, v.v...
Từ những định nghĩa khác nhau ở trên, ta có thể rút tỉa
đại ý như sau:
Vô minh là không biết
luật duyên sinh, không
nhận ra thật tánh của các pháp, nên chấp vào
sắc tướng và các pháp
hiện hữu bên ngoài.
Cái gì không biết? Chính cái Ý không biết nên gọi là
vô minh. Vì
vô minh nên không
nhận ra các pháp đều như mộng,
như huyễn, bào, ảnh, và từ đó sinh ra
suy nghĩ sai lầm,
chấp ngã,
chấp pháp.
Chấp ngã là tin và
bám víu vào một cái Ta, từ đó đưa đến
bám víu vào những cái
liên quan đến Ta (
ngã sở) như: vợ ta, con ta, nhà ta,
tài sản của ta,
danh dự của ta, v.v...
Chấp pháp là
bám víu vào mọi sự vật trên đời, cho rằng
chúng hiện hữu thực sự như: nhà cửa, xe cộ, tiền bạc,
danh lợi, đồ đạc, sông núi, cỏ cây, người vật, v.v...
Nhưng
bám víu vào một cái Ta và sự vật đâu có gì sai quấy? Dưới mắt
thế gian thì không có gì sai quấy, ngược lại
cần phải bám víu thì mới gọi là người khôn. Nhưng theo lý Đạo, cái Ta và sự vật (các pháp) không có thật, vì do
nhân duyên giả hợp,
vô thường,
vô ngã, không
hiện hữu thực sự nên không thể nắm bắt hay
bám víu. Cứ muốn nắm bắt cái
không thật có thì không phải
vô minh là gì?
Thí dụ: Đi trong sa mạc, dưới
ánh nắng như thiêu như đốt, bao nhiêu nước uống đã cạn. Ta
lần mò đi tìm một nơi nào có nước. Nhìn xa xa ta thấy hình như có một ao nước ở phía trước nhưng khi lại gần thì chẳng thấy gì cả. Đó chỉ là
ảo ảnh sóng nắng, do
ánh nắng mặt trời và sự
phản chiếu của cát tạo ra. Vì quá khát nước, ta lại
lên đường hy vọng tìm thấy một ao nước nào khác và lại bị
thất vọng.
Cái Ta và các pháp cũng
hiện hữu như sóng nắng, thấy hình như có mà
không thật có. Khi đủ duyên thì chúng
ảnh hiện như có, thiếu duyên thì chúng tan biến. Vì không biết như thế nên mới
bám víu, nắm giữ làm của mình, đến khi nó tuột khỏi tầm tay thì buồn tủi,
thất vọng, than khóc.
Ái dụcÁi có nghĩa là yêu hay
ưa thích, dục là
ham muốn.
Ái dục không thể
tự nhiên phát sinh. Ta không thể
tự nhiên yêu ai hay thích ai nếu
chưa bao giờ gặp hay
tiếp xúc với người đó. Do sự
tiếp xúc (sparsa, contact) mà
ái dục (tanha) phát sinh. Mắt thấy sắc đẹp mới khởi lòng yêu mến, tai nghe
âm thanh dịu dàng mới thích, mữi ngửi mùi hương thơm mới ưa, miệng nếm vị ngon mới thèm,
thân thể xúc chạm
cảm giác khoái lạc mới nhớ thương.
Khi
sáu giác quan tiếp xúc với người hay vật bên ngoài gây ra những
cảm thọ dễ chịu thì phát sinh sự yêu thích (ái). Khi
lục căn tiếp xúc với
lục trần gây ra
cảm thọ khó chịu thì phát sinh sự
chán ghét (ố). Yêu hay ghét đều thuộc về Tình cảm. Khi yêu thì ta muốn bám giữ,
chiếm hữu; khi ghét thì ta muốn
xua đuổi,
tiêu diệt. Từ đó trong tâm sinh ra đủ loại tình cảm
xung đột,
phiền não.
Trong vòng 12
nhân duyên (
vô minh, hành, thức,
danh sắc,
lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh,
lão tử) thì thọ và ái (thuộc về Tình) là nơi
phiền não hiển lộ hay biểu hiện.
Vô minh, hành, thức (thuộc về Ý) là nguồn gốc gây ra
phiền não.
Theo Ý mình
Theo
giáo lý,
nguyên nhân sinh ra
phiền não đúng là
vô minh và
ái dục như đã
phân tách ở trên. Nhưng
trong đời sống hàng ngày, ta có thể
tìm thấy nguyên nhân của
phiền não một cách giản dị, không
cần phải có nhiều
kiến thức phật học với những danh từ chuyên môn.
Thí dụ: Sau một
thời gian lân la làm quen với cô Tám,
cuối cùng tôi cũng cưới được cô ta làm vợ. Mừng rỡ tôi nghĩ mình sẽ có
hạnh phúc. Nhưng chỉ sau vài tháng, tôi
nhận ra hai vợ chồng có nhiều
ý kiến và ý thích
xung khắc. Người nào cũng cho mình đúng và muốn người kia phải
thuận theo mình. Mới đầu còn nhường nhịn nhưng từ
từ không ai nhường ai, sinh ra
cãi lộn rồi giận nhau.
Ít lâu sau vì nhu cầu
phật sự tại địa phương có một thầy về kêu gọi
Phật tử đóng góp xây chùa. Khi chùa lập xong thì
chúng tôi dắt nhau tới làm
công quả.
Ban đầu chân ướt chân ráo vô chùa, ai
sai bảo việc gì
chúng tôi cũng làm hết, không dám chống trái.
Bà con cô bác và thầy
trụ trì thấy vợ chồng tôi siêng năng
công quả nên mời
gia nhập vào
ban quản trị của chùa. Tôi được bầu làm Tổng
thư ký, vợ tôi làm Thủ quỹ. Tưởng đâu có chức vụ thì làm việc đạo
hanh thông hơn, nhưng không ngờ mình đã bước vào
thế giới của
phiền não. Cứ đến
buổi họp hàng tháng của
ban quản trị là tôi nhức đầu, phải ghi nhớ tất cả
ý kiến của
mọi người để làm
biên bản. Ui chao ơi! Sao người nào cũng có
ý kiến hết! Không những một
ý kiến mà nhiều
ý kiến. Ai cũng cho
ý kiến của mình đúng rồi
cãi nhau ỏm tỏi. Hết
buổi họp, nhiều
đạo hữu ra về
buồn bực không muốn nhìn mặt nhau. Sau vài năm
sinh hoạt Phật tử đến chùa càng đông nên thầy
trụ trì muốn mở mang làm chùa to hơn, nhưng theo Ý tôi và vài
đạo hữu thì muốn thầy tổ chức các khóa
tu học. Vì từ lâu làm
công quả, tôi thấy mình chưa hiểu gì về
giáo lý đạo Phật,
sinh hoạt ở chùa
quanh quẩn chỉ có lễ lược đám sám,
cầu an, cầu siêu. Trong tuần chùa vắng như chùa Bà Đanh, cuối tuần
Phật tử đến chùa
lạy phật một chút rồi xúm nhau
ăn uống nói chuyện
ồn ào như cái chợ.
Tu hành phải đầy đủ
phước huệ như chim muốn bay phải cần hai cánh, nếu chỉ có cánh to cánh nhỏ thì bay không được huống chi một cánh. Nhưng hình như thầy chỉ muốn "duy ngã độc tôn", không muốn
Phật tử của mình
học đạo với thầy khác nên thầy không
đồng ý. Thấy thầy không đồng (ý), nên tôi
buồn bực (tình), muốn từ chức Tổng
thư ký ở
nhà tu một mình (thân).
May sao hiện nay băng nhựa
thuyết pháp của quý thầy không cánh mà bay khắp nơi, nhờ đó tôi cũng sưu tập được khá nhiều. Nhưng sau một
thời gian nghe băng lại có chuyện mới. Tôi thích
tu Thiền, còn vợ tôi không thích nghe
giáo lý mà chỉ thích vào chùa làm
công quả gặp
bà con cô bác cho vui thôi. Không nói chuyện Thiền được với vợ, tôi đành vào chùa tìm anh Năm, vì nghe đâu anh cũng
chuyên tu Thiền. Đến khi gặp anh nói chuyện thì tôi vỡ mộng. Cũng cùng một chữ Thiền, nhưng Thiền của anh là Thiền của
Hoà Thượng Thanh Từ, còn Thiền mà tôi thích là Thiền của
thiền sư Nhất Hạnh. Thế thì tuy cùng Thiền mà không cùng thuyền!
Vào chùa bất
đồng ý kiến với thầy bạn, về nhà thì không nói chuyện được với vợ. Tôi
cảm thấy mình
cô đơn, lẻ loi, không ai hiểu mình hết.
Ở đây
nguyên nhân làm tôi khổ là: muốn sự vật phải theo Ý mình.
Nhưng Ý mình là cái gì? Là
ý kiến,
ý tưởng,
ý nghĩ,
ý niệm, v.v... của mình.
Ý kiến là cái thấy của ý.
Ý tưởng là cái tưởng của ý.
Ý nghĩ là cái nghĩ của ý.
Ý niệm là cái ghi nhớ của ý.
Tất cả những cái thấy, tưởng, nghĩ, nhớ của ý, ta thường cho nó là mình, là ta,
đạo Phật gọi là
ngã kiến.
Nhưng Ý của tôi có luôn luôn đúng và đáng cho người khác phải theo không? Nhiều khi chính tôi còn không làm
vừa lòng mình được huống chi muốn người khác phải
tuân theo ý mình.
Cuối tuần chồng muốn vợ đi câu cá với mình, còn vợ lại muốn chồng chở mình lên chùa
lễ Phật công quả.
Phật tử đến chùa thì muốn quý Thầy phải
đặc biệt chú ý
ưu đãi mình,
nếu không thì
buồn bực không vui. Thầy thì muốn
đệ tử phải chiều theo ý mình,
nếu không thì
lơ là không nhòm ngó tới.
Vì muốn sự vật xảy ra theo ý mình nên mới lo. Khi gặp việc trái ý thì tức giận. Bị mất mát thì buồn.
Con người sống
trong vòng lẩn quẩn của muốn, lo, giận, buồn, rồi lại buồn, giận, lo, muốn. Sự vật xảy ra theo
nhân duyên chứ không theo ý của ai hết, khi đủ duyên thì việc
thành tựu, thiếu duyên thì không thành.
3/ Tiến trình
phiền nãoNhư đã thấy ở trên,
trong đời sống hàng ngày không lúc nào Ý, Tình, Thân ngưng
hoạt động và
phiền não cũng phát xuất từ đó nhất là
từ Ý.
Ý thường làm gì?
Nó
thường hay nghĩ (tư), gọi là
ý nghĩ (penser); nó hay nhớ (niệm, se souvenir), gọi là
ý niệm; nó hay tưởng (croire, imaginer) gọi là
ý tưởng; nó hay thấy (kiến) gọi là
ý kiến. Nó có
công năng hiểu biết và
phân biệt (thức) gọi là
ý thức.
Khi
ý thức suy nghĩ, nhớ tưởng điều lành thì miệng và thân sẽ nói và làm điều lành. Đây là
thiện nghiệp và sẽ đưa đến
quả báo hạnh phúc.
Khi
ý thức suy nghĩ, nhớ tưởng điều xấu ác thì miệng và thân sẽ làm điều sai quấy. Đây là
ác nghiệp và sẽ đưa đến
hậu quả khổ đau.
Vì thế người
tu hành phải luôn luôn
cố gắng giữ gìn tu tập cho
ba nghiệp (thân, khẩu, ý) của mình được
thanh tịnh.
Trong Kinh Kalama[14], có kể chuyện
đức Phật đi đến thị trấn Kesaputta, ở đó có những người dân Kalama, họ thưa hỏi
đức Phật rằng: Có một số
Sa môn,
Bà la môn đến Kesaputta để
truyền đạo,
thuyết minh và phát huy
giáo lý của mình mà
bài xích, khinh miệt, chê bai và
xuyên tạc giáo lý của người khác.
Vậy thì trong những
Sa môn này, ai
nói thật, ai nói dối?
Đức Phật trả lời: Này các người Kalama,
chớ có tin vì nghe nói lại,
chớ có tin vì theo
truyền thống,
chớ có tin vì
nghe đồn,
chớ có tin vì
kinh điển truyền tụng,
chớ có tin vì
lý luận siêu hình,
chớ có tin vì đúng theo một
lập trường,
chớ có tin vì
đánh giá hời hợt những
dữ kiện,
chớ có tin vì
phù hợp với
định kiến,
chớ có tin vì phát xuất từ nơi có
uy quyền,
chớ có tin vì vị
sa môn là bậc thầy của mình.
Nhưng này các người Kalama, khi nào tự mình biết rõ như sau: Các pháp này là thiện, các pháp này không có tội. Các pháp này được người trí khen ngợi. Các pháp này nếu được
thực hiện và
chấp nhận thì dẫn đến
hạnh phúc an vui, thời này các người Kalama, hãy
tin theo và
an trú.
Qua lời dạy trên, ta thấy
đức Phật không phải là một bậc
giáo chủ độc tài, ngài không bao giờ bắt
đệ tử phải
tin theo ngài một cách
mù quáng và lời dạy trên không có
ngã kiến và
giới cấm thủ kiến.
Tiến trình
phiền nãoKhi Ý có những sự thấy, nghĩ, tưởng, nhớ
sai lầm thì gọi đó là
vọng tưởng hay
tà kiến. Từ
vọng tưởng sẽ đưa đến
vọng tình (tình cảm
sai lầm). Và
vọng tình sẽ đưa đến vọng nghiệp (hành động
sai lầm). Vọng nghiệp
trở lại nuôi dưỡng vọng tưởng, và cứ thế ba cái này tương duyên tương sinh, xoay vần mãi làm cho
chúng ta phiền não khổ đau.
Ý →
Vọng tưởngTình →
Vọng tìnhThân → Vọng nghiệp
Vọng tưởng đồng nghĩa với vô minh.
Vọng tình đồng nghĩa với ái dục và
phiền não.
Vọng nghiệp
đồng nghĩa với tạo nghiệp (thủ, hữu).
Từ đó ta có tiến trình dưới đây:
Vì không biết (
vô minh) nên
nghĩ tưởng sai lầm. Vì
nghĩ tưởng sai lầm nên sinh ra ưa ghét, buồn giận (
phiền não). Vì
phiền não nên tạo
nghiệp bất thiện. Khi tạo
nghiệp bất thiện thì kết quả là khổ đau, khi bị khổ đau thì
tâm trí u mê không
sáng suốt (
vô minh).
Muốn
chấm dứt vòng tròn "vô minh,
phiền não, nghiệp" thì phải
chấm dứt vọng tưởng,
vọng tình, vọng nghiệp, tu sửa Ý, Tình, Thân.
[1] Đây là chuyện giả tưởng, không phải đời thật của tác giả.
[2] Từ Đạo Hạnh là tiền thân của vua Lý Thần Tông. Từ Đạo Hạnh và Nguyễn Minh Không là hai thiền sư nổi tiếng ở Việt Nam vào thế kỷ 12. Xem "Thiền Sư Việt Nam" của Thích Thanh Từ.
[3] Xem Đại Thủ Ấn. Thích Trí Siêu
[4] Trích "Niệm Phật Thập Yếu". Thích Thiền Tâm
[5] Kinh Ví dụ con rắn, Trung Bộ Kinh, số 22.
[6] Sách Vô Ngã, Thích Trí Siêu.
[7] Tứ tất đàn gồm có: thế giới tất đàn, vị nhân tất đàn, đối trị tất đàn, đệ nhất nghĩa tất đàn.
[8] Theo Buddhist Dictionary của Nyanatiloka, trích từ Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimaga) và Tỳ Bà Sa (Vibhasa).
[9] Trích Phật Học Phổ Thông, khóa thứ Năm.
[10] Về sau chuyển sang Đại Thừa, Thế Thân lại chia ra 51 tâm sở. Do đó sự phân chia này không phải là tuyệt đối.
[11] Trích Tâm Lý Học Phật Giáo, Thích Tâm Thiện.
[12] "Tôi" ở đây là nhân vật giả tưởng của chương 1.
[13] Kinh Pháp Cú do HT Thích Minh Châu dịch.
[14] Tăng Chi Bộ Kinh (Anguttara Nikaya I), Thích Minh Châu.