Bình an và hạnh phúc là niềm mong ước của cả nhân loại, không phân biệt màu da, tôn giáo. Ai ai cũng mong muốn cho bản thân, gia đình, đất nước của mình được bình an, được hạnh phúc. Hạnh phúccần phải được thiết lập, xây dựng và nuôi dưỡng bằng tình yêu, hiểu biết và kinh tế ổn định ; nhưng để có được bình an - thứ giá trị mà có kinh tế chưa chắc đã mua được, người ta cần phải có niềm tintôn giáo và sự hành trìtu tập. Đôi khi, ở xã hội này, con người ta đã có tất cả : tình yêu, tài sản, địa vị, quyền lực… nhưng vẫn cảm thấybất an, vẫn cảm thấy chưa có hạnh phúc. Và đối với nhiều người, khi chứng kiến cuộc sống đầy bất an, bạo lực, khủng bố, bất bình đẳng… ở thế giới này, họ đã hơn một lần mong thoát khỏi nó, mong được lên thiên đường, sống chung với Thượng đế hoặc vãng sinh về cảnh giớihoàn toàn không có khổ đau. Trớ trêu thay, ngay cả chúng sinh ở Thiên giới, tức các vị trời, lại cũng có chung một thao thức, một mong ước… rất con người, như con người : họ cũng ước mong được học hỏi, được hiểu biết về cách thức tạo dựng những phúc lành cao thượng, gieo trồng những hạt giốngphước điền nhằm xây dựngmột đời sống an lành và hạnh phúc. Chuyện như vầy: Hôm nọ, khi Đức Thế tôn đang cư ngụ tại thành Xá-vệ, trong tịnh xáKỳ viên. Bấy giờ, đêm đã vào khuya, có một vị trời, dung sắc thù thắng, hào quang chiếu rạng, sáng toả Kỳ viên, xuống nơi Phật ngự, đảnh lễThế tôn, rồi đứng một bên, cung kínhbạch Phật, bằng lời kệ rằng : "Chư thiên và nhân loại
Suy nghĩ điều hạnh phúc Hằng tầm cầu mong đợi Một đời sống an lành Xin ngài vì bi mẫn Hoan hỷ dạy chúng con Về phúc lành cao thượng". Trên đây là những điều được chính Tôn giả A-nan nghe và tường thuật lại thành bản kinh có tên Mahamangala sutta, được kết tập trong tạng kinh Pali, bộ Sutta Nipata, 258-269. Bản kinh này thường được biết đến với tên gọi là Kinh Phước đức, hay Kinh Đại phước đức hoặc kinh Đại hạnh phúc và được các Phật tử các nước Phật giáo Nam truyền như Tích lan, Miến điện, Thái lan… trì tụng thuộc lòng mỗi ngày. Cũng với nội dung này, trong tạng kinh Bắc truyền chữ Hán, nó được kết tập thành phẩm 39, phẩm Cát tường của bộ KinhPháp cú, thuộc Đại tạng kinh Đại chính tân tu, số 210 ; và phẩm 42 cùng tên trong bộ Pháp cúThí dụ, số 211 thuộc ĐTK/ĐCTT. Mở đầu bản kinh đã cho thấy, không những chỉ loài người, mà cảchư thiên, đều suy nghĩ, mong ước, tìm cầu và mong đợimột đời sống an lành. Hoá ra đời sống ở Thiên giới không hẳn đã được an lành ! Kinh điểnPhật giáo cho chúng ta biết đời sống của các chư thiên có phước báo và sung sướng hơn hẳn loài người, nhưng vẫn còn chịu sự chi phối của sinh tử luân hồi nên chưa hết khổ đau. Mà chưa hết khổ đau thì vẫn còn xu yếu tầm cầu hạnh phúc. Để thoả mãn cho những thao thức của cả chư thiên và nhân loại, Đức Thế tôn trình bày 38 phương cách sống đưa tới phúc lành cao thượng mà theo Đức Thế tôn, thực tập theo những điều này mới chính là phước đức lớn nhất hay cát tường, tốt đẹp nhất ! Đọc bản kinh, chúng ta thấy rõ nội dung của nó chứa đựng những giá trịluân lýđạo đứchết sứccăn bản của con người, đồng thời đưa ra những chỉ dẫn mang tính định hướng nghề nghiệp rất cơ bản, những phương cách hành xử giữa cá nhân với gia đình và xã hội rất nhân văn. Trong phẩm Cát tường kinhPháp cú, chúng ta có 49 điều cát tường, nhiều hơn kinh Phước đức 10 điều, nhưng tựu trung nó cũng là những chỉ dẫn thiết yếu cho đường đời cũng như tiến bộtâm linh. Tuy nhiên, có một điều đáng chú ý là, trong khi kinh Phước đức mở đầu bằng lời khuyên : "Không gần gũi kẻ ác (1) Thân cận bậc trí hiền (2) Tôn kính bậc đáng kính (3)",
thì phẩm Cát tường kinhPháp cú đưa ra lời cảnh tỉnh :
"Ai vui tin chính pháp (1)
Là điều kiết tường nhất.
Chẳng phải xin trời, người (2)
Cũng không cúng thần thánh (3)
Để cầu điều may mắn
Là điều kiết tường nhất”. Không thể cầu cạnh, van xin người khác cho mình sự bình an, hạnh phúc, mà ngay cả các đấng trời, đất, thánh thần… chúng ta cũng không thể cầu cúng cho họ mà đạt được điều may mắn. Sự thật này cũng đã được nói đến trong Kinh Pháp cú, phẩm Đức Phật: “Tìm nhiều chỗ quy y
Nơi thần cây, sông, núi
Họa tượng, lập miếu thờ
Cúng tế để cầu phước
Ai quy y như vậy
Không tốt lành, tối thượng
Bởi thần kia đâu đến
Để cứu khổ ai đâu?”[i] Các vị thần linh không ai đến để cứu khổ cho chúng ta, không ai đến để ban chochúng ta sự bình an, hạnh phúc. Chúng ta cũng không thể cầu phước bằng cách hoạ tượng, lập miếu thờ thần cây, núi đá, miễu bà, dinh cô… Muốn có được đời sốngan lành, hạnh phúcchân thậtchúng tacần phảitu tập, hành trì đúng chánh pháp để chuyển hoáthân tâmthoát khỏi mọi nhiễm ô, phiền não. Sau khi đã xác định không ai ngoài bản thân của mỗi chúng ta chịu trách nhiệm về cuộc đời của chính mình, hạnh phúc hay khổ đau là hệ quả tất yếu của các hành nghiệp chính mình gây tạo ra, chúng ta bắt đầu thực tập : không gần gũi kẻ ác (1), thân cận bậc trí hiền (2), tôn kính bậc đáng kính (3). Tổ tiên ta vẫn thường dạy ‘gần mực thì đen’, còn chư tổ thì dạy ‘hiệp tập ác giả trưởng ác tri kiến’, tức gần gũi kẻ xấu ác thì chỉ làm cho cái thấy, cái biết ngày một trở nên xấu xa. Cho nên, không những cần phải tránh xa kẻ ác mà còn phải ‘thân cận bậc trí hiền’, điều mà trong kinh thường nói là ‘thân cận thiện sĩ’, tức gần gũi thầy lành bạn tốt để làm cho cái thấy, cái biết ngày càng trở nên rộng lớn, sáng suốt. Sáng suốt để mà biết phân biệt, để ‘tôn kính bậc đáng kính’, chứ không phải gặp đâu cũng lạy, thấy ai cũng cúi đầu cho họ ‘quán đảnh’! Rồi thì, đối với môi trường sống, cần phảilựa chọn ở trú xứ thích hợp (4). Trú xứ thích hợp là khi ở đó mình có thể được tạo tác nhân lành (5) và được đi trên đường chánh (6). Tạo tác, gieo trồng hạt giốngtốt lành, thiện pháp thì gặt được quả báotốt đẹp, an vui. Đi trên đường chánh là y chỉ trên Bát chánh đạo. Bát chánh đạo dạy cho một người Phật tử phải sống chánh nghiệp và chánh mạng. Cho nên, cần phải có học (7), để có nghề hay (8), và nghề ấy lương thiện (13). Trong xã hội phát triển và mở cửa hội nhập như xã hộichúng ta ngày nay thì người có học và có nghề giỏi có rất nhiều cơ hội thành công, nhưng cần phải biết cung kính (22), khiêm nhường (23), nhẫn nhục (27), thuần hoá (28) và tự kiềm chế (19) để không bị say sưa (20). Không nghiện ngập say sưa trong rượu chè và càng không nên để say sưa, đắm mình trong dục vọng, lợi danh. Muốn vậy, cần phải biết hành trìgiới luật (9) để hành vi không lỗi lầm (17) và xả ly tâm niệm ác (18). Thiết lậpđời sốngtự tại, thong dong (36) nhờ tu tập thiền định (31); gần đời mà chẳng hôi tanh mùi đời (37) nhờ sống phạm hạnh (32); thấy được chân lý của cuộc đời (33) nhờ thường yết kiến sa-môn (29), đúng thời nghe chánh pháp (26) và tuỳ thời đàm luận pháp (30). Đối với mình thì tri túc (24), đối với người thì tri ân (24). Đối với gia đình thì hiếu thuận bậc sanh thành (11), chăm sóc vợ và con (12); đối với người ngoài thì bố thí (14), hành đúng Pháp (15) và giúp ích hàng quyến thuộc (16). Đối với thiện pháp nếu tinh cầnthực tập (21) thì khi xúc chạm việc đờitâm không hề lay chuyển (35). Tựu trung, những điều vừa được chỉ dẫn nếu thực hành không chỗ nào thối thất (38) thì đâu đâu cũng có được an toàn, hạnh phúc. Đó là những chỉ dẫn của Đức Thế tôn về một con đườngchắc chắn đưa đến thành tựusự nghiệp ở đời và cũng thành tựuđời sốngtâm linhvững chắc, chứng ngộ quả niết-bàn (34). Đây chính là phương cách tầm cầu phước đứctối thượng nhằm đạt đượcđời sống hài hoà và tiến bộ cho cá nhân cũng như đưa đến hạnh phúc cho gia đình, hoà bình cho xã hội. Sau đây chúng ta hãy đọc toàn bộ nội dung bản kinh : Kinh Hạnh Phúc
Như vầy tôi nghe : Một thời Thế tôn Ngự tại Kỳ viên
tịnh xá Cấp cô độc Gần thành Xá vệ Khi đêm gần mãn Có một vị trời Dung sắc thù thắng Hào quang chiếu diệu Sáng tỏa Kỳ viên Đến nơi Phật ngự Đảnh lễThế tôn Rồi đứng một bên Cung kínhbạch Phật Bằng lời kệ rằng : Chư thiên và nhân loại Suy nghĩ điều hạnh phúc Hằng tầm cầu mong đợi Một đời sống an lành Xin Ngài vì bi mẫn Hoan hỷ dạy chúng con Về phúc lành cao thượng.
Thế Tôn tùy lời hỏi Rồi giảng giảinhư vầy : Không gần gũi kẻ ác Thân cận bậc trí hiền Tôn kính bậc đáng kính
Là phúc lành cao thượng Ở trú xứ thích hợp Công đức trước đã làm Chân chánh hướng tự tâm Là phúc lành cao thượng Đa văn nghề nghiệp giỏi Khéo huấn luyện học tập Nói những lời chơn chất Là phúc lành cao thượng Hiếu thuận bậc sanh thành Chăm sóc vợ và con Sống bằng nghề lương thiện Là phúc lành cao thượng Bố thí hành đúng Pháp Giúp ích hàng quyến thuộc Hành vi không lỗi lầm Là phúc lành cao thượng Xả ly tâm niệm ác Tự chế không say sưa Tinh cần trong thiện pháp Là phúc lành cao thượng Biết cung kính khiêm nhường Tri túc và tri ân Đúng thời nghe chánh pháp Là phúc lành cao thượng Nhẫn nhục tánh thuần hoá Thường yết kiếnsa môn Tùy thờiđàm luận pháp Là phúc lành cao thượng Thiền định sống phạm hạnh Thấy được lý thánh đế Chứng ngộ quả niết bàn Là phúc lành cao thượng Khi xúc chạm việc đời Tâm không động không sầu Tự tại và vô nhiễm Là phúc lành cao thượng Những sở hành như vậy Không chỗ nào thối thất Khắp nơi được an toàn Là phúc lành cao thượng.
[i]Kinh Pháp cú Bắc truyền, phẩm Đức Phật, kệ 14-15, Thích Nguyên Hùng dịch.