Giáo lý Phật tuy nhiều, nhưng chủ yếu nằm trong
vô thường, nghĩa là
vạn vật luôn thay đổi và
con người là
vô ngã, tức
con người do
tứ đại ngũ uẩn hợp thành, không có thật.
Giáo lý vô thường và
vô ngã mà Phật dạy để giúp
chúng ta tận
diệt khổ đau và đạt Niết-bàn. Từ
vô thường,
chúng ta tìm cái thường còn, từ khổ đau,
chúng ta tìm cái
an lạc là Niết-bàn có thường, lạc, ngã và tịnh.
Đức Phật sống trên
cuộc đời có
vô thường, nên Ngài phải nói
vô thường để
chúng ta đừng chấp
mọi vật là thường còn mà
đau khổ. Phật dạy
vật chất luôn thay đổi để
chúng ta đoạn diệt tâm
chấp trước, mới có
thế giới an lạc là Niết-bàn.
Thật vậy, đầu tiên
Phật thuyết vô thường vô ngã cho năm anh em
Kiều Trần Như và họ
đắc quả A-la-hán. Từ đó, họ
hiện hữu trên
cuộc đời này mà không bị
tham lam,
ganh tỵ chi phối, nên họ luôn
an lạc, mới làm cho người chấp thường thấy
vậy mà thức tỉnh và
phát tâm tu theo.
Phật dạy
vô thường để
chúng ta nhận thức đúng đắn bản chất của sự vật mà chứng được chơn thường.
Mọi vật có hai phần là
sanh diệt và
vô sanh. Phật dạy
thế giới này là khổ và
nguyên nhân của khổ, điều đó thuộc về phần
sanh diệt. Để đoạn trừ khổ và
nguyên nhân của khổ, Phật dạy tu 37
Trợ đạo phẩm thì chứng được Niết-bàn, nhưng không biết lại nói
đạo Phật chán đời là
sai lầm lớn của
con người.
Phật dạy
cuộc đời thế nào thì phải thấy đúng và sống đúng để đoạn trừ
ảo giác. Vì
chúng ta có
tham vọng, mới có
ảo giác là không
thực tế mới bị
đau khổ. Còn thấy
cuộc đời đúng
sự thật và biết
nguyên nhân nào dẫn đến
đau khổ, thì khổ phải
chấm dứt và tu
nguyên nhân dẫn đến
an lạc thì Niết-bàn
hiện hữu. Phật dạy rõ hai
con đường như vậy.
Ở
thế giới sanh diệt mà
chúng ta muốn không
sanh diệt làm sao được.
Con người sanh ra, lớn lên, già, bệnh, rồi chết là
quy luật tất yếu, mà
chúng ta muốn không già, không chết và sống mãi là không
thực tế. Mà nếu
con người sống mãi thì trái đất này sẽ
bị nạn nhân mãn mất. Thời Phật
tại thế, trái đất này chỉ có độ năm trăm triệu dân, nhưng nay bảy tỷ người, thì quý vị nghĩ sao.
Có
quy luật sanh, già, bệnh, chết, trái đất mới
trở thành cân bằng và
tồn tại được. Có sanh mà không chết là nghĩ đến
thiên đường, nhưng như vậy cũng
bị nạn nhân mãn, không còn chỗ chứa người ta.
Quan niệm lên
thiên đường hưởng phước luôn cũng không đúng.
Thiên đường cũng có tuổi thọ của nó, nhưng dài hơn
thế gian. Ở
thiên đường, đất rộng người thưa, vì chỉ có
loài người tu được
Thập thiện mới được sanh lên
thiên đường, nên cũng khó có người được lên
thiên đường. Thật vậy,
chúng ta thọ
Thập thiện, nhưng
tu Thập thiện không dễ. Một ngàn người
tu Thập thiện may ra có được một người
thành tựu. Và ở
thiên đường hưởng hết phước cũng bị rớt xuống
trở lại.
Ta
chiêm nghiệm ý nghĩa vô thường mà Phật dạy thấy rõ
sự thật rằng
vạn vật biến đổi, hay gọi là
tiến hóa, từng
thế hệ luôn phát triển.
Đời sống từ Phật
tại thế cho đến ngày nay,
nếu không có
tiến hóa thì con kiến vẫn là con kiến. Từ thời
Phật giáo Nguyên thủy cho đến thời
Phật giáo phát triển cũng nhờ
vô thường, tức
hoàn cảnh đổi khác mà
chúng ta có
nhận thức khác, là có sự
tiến hóa về
vật chất và
tiến hóa về
tâm linh.
Tiến hóa vật chất là từ cuộc sống
đơn sơ của người cổ đại đã tiến lên cuộc sống
văn minh hiện đại.
Tiến hóa tâm linh là người khổ đau tu
Tứ Thánh đế thì diệt được khổ đau và
đắc quả Tu-đà-hoàn,
cho đến quả A-la-hán,
Bích chi Phật và
thành tựu quả vị Phật.
Nếu không có
vô thường thì tất cả
mọi việc nằm yên, không thay đổi. Nhờ
vô thường,
chúng ta tích cực hơn, vận dụng được sự phát triển, giúp cho
đời sống thăng hoa và
tiến hóa.
Riêng tôi, từ thuở nhỏ, đã cảm nhận
ý niệm vô thường, thấy mạng người ngắn ngủi, nên 12 tuổi đã
nỗ lực tu học, sợ không kịp rồi chết, không biết về đâu. Tôi phấn đấu tìm đạo và
tu học không
mệt mỏi, nên thăng hoa
đời sống tâm linh. Nhờ
vô thường, có
tiến hóa nên tôi lần thay đổi từ đứa trẻ nhỏ
cho đến trưởng thành.
Chúng ta biết thay đổi theo hướng
tốt đẹp là sống theo
Bát Chánh đạo của Phật dạy, phát triển được
đời sống vật chất và
tâm linh. Còn thấy
vô thường rồi chán nản buông xuôi thì tương lai đi về đâu không biết.
Biết
vô thường,
chúng ta cũng
hạn chế được các việc ác và phát triển được mặt thiện. Sự thay đổi cũng có hai khuynh hướng, một là phát triển
vật chất, đó là công việc của các nhà khoa học nhắm đến phát minh
vật chất. Hai là những nhà
triết học,
nhà tôn giáo tìm về sự phát triển
đời sống tâm linh. Đương nhiên
chúng ta không phủ nhận
đời sống phát triển
vật chất, nhưng không coi nó quan trọng, vì
nhận thấy đời sống vật chất ràng buộc chúng ta nhiều hơn.
Và điều quan trọng trong kinh
Đại Bát Niết-bàn,
Đức Phật cho biết khi hành Bồ-tát đạo, Ngài phải trả giá rất đắt, bằng cả
sinh mệnh để học được cốt tủy của
pháp tịch diệt như sau: “
Chư hành vô thường thị sanh diệt pháp”, nghĩa là tất cả các pháp đều luôn thay đổi,
sanh diệt. Đừng chấp vào pháp
sanh diệt, vì nương tựa pháp
sanh diệt sẽ bị nó cuốn trôi, chẳng được
lợi ích, mà còn bị nó
tác hại khổ đau.
Sanh diệt này phải
chấm dứt bằng cách không
khởi tâm theo nó. Nhờ vậy,
chúng ta ở
trạng thái tâm
tịch diệt, nghĩa là tâm
hoàn toàn trong sáng,
vắng lặng,
thanh tịnh. Đó chính là niềm vui
tuyệt vời của
đạo Phật, gọi là Niết-bàn: “
Sanh diệt diệt thời tịch diệt vi lạc”.
Trên bước đường tu, điều
cốt lõi là
chúng ta đạt cho được hai chữ
tịch diệt. Phật đến
Lộc Uyển thuyết
Tứ Thánh đế, dùng
Đạo đế để phá trừ pháp
sanh diệt, giúp cho năm Tỳ-kheo từng bước vào
pháp tịch diệt.
Trước tiên, Phật dạy rằng
Khổ đế và
Tập đế thuộc
sanh diệt pháp,
Đạo đế và
Diệt đế là
tịch diệt pháp. Tất cả sự tính toan,
lời nói phải trái,
việc làm hơn thua… đều thuộc pháp
sanh diệt, mà
chúng ta phải gạt bỏ, không cần hơn nhau những thứ này. Hơn nhau một
lời nói rồi nó cũng qua đi. Những người
nổi tiếng rồi sẽ có người khác
nổi tiếng hơn nữa. Người xưa có nói hai câu
đơn giản nhưng rất hay:
Trường Giang hậu lãng xuy tiền lãng
Thế thượng tân nhân tống cựu nhân.
Nhìn dòng sông Trường Giang ở
Trung Quốc, thấy đợt sóng sau đẩy đợt sóng trước tan đi. Người mới
xuất hiện thay cho người cũ. Nay
chúng ta nổi tiếng, mai có người khác
nổi tiếng hơn. Cứ
vậy mà mọi việc ở
sanh diệt tướng thay đổi mãi, không có gì
vĩnh viễn tồn tại. Vì thế,
chúng ta không bận tâm với pháp
sanh diệt bằng cách
thực hiện Diệt đế để
đi vào con đường xa lìa mọi khổ đau. Và từ đó, bước lần vào
thế giới chân thật thanh tịnh sống với
đời sống thật, không
sanh diệt; đó là hướng
giải thoát của người tu, đừng
chạy theo giả huyễn, làm người bắt bóng. Từng bước vào
Tịnh độ, hay thật địa là
thế giới an lạc vĩnh viễn. Vào thật địa,
Tịnh độ rồi, tâm
chúng ta hoàn toàn trong sáng,
thể hiện ra
hoàn cảnh sống của
chúng ta an vui,
tốt đẹp thực sự; đó chính là
Tịnh độ.
Kinh
Duy Ma dạy rằng
Phật ấn chân xuống đất, Ta-bà liền đổi thành
Tịnh độ. Ta-bà và
Tịnh độ là một, nên nói rằng tâm tịnh thì độ tịnh. Vì thế, đem tâm
sanh diệt đặt vào
Tịnh độ,
Tịnh độ cũng
trở thành Ta-bà. Tâm thế nào sẽ
xuất hiện thế giới tương ưng như vậy.
Tâm thanh tịnh tạo
thế giới thanh tịnh; tâm
nhiễm ô tạo
thế giới Ta-bà.
Kinh Hoa nghiêm diễn tả ý này là tâm sanh ra tất cả pháp.
Đức Phật dạy
chúng ta suy nghĩ về hai chữ
sanh diệt đến cùng tột ngọn nguồn, thì
tịch diệt xuất hiện. Tôi
diễn tả ý này là “Tâm trí lắng yên như vào thiền định”.
Tâm trí không còn
suy nghĩ là vào cảnh
tịch diệt. Vì
quán tưởng tận
sanh diệt, nên nó không phá rối được ta, tâm ta
thanh tịnh; không khởi niệm sẽ
hiện tướng giải thoát.
Đức Phật dạy rằng tướng
tùy tâm sanh, mà tướng cũng
tùy tâm diệt.
Chúng ta thấy có người
phát tâm Bồ đề,
xuất gia, họ hiện
hảo tướng liền, vì tâm
cầu đạo cao,
hết lòng nghĩ đến Phật. Nhưng tu vài năm, họ xấu lần, mất
tướng hảo; họ bắt đầu tính toán xem phải làm gì, phải tụng mấy thời kinh, phải..., họ
suy tính cái gì thì cái đó
hiện lên nét mặt họ. Nếu trụ ở
trạng thái tịch diệt tướng, tâm
vắng lặng, lòng
thanh thản trước
mọi việc tốt xấu.
Mã Thắng Tỳ-kheo đạt
vô niệm,
thể hiện tướng
tịch diệt. Phật mới cho ông đi
khất thực để mang tướng
giải thoát đi vào cuộc đời,
giáo hóa chúng sanh; người nhìn thấy sự
thanh tịnh của ông là
phát tâm. Với
tâm thanh tịnh và tướng
giải thoát,
Mã Thắng giáo hóa Xá Lợi Phất mà không cần nói lời nào, vì nói thì rơi vào pháp
sanh diệt. Không nói, nhưng đã
thể hiện pháp tịch diệt.
Các vị
Tổ sư, các bậc
chân tu ít nói. Các ngài đến vùng nào
hành đạo, ở gốc cây hay
thảo am tu hành, nhưng
quần chúng kính ngưỡng,
phát tâm xây chùa. Vì các ngài đã
chứng quả tịch diệt, là A-la-hán, người trông thấy
phát tâm, liền được
thanh tịnh,
giải thoát. Người
giải thoát xuất hiện làm cho người khác an vui, còn người
nghiệp ác làm cho người
buồn phiền,
bực tức,
nói nhiều cũng không ai tin.
Muốn
giáo hóa chúng sanh, ta phải
giáo hóa mình trước, làm cho mình
giải thoát và
tác động cho người thấy, hay nghe ta nói cũng
được giải thoát; đó là
pháp chân thật.
Đức Phật dạy
Mã Thắng sử dụng pháp này để
giáo hóa,
đạt được hiệu quả cao.
Mã Thắng chỉ cần độ
một mình Xá Lợi Phất thôi, mà
tác động đến 200
đệ tử của ông cũng theo Phật. Và
Mục Kiền Liên thấy
quả vị giải thoát của
Xá Lợi Phất, cũng xin theo Phật, tất nhiên cả
đệ tử của
Mục Kiền Liên cũng về với Phật.
Mã Thắng không phải là nhà hùng biện, nhưng chỉ một buổi
khất thực mà độ được hai nhà
lãnh đạo rất tài giỏi và
thu phục được 200 người có tầm cỡ. Quả là
sự giáo hóa
vi diệu.
HT. Thích Trí Quảng |
Giác Ngộ.