Đức Phật khai
tri kiến bằng cách đưa ra nhiều
pháp môn tu.
Chúng ta tu pháp nào cũng được với
điều kiện duy nhất là phải phát triển
tri kiến của chính mình.
Đức Phật hiện hữu trên
cuộc đời mang thân người nhằm nói với
chúng ta rằng Ngài tu
thành Phật và
chúng ta tu cũng sẽ
thành Phật.
Từ ý này, các kinh đều
diễn tả năng lực của
con người, nếu biết
sử dụng sẽ
đạt được Nhất thiết chủng trí.
Chúng sanh mê lầm lại dùng
năng lực của họ vào việc
tội lỗi. Với
tư cách một
con người,
Đức Phật sống,
hành đạo,
sinh hoạt như thế nào là Ngài bắt đầu công việc khai
tri kiến cho
mọi người.
Có thể nói khai
tri kiến không phải chỉ có ở phẩm
Phương tiện trong
kinh Pháp hoa. Thực sự tất cả
mọi việc Phật làm trong
cuộc đời đều là chìa khóa mở
tri kiến cho
chúng ta thấy.
Tuy nhiên, thấy được cũng không
đơn giản. Từng chặng đường một, tu theo
Thanh văn thừa cắt bỏ
phiền não bám vào tâm làm
chúng ta dại khờ. Mỗi người
tùy theo hoàn cảnh và
hiểu biết riêng mà vận dụng khả năng của mình, phát triển sự
hiểu biết.
Khai
tri kiến và thị
tri kiến để
hành giả nhìn vào thấy Phật là tấm
gương sáng, là người biết tất cả và làm được tất cả.
Hay nói cách khác, giúp
chúng ta hiểu được thế nào là
tri kiến Như Lai.
Làm cho
mọi người ngộ
Phật tri kiến là nhận được
Phật tri kiến. Nhận được
tri kiến không có nghĩa là nhận
tri kiến của Phật
Thích Ca, nhưng phải nhận
tri kiến của chính
chúng ta.
Thời
Đức Phật tại thế,
con người bị Bà-la-môn
mê hoặc,
trao quyền quyết định cho
Thượng đế,
thủ tiêu tri kiến của mình.
Đức Phật hiện thân con người, chỉ cho thấy chính mình mới có quyền
quyết định vận mạng của mình. Nhận được ta là người có khả năng
thành Phật,
chúng ta mới bước theo
con đường của Phật
Thích Ca đi,
đạo đức mỗi ngày cao hơn,
năng lực lớn thêm và
trí tuệ phát triển nhiều hơn là đã nhập vào
tri kiến Như Lai. Từng bước chân đi,
hành giả có Phật
Thích Ca ở bên cạnh.
Hành giả gặp Ngài trong
trình độ tu chứng của mình. Có
thâm nhập trí tuệ Như Lai mới hiểu được
tri kiến Như Lai.
Muốn độ ba hạng người
nhận thức sai lầm, Phật phải khai ba
phương tiện Thanh văn,
Duyên giác, Bồ-tát để dễ
nhận biết. Cũng như vì có người
tu khổ hạnh, Phật phải lao vào
cuộc sống khổ hạnh và
khổ hạnh vượt hơn người khác
cho đến ngã gục xuống, để chỉ cho
mọi người pháp tu này
hoàn toàn sai lầm, càng tu cơ thể càng yếu, trí càng
đần độn.
Ngài khai ra
pháp Trung đạo, không
chạy theo dục vọng xa hoa tàn phá
con người, cũng không đốt thân theo những người
khổ hạnh. Chỉ ăn những thứ
cần thiết nuôi cơ thể khỏe mạnh và giữ
trí tuệ sáng suốt. Tu theo
Trung đạo,
trí tuệ mỗi ngày phát triển hơn,
hiểu biết chính xác lần,
cho đến thành đạo.
Hai phần khai và thị
tri kiến là công việc của Phật đã làm xong. Còn lại ngộ và nhập
tri kiến hay không, tùy nơi
chúng ta.
Lộ trình đi đến
Nhất Phật thừa có khác nhau. Từ
Thanh văn tu pháp Tứ đế,
Duyên giác tu pháp Thập nhị nhân duyên và sáu pháp Ba-la-mật của Bồ-tát,
cho đến tu phước báo nhân thiên, giữ
Ngũ giới hay
Thập thiện giới cũng lần
thành Phật.
Xa hơn, Phật còn
triển khai 84.000
pháp môn thích ứng với tất cả
nghiệp lực của
chúng sanh từ
địa ngục A tỳ đến Bồ-tát, ai tu cũng được và tu
hình thức nào đầy đủ
công đức đều
thành Phật, không thể thành gì khác ngoài Phật.
Tất cả việc lớn nhất
cho đến nhỏ nhất, như người chỉ
cúng dường một cánh hoa hay cúi đầu chào Phật cũng trồng căn lành với Ngài. Hoặc người lòng
tán loạn vụt nhớ Phật, chỉ xưng Nam-mô Phật, lòng họ vơi buồn, cũng là hạt nhân của Bồ-đề. Họ lần chứa nhóm
công đức sẽ
thành Phật. Nghĩ đến Phật, chỉ một
niệm tâm cảm thấy an lành là người có
niềm tin.
Chúng ta học nhiều và giỏi đến đâu chăng nữa, nhưng không nhận được sự
an lành trong
giáo pháp Phật cũng
trở thành vô ích.
Phật thuyết pháp,
giáo hóa nhằm
mục tiêu hốt dọn phân nhơ, nghĩa là dẹp tan những
tranh luận không có lối thoát của 93
học thuyết ngoại đạo thời bấy giờ
bừa bãi trong
xã hội. Ngài thương
mọi người trên
cuộc đời suy nghĩ sai lầm, hành động
sai lầm dẫn đến quả khổ đau. Ngài mới đưa ra
Tam thừa quyền để hiển
Nhất thừa thật, hay 84.000
phương tiện tu nhằm quét dọn 84.000
phiền não trần lao cho
chúng sanh, dẫn
mọi người đến
cứu cánh thành Phật.
Mang thân
con người sanh diệt hữu hạn
đi vào nhân gian, Ngài
tu hành thành Phật, nghĩa là làm nở tung
con người bình thường để
con người chân thật bên trong
hiện ra. Quá trình 5 năm tìm đạo, 6 năm
khổ hạnh và 49 năm
thuyết pháp chứng tỏ Đức
Thích Ca là người
siêu việt. Điều đó mở ra cho
chúng ta thấy
cốt lõi Tỳ Lô Giá Na Phật bên trong của Ngài. Khi
mọi người nhận được
chân thật pháp thì phải bỏ
phương tiện. Cũng như thấy được
Phật Pháp thân thường trú Tỳ
Lô Giá Na thì Phật
Thích Ca vào Niết-bàn.
Ngài bỏ giả thân
sanh diệt để
Pháp thân còn mãi,
thâm nhập vào
Pháp giới, vào trong tâm khảm của
mọi người. Thật vậy, từ Phật Niết-bàn
đến nay hơn 25 thế kỷ
trôi qua, nhân cách
thánh thiện và lời dạy cao quý của
Đức Thế Tôn vẫn còn hướng dẫn sự sống của
loài người trên khắp năm châu bốn biển, được từng
thế hệ nối tiếp, phát huy, tạo nên sức sống
Phật giáo với muôn màu muôn vẻ.
Dưới
kiến giải của
Phật giáo Đại thừa không
cố chấp vào mô hình cố định nào. Để phát huy tinh ba
đạo Phật, cần vận dụng
giáo lý, vận dụng những
phương tiện khác nhau
tùy theo hoàn cảnh,
tùy theo sinh hoạt của từng nước, từng
thời kỳ mà làm
lợi ích.
Để
triển khai chân giáo nghĩa của Phật, các nhà
truyền giáo Đại thừa đã khéo léo
sử dụng phương tiện. Các Ngài dung hợp hài hòa
lời Phật dạy với dân tộc tính, với
văn hóa của từng nước, tạo thành sức sống
Phật giáo mãnh liệt
chỉ đạo sinh hoạt xã hội.
Điển hình như
hình thức Phật giáo Ấn Độ đi
khất thực, mặc y
phấn tảo truyền sang Trung Hoa. Nếu giữ nguyên
hình thức nhà sư đầu trần chân đất,
ăn mặc nghèo nàn như vậy, thì không thể nào
tồn tại được trong một nước Trung Hoa trọng về
lễ giáo và chủ
thực tiễn.
Các vị
Tổ sư đã khéo léo cải
biến hình thức
khất thực cho
phù hợp với
tinh thần thực tiễn bằng cách tạo ra những nông thiền. Theo đó, các sư vừa
tu học vừa sản xuất, để
giải quyết vấn đề sinh sống hàng ngày. Và cũng để
phù hợp với
văn hóa Trung Hoa mang nặng
hình thức lễ nghi, họ đã chế ra những sắc phục cho
nhà sư mặc tương
xứng với áo mão cân đai của triều đình.
Tuy nhiên,
Phật giáo đến
Việt Nam, gặp bối cảnh khác, nên suy tư và vận dụng
giáo lý của
Thiền sư Việt Nam cũng khác.
Nếu không biết đổi khác, chỉ sống y khuôn,
chắc chắn chúng ta sẽ không có những trang sử đẹp được mệnh danh là
thời kỳ vàng son của
Phật giáo Lý-Trần.
Các
Thiền sư Việt Nam tiếp thu và vận dụng
giáo lý vào cuộc sống
thực tiễn, tạo
thành sự thấy biết
chính xác,
mang đến những đóng góp
tích cực đáng kể cho dân tộc, nêu cao
một đời sống
gương mẫu đạo đức, được
mọi người kính ngưỡng. Các Ngài
xuất hiện dưới nhiều dạng khác nhau. Khi thì đóng vai Thái sư
Khuông Việt hay người chèo đò
Đỗ Thuận, lúc lại là thầy thuốc Tuệ Tĩnh hay thợ đúc đồng Nguyễn
Minh Không. Thậm chí có lúc các Ngài
tự tại ở ngôi vị đế vương xông pha trước mũi tên lằn đạn để
chống đỡ cho
muôn dân thoát khỏi nạn giày xéo của ngoại bang.
Nhờ biết
ứng dụng phương tiện một cách
linh động toàn hảo,
trải qua bao
thăng trầm đổi thay của
lịch sử,
Phật giáo Việt Nam vẫn
tồn tại sáng ngời với
thời gian.
Tồn tại trong những
tác phẩm thi văn, hội họa, kiến trúc của các
Thiền sư để lại cho đời,
tồn tại trong
sự nghiệp cao quý của những
Thiền sư đã hòa thân
cùng dân tộc,
tồn tại trong
tư cách cao thượng của những
Thiền sư không màng lợi danh phú quý. Suốt
cuộc đời các Ngài chỉ hành động vì
tâm nguyện đại từ đại bi, mang
lợi lạc an vui cho dân tộc.
Nhận thức sâu sắc
ý nghĩa 84.000
phương tiện của Đức
Thích Ca Như Lai mở ra cho
chúng ta tiến đến chân trời
giác ngộ giải thoát,
đồng thời kế thừa được
phương tiện tốt đẹp của các bậc
tiền bối,
Tăng Ni,
Phật tử cần
sáng suốt vận dụng những
phương tiện phù hợp với
thời kỳ phát triển của đất nước để dựng xây cuộc sống
trí tuệ và
đạo hạnh trên bước đường
phục vụ đạo pháp và dân tộc.
HT. Thích Trí Quảng(
Giác Ngộ)