Bài pháp thoại này được ghi âm lại từ bài giảng của Thiền sư Ajaan Fuang cho một trong các đệ tử của ngài, khi người này gặp bế tắc trong pháp tu của mình.
Một khi tâm đã trụ
vững chãi vào
hơi thở, ta mới
cố gắng để tách biệt tâm ra khỏi đối tượng của nó -khỏi chính
hơi thở đó. Hãy
chú tâm vào điều này:
Hơi thở là một
yếu tố, một phần của
yếu tố gió.
Ý thức đến
hơi thở lại là chuyện khác. Nên ở đây ta có hai thứ đi
với nhau. Khi ta có thể tách
biệt chúng - qua sự
nhận thức rằng
bản chất thật sự của
hơi thở chỉ là một thành tố - thì tâm có thể
tự tại. Suy cho cùng,
hơi thở không phải là ta, mà ta cũng không phải là
hơi thở. Khi ta có thể tách biệt sự vật theo cách này, tâm sẽ mạnh lên. Nó sẽ không bị
trói buộc vào
hơi thở, và cảm nhận được mọi
trạng thái của
hơi thở.
Khi
chánh niệm đã tràn đầy, tâm sẽ
ý thức được mọi
trạng thái của
hơi thở, và có thể tự tách biệt ra khỏi các
trạng thái đó.
Giả như khi ta đang
quán niệm như thế, tâm ta trở nên vững mạnh,
chánh niệm sắc bén, đó là khi
tuệ giác có thể phát sinh.
Tuệ giác phát khởi vào lúc đó, giúp ta biết rằng mình thực sự
buông xả.
Tuy nhiên, nếu
chánh niệm vẫn còn yếu, ta không thể buông. Chỉ khi
chánh niệm thực sự
nổi bật thì nó và tuệ mới
phát khởi cùng nhau. Đây là cái mà ta phải luôn
quán niệm bất cứ khi nào có cơ hội. Khi ta có thể tách biệt tâm ra khỏi các đối tượng, nó sẽ được
giải phóng khỏi các
ràng buộc.
Do đó, hãy trụ vững
chánh niệm ngay trong tâm. Hãy để nó
chú tâm ngay đó, rồi
quán sát hơi thở và cái biết về
hơi thở. Hãy
quán sát càng nhiều càng tốt,
dần dần ta sẽ thấy chúng tách biệt nhau. Khi đó ta sẽ có cơ hội để
quán sát sâu hơn vào bên trong. Một khi ta đã
quán sát được
yếu tố này, ta sẽ có thể
áp dụng phương cách này đến với tất cả mọi thứ khác. Khi
quán sát hơi thở, ta sẽ thấy rằng nó không phải là
chúng sanh, là
con người - thì có gì để
bám víu vào? Ta không thể bám vào đó như cái ngã của mình,
đơn giản vì nó có đường đi riêng của nó.
Khi
quán sát hơi thở, ta thấy nó không có thân - không đầu, không chân tay, không có bất cứ thứ gì. Khi
nhận thấy như thế, ta sẽ có thể
buông xả nó, đúng như cách nó thực sự là. Kinh dạy, ‘Cago patinissaggo mutti analayo’: Khi tách rời
hơi thở, ta
tháo gỡ mọi
quan tâm về nó. Ta không còn coi nó là nơi trú ngụ của mình nữa - vì nó không phải là của ta. Ta buông để nó
đi theo bản chất tự nhiên của nó. Ta trả nó lại. Nó có gì, ta trả lại cho
thiên nhiên.
Tất cả mọi
yếu tố - đất, nước, gió, lửa và
hư không - ta trả về cho
thiên nhiên. Ta để chúng
trở lại với
bản thể của chúng. Khi
quán sát tất cả năm
yếu tố này, ta thấy chúng không phải là một
chúng sanh, không phải
con người, không phải ‘ta’, không phải ‘họ’. Ta để tất cả
trở về với
bản thể đầu tiên của chúng. Điều này khiến ta nghĩ, cái gì là cái biết về năm
yếu tố này.
Hiện giờ, nó đang biết gì? Hãy hướng
năng lực quán sát của ta vào
yếu tố biết này, với chỉ riêng mình nó, không còn gì khác nữa.
Quán sát nó để thấy cái gì là cái gì, và đó cũng là khi một mức độ
tri giác khác sẽ
phát khởi.
Nếu ta muốn có được cái
tri giác để buông tất cả theo đúng với
bản chất nguyên thủy của chúng, thì ta phải có sự
nhận thức đặc biệt phát khởi với
pháp hành xả.
Nếu không có
nhận thức này, tâm
buông xả của ta chỉ là cái tưởng, cái
danh hiệu chế định
bình thường mỗi ngày. Là
trí tuệ thế tục. Nhưng khi sự
nhận thức này
phát khởi trong
pháp hành xả - ngay khi ta buông, kết quả sẽ quay ngay lại với ta, để kiểm chứng, để
bảo đảm cái gì đã xảy ra thực sự là như thế: ta biết. Ta đã buông. Rồi ta sẽ trải nghiệm sự
thuần khiết bên trong ta. Đây được gọi là
trí tuệ siêu thế.
Khi
nhận thức phát khởi bên trong ta, để kiểm chứng ta đã thấy gì, ta đã làm gì, đó gọi là
trí tuệ siêu thế. Khi nào
nhận thức này không
phát khởi,
trí tuệ của ta vẫn chỉ là
thế tục. Vì thế cứ
tiếp tục quán sát sự việc
cho đến khi tất cả mọi
điều kiện đều
chín muồi. Khi đó, ta không
cần phải làm thêm
gì nữa, vì
trí tuệ siêu thế hoàn toàn thẩm thấu mọi thứ ngay giây phút chúng vừa phát sinh. Nó không giống
trí tuệ thế tục chút nào. Như thế,
con đường chúng ta đi là
quán sát, là
tìm hiểu sự việc. Hãy luôn
chú tâm quán sát, điều nghiên
cho đến khi
đạt đến chỉ tiêu mình đã
đề ra. Khi tâm đã
đạt đến điểm đó, nó tự biết buông. Đó là khi tâm
đạt đến sự tròn vẹn - pháp bên trong tâm đã được tròn đầy - thế là nó
buông xả. Một khi nó buông, kết quả sẽ
hiện ra ngay. Vì thế, hãy
tiếp tục thực hành. Không có gì phải sợ. Ta sẽ
đạt được kết quả, không
nghi ngờ gì về điều đó. Ta sẽ đạt kết quả trên suốt chặng đường. Giống như ngay bây giờ, khi đang
ngồi thiền ở đây. Ta biết là
hơi thở và tâm đang
hòa hợp với nhau. Đó là kết quả của việc
thực hành. Dầu chưa đi đến cuối đường, ta cũng
đạt được cảm giác dễ chịu,
thoải mái trong việc hành thiền.
Tâm nhịp nhàng theo từng
hơi thở vào ra. Khi nào tâm và
hơi thở còn chưa tách rời khỏi nhau, chúng phải
nâng đỡ nhau
tiến tới. Tâm giúp
hơi thở, và
hơi thở giúp tâm
cho đến khi chúng
hoàn toàn hiểu biết nhau. Khi tâm đã thấu hiểu
hoàn toàn, nó có thể
buông xả. Khi nó biết, nó buông. Khi nào nó còn chưa thực sự biết, nó không thể thực sự buông. Điều này có nghĩa là ta phải gắn với
hơi thở, bỏ
thời gian với nó, để
dần dần hiểu được nó. Khi tâm ngày càng thấu hiểu, nó sẽ có thể
tháo gỡ sự
bám víu vào thân, thọ, tưởng, hành và thức. Các
quan niệm - tự xác chứng - xem các thứ này là cái ngã - sẽ tan rã. Đó là
con đường đi đến
giải thoát.
Ngay khi
trí tuệ siêu thế phát sinh, ta sẽ
được giải thoát. Ta sẽ có thể
tháo gỡ mọi
trói buộc từ các
sự thật chế định của cuộc sống như: người ta, ngã, đàn ông, đàn bà,
chúng ta,
chúng nó, v.v... Nhưng khi nào ta còn chưa thể buông, ta vẫn phải
tùy thuộc vào chúng. Chúng là
điểm tựa, chứ không phải là nơi nương trú. Chỉ là ta và chúng
dựa vào nhau,
giúp nhau tu tiến, để ta có thể
tiến bộ trên
con đường đạo. Ta không thể
bỏ rơi chúng, vì chúng là
con đường để ta
thực hành.
Khi nào ta còn
tu tập, ta sẽ không rơi lại chỗ cũ. Nhưng ngay khi ta lảng xa việc
thực hành, ta sẽ
lập tức trượt về phía sau. Ta sẽ rơi vào
cạm bẫy của
nghi hoặc, tự hỏi không biết pháp có
chân thực hay không. Ta phải
tiếp tục làm người
quán sát tâm: sự
tỉnh thức. Không phải là
tâm không tỉnh thức.
Đặc tính căn bản của tâm là
tỉnh thức. Hãy quán xét nó. Nó
nhận biết mọi thứ -
nhận biết, nhưng chưa thể buông các tưởng, các mặc định mà nó cho là đúng, là
chân thực. Vì thế ta phải quán xét nó.
Chú tâm đến nó
cho đến khi tâm và đối tượng của tâm có thể tách biệt nhau. Cứ
tiếp tục.
Nếu ta
kiên trì như thế, không buông lơi, tâm
nghi hoặc sẽ
dần dần phai nhạt, phai nhạt,
cho đến khi ta có
thể đạt đến sự nương trú thực sự bên trong ta, sự
tỉnh thức căn bản được gọi là Buddha, cái thấy
rõ ràng xuyên thấu mọi sự vật. Đó là khi Phật, Pháp và Tăng
xuất hiện bên trong ta như là nơi nương trú
cuối cùng. Đó là khi ta
biết điều gì thực sự ở bên trong, điều gì thực sự không có mặt, điều gì thực sự là
điểm tựa và điều gì thực sự là nơi nương trú của ta. Ta sẽ có thể
phân biệt các thứ này. Những gì ở bên ngoài chỉ là các
điểm tựa. Giống như thân: nó là một
điểm tựa.
Trong giây phút ngắn ngủi khi các thành tố của đất, nước, gió và lửa
tụ họp cùng nhau, ta có thể tựa vào thân. Nhưng đối với nơi nương trú thực sự, như ta đã biết: Đó chính là sự
tỉnh thức cơ bản, trong tâm ta.
Tâm ý thức đến
hơi thở là sự nương trú ở một thứ bậc. Khi nó tách rời khỏi
hơi thở, là một thứ bậc nương trú khác. Còn sự nương trú thực sự của ta - Buddha - đó là
ý thức nằm sâu hơn bên trong. Một khi
nhận thức được điều này, ta biết
sự thật chỉ có thế. Nó là
tối thượng tự thân. Nó biết tất cả chung quanh
rõ ràng, thấu đáo. Đó là chỗ nương trú thực sự bên trong ta.
Còn đối với những thứ bên ngoài, chúng chỉ là sự hỗ trợ tạm thời, những thứ ta chỉ
tùy thuộc vào một lúc thôi, giống như cái nạng. Khi nào còn
hơi thở để giữ
chúng sinh tồn, ta còn
sử dụng đến chúng. Khi không còn
hơi thở, thì
chấm dứt mọi
vấn đề. Các
yếu tố vật lý tách rời và không còn
phụ thuộc vào nhau, nên tâm
trở về với nơi nương trú thực sự của nó. Và đó là ở đâu? Cái
tri giác Phật (Buddha) ở đâu? Khi ta luyện tâm để nó chính là nơi nương trú tự thân, thì lúc đó trong trái tim
quán chiếu không còn có nỗi
ưu phiền nào nữa.
Chính
Đức Phật cũng đi tìm sự nương trú này. Ngài đã dạy tất cả các
đệ tử của Ngài nương trú nơi
bản thân, vì ta chỉ có thể
dựa vào người khác trong một
thời gian ngắn. Người khác chỉ hướng cho ta
con đường. Nhưng nếu ta muốn những gì thực sự tốt và
chân thật trong cuộc sống, ta phải tự
dựa vào bản thân - tự tu, tự
huân tập, nghĩa là
tùy thuộc vào
bản thân trong mọi
hoàn cảnh.
Đau khổ là do chính bạn.
Hạnh phúc cũng từ bạn mà ra. Giống như khi ăn: Nếu ta không ăn, thì làm sao no? Nếu ta để người khác ăn giùm, làm sao ta có thể no? Nếu ta muốn no, chính ta phải tự ăn.
Với sự
tu hành cũng thế. Ta không thể để
bản thân bám víu vào những thứ ở bên ngoài. Sự vật ở bên ngoài ta không
chắc chắn.
Vô thường. Không thể
dựa vào. Chúng thay đổi theo từng
hơi thở vào ra. Điều này đúng cho tất cả
mọi người, không chỉ riêng ta. Nếu ta không chia tay với người khi còn sống, thì ta cũng phải chia tay lúc chết. Ta chia tay mọi thứ trong từng
hơi thở vào ra. Ta không thể đặt
ý nghĩa cuộc đời mình vào những thứ này - mà ta cũng không cần làm thế. Ta chỉ cần nói với
bản thân rằng đây là cách
thế gian vận hành.
Không có gì
bền vững trên
thế gian này. Dẫu ta không muốn thế, nhưng sự vật có
tính cách riêng của chúng. Chúng không nằm dưới quyền
kiểm soát của ai cả. Điều đó không chỉ đúng với sự vật ở bên ngoài,
mà cả với những gì bên trong ta. Ta muốn thân sống hoài, không muốn nó chết, nhưng nó vẫn chết. Ta không muốn nó đổi thay, nhưng nó luôn thay đổi. Đó là
lý do tại sao ta phải giữ cho tâm
hoàn thiện để nó có thể nương trú vào
bản thân, đúng theo các nguyên tắc
thiện xảo mà
Đức Phật đã dạy.
Và ta cũng không
cần phải nghi hoặc về
con đường thực hành, vì tất cả mọi đức tính ta cần để
tiến tu đã có mặt sẵn trong ta. Tất cả mọi
thứ xấu và tốt đều có mặt trong ta. Ta đã biết
con đường nào thiện, và
con đường nào u tối, nên tất cả những gì ta phải làm là huấn luyện tâm
đi theo con đường thiện. Hãy dừng lại và
tự quán xét ngay lúc này: Bạn có đang đi đúng đường? Điều gì sai, đừng
bám víu nữa. Hãy buông nó.
Quá khứ, tương lai hay bất cứ gì, hãy buông, chỉ giữ lại
hiện tại. Hãy giữ tâm luôn cởi mở,
tự tại trong
hiện tại, sau đó bắt đầu quán xét. Ta đã biết sự vật bên ngoài không thuộc về ta, nhưng ở bên trong có nhiều cấp độ ta phải quán xét. Nhiều tầng mức ta phải
quán sát. Ngay cả tâm cũng không thực sự là của ta. Vẫn còn những thứ uế nhiễm,
vô thường trong đó. Đôi khi nó muốn làm điều này, lúc muốn làm điều khác, nó không thực sự thuộc về ta. Nên đừng quá
bám víu vào nó.
Vấn đề lớn là việc
thiết lập tư tưởng. Đôi khi ta có
thiện ý, đôi khi
ác ý, ta biết rõ điều đó. Ta không muốn nghĩ như thế, nhưng chúng vẫn
tiếp tục hiện ra trong tâm, ngoài
ý muốn của ta. Vì thế ta phải coi chúng không thuộc về ta. Quán xét chúng. Không có gì đáng để
dựa vào chúng. Chúng không kéo dài. Chúng là những
sự kiện vô ngã, nên hãy để chúng
đi theo bản tính tự nhiên của chúng.
Vậy thì có gì
trường tồn,
vững chắc,
đáng tin cậy và chân thật? Hãy
tiếp tục tìm kiếm. Đặt
chánh niệm trên
hơi thở, và tự hỏi mình ngay tại đấy.
Dần dần ta sẽ thấy được điều gì ở bên trong ta.
Bất cứ khi nào tâm có
nghi hoặc hay các
vấn đề trong việc
thực hành,
quay về chú tâm vào
hơi thở, và hỏi tâm ngay tại đấy, rồi
tri kiến sẽ
phát khởi, để giải tỏa
tà kiến của ta và giúp ta
vượt qua trạng thái bế tắc của mình. Nhưng ngay cả sự
hiểu biết này cũng luôn
biến đổi, khổ và
vô ngã. Sabbe dhamma anatta:
Đức Phật đã nói, mọi thứ
sinh khởi đều
vô thường và
vô ngã. Ngay cả những sự
hiểu biết phát khởi trong tâm ta cũng
vô thường. Đôi khi chúng
phát khởi, đôi khi không. Nên đừng quá
bám víu vào chúng. Khi chúng
phát khởi, hãy
nhận biết điều đó, rồi thì để chúng
đi theo con đường của chúng.
Hãy để các
quan điểm của mình là
chánh kiến: có nghĩa là, chỉ vừa đúng, không đi quá đà. Nếu ta quá đà theo chúng, bám chặt theo chúng, rồi chúng có thể đưa ta đi sai đường, do ta đã không còn
ý thức mình đang làm gì. Nói
tóm lại, càng
chánh niệm trong
tu tập, càng tốt. Khi tâm
chánh niệm càng lúc càng thêm
vững chãi, càng lúc càng
thiện xảo, nó sẽ
trở thành siêu thế.
Trí tuệ siêu thế mà
chúng ta đã nhắc đến ở trên,
phát khởi từ
năng lực của
chánh niệm khi nó trở nên ngày càng tròn đầy. Vì thế hãy
tiếp tục huân tập tâm
chánh niệm cho đến khi nó
trở thành đại
chánh niệm. Hãy
cố gắng để giữ cho nó luôn có mặt,
kiên định và chủ tâm,
cho đến khi ta thấy tất cả mọi thứ như chúng là. Đó là cách giúp ta
tiến bộ trên đường học Phật.
Diệu Liên Lý Thu Linh chuyển ngữ