Một trong số những
tâm lý tiêu cực cần
chuyển hóa càng sớm càng tốt là
tâm lý cố chấp, một “thành viên cứng đầu” tạo lực cản không nhỏ làm trì trệ, bế tắc và thậm chí, đưa đến sự nản lòng của
chúng ta trên
con đường tu tập và
chuyển hóa. Người nào thiên nặng về
tâm lý cố chấp được
Đức Phật gọi là người “cố chấp”, “chấp trước”, “khó nói” và là đối tượng để Ngài
giáo hóa và nhắc nhở.
Căn cứ vào một số lời dạy trong
kinh điển, bài viết này bàn về người
cố chấp và những
chướng ngại mà người
cố chấp tự tạo ra cho mình trong cuộc sống.
Người cố chấp: như tằm kéo kén Một
hình tượng gần gũi giúp
chúng ta có thể dễ dàng
liên tưởng về người
cố chấp là những con tằm kéo kén để rồi tự
ràng buộc mình vào trong tổ kén bịt bùng và chật chội ấy. Người
cố chấp cũng như thế. Trong phần
Sám hối lục căn của Khóa hư lục, vua
Trần Thái Tông đã
diễn tả ý này rằng:
Mắc mứu tình trần,
Lấp tâm chấp tướng.
Như tằm kéo kén,
Càng buộc càng bền.
Đức Phật từng
tuyên bố rằng, người nào có thể bỏ bớt “cố chấp
tư kiến, tánh khó hành xả” thì
sở tri kiến sẽ được đoạn giảm dần (
Kinh Đoạn giảm,
Trung bộ kinh số 8) và
dĩ nhiên,
đau khổ cũng theo đó giảm dần. Khi làm như vậy, người ấy sẽ tự mình nới lỏng
sợi dây ràng buộc để nhẹ nhàng hơn, bớt
căng thẳng và ngột ngạt hơn. Trong
bài kinh này,
Đức Phật cũng
nhấn mạnh rằng
“con người tự mình bị rơi vào bùn lầy thì không thể kéo lên một người bị rơi vào bùn lầy”, một người
cố chấp tư kiến, tự
ràng buộc mình, không tự
giải thoát thì không thể nào giúp người khác
từ bỏ cố chấp tư kiến được. Nói cách khác, người
cố chấp thì không thể khuyên người khác đừng có cố chấp! Đây là
sự thật hiển nhiên vì một khi không tự giúp mình thì không thể giúp ai! Và
thực tế hơn, không ai có thể cho đi những gì mình không có!
Một người tự buộc mình trong ổ kén của
cố chấp thì không thể tiếp cận được
Tam bảo, như ở trong “vùng mù” của bóng đêm thì không thể tiếp cận ánh sáng
mặt trời vậy.
Người cố chấp: xa rời Tam bảoChúng ta không khỏi giật mình khi
Đức Phật nói rằng, với
“người cố chấp khó thuyết phục, vị ấy sống không cung kính, không tôn trọng bậc Đạo sư, không cung kính, không tôn trọng Pháp, không cung kính, không tôn trọng Tăng chúng, không viên mãn sự học tập” (kinh Trường trảo,
Trung bộ kinh số 74). Người có tánh
cố chấp không lường được
tai hại thế này! Thế nhưng, bình tâm
suy nghĩ một chút,
chúng ta có thể dễ dàng
chấp nhận lời dạy trên của
Đức Phật. Người
cố chấp thì cứ khư khư ôm giữ cách
nhận thức, cách hiểu của mình, vì cho đó là đúng, sẽ không
tôn trọng và
không chấp nhận
quan điểm của người khác. Nói theo
thuật ngữ nhà Phật thì đó là “chấp trước tà kiến”. Do đó, vì khó
thuyết phục nên họ sẽ không thể
viên mãn sự học tập từ Ba ngôi báu. Là người học Phật thì không có gì trên đời này quý hơn Ba ngôi báu! Chỉ vì không lường được sự nguy hiểm, của tánh
cố chấp, sự
thiệt thòi khi không tiếp cận được với
Tam bảo mà chưa
nỗ lực chuyển hóa đó thôi. Nay nhờ lời dạy này của
Đức Phật mà
chúng ta tự
xét mình kỹ hơn, kịp thời
chuyển hóa tâm mình trước khi tự đóng khung mình
trong vòng cố chấp đầy
vô lý và nhiều khổ đau!
Ở một
bài kinh khác,
Đức Phật nói rằng người
cố chấp tự mình ngăn chặn những cơ hội tiếp cận và
học hỏi từ
Đức Phật (bậc
Đạo sư),
giáo pháp,
chư Tăng và các học pháp (giới) và đây là gốc rễ đưa đến sự
tranh đấu vì họ sống trong
vô minh, mê mờ của
dục vọng và
cố chấp. Những phẩm chất đặc trưng của người
cố chấp được
ghi nhận trong kinh là
“Người chấp trước sở kiến, kiên trì gìn giữ, rất khó rời bỏ. Vị ấy sống không cung kính, không tùy thuận bậc Đạo sư, không cung kính, không tùy thuận Pháp, không cung kính, không tùy thuận Tăng, không thành tựu đầy đủ các học pháp” (
Tăng chi bộ kinh, chương VI, phẩm IV, kinh số 36: Gốc rễ của đấu tranh).
Đoạn kinh này như một định nghĩa cô đọng về người
cố chấp. Họ tự bao bọc mình bằng lớp
tà kiến vô cùng kiên cố. Đây là một loại “chất liệu không thấm”
giáo pháp nên
chúng ta không
ngạc nhiên khi họ tự
hạn chế mình trong khe hẹp
nhận thức một chiều để rồi
con đường họ đi là “càng xa bến giác, càng gần sông mê!”
Người cố chấp: một chiều trong nhận thứcỞ
Tiểu kinh sư tử hống (
Trung bộ kinh số 11),
Đức Phật nói rằng, người
cố chấp vào “pháp có” sẽ bị
chướng ngại với các “pháp không”, và người
cố chấp vào “pháp không” sẽ bị
chướng ngại với các “pháp có”. Nói cách khác, người
cố chấp không thể nào hiểu và
chấp nhận những gì khác với
suy nghĩ,
nhận thức và
niềm tin của mình! Một khi
nhận thức và
suy nghĩ của người
chấp trước bị đóng khung như một tảng băng đông cứng thì người ấy sẽ không thấy được điều gì khác, dù có
tốt đẹp,
sinh động đang diễn ra ngoài kia. Bằng trải nghiệm tự thân, ai cũng có thể cảm nhận điều này không mấy khó khăn. Đây là đầu mối của tất cả sự
bất hòa,
căng thẳng giữa mình và người trong bất cứ một tập thể nào, dù ở
phạm vi nhỏ
nhất chỉ có hai con người!
Một người
cố chấp vào một điều gì đó, một khái niệm nào đó thì cho đó mới là
sự thật,
ngoài ra đều không đúng! Một người khác
cố chấp vào “không có điều đó” hoặc không có cùng cách hiểu về một “khái niệm” thì người chủ trương “có” cho cái có là đúng, trong khi đó, người có
quan điểm “không” sẽ không đồng thuận và cho rằng cái “không” mới là đúng. Nếu người nào
ý thức được điều này và sống
“bỏ tánh ý của mình và sống theo tánh ý của người khác” sẽ có
đời sống cộng đồng hòa hợp như nước với sữa (
Tăng chi bộ kinh, tập III, kinh số 122:
Tranh chấp; tập V, kinh số 54:
Thời gian để tinh cần; kinh số 78:
Sự sợ hãi trong tương lai). Ngược lại, với tánh
cố chấp, mỗi người là một ốc đảo lạnh lẽo, dù ở gần nhau vẫn không thể nào sưởi ấm cho nhau, ngược lại còn tạo
chướng ngại cho nhau, khiến cuộc sống trở nên
vô cùng mệt mỏi,
căng thẳng và nặng nề.
Với
tính cách trên, nếu người
cố chấp không ưa ai một điểm gì, thì trong mắt họ, người ấy sẽ mãi như thế, không bao giờ thay đổi! Người
cố chấp không cho mình cơ hội để phá vỡ tường thành
chấp pháp và
chấp ngã,
đồng thời không cho ai cơ hội “làm mới”! Họ là người tự vẽ vòng “kim cô” để
giam hãm sự
tự do của chính mình:
tự do nhận thức,
tự do chấp nhận và
tiếp nhận những
quan điểm khác với mình. Họ chỉ khư khư
bảo thủ trong
nhận thức một chiều, tự làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai mà không tự biết. Thậm chí với cái nhìn
tà kiến thái quá, bất cập, người
cố chấp có thể làm khổ ngay cả những người mà họ
quý trọng thương yêu mà họ coi là “thần tượng”.
Người cố chấp: mắc bệnh “thần tượng”! Người
cố chấp muốn áp đặt
suy nghĩ, khuôn khổ mà tự người ấy lên ni tấc cho những người mà họ
thương yêu,
quý mến. Nếu những người
thân yêu làm những việc trái ngược với
suy nghĩ và ý thích của mình, họ không chịu được! Họ không thể
chấp nhận được một
sự thật rằng mỗi người là một
tiểu thế giới và là
duy nhất đặc thù, không ai giống ai, nên mong ai đó sống theo “khuôn” mình đúc sẵn là một
việc làm không thể! Một khi
cố công làm việc này mà không
thỏa mãn, hơn ai hết, người
cố chấp chịu
thiệt thòi và
đau khổ trước tiên! Do đó, đừng nâng ai lên mức “thần tượng” vì đã “đúc tượng” thì trước sau gì tượng cũng đổ! Khi “thần tượng” một ai đó, cái
tâm lý “thương ai thương cả đường đi” nó cứ đeo bám và
chúng ta cứ dõi theo từng bước chân của họ!
Không ai có thể hiểu hết một
con người và “thần tượng” cũng là một con người! Cuộc sống của một
con người tuôn chảy
sống động như một dòng nước, còn cái mà
chúng ta hiểu được về người ấy chỉ là vài tấm hình được ghi lại, là “cái bóng” của
sự thật ở một vài khoảnh khắc
nhất định nào đó trên dòng chảy
sinh động của
vạn pháp vô thường! Với người
cố chấp, những tấm ảnh được ghép lại theo sự tưởng tượng
chủ quan của người ấy rồi nâng lên thành “thần tượng”. Khi ấy, họ không
nhận ra khoảng cách giữa “tưởng” và “thật”, giữa
hình ảnh lung linh và
sự thật gồ ghề của người mình
hết lòng kính trọng và tin tưởng!
Người
cố chấp một khi thần tượng ai một cách
thái quá là đang rơi vào
tà kiến mà không biết. Trong một
bài kinh,
Đức Phật gọi người
tà kiến là người
chấp trước “Đây là thường. Đây là thường hằng. Đây là thường trú. Đây là viên mãn” (
Tương ưng bộ kinh, tập I, chương VI, phẩm I, phần IV:
Phạm Thiên Baka). Người mà họ thần tượng, trong mắt họ, là
viên mãn,
toàn diện,
hoàn hảo và
mãi mãi như vậy không hề thay đổi.
Cho đến một lúc nào đó, khi vỡ lẽ ra những gì ta tưởng đã hiểu hết về người kia cũng chỉ là một phần theo kiểu “những mảnh ghép không hoàn hảo” mà thôi. Khi ấy thì
niềm tin lại vỡ vụn và cái còn lại là hụt hẫng và đau khổ! Khi ấy,
tham sân si lại hiện nguyên hình!
Người cố chấp: tham, sân sâu nặng
Một người
cố chấp có thể
nhận ra mình
cố chấp, có thể
đồng ý khi “bị quy vào” nhóm người
bảo thủ, nhưng
tuyệt nhiên họ khó
chấp nhận mình là người nặng về tâm tham! Chính
bản thân người
cố chấp không bao giờ nghĩ rằng
cố chấp là tham! Họ biết xả tài vật để
cúng dường,
bố thí không toan tính mà! Ấy
vậy mà trong
kinh Ví dụ con rắn (
Trung bộ kinh số 22) thì
Đức Phật nói người
cố chấp là người còn nặng về tâm tham.
Chúng ta có thể quên đi rằng tâm tham
hiện hành trong nhiều
phương diện, không
thể diệt trừ một cách
đơn giản qua việc
bố thí tài vật. Với người
cố chấp, họ khư khư chấp vào cái
hiểu biết,
nhận thức của mình, mà
hình ảnh “như tằm kéo kén” ở trên đã
diễn tả đầy đủ, là do động cơ tham chấp (tham vào
ý kiến,
quan điểm riêng của mình) điều động và
chi phối.
Đức Phật từng
tuyên bố “Do duyên
chấp trước nên có xan tham” (
Tăng chi bộ kinh, chương IX, phẩm III, kinh số 23: Ái).
Đức Phật từng nói rằng
“Phàm phu thường chấp trước, chấp thủ và tham đắm” (
Tương ưng bộ kinh, tập I, chương VIII, phần II:
Không khoái), còn những ai
từ bỏ chấp thủ, sẽ xứng danh với tên gọi Tỳ-kheo hoặc Bà-la-môn (
Pháp cú câu 367, 396, 414). Do đó, khi nào còn giữ tâm
chấp trước,
chấp thủ thì muôn kiếp
mãi mãi là
phàm phu mà thôi! Vậy mới thấy
tâm lý cố chấp nguy hiểm và
chướng ngại của đến dường nào!
Ở
bài kinh Trường trảo (
Trung bộ kinh số 74),
Đức Phật dạy rất
chí lý rằng, người
cố chấp hễ thích cái gì thì cho cái đó là
sự thật,
ngoài ra là
hư vọng, hễ thích ai thì cho chỉ có người đó là đúng, những người khác đều sai! Người
cố chấp như thế sẽ gặp sự đối nghịch từ hai nhóm người có
ý kiến khác: nhóm thứ nhất
hoàn toàn không thích những gì người
cố chấp thích, không ưa những người mà kẻ
cố chấp ưa (vì không thích, không ưa nên họ không thể
chấp nhận chỉ điều đó là
sự thật, chỉ người kia mới đúng); nhóm người thứ hai chỉ thích một phần, chứ không phải tất cả,
toàn bộ những gì người
cố chấp thích (họ sẽ
chấp nhận một phần
sự thật, một vài
phương diện nơi một
con người nào đó là tốt, chứ không phải cái gì nơi người kia cũng tốt!). Mà một khi
“có đối nghịch thời có tranh luận; khi nào có tranh luận thời có chống đối; khi nào có chống đối thời có bực mình” (
Trung bộ kinh, số 74: kinh Trường trảo). Như vậy, người
cố chấp tự tạo nên sự đối nghịch,
tranh luận, chống đối và
bực mình; do đó
Đức Phật dạy, người
đệ tử Phật nên
từ bỏ cố chấp để
tiến bộ trên
con đường tu tập.
Trong kinh
Pháp cú,
Đức Phật dạy rằng
“chấp vào sân hận là sự cố chấp bền chặt nhất” (câu 151). Lại ở một
bài kinh khác,
Đức Phật dạy rằng nhiều người
phẫn nộ, lại
cố chấp sự
phẫn nộ của mình,
trở thành người khó nói. Khi những người
thiện tri thức nhắc nhở, khuyên người ấy không nên
trở thành “người khó nói” thì người ấy
“tránh né vấn đề với một vấn đề khác, trả lời ra ngoài vấn đề, để lộ phẫn nộ, sân hận và bất mãn của mình” (
Trung bộ kinh số 15: kinh
Tư lượng).
Đức Phật kết luận ở
bài kinh này rằng, người như thế đó, dù nhiệt tâm, nhiệt tình thì những người sống chung, sống gần vẫn không
ưa thích và
cảm thấy không
thoải mái. Người
cố chấp rất
bảo thủ và cứ
kiên trì ôm lấy
kiến chấp của mình, không dễ
hành xả. Chính
vì vậy,
Đức Phật dạy: là
đệ tử Phật,
cần phải phát tâm như sau:
“Ta sẽ không chấp trước thế tục, không cố chấp tư kiến, tánh dễ hành xả” (
Trung bộ kinh số 15: kinh
Tư lượng).
Thật
bất hạnh và khổ đau cho những ai ôm trong lòng nhiều
tham lam và phẫn nộ!
Người cố chấp: bất hạnh và khổ đau Như một hệ quả tất yếu, người
cố chấp cứ khư khư tham giữ lấy
quan điểm của mình, xây thành trì phong kín
ý niệm về “tôi” và “của tôi” một cách
kiên cố,
bất mãn và
phẫn nộ với những
quan điểm trái chiều.
Đức Phật gọi những người như vậy là khó có thể
mở lòng để
tiếp thu,
học hỏi thêm điều gì từ người khác. Như một ly nước đầy thì không thể chứa thêm được nước nữa, dù chỉ một giọt! Người như vậy không bao giờ
kham nhẫn để có đủ
thời gian và sự
nhu nhuyến cần thiết để phân định đúng-sai, hay-dở, chỉ lo
bảo thủ những gì thuộc về mình, và đẩy ra những gì mình không
ưa thích. Đây là
lý do Đức Phật nói người
cố chấp góp phần làm cho
Chánh pháp băng hoại. Ngài dạy,
“Này các Tỳ-kheo, các Tỳ-kheo nào là những người khó nói, đầy đủ những tánh khiến họ trở thành khó nói, khó kham nhẫn, không cung kính đón nhận khi được giảng dạy. Đây là pháp khiến diệu pháp hỗn loạn và biết mất” (
Tăng chi bộ kinh, chương V, phẩm XVI, kinh số 156:
Diệu pháp hỗn loạn). Người như vậy chỉ biết sống
theo bản năng để xuôi theo dòng chảy về sông mê biển khổ, không tiếp cận được với
giáo pháp để ngược dòng về bến giác an vui.
Bên cạnh việc tự mình chặn lối không tiếp cận được
giáo pháp, những
tai hại và nguy hiểm của
sự cố chấp được
Đức Phật dạy nhiều lần trong một số
bài kinh. Ngài xác quyết, người
không chấp thủ được nhiều người
ưa thích, gần gũi và
thăm viếng khi có dịp (
Tăng chi bộ kinh, chương VII, phẩm VI, kinh số 54:
Siha). Điều này có thể được hiểu thêm rằng, người
chấp thủ bị nhiều người không
ưa thích, không gần gũi và thân cận, và đây là một
bất hạnh lớn. Ở
kinh Sáu thanh tịnh (
Trung bộ kinh số 112),
Đức Phật một lần nữa khẳng định người
cố chấp bị
ràng buộc, người không
cố chấp mới có thể
giải thoát.
Đức Phật thẳng thắn chỉ ra rằng người còn
cố chấp thì không thể nào
chứng quả A-la-hán (
Tăng chi bộ kinh, chương VI, phẩm VIII, kinh số 76:
A-la-hán quả). Ngài còn
quả quyết rằng,
“Ai chấp trước, này Tỳ-kheo, người ấy bị ma trói buộc. Ai không chấp trước, người ấy được giải thoát khỏi ác ma” (
Tương ưng bộ kinh, tập III, chương I, phẩm II, kinh số 1:
Chấp trước). “Người
chấp trước, không
từ bỏ kiến ấy, vị ấy
chắc chắn rơi vào địa ngục” (
Tương ưng bộ kinh, tập IV, chương VIII, phần VIII: Vỏ ốc).
Hiểu được lời
Đức Phật dạy và khuyến cáo,
chúng ta nên dần
tháo gỡ những sợi dây
cố chấp và
bảo thủ đang tự
ràng buộc lấy mình vào trong
hệ lụy khổ đau do chính mình tạo nên.
Những ai khéo tu tập,
Chánh tâm trong giác chi,
Từ bỏ các chấp trước,
Hoan hỷ không chấp thủ.(
Tương ưng bộ kinh, tập V, chương I, phẩm IV, kinh số 34:
Đến bờ bên kia)
Chỉ có
trí tuệ phát khởi từ
công phu tu tập các pháp, điển hình là
Thất bồ-đề phần mới có thể giúp
hành giả phá vỡ thành trì
cố chấp,
giải thoát sự
ràng buộc vào các
nhận thức,
quan điểm sai lầm vậy.
Thay lời kết: Dùng trí tuệ phá “tảng băng” cố chấp Là người học Phật, câu “duy tuệ thị nghiệp” ai cũng nằm lòng. David Loy
phát biểu ý này bằng cách nói khác, rằng
“Mục đích của đạo Phật là sử dụng trí tuệ để chuyển hóa cá nhân và xã hội” (The goal of the Buddhist path is wisdom in service of personal and social transformation). Câu nói của David Loy không mới, thế nhưng không phải người
Phật tử nào cũng có thể
nhận thức và sống đúng theo
phương châm này.
Cố chấp thuộc về
kiến thủ,
tà kiến và
biên kiến, là những món
căn bản phiền não, gốc rễ sâu dày, đừng mong bứng
một lần là lên ngay! Điều
cần thiết là
chúng ta phải lấy
trí tuệ soi rọi vào tâm mình, với mỗi một việc, trước khi làm,
đang khi làm và sau khi làm, xét một cách
công tâm và khách quan, liệu
chúng ta có phải là người
cố chấp với những
quan điểm mình khư khư ôm giữ, những
thành kiến, những tưởng tượng, mong muốn hay kỳ vọng của mình về một sự việc nào đó,
cá nhân nào đó… bằng cái nhìn một chiều,
phiến diện và
giới hạn của mình hay không.
Sau khi
quán chiếu cẩn thận,
cần phải luôn nhắc mình trong
chánh niệm, với những
giới hạn nhất định của
con người nói chung và
giới hạn cụ thể của
bản thân mình,
nhận thức của một
cá nhân như người mù sờ voi mà thôi! Nếu là người cứng nhắc, khó góp ý,
chúng ta nhận đủ những
thiệt thòi,
bất hạnh,
đau khổ đã được
Đức Phật nói đến mà bài viết này đã điểm qua. Ánh sáng của
trí tuệ sẽ giúp
chúng ta mở tầm nhìn, mở tâm
bao dung và làm cho tâm
nhu nhuyến hơn,
linh hoạt hơn trong cách nhìn, cách nghĩ, cách làm và
cách sống. Một điều cần nhớ và để sống
thanh thản là: Ai
mở lòng chấp nhận rằng
cuộc đời là những mảnh ghép đa màu, người ấy có
bình an và hạnh phúc!
Chúng ta xứng đáng để được sống trong nguồn
hạnh phúc mà mình có khả năng tự chế tác để xứng đáng là người học và
hành trì giáo pháp chân chánh! Sao lại không bắt đầu bằng việc dùng
trí tuệ,
kiên trì phá tảng băng
cố chấp của chính mình?!
Liên Trí