Hôm nay là ngày tụng giới đầu tiên của khóa
An Cư kiết Thu. Ngoài kia đất trời đã chuyển mình theo từng cơn gió nhuộm đầy lá vàng
báo hiệu cho
mùa thu đến. Những ai ở đây lâu chắc đều biết, hằng năm miền Đông Bắc Hoa Kỳ cứ mỗi độ vào thu thì trời rất đẹp. Những chiếc lá vàng nâu pha sắc đỏ, rụng thật nhiều vào
trung tuần tháng mười và rụng
liên tục trong vòng một
tuần lễ. Tôi đã có
may mắn được nhìn lá chín đổi màu trải thảm trên những
con đường nhân dịp tăng thân
Lộc Uyển cử sang miền Đông Bắc tổ chức khóa tu bên ấy. Khi
trở lại tu viện, tôi có mang về một món quà cho
thiền sinh nhân ngày đầu thu đến tụng giới: Đây là hai chiếc lá phong.
Mùa thu thường gợi cho
văn nhân, thi sĩ thật nhiều
cảm hứng và hầu hết trong số họ thường
ca tụng mùa thu. Trong
cổ thi Trung Hoa có hai câu rất
dễ thương: "Ngô đồng nhất diệp lạc,
Thiên hạ cộng tri thu". Tôi tạm dịch: " Một chiếc lá ngô đồng rơi xuống là nhắc nhở cho
mọi người biết
mùa thu đã về". Làng Mai
chúng ta cũng có một
bài hát rất
dễ thương, có thể trong dịp nào đó quý vị sẽ được nghe quý Thầy, quý
Sư Cô ở
tu viện hát với những câu như thế này:
Và tôi muốn
giới thiệu bài hát đó để quý vị
thưởng thức mùa thu của đất trời.
Mùa thu còn được gọi là mùa lá rụng, mùa mà cây cành trơ trụi chuyển mình để chuẩn bị
chịu đựng mùa đông tới.
Thời tiết theo nhịp điệu
vận hành của đất trời,
thiên nhiên mà thay đổi thành các
mùa xuân, hạ, thu, đông. Trình tự này được biểu hiện và ẩn tàng
liên tục, và đó là dịnh luật tất nhiên của
vũ trụ. Sức sống có mặt trong cây cỏ
thực vật cho đến các loài
động vật cũng đều
trải qua từng giai đoạn như thế.
Mùa xuân,
mùa hạ thì tràn đầy nhựa sống; sang
mùa thu sức
sống lại thu hồi và
tiềm phục về trong tự thân để rồi vùi mình qua giấc đông miên. Sang năm khi xuân đến, cây cối lại đâm chồi nẩy lộc, ra hoa.
Con người chúng ta cũng có một nhịp điệu
vận hành trong cơ thể giống như trời đất vậy. Có
tuổi trẻ của
mùa Xuân, tuổi chín vàng của
mùa hạ, tuổi xế chiều rụng lá của
mùa thu và tuổi trầm lắng,
tiềm phục sức
sống lại trong giấc ngủ đông.
Trong
vạn vật, đất trời lúc
thời tiết giao mùa,
chúng ta có thể cảm nhận được rất rõ và dễ dàng, thế nhưng có khi trong tự thân,
chúng ta lại không cảm nhận được
mùa đông của đời mình. Thế nào là
mùa đông của đời mình?
Mùa đông của
đời người được xem là giấc ngủ ngàn thu khi ta rời bỏ
hình hài tứ đại này. Bây giờ sức sống được
tiềm phục về lại cội nguồn của nó, sau đó nó sẽ có cơ hội tái hiện và đứng lên với một
hình hài mới,
một đời sống mới tinh nguyên như trước kia
chúng ta đã từng có mặt.
Cho nên nhìn ra bên ngoài
chúng ta thấy đất trời chuyển mùa, những chiếc lá cuối thu se sắt đổi màu;
quay trở lại nhìn chính
bản thân, với những ai có
kinh nghiệm ít nhiều về
đời sống chắc cũng đã
nhận ra được
mùa thu của cơ thể,
mùa đông của đời mình đang tới: nghe xương cốt mỏi mệt đau nhức gặm nhắm... Và những cảm nhận rất sâu sắc, bén nhạy về điều này đã được các
văn nhân, thi sĩ
diễn đạt thật
quyến rũ, qua
thi ca,
văn chương,
âm nhạc và hội họa... Những ai còn trẻ thì cảm nhận về
mùa thu đời mình tất
nhiên không rõ nét bằng. Tôi không biết quý vị có cảm nhận
mùa thu của mình hay chưa. Riêng tôi
trải qua gần sáu mươi
mùa thu, cũng đã thắm vị mặn của
thời gian từng ngày từng giây của
đời sống. Và
chúng ta chắc cũng từng có những giây phút
ngậm ngùi,
chạnh lòng khi chẳng biết
nỗi buồn đến từ đâu:
Hôm nay trời nhẹ lên cao,
Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn.
Đó chính là những gì nằm rất sâu bên trong
chúng ta mỗi khi gió đổi mùa, khi sương thu rơi và khi cơ thể mình
biến chuyển.
Tuy nhiên chúng ta thua xa những người nghệ sĩ kia, không thể
sáng tác được những bài thơ, những bản nhạc, những
bức tranh cảm nhận cái
tuyệt vời của
mùa thu. Tại sao như vậy? Bởi những giây phút đó, dù trong ta có
thoáng thấy được lẽ
vô thường của
đời người, cái
mong manh hiu quạnh của
con người, nhưng
trước mắt ta có trăm ngàn
điều kiện để ta trốn chạy những nỗi
mong manh hiu quạnh đó, nên khó có thể cảm nhận
đời sống một cách sâu sắc.
Chúng ta trốn chạy bằng nhiều
con đường: trốn chạy trong những canh bạc, trong những tiệm rượu, qua hội hè. Ta tìm sự khỏa lấp trong vũ trường, bạn bè, ca hát... và cách trốn chạy
tuyệt vời nhất để quên đi
mùa thu của đời mình là
để tâm vào một ngàn lẻ một chuyện tính toán,
lo lắng, bận rộn, tưởng tượng,
sầu khổ vẩn vơ.
Do vậy, tuy đất trời có những sự
vận hành tất yếu nhắc nhở mỗi
chúng ta phải
trở về cội nguồn, tìm lại năg lực sống
vĩnh cửu nơi tự thân, nhưng
chúng ta vẫn
cố tình bỏ quên, trốn chạy. Có khi mình mãi sống trong lãng quên, đến lúc giáp mặt với "mùa đông", tức bấy giờ đang nằm trên giường bệnh, chạm tay vào cái chết thì lòng rất hoảng sợ, thấy
cuộc đời mình chỉ là chuỗi dây dài chạy đuổi,
lo âu.
Tâm thức chưa lúc nào dừng lại để thử tìm về
tiếp xúc với sự sống, để
nhận ra được rằng trong tự thân ta sức sống đang
tiềm phục. Như cỏ cây từng
tiềm phục năng lượng sống để ngủ qua
mùa đông, chuẩn bị chờ xuân đến. Thế nên khi ta đang còn ngắm được
mùa thu của đất trời, điều
thông minh nhất của
con người biết
thực tập là
quay về nhìn lại chính mình, để
nhận biết sức sống đang
tiềm phục trong
hình hài mỏng manh này. Thế thì, dù
cuộc đời vô thường này theo
quy luật đưa ta vào giấc ngủ đông, ta vẫn không
sợ hãi.
Ngày xưa, lúc
giáo pháp của
đức Thế Tôn chưa có mặt, chưa có
vị giác ngộ nào
xuất hiện trong
cuộc đời,
vẫn có những
con người đã thực sự nhận chân được mối tương quan của sự
vận hành của
vũ trụ và của
con người. Những
con người ấy chỉ
đơn giản nhìn một chiếc lá thu phai là có thể cảm nhận được lẽ
sinh diệt của
thân tứ đại và chạm tay vào sự sống
vĩnh cửu nơi tự thân họ.
Kinh điển gọi những vị ấy là
Độc Giác Phật hay
Bích Chi Phật.
Chúng ta cũng với đôi mắt này, có khả năng giống như họ, cũng
tiếp xúc với lá thu nhưng mình vẫn chưa ngộ được là tại sao?
Trong những lời dạy của
đức Phật,
chúng ta thấy có một
câu chuyện rất
ý vị, gọi là Bốn loại ngựa.
Câu chuyện có thể
trả lời cho
chúng ta câu hỏi trên và đây cũng là những nội dung mà các vị Phật
Độc Giác đem ra
ứng dụng. Loại thứ nhất là loại ngựa chỉ cần nhìn thấy bóng roi đưa lên là liền cất vó. Loại thứ hai mà
đức Phật xác nhận là loại ngựa chỉ cần đập vào thành xe hay khi roi chỉ vừa chạm đến lông là
lên đường. Loại thứ ba là loại ngựa đợi người ta dùng roi đánh vào thân khá đau nó mới chạy. Và loại thứ tư là loại ngựa người ta phải dùng kim gắn vào đầu cây roi châm vào thân thật đau thì nó mới bắt đầu chạy.
- Loại ngựa thứ nhất đó là
hình ảnh các vị
Độc Giác Phật, nhìn lá rơi là
giác ngộ được lẽ
vô thường, quay lại tự thân
nhận ra sức sống tiềm tàng trong
hình hài và khi
hình hài rã mục trả về cho
tứ đại thì sức sống kia vẫn
luân lưu không dứt. Đó là những người tự quay vào
nhận ra tự tánh không sanh không diệt trong chính
con người họ.
- Loại ngựa thứ hai chỉ cho những ai đã bị
vô thường chạm tới người thân. Nhìn người thân của ta nằm
thoi thóp trên giường bệnh, đứt nối từng
hơi thở, dù muốn cũng không thể giúp được gì, rồi
giác ngộ được rằng
hình hài này đến rồi đi cũng chỉ
một mình, không ai có thể tặng cho ai được một
hơi thở nào. Thế rồi họ
quay trở lại tự thân,
quán chiếu sâu sắc trên mảnh
hình hài này,
tìm ra nguồn sống vĩnh hằng đang có mặt; như sức sống của
thiên nhiên ngủ yên lặng qua mùa dông chờ
mùa xuân sẽ vươn vai
đứng dậy.
- Loại ngựa thứ ba là
ẩn dụ cho những người đã cảm nhận được
vô thường từ
bản thân họ. Một buổi sáng
thức dậy nhìn vào gương
tình cờ thấy tóc mình có vài sợi bạc, một chiếc răng lung lay là
báo hiệu tuổi già,
cảm thấy vô thường đến gần hơn với họ rồi. Và sâu hơn nữa là
nhận ra cái chết đang gặm nhắm từng giờ từng phút trong cơ thể.
Nhận ra được điều này, họ
quay về tự thân, dừng lại
đam mê tìm kiếm những thú vui
dục lạc; họ thấy tất cả chỉ là phù du, là tạm bợ và từ đó luôn sống với niềm vui
chân thật trong tự thân mình.
- Loại ngựa thứ tư chỉ cho những ai gặp phải một
bất hạnh tình cờ, chẳng hạn như một chứng bệnh nan y hay
trải qua một cơn bạo bệnh tưởng chết đến nơi, nhưng
may mắn hồi phục và
vượt qua cái chết. Họ nhận chân sâu sắc lẽ
vô thường đã đi qua đời mình, nên
sợ hãi khước từ tất cả những
con đường hướng ngoại tìm cầu; những
con đường đem đến nguồi vui
phù phiếm, giả tạm. Đối với họ lúc này chỉ có
con đường duy nhất còn lại là tìm cho ra
năng lực sống đang
tiềm phục nơi tự thân.
Năng lực này vốn
không sinh không diệt, nó có mặt trước khi ta có mặt, và khi ta trả
hình hài này cho
vô thường nó vẫn không mất đi.
Chúng ta hãy tự hỏi xem mình thuộc loại nào trong bốn loại ngựa này. Tất cả
chúng ta, đã hoặc cũng sẽ có những sợi
tóc bạc, những chiếc răng lung lay và chắc đều biết cái chết đang chực chờ đổ xuống đời mình bất cứ lúc nào. Ấy thế mà
chưa bao giờ mình nhìn lại,
chưa bao giờ nhìn thấy "mùa thu" của đời mình.
Mặc dù đã nương vào
Thánh giáo của
đức Thế Tôn trao truyền qua những
phương pháp thực tập,
hành trì để
quay trở lại thể nhận
tự tâm, thế nhưng
chúng ta vẫn chưa tập trung
năng lực dể hồi chiếu soi rọi lại chính mình một cách thấu đáo.
Vì vậy khi
tiếp xúc với
mùa thu đất trời, ta thường bị
âm thanh, cảnh sắc
vui buồn... nhiễu loạn. Lòng ta xao xác buồn trước những chiếc lá khô vàng trong cái
không gian đìu hiu cô quạnh.
Rõ ràng vì đánh mất mình trong cảnh sắc,
chìm đắm vào
âm thanh,
năng lực của ta trở nên yếu đi, không còn khả năng
hồi phục và quy chiếu lại tự thân, do vậy mãi vẫn chưa
giác ngộ để thành vị
Độc Giác Phật được.
Chúng ta có
muôn vàn điều kiện để
ngộ đạo. Trời đất trao cho ta một
gia tài tự nội như nhau, con mắt nhìn như nhau. Vừa
mở mắt nhìn, vừa lắng tai nghe thì
điều kiện hồi chiếu lại tự thân để
ngộ đạo đã có mặt rồi. Thế nhưng mình đã khờ dại, không như những vị
Độc Giác Phật. Họ
đặc biệt hơn
chúng ta là đã từng
thực tập thiền quán nên khi mắt, tai
tiếp xúc với cảnh sắc, với
âm thanh là các vị hồi chiếu ngay lại chính mình, sống với tự
thể không sinh không diệt của chính mình.
Đức Phật ngày xưa cũng trên nền tảng
nhận thức vô thường sâu sắc này đã làm một cuộc
khởi hành đầy
dũng mãnh, mới có thể đi ngang qua sáu năm
khổ hạnh trong rừng sâu mà không lùi bước. Ngài
dõng dạc chỉ vào tòa cỏ mà nói rằng: "Chưa
thành đạo quả thì ta không rời tòa cỏ này". Cho nên điều
căn bản đầu tiên ngay khi
tiếp xúc với
ngoại cảnh là phải
nhận diện cho được
bản chất vô thường của
đời người đang
cùng lúc có mặt trong ta.
Đời sống dù khổ đau hay
hạnh phúc thì tất cả cũng chứa đựng sự bất toàn, trong khi cái chết thì rình rập
chúng ta từng giây, từng phút. Khi đã
ý thức rõ ràng,
vững chắc trong từng
ý niệm như
vậy thì đó là nền tảng cho ta có thể
trở về cội nguồn sự sống.
Chỉ khi ta thực sự
tiếp xúc với
vô thường, có
tuệ giác về
vô thường, ta mới có thể
thiết lập một nền tảng
căn bản để tiến đạo, mới
vững vàng trên
con đường tu tập thiền định. Bằng không ta chưa thể phát triển
đời sống tâm linh của ta đến một tầng cao
cần thiết.
Tuệ giác căn bản của
đạo Phật là
hiểu biết sâu sắc về sự
vô thường của
thân thể. Và theo những hướng dẫn
truyền thống. khi
chứng nghiệm tuệ giác vô thường qua
quán chiếu trên
hình hài này, ta không những chỉ
tiếp xúc với
tính chất mong manh,
biến hoại của
hình hài, mà còn có thể
nhận diện được lẽ
vô thường trong từng
hơi thở. Khi
tuệ giác vô thường luôn có mặt giúp
chúng ta nhận biết sống chết đi liền trong từng
hơi thở, nó cũng
đồng thời giúp
chúng ta thiết lập nền tảng để
thăm dò vào chốn
thâm sâu nhất của
đời sống mình, tức là
thăm dò vào
bản thể không sinh diệt của
chúng ta.
Tâm thức chúng ta như ngựa hoang quen dong ruổi, đi đông về tây, lúc nào cũng muốn lấp đầy trống vắng,
cô đơn bằng những tiếc nhớ
quá khứ, khắc khoải
lo âu hiện tại hay những
dự phóng cho
viễn ảnh tương lai... Nhưng ta hãy
hình dung một người tử tù khi biết đích xác ngày mai mình sẽ bị hành quyết thì
chắc chắn những ôm ấp kỷ niệm,
vui buồn, những dong ruổi
ước mơ kia liền sụp đổ tức khắc. Mọi thứ không còn
ý nghĩa gì khi biết chắc một điều sự sống của mình chỉ còn kéo dài trong một ngày;
tự nhiên anh ta thấy chưa lúc nào
tâm thức cảm nhận sự chết, cảm nhận sự
mong manh của kiếp sống sâu sắc đến như vậy. Nếu là người
may mắn thì lúc bấy giờ
tuệ giác vô thường sẽ phát sinh, và
con đường trở về đã mở ra cho người đó. Đó là lúc anh ta đang chạm tay vào chính "đời sống thực" có mặt nơi mình.
Cũng như thế, khi đã chạm tay tới
vô thường rồi, ta có thể
kinh nghiệm một điều rằng, khi
tuệ giác vô thường phát sinh và
chúng ta tiếp nhận được ở mức độ cao với nhất, đó chính là
nhận diện vô thường sinh diệt trong từng
hơi thở. Có
chứng nghiệm được
lẽ sống chết qua từng
hơi thở, từng
sát na thì ta mới có thể
thiết lập được nền tảng
vững chắc để bước vào nguồn sống
vô biên vĩnh hằng của tự thân.
Đức Thế Tôn, các vị
Bích Chi Phật, các vi
A la hán ngày xưa cũng đã đi còn đường này.
Để
thiết lập một nền tảng
căn bản cho sự
thực tập,
chúng ta cần
hiểu biết các
phương pháp tu tập về
thiền quán. Có ba
phương pháp cốt lõi để
tu tập: Thứ nhất là chỉ, thứ hai là quán và thứ ba là thiền -
bao gồm cả
chỉ và quán. Trong kinh
Viên Giác,
Thế Tôn đã mở cánh cửa
phương tiện chỉ dạy ba
phương pháp, đó là chỉ (Samatha), quán (Vipassana), và thiền (Bhavana).
Chỉ là ngưng lại, tập trung sự chú ý vào một đối tượng. Nhưng thông thường
tâm thức ta không bao giờ chịu dừng lại hay chú ý
chuyên nhất vào một đối tượng nào. Tâm ta có
thói quen nhảy từ chỗ này sang chỗ khác,
ví như khi ta muốn mắt ta chú ý nhìn
bất động vào một điểm, thì ta có thể
nhận thấy nó rất khó
thực hiện đúng như vậy. Chỉ trong chốc lát là nó dời từ bên này sang bên kia, rồi đảo qua, liếc lại. Ở mặt cạn bên ngoài còn như vậy, huống nữa là bên trong sâu thẳm của
tâm thức.
Tuy nhiên, có
trường hợp ta có thể
chú tâm vào một đối tượng mà không chán, đó là khi sự
đam mê có mặt. Khi đã
đam mê vào một
vấn đề gì thì ta có thể quên ăn, bỏ ngủ, vùi đắm vào đó không biết mỏi mệt. Và có khi phải tạm bỏ công việc qua một bên, nhưng
tâm thức ta cũng không bao giờ rời niềm
đam mê đó.
Điều kỳ lạ là
tâm thức ta chỉ thường chú ý,
đam mê vào những gì dẫn dắt ta
đi vào đường
sanh tử, mà hiếm khi hướng đến những gì có
công năng giúp ta rời bỏ
phiền não, khổ đau. Thật vậy, nếu
chúng ta muốn tập trung vào
thiền tập, buộc thân
ngồi yên năm, mười phút thì dễ, nhưng bắt tâm ý dừng lắng
hoàn toàn năm, mười phút trong
thiền quán thì khó
vô cùng. Trong đoạn đường dài một cây số
thiền hành, ta thử
kiểm điểm xem có bao nhiêu bước chân ta đi trong
chánh niệm. Chắc không nhiều lắm!
Dĩ nhiên tâm thức mình đã quen được
nuôi dưỡng bằng
tập khí rong chơi đó đây. Mình buông thả cho
thần trí dạo chơi năm non, bảy núi rất dễ, nhưng bắt tâm gắn liền vào bước
chân thiền hành thì
quả thật khó khăn. Nó không bao giờ chịu dừng ở một nơi nào. Vì thế, dừng lại
chú tâm vào một đối tượng là
bước đầu tiên
chúng ta phải
thực tập.
Ngày xưa, có một ông vua muốn thử tập dừng lại
ngồi yên,
bình an vô sự. Ông cho truyền khắp trong
thiên hạ rằng ai có khả năng tới để ông nuôi cơm, bầu nước cho ăn sang, mặc đẹp với
điều kiện là chỉ sống,
sinh hoạt giới hạn trong một căn phòng
tù túng, nhỏ hẹp. Và nếu sống được như thế trong ba năm, ông sẽ
ban tặng một nửa vương quốc mà ông đang trị vì. Có một anh chàng kia đến dự tuyển và dược chọn. Người đàn ông này đầy
đủ sức khỏe, đang sống một
cuộc đời bình thường với
gia đình, thế nhưng khi sống trong
điều kiện như vậy, chỉ sau năm thứ nhất, anh ta đến lạy vua xin được
trở về với
vợ con. Anh không thể sống như thế này được vì sống thêm nữa anh có thể điên mất.
Rõ ràng việc
chú tâm vào một đối tượng là sự
thực tập rất khó khăn. Nhưng đó mới chỉ là cái khó cạn nhất đối với nhưng người đang trên
con đường thực tập thiền quán. Bước
căn bản nhất là
chú tâm vào một đối tượng có thể ta chưa được
thuần thục là
tại vì ta chưa có
thói quen dừng lại, nên khả năng
thăm dò vào chiều sâu của
tự tâm trở nên xa vời.
Cây phong kia tuy rụng lá nhưng nó biết nhựa sống vẫn còn đang
tiềm phục trong thân mình. Nó không cần đi tìm đâu xa, nó chỉ nhìn lại mình là thấy rõ sự sống
vẫn có mặt nơi tự thân. Ta cũng cùng một
điều kiện như
thiên nhiên, chỉ cần nhìn lại mình và
phục hồi năng lượng chánh niệm thì có thể chạm tay vào vào dòng sống vĩnh hằng,
không sinh không diệt. Ấy thế mà ta vẫn không thể dừng lại chỉ vì
tâm thức ta có
thói quen hướng ra ngoài. Chỉ cần dừng lại được, buông lỏng được thì ta cũng có khả năng như cây phong vậy. Dừng lại là chạm tay vào chính sự sống đang tuôn chảy dạt dào trong tự thân. Do vậy, chặng
đường ban đầu của sự
thực tập về chỉ tuy khó, nhưng không có nghĩa là không làm được, không có nghĩa là xa vời với
con đường thiền tập.
Quán là gì? Quán là một từ có thể
dễ cảm nhận hơn. Nhìn vào một đối tượng,
chúng ta nhận diện được nó, suy tư về nó,
chiêm nghiệm về nó, đó là
hình thức quán chiếu cạn nhất.
Tất cả những
quán chiếu được vận dụng để
soi sáng, để
tư duy thông qua những điều Phật dạy về
vô thường,
vô ngã của
con người, của
thiên nhiên hoặc của
tâm hành, được xem là
quán chiếu ở mức độ cạn. Được xem là mức độ cạn bởi vì ta còn vận dụng trí lự để
suy nghĩ,
nói thầm và phân tích về đối tượng. Ví dụ khi nhìn một bông hoa, ta nhớ đến lời dạy của một vị thầy rằng, bông hoa này có mặt là do sự
kết hợp bởi nhiều nhân, nhiều duyên, do ánh sáng
mặt trời, sương, nước, đất, công sức, người trồng... và trăm ngàn
điều kiện khác để hoa có thể khoe hương khoe sắc cho ta nhìn ngắm,
ngợi khen. Hay khi
quán chiếu về
con người ta khởi
tư duy, phân tích; ta thấy
con người là một hợp thể
ngũ uẩn, không có
thật tính, họ được biết qua cái tên do
cha mẹ đặt vào
hình hài gọi là
con người;
hình hài con người là
do dự kết hợp của
tứ đại,
ngũ uẩn mà thành, họ vào đời là do sự
phối hợp của
cha mẹ. Qua quá trình
nuôi dưỡng trong
gia đình, học đường và
xã hội mà họ
trưởng thành. Hay do
tiếp thu đời sống văn hóa tâm linh nên họ đã
trở thành người tu... Tất cả những điều kể trên
sở dĩ gọi là
quán chiếu ở mức độ cạn là do mình còn khởi
tư duy,
thì thầm để phân tích về đối tượng.
Bước vào mức độ
quán chiếu sâu hơn,
chúng ta cũng phải đi từ mức độ cạn mà phát triển lên. Nghĩa là khi khả năng
quán chiếu về sự vật, về
con người đã
thuần thục,
thâm nhập vào
tự tâm mình, bây giờ ta có thể
quan sát mọi đối tượng nhưng không còn dính mắc, không còn sinh ra
ý nghĩ phân biệt đẹp xấu, vui, buồn, khen, chê... Nhìn mà không khởi
lên tiếng nói
thì thầm hay
ý nghĩ phân tích. Khả năng bén nhạy của sự
nhận biết trực tiếp tự động đi sâu vào từng đối tượng lúc nhìn, ta gọi đó là
quán chiếu ở mức độ sâu. Ta chưa có thể
thâm nhập vào tầng sâu khi
quán chiếu, bởi khi nhìn là có ngay sự
phân biệt, vừa nhìn là tức khắc thấy có xấu đẹp, có thương ghét, có
hạnh phúc khổ đau... và thông thường
tâm thức chúng ta khi chưa
tu tập thì thường dính mắc, đắm chìm và bị dẫn dắt bởi đối tượng mình
tiếp xúc.. Chẳng hạn như khi tôi nhìn chiếc lá phong có màu sắc
rực rỡ, tôi không dừng lại ở màu lá phong để cảm nghiệm sự có mặt
trọn vẹn của nó mà nhớ đến những câu thơ mà tôi từng học: "Ngô đồng nhất diệp lạc,
thiên hạ cộng tri thu". Rồi từ câu thơ đó tôi nhớ đến ông thầy đã từng dạy tôi học thơ lúc còn bé, nhớ đến cô con gái của ông thầy
dễ thương thật, nhưng tôi lại
suy tưởng mông lung rằng
trong đời tôi đã từng gặp nhiều người còn
dễ thương hơn cô gái kia
vân vân và
vân vân. Chỉ từ việc nhìn ngắm một chiếc lá phong
đơn thuần, đã nẩy sinh bao nhiều điều lôi kéo mình chìm trong chuỗi dài những
ý nghĩ; đó gọi là mất mình trong dòng chảy của
suy tưởng.
Việc khởi quán khi nhìn
đặc biệt như thế nào với cái nhìn
sinh khởi ý thức thì thầm và để bị dẫn dắt bởi đối cảnh? Ta nên biết rằng cũng là nhìn nhưng khi ta khởi
ý thức có chủ động và nương vào
Thánh giáo để
quán chiếu,
nhận diện các đối tượng
tiếp xúc,
đồng thời có
năng lực của
chánh niệm đi kèm thì
vướng mắc,
chấp thủ cho đến phiền não,
lo âu... không thể nào phát sinh được. Ngược lại, khi nhìn mà ta để mất mình trong đối tượng thì ta có thể bị dẫn dắt chìm nổi trong dòng sông
vui buồn,
hệ lụy,
sầu khổ,
bất an. Chỉ một chút khác biệt về
hình thức nhưng kết quả cách xa muôn trùng.
Chúng ta đi vào phương pháp thứ ba của sự
thực tập đó là Thiền. Thiền là gì?
Thiền là cách
phát âm của chữ Trung Hoa "Ch'an". Trung Hoa cũng chưa có một từ tương xứng để định nghĩa về Thiền. Họ phải lấy nguyên ngữ
Ấn Độ phiên âm thành từ
thiền na. Nguyên chữ Pali là Jhāna; Sanskrit là Dhyāna và tiếng Nhật cũng không có từ
tương ứng để dịch đúng về Thiền. Họ chỉ dịch chữ Thiền của Trung
Hoa thành từ Zen của tiếng Nhật.
Đầu tiên ta cần biết là Thiền
bao gồm cả
Chỉ và Quán. Tức là
trạng thái tâm vừa tĩnh lặng vừa chiếu sáng, gọi đó là Thiền. Một điều nữa, có lẽ
chúng ta đã biết đó là nguyên ngữ của chữ Thiền vẫn chưa có trong những từ tương đương của
Tây phương, bởi vì Thiền vốn là sản phẩm có nguồn gốc từ
Đông phương. Và Thiền là một loại hàng mới nhập vào
thế giới Tây phương nên chưa được
giới thiệu rộng rãi, chưa có
từ ngữ chính xác để dịch nó. Có thể nói chưa có
từ ngữ nào có thể
diễn dịch được, bởi vì
Thiền tự bản thân nó là một trực nghiệm, mà
con người phải
thâm nhập bằng cả thân và tâm. Những
từ ngữ như
chiêm nghiệm, trầm tư, tập trung... là những từ
Tây phương có thể tạm dùng để chuyển dịch chữ Thiền; bởi vì khi ta nói
chiêm nghiệm tức là có một đối tượng đển mình
chiêm nghiệm, hoặc nói tập trung là phải có chủ thể và khách thể, có một điều gì đó để cho
ý thức mình hướng về, trong khi
bản chất của Thiền là vượt lên trên các
phạm trù đối lập, vắng bặt chủ thể, khách thể. Cho nên có thể nói Thiền là
trạng thái lặng lẽ, tỉnh sáng
đơn thuần giống như hạt nước trên tàu
lá sen rơi
trở về biến mất trong lòng
đại dương. Nó là
trạng thái trượt
trở lại tâm thức ban đầu của chính
chúng ta.
Đông phương có một
tác phẩm tuyệt vời là
Đạo Đức Kinh của
Lão Tử. Trong câu mở đầu của
Đạo Đức Kinh.
Lão Tử viết: "Đạo khả Đạo,
phi thường Đạo" có nghĩa là "Đạo mà nói được thì không phải là Đạo". Dẫn dụng điều này nhằm
đối chiếu với chữ Thiền được nêu ra trong giai
đoạn thực tập đầu tiên.
Như
chúng ta đã biết về
bản chất, Thiền rất khó hiểu và nó không thể nắm bắt qua
ngôn ngữ. Cũng như thế, để
chứng nghiệm được Đạo thì
tâm thức ta phải dứt bặt những
suy nghĩ, không còn một gơn sóng
ý thức thì thầm mới có thể
thâm nhập vào
trạng thái gọi là Đạo. Đạo vốn
vô ngôn, không lời. Cho nên dùng một loại
ngôn ngữ để
diễn đạt một
phạm trù phi
ngôn ngữ là điều không thể, là tối kỵ. Có những
trạng thái chứng nghiệm của
tâm không thể dùng
lời nói để
giải thích hay
mô tả được. Vì
ngôn ngữ,
chữ nghĩa luôn có những
hạn chế và
thường hay bị
hiểu lầm. Hơn nữa,
ngôn ngữ loài người vốn được đăt ra để gọi tên các sự vật,
hiện tượng, hoặc những gì
hiện hữu,
tồn tại.
Chúng ta có thể là một
triết gia, một
học giả truyền đạt được những
kinh nghiệm về
trí thức; khai triển những
ý tưởng uyên áo đến với người, hay có thể là những nghệ sĩ tài ba để lại cho người, cho đời những
tác phẩm điêu khắc,
thi ca, hội họa,
âm nhạc... bất hủ, vượt
không gian và
thời gian. Nhưng trên
con đường thiền tập, với những
con người đã sống trong Thiền, trong Đạo thì đây không phải là một
triết học mà là một trực nghiệm, tự
thực chứng bằng khả năng "nhận biết". Và vì là một
trạng thái tự chứng nghiệm nên không thể
truyền đạt lại một cách chân xác, cho một ai khác được.
Tuy vậy,
chúng ta không nên có
cảm tưởng Thiền là một điều gì xa vời, khó
thực tập. Ngược lại, có thể nói việc hành Thiền khá giản dị. Khi nhìn hay
quan sát bất kỳ một đối tượng nào, ta hãy nhìn bằng con mắt tĩnh lặng, sáng rỡ trong giây phút
hiện tại,
nhận biết đối tượng
rõ ràng mà không khởi sinh
ý niệm thì thầm về nó, không
để tâm ý đi lang thang thì đó chính là lúc mình đang ở trong
trạng thái thiền tập. Nhìn ra bên ngoài hay nhìn vào bên trong, ta cũng nhìn và
nhận diện đơn thuần,
sáng tỏ từng đối tượng mình đang
tiếp xúc, đó là
thiền tập.
Tuy nhiên một điều trở ngại là, khi có
nỗi buồn, ta
lập tức hóa mình vào
nỗi buồn đó. Ta thấy mình chính là
nỗi buồn và trầm mình trong dòng sông buồn đang
miên man chảy. Phép
thực tập của ta là khi
nỗi buồn hay một
tâm hành nào khác có mặt, ta chỉ nhìn chúng bằng con mắt bình lặng, tỉnh sáng, và như vậy,
chắc chắn ta luôn
an trú được trong
trạng thái thiền định. Chỉ cần làm được điều này thôi đã là
kỳ diệu rồi. Và đây là pháp "chiếu kiến" của đức
Bồ tát Quán Thế Âm trao cho ta.
Chỉ
đơn thuần nhận diện từng
tâm hành đang có mặt là ta đang
thực tập giáo pháp tuyệt vời mà
đức Phật đã
truyền đạt. Chỉ cần nhân diện tất cả những đối tượng ta
tiếp xúc, từ bên ngoài
cho đến bên trong mà không khởi sinh
ý thức xao động thì thầm là ta đang thật sự
thực tập thiền quán. Điều đó cho thấy ta đang
an trú trong tâm thể
bất sinh bất diệt của chính mình, cũng có nghĩa là ta chạm tay được vào
đời sống miên viễn hằng tươi nhuận trong tự thân ta.
Và chỉ cần làm một điều này thôi thì dù "mùa đông" của
đời người xảy đến, ta giống như loài cây kia
thảnh thơi vươn cành đón tiếp, bình thản trả
hình hài tứ đại này về cùng cát bụi. Dòng sự sống đâu chỉ có mặt ở trong thân, nó vốn là
năng lượng nên
tồn tại miên viễn và
thênh thang đến
vô cùng. Sinh mạng này có thể
chấm dứt bằng nhiều cách, nhưng sự sống (
sinh lực) thì không thể cắt đứt được. Như
mùa thu làm rụng những chiếc lá phong, nhưng
mùa thu không làm chết cây phong được. Cây phong vẫn
sừng sững,
hiên ngang đứng chờ
mùa xuân tới, vì nhựa sống của nó vẫn còn
cuồn cuộn trong thân.
Mười phương ba đời chư Phật chỉ truyền một pháp
Niết Bàn,
tức chỉ trao cho
chúng ta khối
vàng ròng chứ không hề trao một thỏi bạc hay thỏi đồng. Chư Tổ chỉ cho
chúng ta con đường để
hồi phục trở lại,
nhận ra sự sống
không sinh không diệt vốn sẵn có trong tự thân, chứ không dạy cho
chúng ta cách để có được chút
an ổn phù du trong cuộc sống ngắn ngủi này.
Ngày xưa,
thiền sư Càn Phong khi lên
pháp tòa chỉ nói một câu: "Mười phương
ba đời chư Phật chỉ có một
con đường Niết Bàn mà thôi, thế thì đầu đường ở chỗ nào?"
Thiền sư đưa cây gậy vẽ một vòng tròn rồi
bước xuống tòa,
đi vào hậu liêu. Thế là thuyết xong một thời
pháp thoại. Đây là một
công án trong hàng ngàn
công án của Thiền
Đông Độ.
Chúng ta hãy cùng chia sẻ một chút về
công án này để có thể
thực tập một điều rất gần với chính mình.
Điều
cốt lõi mà bậc
giác ngộ trao cho
chúng ta là phải tự mình chạm vào
đương thể Niết Bàn của chính mình. Ngài muốn chính
chúng ta đặt tay vào vùng đất vĩnh hằng, đó là sự sống luôn có mặt trong tự thân ta. Và nếu ta có con mắt sáng thấy được "đầu đường" để bước vào thì ta sẽ đến được
con đường Niết Bàn mà
thiền sư Càn Phong đã chỉ. Chỗ nào là đầu đường? Ngài dưa cây gậy vạch một vòng tròn và bảo đầu đường là chỗ đấy. Chỗ nào vậy? Tổ
Lâm tế từng nói: "Sáu đạo
thần quang chưa từng vắng mặt", tức là sáu
con đường mở ra để anh
đi vào Niết Bàn phút giây nào cũng
hiện diện trong anh;
hiện diện nơi mắt, nơi tai, nơi mũi, nơi lưỡi... anh. Nếu ở mắt thì có khả nằng
nhận diện tinh tường từng đối tượng; biết rõ đây là bông hoa, đây là cây đèn, đây là
con người... không hề
lầm lẫn.
Năng lực của cái nhìn và sự
nhận diện trực tiếp ấy không phải do
hình hài mà có. Nếu nói nó có được do
hình hài này thì khi trút
hơi thở,
hình hài vẫn còn đó, mắt vẫn còn đó tại sao ta không thể nhìn được. Cái
nhận biết trực tiếp không phải do khả năng suy tư, học tập,
giáo dục từ bên ngoài. Nhà trường dạy cho
chúng ta muôn vạn
kiến thức, nhưng
năng lực nhìn là
nhận biết tức khắc thì ai có thể dạy cho ta? Khả năng
nhận biết đó vốn sẵn có, là
bản thể không sinh không diệt trong ta chiếu rọi ra bên ngoài đấy thôi.
Cho nên khi
tiếp xúc với mọi đối tượng, cảnh vật của
thiên nhiên, đất trời,
con người, ta
nhận biết một cách
tinh tường mà
không sinh khởi tiếng nói
thì thầm bên trong; tâm vẫn
an trú ngay nơi đây và giờ phút này thì tức khắc ta đặt chân vào
con đường Niết Bàn. Tai ta nghe tiếng sáo đồng vọng, tiếng trẻ khóc, tiếng chim râm ran gọi bầy,
tiếng gió thì thào qua kẽ lá... nhưng không để cho
âm thanh dẫn dắt, đó chính là ta đang an trụ trong tự thể
Niết Bàn của chính ta.
Lúc ấy tâm ta trở nên
mênh mông và bát ngát, không bị hạn cuộc trong
không gian lẫn
thời gian. Và những gì không bị
giới hạn bởi
không gian và
thời gian, thì nó có thể đi ngang qua
ba cõi, không bị kềm tỏa
trong vòng sinh diệt, mất còn.
Khi
tiếp xúc với
hiện tại mà tâm ta rỗng rang,
vắng lặng là ta đang mở ra cánh cổng để
đi vào cõi
Niết Bàn lồng lộng. Nói
đi vào là gượng nói thế thôi, chứ kỳ thực thì ta không rời
Niết Bàn nửa bước, vì
đương thể Niết Bàn có mặt ngay trong
sát na hồi phục của
tự tâm. Lúc bấy giờ ta là giọt nước trên
lá sen, chỉ nhẹ nhàng buông mình là
trở về với biển khơi
bao la.