Có điều
chúng ta cần chú ý
tâm vô niệm không có nghĩa là tâm không có những tư tưởng, mà đúng hơn là tâm không bị nhiễm ô, không bị chướng ngại bởi những tư tưởng.
Vô tướng cũng thế.
Vô tướng không phải là không có hình tướng nào cả, mà vô tướng là không bị nhiễm ô và không bị chướng ngại bởi những hình tướng.Vô trụ cũng không có nghĩa là không có gì cả, mà là tất cả mọi cái đang trụ đều không thể
nhiễm ô hay
chướng ngại nó. Tâm ấy vốn tự
giải thoát là vậy. Tâm
vô niệm,
vô tướng và
vô trụ này không bị các niệm, các tướng, các cái đang có mặt (tức là
toàn bộ sanh tử) làm
chướng ngại,
nhiễm ô. Ngược lại, tâm
vô niệm,
vô tướng và
vô trụ này cũng không
chướng ngại các niệm, các tướng, các cái đang có mặt.
Bát-nhã
Tâm kinh nói: “
Sắc tức là Không, Không tức là sắc”. Sắc tức là
Không không có nghĩa rằng phải phá hết sắc đi thì mới có Không hay
tánh Không, mà sắc tự nó là Không. Không tức là
sắc không có nghĩa là có
tánh Không thì tất cả sắc biến mất. Trong cả hai mệnh đề, sắc vẫn nguyên vẹn, và
Không không bị
chướng ngại, bị
nhiễm ô bởi sắc và sắc cũng không bị ngăn ngại, bị
tiêu diệt bởi Không. Bởi vì “
sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác sắc”.
Tâm
vô niệm không phải là “
cái không vô ký”, mà là cơ sở, nền tảng cho mọi
hoạt động. Bởi thế, chỉ nói riêng
trong lịch sử Việt Nam, các
thiền sư là những nhà
hoạt động mạnh mẽ và
hiệu quả nhất, trong mọi lĩnh vực, từ
văn hóa cho đến xã hội, chính trị, y học.
2. Tương ưng với tâm vô niệmĐể
thông đạt,
tương ưng với tâm
vô niệm vốn tự
giải thoát này,
chúng ta cần
thực hành “hạnh vô niệm”, “
nhất hạnh tam muội”, “
bát nhã tam muội”.
Lục Tổ nói về hạnh
vô niệm như sau: “
Sao gọi là vô niệm? Nếu thấy hết thảy các pháp mà tâm chẳng bám nhiễm, đó là vô niệm. Dùng thì khắp tất cả chỗ mà cũng chẳng dính mắc tất cả chỗ. Chỉ thanh tịnh lấy bản tâm, khiến sáu thức ra sáu cửa, ở nơi sáu trần chẳng ô nhiễm tạp loạn. Đến đi tự do, ứng dụng thông suốt không trệ, đó là Bát-nhã tam-muội, tự tại giải thoát, gọi là hạnh vô niệm.
Còn nếu như trăm sự chẳng nghĩ đến, thường khiến cho niệm dứt tuyệt, đó là pháp trói buộc, cũng gọi là biên kiến.Các thiện tri thức! Ngộ pháp vô niệm thì muôn pháp đều thông suốt. Ngộ pháp vô niệm thì thấy cảnh giới của chư Phật. Ngộ pháp vô niệm thì đến đất Phật”.
Ở một đoạn khác, ngài nói: “
Vô niệm là nơi niệm mà vô niệm… Nơi các cảnh tâm chẳng nhiễm, gọi là vô niệm. Ở ngay nơi niệm của mình mà thường lìa các cảnh, chẳng ở nơi cảnh mà sanh tâm. Còn như trăm sự chẳng nghĩ đến, trừ bỏ hết các tư tưởng, tư tưởng dứt hết thì chết, rồi thọ sanh nơi khác, ấy là lầm to. Kẻ học đạo cần phải suy nghĩ điều đó.
Vì sao lập vô niệm làm tông? Chỉ vì người mê miệng nói thấy tánh, mà ở nơi cảnh có niệm, từ nơi niệm bèn sanh khởi tà kiến. Hết thảy vọng tưởng trần lao từ đó sanh ra, nhưng tự tánh vốn không có một pháp gì để có thể đắc. Nếu có chỗ đắc rồi vọng nói là họa là phước, thì đó chính là tà kiến trần lao. Cho nên pháp môn này lấy vô niệm làm tông.
Các thiện tri thức! Vô là không có sự gì? Niệm, là niệm cái gì? Vô là không có hai tướng, không có tâm các thứ trần lao. Niệm là niệm bản tánh Chân Như. Chân Như là thể của niệm. Niệm là dụng của Chân Như. Tự tánh Chân Như khởi niệm. Chân Như có thật tánh nên mới khởi niệm. Chân Như mà không có thì mắt tai sắc thanh hoại diệt tức thời.
Các thiện tri thức! Tự tánh Chân Như khởi niệm, sáu căn tuy có thấy nghe chạm biết mà chẳng nhiễm muôn cảnh, chân tánh vẫn thường tự tại. Nên kinh (Duy-ma-cật) nói: Thường khéo phân biệt tướng các pháp mà trong đệ nhất nghĩa chẳng động’’.
Như vậy
vô niệm là không có các niệm vọng tưởng trần lao. Hành giả an trụ vào
tự tánh Chân Như, và có khởi niệm là do
Chân Như khởi niệm. Niệm
sanh trụ dị diệt trong
Chân Như cho nên niệm chính là
Chân Như. Đó là sự
chuyển hóa thức thành trí,
sanh tử thành Niết-bàn, trong từng
niệm niệm.
Tự tánh gồm sẵn đủ cả Định và Huệ, hay
Chỉ và Quán: “
Định và huệ là một thể, vốn chẳng phải hai. Định và huệ giống như ngọn đèn và ánh sáng. Có đèn tức là sáng, không có đèn tức là tối. Đèn là thể của sáng, sáng là dụng của đèn. Danh tuy có hai, thể vốn đồng nhất. Pháp định huệ này cũng lại như vậy”.
Thế nên
ngồi thiền không chỉ là ngồi định, mà
ngồi thiền là
tương ưng với
tự tánh “
định huệ bình đẳng”: “
“Các thiện tri thức! Sao gọi là ngồi thiền? Trong pháp môn này không chướng không ngại. Ngoài thì với tất cả cảnh giới thiện ác, tâm niệm chẳng khởi, gọi là ngồi. Trong thì tự tánh chẳng động, gọi là thiền. Sao gọi là thiền định? Ngoài lìa tướng là thiền. Trong chẳng loạn là định. Bên ngoài nếu bám dính tướng, thì bên trong tâm bèn loạn. Nếu ngoài mà lìa tướng, tâm bèn chẳng loạn. Bản tánh vốn tự tịnh tự định, chỉ vì thấy cảnh tưởng cảnh mà loạn. Nếu thấy các cảnh tâm chẳng loạn, đó là chân định vậy".
Thiện tri thức! Ngoài
lìa tướng là thiền, trong chẳng loạn là định. Ngoài thiền trong định, đó là
thiền định. Kinh Bồ-tát giới nói: "
Tự tánh bổn nguyên của ta vốn thanh tịnh.
Các thiện tri thức! Ở trong mỗi niệm mỗi niệm, tự thấy bản tánh thanh tịnh, tự tu tự hành, tự thành Phật đạo”.
Khi
thuần thục với hạnh
vô niệm thanh tịnh này, người ta sống
thường trực với Phật, với
cảnh giới chư Phật: “
Trên đất tự tâm, giác tánh Như Lai phóng đại quang minh, ngoài chiếu sáu cửa thanh tịnh, phá sạch các trời Lục dục. Tự tánh soi chiếu bên trong, ba độc liền trừ, các tội địa ngục nhất thời tiêu diệt. Trong ngoài sáng suốt, chẳng khác Tây phương. Nếu chẳng tu như vậy, làm sao đến đó?”.
Khi ấy tâm này là Phật (“
Tức tâm tức Phật”,
hay nói theo
Pháp Bảo Đàn kinh, “
Tức tâm nguyên là Phật”), và tâm ấy vốn
vô sanh: “
Niệm trước chẳng sanh là tâm, niệm sau chẳng diệt là Phật. Thành tất cả tướng là tâm, lìa tất cả tướng là Phật”. Khi ấy, “Nếu nơi tất cả chỗ, đi đứng nằm ngồi, thuần một tâm thẳng, chẳng động đạo tràng mà thành chân Tịnh độ, ấy gọi là nhất hạnh Tam-muội”.
Khi ấy
cuộc đời bình thường này chính là
tự do giải thoát: “Không có một pháp có thể đắc mới có thể lập ra muôn pháp. Nếu rõ ý ấy thì cũng gọi là Bồ-đề Niết-bàn. Người thấy tánh thì lập cũng được, không lập cũng được, đến đi
tự do, không trệ không ngại.
Ứng dụng mà làm, hợp lời mà đáp, thấy khắp
hóa thân, chẳng lìa
tự tánh, tức được
tự tại thần thông,
du hý tam-muội. Đó gọi là thấy tánh”.
3. Tâm vô niệm và ba thânBa thân của Phật,
Pháp thân,
Báo thân,
Hóa thân đều vốn ở nơi
tự tánh mình. Tiến trình
tu thiền là tiến trình
Khai Thị Ngộ Nhập tự tánh Ba thân ấy, như
kinh Pháp Hoa nói. Đây cũng là
kiến giải và
thực hành của
Đại Toàn Thiện Ấn-Tạng.
“
Ba thân Phật ở trong tự tánh, người đời đều có. Vì tâm mình mê nên không thấy tánh ở trong, lại đi tìm Ba thân Như Lai mà chẳng thấy trong thân mình có Ba thân Phật. Các ông nghe tôi giảng khiến các ông ở trong thân mình thấy tự tánh có Ba thân Phật. Ba thân Phật này từ tự tánh sanh, chẳng phải từ ngoài mà được”.
Tâm
vô niệm chính là
Thanh tịnh Pháp thân Phật: “
Sao gọi là Thanh tịnh Pháp thân Phật? người đời tánh vốn thanh tịnh, muôn pháp từ tự tánh sanh. Suy tính mọi việc ác thì sanh ác hạnh. Suy tính mọi việc thiện thì sanh thiện hạnh. Như vậy, các pháp đều từ trong tự tánh. Như bầu trời thường trong sáng, mặt trời mặt trăng thường sáng, nhưng bị mây che thì trên sáng dưới tối. Bỗng có gió thổi mây tan, trên dưới đều sáng, muôn hình đều hiện.
Các thiện tri thức! Trí như mặt trời, huệ như mặt trăng. Trí huệ vốn thường sáng, nhưng vì bám theo cảnh nên bị đám mây tạm thời che khuất tự tánh, chẳng được sáng tỏ. Nếu gặp thiện tri thức nghe pháp chân chánh, tự trừ mê vọng thì trong ngoài sáng suốt, nơi trong tự tánh muôn pháp đều hiện. Những người thấy tánh cũng như vậy. Đây gọi là Thanh tịnh Pháp thân Phật”.
Pháp thân vì vốn
thanh tịnh, không
nhiễm ô, không bị che chướng bởi các niệm tưởng nên
Pháp thân là tâm
vô niệm, vốn tự
giải thoát, là
tánh Không, là Chân Như… Thấy
Pháp thân ấy gọi là thấy tánh. “
Sao gọi là Viên mãn Báo thân? Thí như một ngọn đèn có thể trừ được sự tối tăm của ngàn năm, một trí huệ có thể diệt được sự ngu mê của vạn năm. Chớ nghĩ đến việc trước, chúng đã qua không thể đắc. Thường nghĩ về sau, mỗi niệm mỗi niệm tròn sáng (viên minh) thì tự thấy bản tánh. Thiện ác tuy khác, bản tánh không hai. Tánh không hai này gọi là thật tánh. Ở trong thật tánh mà chẳng nhiễm thiện nhiễm ác, đó gọi là Viên mãn Báo thân Phật.
Tự tánh khởi một niệm ác thì diệt mất nhân thiện muôn kiếp. Tự tánh khởi một niệm thiện thì hằng sa ác chấm dứt, thẳng đến Vô thượng Bồ-đề. Trong mỗi niệm niệm tự thấy, chẳng mất bản niệm, ấy gọi là Báo thân”. Báo thân là ánh sáng của tâm vô niệm này. Ánh sáng thường được gọi là “quang minh” trong các kinh. Báo thân là quang minh của Pháp thân tánh Không. Nếu “mỗi niệm mỗi niệm đều tròn sáng, chẳng nhiễm thiện ác, đều tự thấy (tánh), chẳng mất bản niệm (Chân Như) thì chúng ta đang sống trong Báo thân. Nếu “ngay nơi niệm mà thường lìa các cảnh, chẳng nơi cảnh mà sanh tâm thì “niệm niệm tròn sáng, niệm không còn là niệm duyên theo sanh tử hư vọng, mà niệm là sự lưu xuất của quang minh từ tánh Không. Cũng là cái dụng của bản tâm vô niệm, nhưng nếu niệm niệm cứ duyên theo cảnh thì thành sanh tử, còn niệm niệm tròn sáng, chẳng mất gốc của niệm (bản niệm), là sự lưu xuất của quang minh, thì đó là Niết-bàn."
Tóm tắt, nếu
Pháp thân là
vô sanh tịch diệt, thì
Báo thân là tính sáng chiếu của
Pháp thân ấy.
Kinh luận thường nói
Tịch Chiếu, tông
Tào Động gọi là Mặc Chiếu, đều để chỉ nghĩa này.
“
Sao gọi là Ngàn trăm ức hóa thân? Nếu chẳng nghĩ muôn pháp thì tánh vốn không tịch. Một niệm suy tính, gọi là biến hóa. Suy tính việc ác thì hóa làm địa ngục; suy tính việc thiện thì hóa thành thiên đường, độc hại hóa làm rồng rắn, từ bi hóa làm Bồ-tát, trí huệ hóa làm cõi cao, ngu si hóa làm cõi thấp. Tự tánh biến hóa rất nhiều, người mê chẳng thể tỉnh giác, niệm niệm khởi ác, thường đi đường ác. Nếu một niệm quay về thiện, trí huệ liền sanh. Đây gọi là tự tánh Hóa thân Phật”.
Hóa thân là
tư tưởng, là niệm, là cái dụng của tâm.
Pháp thân là
tâm không có
tư tưởng, không bị
nhiễm ô bởi
tư tưởng (
vô niệm), tức là
Tánh không (“
nếu chẳng nghĩ muôn pháp thì tánh vốn không tịch”).Từ và trong
Tánh không, khởi một niệm
suy tính thiện ác, đó là
Hóa thân.
Ý nghĩ thì rất nhiều nên là Ngàn trăm ức
Hóa thân. Nghĩ cái gì thì làm cái đó, thành ra cái đó. Nếu biết
sử dụng ý nghĩ này, xoay ngược về nguồn gốc của nó (
hồi quang phản chiếu) thì
nhận ra Pháp thân, thấy tánh. Còn cứ để có
ý nghĩ lan man theo
sanh tử thì nhà tù
sanh tử càng dày.Thế nên, cũng niệm đó mà “
quay về thiện”, nghĩa là
quay về không tham, không sân, không si, không
nhân ngã, thì “
trí huệ liền sanh”.
Nếu không có các niệm (các
Hóa thân) thì cũng không biết lấy cái gì để quay ngược lại nhìn thấy ra
Pháp thân vô niệm.
Nếu không có cái dụng của tâm thì cũng không biết lấy cái gì để thấy ra cái thể của tâm.
Một lần nữa,
chúng ta thấy thêm ý chỉ của
Lục tổ: không phải diệt niệm là tốt.
Nếu biết tâm vốn là
vô niệm,
vô nhiễm, thì mỗi
ý nghĩ đều không có căn cứ, nền tảng, nên mỗi
ý nghĩ tự nó là
giải thoát. Nếu khởi một niệm mà biết niệm ấy không lìa khỏi
Pháp thân Tánh Không, thì niệm ấy là
giải thoát và là
Hóa thân đích thực của
Pháp thân Tánh Không.
Hóa thân (niệm) khởi sanh
từ Pháp thân (
vô niệm), nên với người đã thấy tánh, đã thấy
Pháp thân, thì niệm là
vô niệm.
Nếu khi khởi một niệm mà niệm ấy ở trong ánh sáng của
Báo thân quang minh thì niệm ấy là ánh sáng và là
Hóa thân đích thực của
Báo thân quang minh.
Lục Tổ tóm tắt lại
Ba thân như sau: “Từ nơi
Pháp thân mà
suy nghĩ, đó tức là
Hóa thân Phật.
Niệm niệm tự tánh tự thấy, đó là
Báo thân Phật.
Tự ngộ tự
tu công đức của
tự tánh, đó là chân
quy y. Hễ
ngộ tự tánh
Ba thân, tức là biết được
tự tánh Phật”.
Suy nghĩ (niệm) mà không lìa
Pháp thân Tánh Không (
vô niệm), đó là
Hóa thân, tức là sự hiện hóa của
Tánh không vốn tự
giải thoát. Còn
niệm niệm tự tánh tự hồi quang
phản chiếu (“niệm niệm
tự tánh tự thấy”), đó là
Báo thân quang minh. Dùng tất cả những sự việc ở đời, nghĩa là mọi
ý nghĩ, để
tu công đức của
tự tánh Ba thân, đó là
quy y chân thật. Như thế là: “
Ở trong mỗi niệm mỗi niệm, tự thấy bản tánh thanh tịnh, tự tu tự hành, tự thành Phật đạo vậy".
Nguyễn Thế ĐăngTạp chí Văn Hóa Phật Giáo số 158