Theo từ điển Phật họcTuệ Quang, "VỌNG TƯỞNG" là - "nghĩ tưởng- tưởng tượng- tưởng nhớ những điều sai lầm không đúng đắn. Còn "VỌNG NIỆM" là những ý niệmhư vọng, như tà niệm.
Phật QuangĐại Từ Điểngiải thích "VỌNG TƯỞNG": cũng gọi là phân biệt, vọng tưởngphân biệt, Hư vọng phân biệt, vọng tưởngđiên đảo. Đồng nghĩa vớivọng niệm, vọng chấp. Tức phân biệt tướng các pháp với tâm hư vọngđiên đảo, cũng có nghĩa do tâm chấp trước nên không thấy biết được sự vật một cách như thực.
Kinh Lăng Già quyển 2 (bản dịch đời Tống) nêu ra 12 thứ vọng tưởng:
Vọng tưởng, vọng niệm là căn bản của mọi tạp niệm, nó là hạt giốngtích tụ trong tàng thức, luân lưu như một giòng sông, như mạch nước ngầm; như bóng theo hình từ khi chúng ta có mặt. Đến khi xả bỏ báo thân, chủng tửThiện Ác và VÔ KÝtiếp tục dẫn dắt nghiệp thức lên xuống trong 6 nẽo, ngoại trừ bậc chứng đắc, vô minh đoạn tận thì chiếc bóng đó mới chấm dứt.
Tạp niệm căn bản là vọng tưởng, vọng niệm, đôi khi biến khởi không có chủ đíchrõ ràng, cho nên đã ví "tâm viên-ý mã" là vậy, nó tùy duyên, tùy cảnh, tùy tập khí mà hiện khởi.
Đây là một chướng ngại lớn cho việc tu tập; có những hành giả cố tâm đè nén, loại trừ, đối trị, nhưng đâu lại vào đó, càng đối trị chúng càng phát khởi. "TRI VỌNG-CHỈ VỌNG" nghĩa là biết vọng phải ngưng vọng lại càng vọng; vọng là cái không thật, mình biết không thật mà cố ngăn chận thì càng vọng như đùa với bóng vậy.
Kinh nghiệm của những thành tựu giả thì không cần phảiđối trị, loại trừ. Việc mình mình cứ làm, lúc đầu chúng muốn xen vào trong lúc mình hành trìđể tâm bị phân tán, vì thế, trong 30 phút đầu khó mà nhập định; những hành giả đạt đại định thì khi bắt chân ngồi xuống chỉ một hơi thở tâm đã an trú nơi pháp hành. Nói là vậy, thật ra bậc đạt ngộ lúc nào cũng ở trong định dù đi đứng nằm ngồi. Không riêng về Thiền pháp, Tịnh độ, Mật tông đều gặp chướng ngại như nhau. Người bình thường vẫn bị sai sử lăng xăng cũng từ vọng tưởng tạp niệm đó.
Xác định nó là tập khítiềm ẩn trong tàng thức, nó xuất hiện trong giấc ngủ gọi là chiêm bao. Một hành giảthâm sâuđịnh lực thì hạt giốngloạn động trong tâm sẽ mỏng dần cho đến khi đắc phápchứng ngộ. Vì vậy, không cần phải quá bận lòng bởi tiếng nói nội tâm đó. Có người luôn chăm chú vào những diễn tiến đó mà không phán xét, không nhận định, không làm gì cả... Một lúc nào đó tâm vẫn được an định, tiếng nói nội tâm đó tự chìm lặng.
Càng lắng đọng, tạp niệm càng sanh khởi, chúng tự đối thoại lăng xăng. Kinh nghiệmhuân tậpchủng tử đó mà hành giảhạn chếsuy nghĩlung tung, chú tâm vào một đề mục gọi là chánh niệm. Người có chánh niệm thì tâm ít giao động, ngủ không mộng mị. Lúc bỏ xác thân tâm không tán loạn - tránh được con đườngác đạo. Đầu óc chất chứa quá nhiều những chuyện suy nghĩ không đâu dĩ nhiêntàng thức sẽ là kho chứa tạp niệm, vọng tưởng. Chính vì thế, người tu bất cứ pháp môn nào cũng cần giản lược tạp niệm, duy trìchánh niệm, an lạc sẽ xuất hiện.