VÔ NIỆM KHÔNG PHẢI LÀ VÔ CHÁNH NIỆM
Thiền sư Thích Nhất Hạnh
Có người cho rằng chữ niệm ở trong
vô niệm cũng giống như chữ niệm ở trong
chánh niệm. Không phải vậy!
Chữ niệm ở trong vô niệm có nghĩa là một
tư tưởng, một cái tưởng, một
tri giác (perception), một
ý niệm (idea), một
quan niệm (notion).
Vô niệm tức là vượt thoát những
tư tưởng, những
ý niệm, những
tri giác đó.
Tại vì mình có những
tư tưởng, những
ý niệm, những
tri giác đó, và đôi khi mình đồng nhất nó với
sự thật tuyệt đối.
Vì vậy mình phải vượt thoát
ý niệm đó thì mình mới có thể
tiếp xúc được với
sự thật.
Ví dụ mình có một
ý niệm về Paris.
Ý niệm về Paris của mình có thể rất
sai lầm, dù cho mình có đi thăm Paris hai ba ngày, thì
ý niệm của mình về Paris vẫn còn ngây thơ như thường. Có người ở Paris 10 năm mà cũng chưa nắm vững được cái
thực tại của Paris.
Vì vậy Paris là một chuyện, mà
ý niệm của mình
về Paris là một chuyện khác. Ý niệm đó là một cái tưởng, một
tri giác mà khi nó sai, nó không đúng
sự thật, thì gọi là
vọng tưởng. Thành ra mình tuy có đi Paris nhiều lần thì cái tưởng của mình về Paris vẫn là
vọng tưởng cho đến một mức độ nào đó. Nếu cái
vọng tưởng đó không được
lấy đi (tức là
vô niệm), thì ta sẽ không có cơ hội
tiếp xúc với tự thân, với
thực tại của Paris. Cho nên vô
niệm là nguyên tắc của tuệ giác. Như vậy chữ vô niệm không có nghĩa là "vô chánh niệm". Có người không hiểu và nói rằng
vô niệm là cao nhất, vì
chánh niệm thì cũng vẫn còn là niệm. Nói vậy tức là không hiểu
chánh niệm là gì.
Niệm còn một nghĩa nữa, đó là một khoảnh khắc ngắn của
tâm lý. Khoảng cách của một sát-na, gọi là
niệm niệm tấn
tốc, khoảnh khắc này
tiếp nối khoảnh khắc khác.
Nhất niệm tam
thiên: Một khoảnh khắc của
tâm niệm nó có thể
bao gồm được cả ba ngàn
tâm niệm khác. Thành ra chữ niệm nó có
bản chất thời gian của tâm.
Vì vậy chữ
chánh niệm chúng ta dùng đây không phải là chữ niệm trong danh từ
vô niệm, mà cũng không phải là chữ niệm trong nghĩa một
đơn vị thời gian rất ngắn.
Niệm ở đây là một năng lượng,
chánh niệm là một
năng lượng, có
giá trị như dầu xăng hay nguyên tử lực,
tại vì chúng ta cần nó để có ánh sáng.
Nó là
năng lượng, mà
năng lượng đó có ít hay nhiều ở trong ta, thì ta biết.
Trong đời sống hàng ngày ta phải chế tác
chánh niệm. Ví dụ một
trung tâm làm ra một vùng
chánh niệm, một bên có một lỗ tai, một trong sáu căn của
chúng ta. Khi có
năng lượng của
chánh niệm thì
chúng ta có thể
thực tập bi thính, hay từ thính,
đế thính.
Chúng ta nghe với
năng lượng chánh niệm,
chúng ta nghe với
lòng từ bi. Khi được nghe bởi
năng lượng này thì người kia bớt khổ, và
đồng thời khi nghe ta hiểu được rất là sâu sắc. Nghe một mà hiểu mười.
Sở dĩ vậy là nhờ trong ta có
năng lượng của
chánh niệm. Ta nghe mà người kia bớt khổ được là vì ta
đế thính, ta có
năng lượng của
chánh niệm. Thành ra có lỗ tai mà không có
năng lượng trong đó thì cũng như là quý vị có một bóng đèn 150 Watts, nhưng quý vị không có điện, thì cái bóng đèn đó để làm gì?
Lỗ tai của ta cũng vậy. Mình có lỗ tai, nhưng lỗ tai của Bụt, lỗ tai của
Bồ tát Quán Âm khác với lỗ tai của mình,
tại vì trong lỗ tai của đức
Quán Âm có
dồi dào năng lượng của
chánh niệm, cho nên ngài nghe rất rõ.
Lời nói của mình mà có
chánh niệm thì không làm cho người ta
đau khổ.
Lời nói có
chánh niệm sẽ tạo
hạnh phúc và
niềm tin cho người ta.
Bàn tay của mình cũng là một loại bóng đèn. Bàn tay này có thể làm
hạnh phúc cho rất nhiều người, mà nó cũng có thể gây khổ đau cho nhiều người. Làm
hạnh phúc hay gây khổ đau là tùy ở chỗ trong bàn tay đó có
chánh niệm hay không, có con mắt hay không. Con mắt mà không có
chánh niệm thì nhìn mà không thấy.
Trong Nho học người ta nói rằng: "Tâm bất tại yên", tức là khi mình không có
ý tứ, thì "Thị nhi bất kiến, thính nhi bất
văn, thực nhi bất tri kỳ vị". Khi cái tâm mình không có đó, thì nhìn mà không thấy, lắng mà không nghe, nếm mà không biết
mùi vị.
Vì vậy cho nên con mắt của ta mà không có
chánh niệm, thì việc
sờ sờ ra đó mà ta không thấy, thấy mà ta không hiểu! Người kia đang
đau khổ vô cùng mà mình đâu có biết. Nhiều khi mình là
nguyên do khổ đau của người ta mà mình cũng không biết, mình nhởn nhơ, mình cho mình là người vô tội, nhưng kỳ thực là do mình không có
chánh niệm.
Vì vậy cho nên cắm dây vào trong ổ điện
chánh niệm thì
lập tức mình thấy được rất
rõ ràng. Con mắt của đức
Quán Thế Âm Bồ tát, của đức
Văn Thù Bồ tát, là những con mắt rất sáng. Lỗ tai của đức
Quán Thế Âm Bồ tát là lỗ tai rất thính, đó là nhờ
năng lượng chánh niệm hùng hậu ở trong đó. Con mắt nhìn mà thấu suốt được là con mắt thần, con mắt Pháp, con mắt Bụt. Mà
sở dĩ nó là mắt Pháp, mắt Bụt là tại sao?
Tại vì nó có
năng lượng.
Chúng ta cũng có một
hệ thống thần kinh cảm giác giống như
đức Thế Tôn,
chúng ta cũng có hai lỗ tai, hai con mắt như
đức Thế Tôn, nhưng
chúng ta không có nguồn
năng lượng đồi dào của
chánh niệm như
đức Thế Tôn, cho nên nghe mà
chúng ta hiểu rất ít, nhìn mà
chúng ta thấy không sâu!
Vì vậy mục đích tu hành của
chúng ta là chế tác
năng lượng chánh niệm. Trong ta có một nhà máy điện, và nhà máy đó phải ngày đêm tạo tác chất liệu
chánh niệm. Tất cả những điều
chúng ta làm
trong đời sống hàng ngày: Đi, đứng, nằm, ngồi, ăn, uống, nói chuyện, rửa nồi, nấu cơm,
đều phải được sử dụng để chế tác năng lượng. Đó là cách
tu tập tại Làng Mai.Bàn tay của
chúng ta có thể tạo nên
hạnh phúc, nó cũng có thể làm cho tan tác, tùy ta có
chánh niệm hay không. Bàn tay có con mắt và lỗ tai trong đó, thì bàn tay đó sẽ làm
hạnh phúc cho biết bao nhiêu người. Còn bàn tay mù, bàn tay điếc, thì bàn tay đó sẽ tạo ra rất nhiều
đau khổ.
Đừng nói anh làm
quần quật suốt ngày. Không! Làm
quần quật suốt ngày không đủ để tạo
hạnh phúc. Nếu trong bàn tay anh không có con mắt, nếu trong bàn tay anh không có lỗ tai, thì bàn tay đó đụng đến đâu là nó làm hư hại đến đó. Bàn tay này là bàn tay của đức
Đại Hạnh Phổ Hiền.
Đại hạnh tiếng Anh là
Great action. Mà sở dĩ bàn tay đó là bàn tay đại hạnh là vì trong đó có con mắt, có lỗ tai.
Vào chùa
chúng ta thấy có tượng đức
Quán Thế Âm nghìn tay, đó là cách
diễn tả, là cái
ngôn ngữ của đạo Bụt. Một
con người mà làm sao có nghìn tay?
Tại vì trong người đó có nhiều
từ bi quá. Mà
từ bi nhiều quá thì nó
biểu lộ ra bằng hành động. Cho nên có hai cánh tay không đủ, phải có cả ngàn cánh tay mới có thể
biểu lộ được hết
năng lượng của
từ bi ở trong đó.
Biết điều đó thì ta mới hiểu được
tôn tượng Quán Âm Thiên Thủ Thiên
Nhãn.Mà
Quán Âm Thiên Thủ
Thiên Nhãn là ai? Là chúng ta! Nếu
chúng ta có nguồn
năng lượng của thương, của yêu ở trong ta, và
năng lượng đó
dồi dào quá, thì ta sẽ
ngồi yên không được. Ta phải hành động, ta phải tạo
hạnh phúc cho người chung quanh ta, và
tự nhiên ta thấy ta cần tới một nghìn cánh tay.Ở Xóm Thượng có nhiều sư anh cũng thấy như vậy, thấy rằng mình có thể làm được nhiều
hạnh phúc quá, và mình có
cảm tưởng hai cánh tay không đủ, cho nên mình muốn có thêm hai cánh, bốn cánh, sáu cánh, tám cánh tay. Ở Xóm Hạ cũng vậy, ở Xóm Mới cũng vậy. Nhiều khi cánh tay
chúng ta rất dài,
chúng ta nuôi được một em bé ở Cambodia,
chúng ta nuôi được một em bé ở Phi châu.
Chúng ta có nhiều cánh tay hơn
chúng ta tưởng. Nhìn bên ngoài thì thấy như có hai cánh tay, nhưng
sự thật nếu
tình thương trong ta rộng lớn, thì nhìn kỹ hơn, người ta thấy mình có rất nhiều cánh tay.
Ngày xưa tôi có làm việc với một người
phụ nữ ở Hòa Lan. Bà ta người hơi thấp, nước da không trắng trẻo gì mấy. Ấy
vậy mà bà ta là một vị đại Bồ tát! Trong thế chiến thứ hai,
một mình mà bà cứu được hàng chục ngàn người
Do Thái khỏi bị
sát hại. Một người thôi mà tại sao làm được bao nhiêu việc như vậy! Người đó hiện đang còn sống ở bên Hòa Lan. Muốn sang nhìn mặt vị
Bồ tát đó, đặt tay vào vai vị
Bồ tát đó, là chuyện mình có thể làm được, chỉ cần đi vài tiếng đồ hồ bằng xe lửa thôi!Chung quanh ta có những vị
Bồ tát như vậy, và mình nói người đó có hai tay hay nhiều tay? Hai tay mà làm sao làm được nhiều quá vậy? Thành ra đức
Bồ tát kia không phải là một cái tượng, không phải là một
hình ảnh trừu tượng mà
chúng ta tôn thờ. Đó là những người có thật, và chính ta cũng có thể là một vị
Bồ tát như vậy.
Tại vì tu tập thì
năng lượng chánh niệm nó phát hiện, và có
chánh niệm thì ta thấy được. Thấy được thì ta thương được, và khi thương thì cánh tay của ta sẽ mọc ra thêm.
CÔNG DỤNG CỦA CHÁNH NIỆMMình cũng đã từng nói rằng sự có mặt của mình là món quà lớn nhất cho mình và cho người mình thương. Khi có mặt rồi thì mình mới có khả năng
nhận diện sự có mặt của kẻ kia, hay cái kia.
Công dụng thứ nhất của
chánh niệm là có mặt,
công dụng thứ hai của
chánh niệm là khả năng
nhận diện sự có mặt
của đối tượng kia. Có mặt rồi ta mới nói được rằng "Trăng tròn ơi, ta biết ngươi có đó và ta rất có hạnh phúc". "Người thương ơi, tôi biết anh có đó và tôi rất có hạnh phúc". Chỉ khi nào có mặt, mình mới có khả năng
nhận diện người kia, và mình biết rất rõ là khi mình coi người kia
như không có mặt, thì người kia không thể nào tin được là mình đang có
tình thương.
Vì vậy cho nên
yếu tố thiết yếu của sự
thương yêu là mình phải có mặt và mình phải
công nhận sự có mặt của người kia.
Trước đây
chúng ta đã học hai
linh chú thứ nhất và thứ hai của Làng Mai. Hai
linh chú đó là để
thực tập sự có mặt đích
thực và nhận diện sự có mặt của người kia, vật kia. Khi thực tập hai điều đó thì mình biết trân quí sự sống, và mình biết
nuôi dưỡng mình bằng những
mầu nhiệm đang có mặt trong mình, và chung quanh mình.
Thiền tập và
thực tập chánh niệm, do đó
trở thành một cái gì rất
đơn giản, rất
phổ biến, không những người
Phật tử cần
thực tập, mà những người không
Phật tử cũng nên
thực tập, nếu họ muốn
đời sống của họ có nhiều
hạnh phúc hơn.
Công dụng thứ ba của
chánh niệm là
nuôi dưỡng và
trị liệu. Khi có mặt và mình
nhận diện sự có mặt của những
yếu tố lành mạnh, tươi mát và có
công năng trị liệu chung quanh ta, thì chính ta được
nuôi dưỡng và được
trị liệu. Ví dụ như
thiên nhiên.
Thiên nhiên là những
yếu tố rất tươi mát, rất có khả năng
trị liệu. Nếu mình tự giam mình trong khổ đau, trong sự
phiền não, trong niềm
thất vọng thì mình không
tiếp xúc được với
thiên nhiên, do đó mà những vết thương của mình rất khó để được
trị liệu. Chung quanh mình biết bao nhiêu người biết thương mình, biết bao nhiêu người có thể giúp mình
trị liệu, nhưng tại mình cứ tự
giam hãm trong sự
cô đơn,
sầu khổ, buồn tủi, giận hờn, cho nên mình không
tiếp xúc được với những
yếu tố trị thương.
Vì vậy mình không được
nuôi dưỡng và
trị liệu bởi những
yếu tố đó.
Công dụng thứ tư của
chánh niệm là
quán chiếu. Nếu mình thực sự có mặt và
nhận diện được gì đang có
trước mặt mình, thì mình có cơ hội nhìn sâu vào trong đối tượng đó, gọi là
quán chiếu, tiếng Anh là looking deeply. Mình thấy
rõ ràng rằng trong
chánh niệm có
năng lượng gọi là định. Khi có
chánh niệm, mình
nhận diện sự có mặt của cái đó, và mình có cơ hội
tiếp xúc với cái đó một cách sâu sắc. Đó là định.
Khi
quán chiếu được sâu sắc rồi thì sự
hiểu biết của mình sẽ phát sinh. Cái đó gọi là tuệ. Như vậy, nhờ
quán chiếu mà mình có
tuệ giác, có understanding.
Tuệ giác là
yếu tố giải phóng cho mình ra khỏi những khối
sầu khổ,
u mê, làm cho mình
đau đớn từ trước
cho đến giờ.
Sự giải thoát ở trong đạo Bụt không phải
được làm bằng chất liệu của ân huệ từ một đấng thần linh, mà được làm bằng yếu tố tuệ giác của chính chúng ta. Chúng ta hết khổ là nhờ
chúng ta hiểu, chứ không phải nhờ
ân huệ của một đấng
thần linh nào cả.
Cho nên
chánh niệm là nguồn
năng lượng mà mỗi ngày
chúng ta phải chăm sóc,
vun bón và chế tác.
Tại vì nguồn
năng lượng đó sẽ sinh ra những nguồn
năng lượng khác là định và tuệ. Cái
an lạc,
hạnh phúc và sự
chuyển hóa khổ đau của
chúng ta,
hoàn toàn được
trông cậy vào ba nguồn
năng lượng này. Cho nên
chúng ta phải sống như thế nào để trong mỗi giây phút, ta có
thể chế tác được
năng lượng của
chánh niệm.
(Làng Mai)