KHÁI NIỆM VỀ
"TÁM MỐI LO TOAN THẾ TỤC"
TRONG PHẬT GIÁO
Hoang Phong
Nhà xuất bản Phương Đông TP. Hồ Chí Minh 2011
NGƯỜI PHẬT GIÁO NHÌN VẠN VẬT NHƯ THẾ NÀO
Phật giáo giảng rằng
mọi vật thể và mọi
biến cố, tức mọi
hiện tượng trong
thế giới này là «
ảo giác », «
bản thể tối hậu » của chúng chỉ là « trống không ».
Bản chất của tất cả những gì xảy ra chung quanh ta, trong đó kể cả
bản thân và
tâm thức của ta nữa, đều «
không thật », tức « không hàm chứa bất cứ một sự
hiện hữu tự tại hay nội tại nào cả ».
Vậy
thế giới này đây, tức môi trường trong đó
chúng ta đang sinh sống, thật sự là gì ?
Chúng ta là ai ? Mọi sự vật và
biến cố, tức mọi
hiện tượng do đâu mà có, nguồn gốc của chúng là gì ?
Để
giải đáp cho những câu hỏi trên đây,
Phật giáo đã đưa ra hai khái niệm
then chốt là «
Tánh không » (Sunyata) của
mọi vật thể và mọi
biến cố và khái niệm về sự « tương liên, tương kết và tương tạo » của chúng. Tiếng Phạn gọi khái niệm tương liên là Pratiya samutpada, kinh sách gốc Hán dịch là
nhân duyên sinh,
duyên sinh,
duyên khởi. Hai khái niệm nêu lên trên đây,
Tánh không và nguyên lý tương liên, là những gì thật đặc thù và độc đáo của
Phật giáo, bao hàm và
liên kết cả hai
lãnh vực hiểu biết : Khoa học và
Triết học. Các
học giả và
triết gia Hy lạp,
đồng thời hoặc sau
Đức Phật một vài trăm năm, hình như đã chịu ít nhiều
ảnh hưởng của
tư tưởng Phật giáo.
Tiêu biểu nhất là Héraclite (Hêrakleitos), khoảng 540-480 trước Tây lịch, chủ trương sự
biến đổi không ngừng của
mọi vật thể, những gì sống là đang chết, những gì chết sẽ
trở thành sống, không có ai tắm hai lần trong cùng một dòng nước... Những
phát biểu của Héraclite tuy gần với cái nhìn của
Phật giáo về
bản thể của
thế giới này, nhưng chưa đủ để
so sánh với những gì thật bao quát và
thâm sâu của khái niệm về
vô thường trong
Đạo Phật.
Nếu không quan tâm đến một vài tương đồng thứ yếu giữa nền
triết học cổ đại phương Tây và
Phật giáo như vừa kể trên đây, và nếu
chấp nhận hai nền
Triết học Đông phương và
Tây phương phát triển song hành và
cách biệt nhau, thì cũng có thể nói là chưa có một
học phái nào hay một
triết gia Tây phương nào « nhìn thấy » được «
bản chất trống không » và « nguyên lý tương liên » của mọi
hiện tượng do
Đức Phật chủ trương từ hơn hai ngàn năm trăm năm trước. « Nguyên lý tương liên » và khái niệm về «
Tánh không » chẳng những có thể
giải thích được cách thức
hiện hữu của mọi
hiện tượng trong
vũ trụ này trên
phương diện Triết học siêu hình
mà cả trên
phương diện Khoa học nữa.
Những khái niệm trên đây làm trụ cột cho căn nhà
Đạo Pháp và cũng là những gì khó nắm bắt và khó
thấu triệt nhất trong nền
Triết học Phật giáo. Có thể nói là
cửa ải cam go nhất mà những người
tu tập phải
vượt qua. Nếu chưa vượt được của ải ấy,
ít nhất là trên
phương diện lý thuyết, thì có thể nói là người
tu tập chưa lọt được vào
cảnh giới của
Đạo Pháp.
Tánh không và nguyên lý tương liên trên phương diện ngữ phápTánh không tiếng Phạn gọi là Sunyata,
chỉ định đặc tính hay
bản chất trống không của mọi
hiện tượng. Sunyata
diễn đạt bằng
ngôn từ Tây phương là « Vacuité » hay « Emptiness ». Tuy cách dịch này không gây ra khó khăn nào trên phương diên ngữ pháp, nhưng việc
tìm hiểu ý nghĩa thâm sâu và vai tròn
then chốt của
Tánh không trong việc
tu tập để
đạt đến Giác ngộ và
Giải thoát vẫn là một
vấn đề thật
gay go và
tế nhị. Dù sao,
quả thật hết sức quan trọng phải
phân biệt Tánh không với hai
thái cực của nó là
chủ nghĩa Hư vô, còn gọi là
Đoạn kiến (Néantisme, Nihilism) và
chủ nghĩa Trường tồn hay
Thường kiến, còn gọi là
chủ nghĩa Tuyệt đối (Absolutisme, Eternalism). Một số
triết gia và các nền
tư tưởng phương Tây thường rơi vào một trong hai
thái cực vừa kể.
Nếu như
Tánh không hay Sunyata không đặt thành
vấn đề trên
phương diện ngữ pháp, thì nguyên lý về
hiện tượng tương liên
cần phải được định nghĩa và minh chứng
rõ ràng hơn. Tiếng Phạn
chỉ định khái niệm về sự tương liên của
vạn vật là pratitya-samutpada. Các kinh sách gốc Hán dịch chữ này là :
duyên khởi,
duyên sinh, sinh duyên,
sinh khởi,
nhân duyên sinh.... Cách
chuyển ngữ như thế không được
chính xác lắm, có thể vì
lý do ấy nên một vài kinh sách gốc Hán thường
lẫn lộn khái niệm này với
Mười hai nhân duyên (
Thập nhị nhân duyên) mà tiếng Phạn gọi là Dvadasanidana hay Dvadasanga-pratityasamutpada. Nguyên lý tương liên
chỉ định đặc tính hay
bản chất của
vạn vật, trong khi đó
Mười hai nhân duyên chỉ định những mối
liên hệ thúc đẩy và nối tiếp nhau từ
vô minh đến cái chết, tức là quá trình của chu kỳ
luân hồi.
Hiện tượng tương liên được dịch sang các
ngôn ngữ Tây phương bằng chữ Interdependance, có nghĩa là «
lệ thuộc lẫn nhau », chữ này
chỉ định thật
rõ ràng khái niệm về sự
lệ thuộc, tương kết và tương tạo giữa
mọi vật thể và mọi
biến cố.
Mười hai nhân duyên được dịch sang
ngôn ngữ Tây phương là Mười hai mối dây
liên kết, hay tương kết, dịch như thế có vẽ
sát nghĩa hơn.
Tóm lại,
hiện tượng tương liên mang
đặc tính «
không gian », tức « trải rộng theo chiều ngang », trong khi đó Mười hai mối dây
liên kết, tức
thập nhị nhân duyên chỉ định sự
liên kết của một chuỗi
hiện tượng tiếp nối nhau từ
vô minh đến cái chết, hàm chứa «
đặc tính thời gian » nhiều hơn, « tức phân bố theo chiều dọc » của « trục
thời gian ».
Tính cách kỳ diệu và lạ lùng của Tánh khôngTrong một bài báo (Tạp chí Nouvel Observateur của Pháp, số
đặc biệt về
Phật giáo, tháng tư-tháng sáu 2003), ông Patrik Carré, một trong những
học giả hàng đầu về
Phật giáo của Pháp đã ghi lại lời
phát biểu của một
triết gia có tiếng, một chuyên gia về
văn minh Phạn ngữ, là ông Guy Bugault, vào dịp viếng thăm nước Pháp lần đầu tiên của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma như sau :
«
Trong lần viếng thăm nước Pháp lần đầu của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma, và đấy cũng chính là dịp mà khái niệm về Tánh không [được nêu lên và] đã kích thích sự tò mò của tất cả các nhà báo : quả thật là kỳ diệu, và cũng có thể nói là khá lo âu, vì dù sao đấy cũng là một chướng ngại mà sự hiểu biết có thể vấp phải ».Tiếp theo đó, để
bình luận cho câu
phát biểu trên đây, ông Patrick Carré đã viết như sau :
«
Tánh không kích thích sự tò mò của các nhà báo Tây phương, quả thật là một điều đáng mừng. Nhưng tôi cũng tự hỏi tại sao Tánh không vẫn chưa lôi kéo được sự lưu tâm của các triết gia chúng ta, họ là những chuyên gia về bản thể con người, và chỉ biết nghiên cứu về hư vô. Chẳng qua họ chưa hề được biết thế nào là Tánh không đấy thôi.« Quả thật là một khái niệm kỳ lạ, nếu như thế giới này và chính cái tôi, những thực thể đầy màu sắc đó, đang hiện diện, đang hiện hữu một cách không chối cải được, nhưng thật ra là không có, chỉ là hư không : thì phải điên rồ một cách thật tàn bạo mới dám chủ trương một sự phi lý đến như vậy ! Nhất định cái khái niệm đáng lo ngại ấy, cái chủ thuyết hư vô ấy của phương Đông, chắc chắn chỉ là « một trào lưu » mang tánh cách tạm thời trên xứ sở chúng ta mà thôi, vì nó đang tự vạch ra [cho nó] một lối đi trong khu rừng gồm toàn là những khái niệm rỗng tuếch [của chúng ta] để tìm ra một vị thế rõ rệt thiết lập trên một sự xác thực hoàn toàn mới mẻ ! ».Sau đó ông Patrik Carré đã
lưu ý là theo sự
hiểu biết của chính ông từ kinh sách và trên
thực tế, ông chưa hề thấy trên đất nước
Ấn độ,
Trung quốc,
Tây tạng hay bất cứ một
quốc gia Phật giáo nào, khi có một vị thầy
thuyết giảng về
Tánh không, lại không
tức thời cảnh giác người đọc hay
cử tọa rằng «
Tánh không chẳng có một chút gì
liên quan đến hư vô ». Thật vậy,
Tánh không chỉ là một
ngôn từ, một cách nói
ẩn dụ,
chỉ định một
ý niệm thật «
phóng khoáng, và
tự do », một « sự thực
tuyệt đối »,
thoát khỏi những khái niệm vể
hiện hữu và phi
hiện hữu, vượt lên trên hiện-thực và phi-hiện-thực.
Dù sao, những lời trích dẫn trên đây đã cho thấy
học thuyết về
Tánh không và
quy luật về
hiện tượng tương liên của
Phật giáo đã làm
kinh ngạc một số
học giả Tây phương, và
đồng thời cũng làm cho họ
cảm thấy lo âu trước những khái niệm
vô cùng bạo dạn, vượt lên trên những
hiểu biết công thức và
quy ước của chính họ, phá bỏ cách nhìn « cứng nhắc » của nền
triết học và khoa học
Tây phương về
bản thể của
vũ trụ này.
Sự thực quy ước và sự thực tuyệt đốiTrong một bối cảnh mà tất cả đều trống không,
con người sẽ mất hết định hướng, không có gì để nương tựa, để
chống đỡ, để
trao đổi và giao tiếp. Vì thế
con người cần phải có một sự thực hay
một thế giới
tương đối để sống, để
tồn tại, để
xây dựng, để
trao đổi, để giao tiếp, để
hiểu ngầm với nhau...có nghĩa là giúp cho mỗi
cá nhân con người «
cảm thấy » đang «
hiện hữu ». Sự
hiện hữu đó
dựa trên những
quy ước về
lịch sử, địa lý,
xã hội,
ngôn ngữ,
giáo dục..., và trong một
lãnh vực giới hạn hơn, sự
hiện hữu đó đã
dựa vào những cảm nhận từ các giác cảm hạn hẹp của ta về
thời gian,
không gian và
mọi vật thể cũng như mọi
biến cố đang phát sinh và xảy ra trong môi trường chung quanh. Những
sự thực quy ước đó, cái
thế giới tương đối đó là những gì
cần thiết để
duy trì sự
vận hành của chu kỳ
luân hồi hay quá trình vận chuyển của sự sinh và cái chết, tức
thế giới Ta-bà (Samsara). Người
Phật giáo nhìn
xa hơn và cao hơn cái
thế giới tương đối và những
sự thực quy ước như vừa kể.
Sự
cần thiết phải có những
công thức, những
quy ước, những
hiểu biết tương đối và tạm thời trong
mục đích trao đổi,
phát biểu, giao tiếp
với nhau trong
thế giới này đã đẩy
con người vào một
trạng thái u mê, thiếu
hiểu biết, hay
hiểu biết sai lệch về
bản thể đích thực của
hiện thực. Sự
u mê và
hiểu biết lầm lẫn đó
Phật giáo gọi là
Vô minh (Avidya). Nói một cách khác là sự
hiểu biết dựa vào những cảm nhận của
giác quan, vào các
công thức và
quy ước đều mang
tính cách lừa phỉnh,
ngăn cản không cho ta nhìn thấy sự thực
tuyệt đối của
hiện thực, tức sự thực
tối thượng của
mọi vật thể và mọi
hiện tượng.
Hiện tượng tương liên - tương tác cho thấy
mọi vật thể và
biến cố chỉ có
tính cách nhất thời (
vô thường), chỉ
hiện hữu bằng
điều kiện, chúng
hoàn toàn không
hiện hữu một cách
độc lập,
trường tồn,
bất biến và nội tại. Trong tập luận « Bảy mươi tiết về
Tánh không » (Sunyatasaptati),
Long thọ đã viết như sau : « [Bất cứ] một thứ gì
hiển hiện ra bằng cách
lệ thuộc vào cái này và cái kia lại có thể phát sinh để tạo ra một
thực thể mang
tính cách độc lập ».
Do đó, sự thực
tuyệt đối, còn gọi là sự thực
tối hậu hay
tối thượng trong
Phật giáo là một sự thực vượt lên trên những
quy ước xử dụng trong việc
trao đổi và giao tiếp, sự thực đó
thoát khỏi mọi
điều kiện tương liên, tương kết và tương tạo của
thực tại. Sự thực
tuyệt đối ấy chính là
bản chất đích thực của mọi
hiện tượng, là
Tánh không của
vạn vật trong
thế giới này.
Vậy cách nhìn của người
Phật giáo về
vạn vật trong
vũ trụ chính là
sự quán thấy
tính cách vô thường,
biến động và
bản chất không thật của
mọi vật thể và
biến cố, chúng bắt buộc phải
dựa vào các
hiện tượng tương liên và tương tạo để
hiện hữu. Nhìn thấy
bản chất tương liên và
lệ thuộc ấy của mọi
hiện tượng tức là quán nhận được
Tánh không của chúng : chúng không «
độc lập » và không phải là những
thực thể tuyệt đối, vì luôn luôn phải
liên kết với những
hiện tượng khác làm
điều kiện tất yếu để
hiện hữu, thiếu những
hiện tượng khác làm
điều kiện chúng sẽ biến mất.
Phật giáo còn gọi
Tánh không như vừa
mô tả trên đây là sự
Tinh khiết, và tất cả những gì đối nghịch với sự
Tinh khiết thì gọi là
Ô nhiễm, tức là những gì mang
tính cách cấu hợp,
biến động và phân hủy. Quán nhận được sự
Tinh khiết hay
Tánh không của mọi
hiện tượng gọi là
Giác ngộ. Nói cách khác,
Giác ngộ chính là cách nhìn trực tiếp vào
bản chất đích thực của
vạn vật.
Kết luậnTrên đây là những gì mang
tính cách lý thuyết liên quan đến cách nhìn
vạn vật theo
quan điểm Phật giáo. Nhưng
tu tập để
đạt được cách nhìn
đúng đắn trước những
biến động của
vạn vật để làm gì ? Khi
nhận thấy bản chất vô thường và
không thật của
mọi vật thể và
biến cố, ta sẽ hoá giải được tất cả mọi
lo âu, thắc mắc về
thế giới này,
tránh khỏi những
tham lam và
bám víu vào những gì luôn luôn
biến động,
vô thường và
không thật.
Sự quán thấy ấy sẽ đem đến cho ta
hạnh phúc,
an bình, sự
trong sáng và phẳng lặng trong
tâm thức, và
hậu quả đương nhiên của thế dạng ấy trong
tâm thức là
lòng từ bi
vô biên sẽ phát sinh trong ta khi ta nhìn thấy các
chúng sinh khác còn đang
bám víu vào những
ảo giác của
vạn vật và xem đấy là những
thực thể vững bền. Cách nhìn
sai lầm về
thực thể của
vạn vật, xem chúng là những
thực thể vững bền để
bám víu, chính là nguồn gốc của khổ đau và
nguyên nhân đưa đến sự
vướng mắc trong
thế giới luân hồi. Một
đại sư Tây tạng là ngài Kunzang Palden (1870-1940) trong một tập luận về
Văn-thù Sư-lị, có viết như sau : « Khi
nhận biết được
thực thể của mọi
hiện tượng, ta không thể nào không cảm nhận được
lòng từ bi trỗi dậy trong ta
trước cảnh chúng sinh có giác cảm đang
vướng mắc trong
thế giới Ta-bà, bởi vì những
chúng sinh ấy tin vào sự
hiện thực của mọi
hiện tượng ».
Tu tập để quán thấy
bản chất vô thường của
hiện thực để
phát lộ lòng từ bi
vô biên chính là
con đường của người Bồ-tát,
con đường thênh thang của
sự Giải thoát.