HỎI: Theo Phật giáo Phát triển (Tịnh Độ tông - Đại sư Ngẫu Ích, A Di Đà yếu giải), niệm Phật nếu đạt nhất tâm bất loạn (Chỉ) thì thành tựugiải thoát, đoạn trừ các phiền nãotham sân si..., mà không cần tu Tuệ (Quán). Theo Phật giáo Nguyên thủy, niệm Phật chỉ là một trong các tùy niệm. Niệm Phậtchuyên cần có thể đạtnhất niệm (tức là cận hành định), lúc này cần phải tu tuệ minh sát mới đoạn diệtphiền não và chứng đạo, giải thoát (có Chỉ, có Quán). Như vậy, hai truyền thống trên có sự khác nhau, vậy bên nào đúng, hay mỗi bên có một cách hiểu riêng? (NGỌC LINH, [email protected]) ĐÁP: Bạn Ngọc Linh thân mến! Trong hai truyền thốngPhật giáo lớn của thế giới hiện nay, Phật giáoNam tông (Nguyên thủy) và Phật giáoBắc tông (Phát triển) đều có pháp tu Niệm Phật. Và dĩ nhiên, mỗi truyền thống đều có phương cáchtu tập riêng.
Trước hết, niệm Phật là một trong những pháp tu căn bản của Phật giáoNam tông, do chính Đức PhậtThích Ca chỉ dạy lúc Ngài còn tại thế. Niệm Phật hay niệm ân Đức Phật Thích Ca đạt nhất tâm thì thành tựu Định (Chỉ). Hành giảcần phải tu Tuệ (Quán) để quét sạchphiền não, lậu hoặc, vô minh mới thành tựugiác ngộ, giải thoát. Lộ trình tu tập của Đức PhậtThích Ca với Định - Tuệ viên mãn là minh chứng cụ thể. Giáo điểnTịnh Độ tông (thuộc Phật giáoBắc tông) chủ trương Niệm PhậtA Di Đà hướng đến mục tiêugiác ngộ, giải thoát. Tuy nhiên, giải thoát theo pháp môn Niệm Phật của tông Tịnh Độ có hai dạng: Một là, niệm Phật đắc tam muội được vãng sanh về Tây phương, thoát ly sự khổ của Ta-bà. Hai là, niệm Phật đắc tam muội, chứng ngộthật tướng, tự tạigiải thoát ngay trong hiện tại. Vì sao “niệm Phật đắc tam muội được vãng sanh về Tây phương, thoát ly sự khổ của Ta-bà” được gọi là giải thoát? Thực chấtgiải thoát ở đây là một cách gọi khác của thành tựuBất thối chuyển. Nghĩa là, khi đã về Tây phương Tịnh độ rồi thì không còn luân hồi trong lục đạo ở Ta-bà sinh tử khổ đau nữa, nương thắng duyên ở Tịnh độ mà tu hành thẳng đến quả vị Phật-đà. Dù hiện tại chưa thành Phật nhưng ai đã về Tịnh độ rồi thì chắc chắn sẽ thành. Cơ sở của việc vãng sinhTịnh độ chính là niệm Phật đạt nhất tâm (Định, Tam muội). Do đó, Đại sư Ngẫu Ích trong A Di Đà yếu giải, nói “niệm Phật nếu đạt nhất tâm bất loạn thì thành tựu giải thoát” chính là ý này. Người tìm hiểugiáo điểnTịnh Độ tông cần lưu ý là, tinh túy của pháp môn Niệm Phật không chỉ thành tựuniệm Phật tam muội (Định - Chỉ) để cầu vãng sinhCực lạc mà ngay nơi Định (Chỉ) ấy, phát huy Quán (Tuệ) để chứng ngộthật tướng, thể nhập với Tự tánhDi Đà, chứng đạt giải thoát ngay trong hiện tại. Căn bản có bốn pháp niệm Phật: Trì danhniệm Phật, Quán tượng niệm Phật, Quán tưởng niệm Phật và Thật tướngniệm Phật. Trong đó Thật tướng thuộc về lý niệm Phật. Lấy tự lực làm chủ đạo trong sự tu hành. Niệm (Quán) thật tướng các pháp, tức niệm thật tướng Phật. Thật tướng là vô tướng. Nhờ quán thật tướng mà chứng đắcpháp tánhviên dungvô ngại. Đại sưTrí Giả trong tác phẩmNgũ phương tiện niệm Phật môn có đề cập đến năm thành quả do niệm Phậtnhất tâm, chứng niệm Phật tam muội (Định). Một là, niệm danh hiệu Phật đắc tam muội được vãng sanh. Hai là, Quán tướng hảoquang minh của Phật mà tội chướngtiêu trừ. Ba là, từ phápniệm Phật đắc tam muội, Quán các cảnh đều do tâm, đoạn trừ bệnh chấp pháp. Bốn là, từ phápniệm Phật đắc tam muội, Quán sát xả ly tâm và cảnh. Năm là, từ phápniệm Phật đắc tam muội, (Quán) chứng tánh khởi viên thông, xả ly mọi tham chấp cảnh thiền định trầm lắng để chứng đắcthật trí, thật pháp, tự tạigiải thoát. Có thể thấy rất rõ rằng, giáo điểntông Tịnh Độ, ngoài mục đíchvãng sanhCực lạc với nỗ lựcniệm Phật đạt tam muộinhất tâm (Định, Chỉ), còn có phương thức niệm Phật để thành tựugiác ngộ và giải thoát trong hiện đời bằng cách viên dungChỉ và Quán (Định và Tuệ). Niệm Phật nhằm chứng ngộthật tướng, chứng đắcthật trí thì không khác với Thiền, Chỉ và Quán đều đủ. Chúc bạn tinh tấn!