BÁT NHÃ TÂM KINH GIẢNG GIẢI
VÔ THƯỢNG NIẾT BÀN
Lê Sỹ Minh Tùng
31 Tu pháp Xa-Ma-Tha Tức là tu Chỉ hoặc gọi là tu Định.
Cuộc sống của
con người hằng ngày cũng giống như một bải chiến trường. Họ phải đương đầu, chiến đấu từ
nội tâm cho tới
ngoại cảnh. Từng giây từng phút
vọng tưởng khởi dậy, niệm nầy lặng xuống niệm khác dấy lên quây cuồng không ngừng nghĩ trong tâm của
chúng ta. Thiền Xa-Ma-Tha giúp
chúng ta có đủ
năng lực làm lắng xuống tất cả những
vọng niệm để cho tâm được
an định. Vì thế
phương pháp nầy còn gọi là
Chỉ tức là làm dừng mọi
vọng thức trong tâm. Như thế thì
niệm Phật A Di Đà cũng chính là
thực hành Thiền Chỉ vậy vì khi niệm
hồng danh Phật
A Di Đà là dùng một
chánh niệm để dừng tất cả những
vọng niệm khác. Khi
tâm không còn các
vọng niệm tức là khi niệm mà không còn niệm thì
lúc ấy họ
đạt được nhất tâm bất loạn tức là
kiến tánh.
Ngày xưa các vị
đại đệ tử của Phật cũng dùng
Thiền Chỉ để đoạn trừ tất cả
phiền não khổ đau thì tâm sẽ định và họ chứng được
quả vị A-La-Hán tức là
kiến tánh.
32 Tu pháp Tam-Ma-Bát-Đề tức là tu Quán hay là tu Trí Tuệ.
Khi tâm đã định thì giai đoạn
kế tiếp là
tiếp tục thiền định để thấy được
chân lý của
nhân sinh và
vũ trụ. Khi
ngồi thiền dùng
trí tuệ để thấy thân nầy là giả Có
không thật vì Thân là do
tứ đại hợp thành thì đây chính là Quán. Sự
liên quan của
con người và
vũ trụ trong
thế giới Tục đế và
Chân đế cũng như giữa
thế giới hữu vi và
thế giới vô vi.
Trí tuệ nầy giúp
con người sáng tỏ được sự
hiện sinh của mình và của
vạn vật trong
vũ trụ nầy.
33 Tu pháp Thiền-Na
Tức là Chỉ-Quán đồng tu hay gọi là
Định Tuệ song tu.
Thiền Na tức là
Tịnh lự. Tịnh là
Chỉ tức là Định. Còn Lự là Quán tức là
Trí tuệ.
Như vậy trong Thiền
bao gồm cả
Chỉ và Quán, tuy ba mà một. Đây là
con đường duy nhất để
trở về với tánh giác của mình. Do đó Thiền có thể được xác định là:
Ø Nếu
buông bỏ hết
vọng tưởng là tu theo “Chỉ”.
Ø Nếu tu để thấy rõ thân, tâm và
cảnh giới là giả, là
huyễn hóa là tu theo “Quán”.
Ø Nếu người tu mà bên trong
buông xả tất cả
vọng tưởng và bên ngoài không dính mắc ở cảnh đó là “Thiền” tức là
trở về sống với Tánh giác của mình.
Thật ra trong Chỉ có Quán và trong Quán đã có Chỉ và đây chính là
phương pháp tu mà
Lục Tổ gọi là “Định Huệ Bình Đẳng”.
Sau khi
Đức Phật thành đạo dưới cội Bồ-đề thì Ngài đến
vườn Lộc Uyển của xứ
Ba La Nại để chuyển pháp cho nhóm ông
Kiều Trần Như.
Bài pháp đầu tiên Đức Phật thuyết giảng là
Tứ Diệu Đế và nhóm người nầy đã
trở thành năm người
đệ tử đầu tiên của
Đức Phật. Như thế vào thời
Đức Phật còn
tại thế thì có Phật
hằng ngày thuyết pháp,
đại chúng được nghe
Phật thuyết giảng và
chư tăng thì
đại diện Phật đi
hoằng dương Phật pháp. Do đó
Tam bảo lúc bấy giờ là Tối sơ
tam bảo.
Sau 49 năm
hoằng pháp thì
Đức Phật nhập
Đại Niết Bàn và Phật bây giờ chỉ còn là
hình tượng mà thôi. Sau khi Phật
nhập diệt thì các vị
đại đệ tử của Phật đã
kết tập kinh điển thành ra
Tam Tạng Kinh gồm có Kinh tạng,
Luật tạng và
Luận tạng. Do đó Pháp bây giờ không phải là
nghe được trực tiếp lời dạy của Phật mà qua
trung gian kinh điển. Còn Tăng thì vẫn
tiếp tục truyền thống hoằng dương chánh pháp khắp
mọi nơi. Vì thế
Tam bảo nầy gọi là
thế gian trụ trì Tam bảo.
Còn thuyết
Đại thừa thì thế nào là Tam bảo?
Dựa vào thuyết
Đại thừa thì trong mỗi
con người chúng ta, không
phân biệt là người Việt, người Tàu, người Tây hay người Ấn đều có khả năng tự phát huy cái
tam bảo của chính mình.
1)
Phật tánh: là
tính thanh tịnh bản nhiên của loài
hữu tình và đây cũng chính là
tự tánh thanh tịnh của
chúng ta.
Phật tánh nầy không đòi hỏi phải có
Đức Phật hiện tiền hay
hình ảnh cũng như
tượng Phật. Bởi vì tất cả
chúng sinh ai ai cũng có thể phát huy đức
tính thanh tịnh của mình để
trở thành Phật.
Kinh Hoa Nghiêm đã xác định là:”Phật là Phật đã thành,
chúng sinh là Phật sẽ thành”. Trong khi
kinh Pháp Hoa lại
nhấn mạnh:”Phật là Phật đã thành,
chúng sinh là Phật đã thành”. Cho nên trong tất cả
mọi người đều có sẵn cái
Phật tánh tức là có
tri kiến Phật.
2)
Pháp tánh: là
thanh tịnh bản nhiên của tất cả loài vô tình như cây, cỏ, sắc đá…Pháp ở đây không phải là
kinh điển theo tiếng Phạn, tiếng Pali, tiếng Hán hay tiếng Việt mà Pháp ở đây chính là cái trí của
chúng ta.
Ngoại cảnh thì có muôn hình vạn tướng như núi cao, rừng thẳm, cây cỏ, nhà cửa, chim bay, cá lặn…Tất cả những cái gì mà
chúng ta có thể
nhận biết được từ bên ngoài thì cái đó là do cái trí của
chúng ta tiếp nhận được. Như thế thì bên ngoài có cái gì thì trong trí của
chúng ta nhận biết cái đó.
Nếu
con người nhận biết sai lầm về vật thể chung quanh thì cái
nhận biết đó là
vô minh và
dĩ nhiên phiền não khổ đau sẽ
mang đến cho
chúng ta.
Nếu cái
nhận biết của
con người phù hợp với
chân lý, đúng với
chân lý thì cái
nhận biết đó
trở thành thanh tịnh của Pháp-tánh để đưa
con người đến chỗ
an lạc,
giải thoát và chứng được
Niết bàn.
3) Tăng tánh: là tánh
hòa hợp của
Phật tánh và
Pháp tánh. Như trên đã nói
Phật tánh là của ta và
Pháp tánh cũng là từ trong
trí tuệ của ta. Vì là của ta và ở trong ta nên
Phật tánh là
Pháp tánh. Do đó
Phật tánh và
Pháp tánh là
bất nhị có nghĩa là không hai tức là một. Sự
hòa hợp nầy chính là Tăng tánh. Nói một cách khác
Phật tánh là một,
Pháp tánh là hai và Tăng tánh là ba. Khi ba cái nầy cộng lại thì gọi là “Nhất Thể Tam Bảo” tức ba mà là một.
Vậy trong
chúng ta đã có đủ
Phật bảo,
Pháp bảo và
Tăng bảo. Đây chính là
Nhất Thể Tam Bảo của
chúng ta vậy.
Nhất Thể Tam Bảo còn được gọi là
Đồng Thể Tam Bảo vì trong tâm của mỗi
con người của
chúng ta đã có đầy đủ
tam bảo mà không
cần phải đi tìm cầu ở ngoài.
Vì thế khi đã biết được tánh
thanh tịnh bản nhiên của mình thì
chúng ta tự
quy y lấy để
quay về sống với cái tánh giác thường sáng
thanh tịnh và đầy đủ của
chúng ta. Đó là:
Tự
quy y Phật, đương nguyện
chúng sanh, thể giải
đại đạo, phát
vô thượng tâm.
Tự
quy y Pháp, đương nguyện
chúng sanh,
thâm nhập kinh tạng,
trí huệ như hải.
Tự
quy y Tăng, đương nguyện
chúng sanh, thống lý
đại chúng, nhứt thiết
vô ngại.