BÁT NHÃ TÂM KINH GIẢNG GIẢI
VÔ THƯỢNG NIẾT BÀN
Lê Sỹ Minh Tùng
22 Thường Lạc Ngã Tịnh
Cái thật thể hay
thật tướng của
vũ trụ mà
đạo Phật gọi là
Chơn như thì luôn luôn
chân thật không
giả dối.
Vũ trụ chẳng qua là sự tổng hợp của
không gian vô tận và
thời gian vô cùng. Vũ là
cho không gian và trụ là cho
thời gian.
Nhân quả là
thời gian và
nhân duyên là
không gian cho nên
vũ trụ chẳng qua là sự tổng hợp của
nhân quả và
nhân duyên mà thôi.
Khi Phật mới
thành đạo thì Ngài chỉ dùng thuyết
Nghiệp cảm duyên khởi để dạy chúng
đệ tử. Đây là triết lý
Tiểu thừa nguyên thỉ của
Phật giáo. Triết lý nầy được rút ra từ trong “Tứ Diệu Đế” và “Thập
nhị Nhân Duyên”. Dựa theo
tư tưởng nầy thì
con người sống trong
thế gian nầy phải bon chen với dẫy đầy
đau khổ. Cái khổ nầy chưa hết thì cái khổ khác
hiện lên.
Con người đã khổ vì thân thì nay lại khổ về tâm. Phật dạy vì
vô minh vọng chấp nên
con người phải khổ. Vì còn
mê vọng nên
chúng ta có hành động
sai lầm và vì hành động
sai lầm nên
con người phải chịu quả khổ. Như thế thì
con người cứ lanh quanh lẩn quẩn
trong vòng nhân quả luân hồi. Chính
luân hồi nhân quả nầy tạo ra
chánh báo là thân ta và
y báo là sơn hà
đại địa tức là cảnh vật chung quanh ta. Khi
nghiệp nhân biến đổi thì
nghiệp quả củng
biến đổi theo.
Do đó
chánh báo và
y báo cũng dựa theo đó mà
biến đổi. Nói thế có nghĩa là khi
con người tạo những
nghiệp nhân thuộc về
nhân thừa thì
đời sau đầu thai lại mà
chánh báo vẫn là người và
y báo vẫn là sơn hà
đại địa. Nhưng nếu người ấy tạo quá nhiếu nhân dữ thì
chánh báo đời sau sẽ là
súc sanh hay
ngạ quỷ và
y báo tức
cảnh giới ở chung quanh cũng không còn giống như
cảnh giới của người nữa. Nói thế có nghĩa là
vũ trụ và
vạn hữu sẽ
biến đổi theo tầm mắt và sự
hiểu biết của các loài ấy. Vì thế “nghiệp cảm” có nghĩa là do nghiệp như thế nào thì
cảm thọ cái thân và cảnh như thế ấy. Nói một cách tổng quát là do
nghiệp lực mà có thân tức là
chánh báo và
thế giới tức là
y báo. Do đó
con người trong
bình sanh gây ra
nghiệp lành hay dữ thì
chánh báo và
y báo sẽ
cảm thọ tốt hay xấu về sau. Còn tạo nghiệp là còn
hiện tượng giới tức là còn
trôi nổi luân hồi. Khi dứt được nghiệp là
trở về với
Chân như tức là
trở về với
bản tâm thanh tịnh,
chứng đắc Niết bàn.
Dựa theo thuyết
Tiểu thừa nầy thì tất cả
vạn pháp trong
vũ trụ nầy đều là
vô ngã tức không
tự tánh. Không có một vật gì trên
thế gian nầy mà tự nó có thể phát triển và
tồn tại mà không cần đến những
nhân duyên khác. Vì có sự
duyên khởi như thế nên
Đức Phật đã khẳng định là trong
thế giới hữu hình nầy tất cả
vạn pháp đều là
vô ngã. Thật vậy tấm
thân tứ đại của
chúng ta là do sự
kết hợp của muôn vạn
yếu tố. Nếu là ngã thì
chúng ta đâu cần ăn, đâu cần uống mà vẫn
tồn tại, sống phây phây như thường. Nhưng xe muốn chạy phải có xăng và cây cỏ muốn sống phải có nước…Thế thì thuyết nầy bắt đầu bằng triết lý “vô ngã” để cho
con người có cái nhìn rộng lớn về sự
liên hệ với nhau trong
vũ trụ nầy. Nhưng một khi đã thấy
thấu triệt được tính
vô ngã của
vạn hữu thì lúc bây giờ
Đức Phật mới cho
chúng ta thấy
hậu quả của nó.
Vì là
vô ngã nên tất cả vật thể trên
thế gian nầy sẽ
biến chuyển thay đổi theo luật
vô thường. Đó là sinh, trụ, di, diệt hay thành, trụ, hoại, không.
Con người thì phải chịu sinh, lão, bịnh, tử còn vật thể thì nay có mai không.
Ngày xưa cung
thành Ca Tỳ La Vệ tráng lệ bao nhiêu thì ngày nay chỉ còn lại vài cục gạch bể nát. Thời Pháp thuộc ở Sài gòn có ai giàu hơn ông Chú Hỏa mà bây giờ chỉ còn là dĩ vãng mà thôi. Vì thấy sự
vô thường,
sinh diệt bất tận nên
con người sinh lòng
đau khổ. Càng đi sâu vào
cuộc đời thì cái khổ càng to, cái lo càng lớn. Một vị tổng thống
giàu sang quyền thế thì ai dám nói ông ta khổ? Nhưng thật ra một vị tổng thống mà muốn làm cho được quốc thái dân an thì phải tận tụy hết mình thì tự mình chuốc bao
phiền não khổ đau. Còn nếu
dân tình thế thái,
lầm than,
đau khổ thì lo sợ
bồi hồi, nay người này chửi, mai kẻ khác
phàn nàn và đi đâu cũng sợ có người
ám sát. Thế thì làm tổng thống có
sung sướng gì đâu?
Khi
con người thấy rằng
cuộc đời chỉ là một chuỗi dài
đau khổ thì họ đâm ra
lo lắng sầu bi. Càng
lo âu phiền não thì tâm càng
bất tịnh. Có ai đang
đau khổ mà tâm
thư thái an vui bao giờ? Vậy
cuối cùng triết lý của
Tiểu thừa chính là
vô ngã,
vô thường,
đau khổ và
bất tịnh. Đây chính là
tục đế hay
chân lý tương đối tức là
Pháp hữu vi để giúp
chúng sinh thấy bề thật của sự sinh thoái trong
thế giới hữu hình nầy.
Vì đi đâu cũng thấy “khổ” cho nên
con người mới cố tu để
đạt đến cứu cánh là
giải thoát sinh tử và
chứng ngộ được
Niết bàn. Nhưng thật sự có Khổ như thế chăng?
Sau hai mươi năm
thuyết pháp bây giờ
Đức Phật mới bắt đầu nói kinh
Bát nhã và chính
Đức Phật đã dùng tới hai mươi hai năm để
diễn giải trí tuệ Bát nhã nầy.
Bát Nhã là
trí tuệ sáng suốt triệt để vĩnh hằng trong mỗi
con người và đây chính là nguồn gốc của triết lý
Đại thừa mà
Bát Nhã Tâm Kinh là cốt yếu
tinh hoa của
bộ kinh dày 600 quyển này.
Khi dạy hàng
Tiểu thừa thì
Đức Phật dùng thuyết
Nghiệp cảm Duyên Khởi để chỉ cho
chúng sinh biết cái Khổ mà tìm về
cứu cánh Niết bàn. Bây giờ
kiến thức của chúng
đệ tử đã cao và
trình độ tu chứng đã
tiến triển nên Phật bắt đầu khai thị một triết lý mới. Nếu dựa theo
tư tưởng của
Tiểu thừa thì kẻ
tu hành không bao giờ
vượt qua Thánh quả A La Hán.
Phật dạy rằng:
“Cái khổ ở trong
địa ngục bị thiêu đốt cũng chưa phải là khổ. Cái khổ làm
ngạ quỷ bị
đói khát cũng chua phải là khổ. Cái khổ làm
súc sanh kéo cày, bị đánh đập cũng chưa phải là khổ. Sống trong
Vô minh điên đảo không biết đường đi mới là khổ”.
Vô minh là
mờ mịt, tạo
tội lỗi để phải
trầm luân vĩnh viễn trong
lục đạo luân hồi không biết lối ra mới là cái khổ lớn nhất của
con người. Chẳng hạn như người đang
chiêm bao thì không bao giờ biết được
chiêm bao cho tới lúc
thức giấc rồi mới biết đó là
cảnh chiêm bao.
Chúng sinh hiện đang ở
trong vòng vô minh vọng thức thì không thể biết được
vô minh vọng thức. Chỉ khi nào họ được
giác ngộ hoàn toàn thì lúc đó họ mới biết được
rõ ràng cảnh giới của
vô minh vọng thức.Vì
thế chủ trương
cứu khổ của
đạo Phật là khai
thị chúng sanh để phá cho được cái ách
Vô minh mà họ đã đeo từ ngàn muôn kiếp tới nay.
Bây giờ nếu
chúng sinh muốn
hoàn thành Phật đạo thì phải theo
Bồ tát giới và
mở rộng tư tưởng theo triết lý
Đại thừa để phá hết
Vô minh và đoạn
trừ phiền não. Dựa theo
tư tưởng Đại thừa thì tất cả
vạn vật từ
con người cho đến vũ trụ chẳng qua là sự
duyên khởi.